25. IS-3
IS-3 là loại xe tăng cuối cùng mà Liên Xô sản xuất trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới. Được nghiên cứu tại xưởng thí nghiệm số 100 tại Cheliabinsk dưới sự chỉ đạo của Tổng công trình sư M.F.Balzhi, IS-3 được sản xuất hàng loạt tháng 3 năm 1945 và không kịp tham gia vào những trận đánh với các đơn vị quân Đức. Theo một số tài liệu, IS-3 có tham gia vào các cuộc tấn công quân Nhật trên Thái Bình Dương trong Hồng quân tháng 8 năm 1945. Lần đầu tiên xe tăng mới được giới thiệu với cộng đồng quốc tế vào mùng 7 tháng 9 tại Berlin trong cuộc duyệt binh chiến thắng.
Việc nghiên cứu thiết kế xe tăng dựa trên những kinh nghiệm chiến trường, và khả năng bảo vệ được tính toán theo hướng sử dụng kiểu thân xe và tháp pháo mới với độ dày giáp bảo vệ riêng biệt. Tính chất đặc biệt nhất của xe tăng mới là đầu xe được tạo thành từ các tấm giáp dày 120mm với góc nghiêng hướng về hai bên thành xe. Tiếng lóng của loại mũi xe hình nón này là “mũi cá măng”, nó có khẳ năng chống đạn tốt hơn cho xe tăng. Chỗ của lái xe được bố trí ở giữa trong phần trước thân xe, cửa ra vào của lái xe bố trí ngay trước tháp pháo - do xuất hiện khả năng khó quan sát từ khe nhìn trên đầu xe - đã được lắp hệ thống kính quan sát tiềm vọng. Đây thực sự là cuộc cách mạng trong việc thiết kế tháp pháo bằng công nghệ đúc với dạng thuôn, có độ dẹt lớn. Khả năng bảo vệ tháp pháo trên IS-3 cao hơn so với tháp pháo của IS-2. Cơ chế quay tháp pháo hoạt động theo cơ chế hành tinh với sự kết hợp giữa thao tác quay tay và bộ quay bằng điện. Trong trường hợp cần thiết, trưởng xe có thể thực hiện thao tác quay tháp pháo với hệ thống điều khiển đặc biệt. Trên nóc tháp pháo có một cửa ra vào lớn hình ô-van với hai cánh nhỏ, trên đó có các hệ thống quan sát cho trưởng xe và tiếp đạn. Trang bị của IS-3 có pháo chính 122mm D-25T, súng phòng không 12,7mm DShK và súng máy DTM 7,62mm.
Sự vội vàng trong nghiên cứu đã mang tới cho xe tăng nhiều lỗi thiết kế. Đặc biệt là trong quá trình sử dụng, nhiều lúc IS-3 bị loại khỏi vòng chiến do lỗi động cơ và hộp truyền động. Các công việc hoàn thiện chúng không đem lại kết quả cần thiết và đến giữa năm 1946, IS-3 bị ngừng sản xuất. Sau đó, trong quá trình sửa chữa và một số lần nâng cấp, dưới tên gọi IS-3M, xe tăng tiếp tục phục vụ đến những năm 70 (Tk20). Tổng cộng khoảng 1170 IS-3 đã được sản xuất.
100 xe tăng loại này đã được bán cho Ai Cạp và tham gia vào các cuộc xung đột Ả rập – Israel. Lần đầu tiên chúng tham chiến vào năm 1967 trên bán đảo Sinai. Mặc dù quân Ả rập cũng tiêu diệt được một số xe tăng của Israel, nhưng tổng thể, IS-3M vẫn thua kém M48A2 do Mỹ sản xuất vì sự lạc hậu, yếu kém của hệ thống hỏa lực, sự chuẩn bị không tốt và đặc biệt là tinh thần chiến đấu của quân Ả rập rất dở. Ví dụ, trường hợp 1 xe tăng IS-3M bị phá hủy do bị lựu đạn bộ binh được quăng lên xe, lọt qua nắp ra vào trên tháp pháo và rơi vào bên trong. Mặc dù đã có lệnh cấm, nhưng lính tăng Ai Cập vẫn tham gia trận đánh trên xe tăng với những cánh cửa ra vào bị tháo nắp để có thể vứt xe chạy trốn trong những tình huống nguy hiểm gần như nhỏ nhất. Nhiều kíp xe đã vứt lại xe tăng trong tình trạng hầu như nguyên vẹn để bỏ chạy. Kết quả, quân đội Israel đã chiếm được 73 xe tăng IS-3M có thể sửa chữa được, để sử dụng vào cuối những năm 70, khi đã thay động cơ có độ tin cậy cao hơn được lấy từ các xe tăng chiến lợi phẩm T-54. Tới cuộc chiến tranh lần sau, các IS-3M được bố trí dọc theo kênh đào Suê như những hỏa điểm cố định. Trong vai trò này chúng cũng không thể hiện được nhiều và tới cuối chiến tranh, chúng lại lọt vào tay quân Ai Cập một lần nữa.
Các thông số chính:
Tên gọi: IS-3
Phân loại: hạng nặng
Kíp xe: 4 người
Khối lượng chiến đấu: 45,8 tấn
Chiều dài,m: 9,85
Chiều rộng,m: 3,2
Chiều cao,m:2,4
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/122
Hỗ trợ/mm: 1/7,62; 1/12,7
Độ dày giáp đầu: 120mm
Độ dày giáp bên: 90mm
Động cơ: V-11, diezen, 520 sức ngựa.
Tốc độ tối đa: 40km/h
Tầm hoạt động: 190km.