38. "2589"
Nước Nhật bắt đầu cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai của mình sớm hơn các nước Châu Âu hai năm. Vào tháng 7 năm 1937, quân đội Nhật hoàng xâm lược Trung Quốc. Bộ binh của quân xâm lược Nhật tiến vào Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của xe tăng “2589”, dòng xe chiến đấu hoạt động trên xích đầu tiên được sản xuất tại một nước Châu Á.
Những đơn vị xe tăng đầu tiên của Nhật Bản được hình thành vào năm 1925 và được trang bị các xe tăng Mk A “Uyppet” của Anh. Sau đó, Nhật đã của của Liên hiệp Anh các loại xe bọc thép khác nhằm mục đích thí nghiệm. Trên cơ sở các thí nghiệm đã được tích lũy, vào năm 1929, dòng xe tăng nội địa đầu tiên của Nhật đã được hoàn thiện, tiếp nhận tên gọi “2589”. Bản chạy thử của nó được chuẩn bị vào năm 1931 có tháp pháo với thân xe liên kết với nhau bằng phương phán tán đinh. Tháp pháo ban đầu được lắp pháo 47mm, sau đó nhanh chóng được thay bằng pháo 57mm. Trang bị phụ của xe tăng gồm có 2 súng máy 6,5mm trên hệ thống mặt cầu. Bộ chế hòa khí của động cơ (ban đầu – “Daimlep”, sau đó – “Misubisi”) được chế tạo trên cơ sở động cơ hàng không. Bộ phận truyền động, được che bởi màn thép, bao gồm 10 bánh nâng mỗi bên và 5 trục (con) lăn. Bánh dẫn động được bố trí phía sau. Các mắt xích mạ crom liên kết với nhau bởi các khớp chốt được khống chế bằng các cơ cấu đinh. Chưa tính đến việc xe tăng có cấu tạo truyền thống, nó đã trở nên lỗi thời so với các xe tăng của những năm 30 (Tk 20) với nhược điểm về giáp và độ cơ động. Lái xe kiêm kỹ thuật viên phải điều khiển đồng thời với 3 bàn đạp và 5 tay gạt. Năm 1932, xe tăng được hiện đại hóa theo hướng được trang bị bộ xích mới với các mắt xích nhỏ hơn, thay đổi độ nghiêng của giáp và nâng cấp bộ phận truyền động. Dưới tên gọi “2589 Osu”, loại xe tăng này được sản xuất trên cơ sở kỹ thuật của hãng “Mitsubisi”. Tuy nhiên, chất lượng tác chiến của xe được cải thiện không đáng kể. Thậm chí trong năm 1936 sự thay đổi bộ chế hòa khí bằng động cơ diezen cũng không khả thi. Lỗi thiết kế lớn nhất của dòng xe tăng này chính là bố trí cửa ra vào phía đầu xe. Vào thời điểm đối đầu với quân đội Trung Hoa trang bị yếu kém, sự bố trí cửa ra vào không bộc lộ yếu điểm. Nhưng trong các trận giao tranh với các quân đoàn Sô viết trên Khanxin – Gôn và với quân Mỹ tại Philipin, đây trở thành điểm dễ tổn thương hơn trên xe tăng “2589” khi gặp phải hỏa lực pháo binh.
Năm 1936, Nhật đồng thời sản xuất seri xe tăng “2594” – phiên bản của “2589 Osu”, không có dầm trên bộ phận truyền động cùng 4 trục lăn thay cho 5. Lái xe được bố trí ngồi bên phải, còn đầu xe bên trái bố trí sung máy.
Ngoài nhà sản xuất chính – hãng sản xuất xe máy lớn nhất Nhật Bản “Misubisu” – kiểu 89 “Osu” cũng được sản xuất bởi hai hãng khác “Kobe Seikosho” và “Nikhon Seikosho”. Do thiếu sự thống nhất về tiêu chuẩn hóa trong thiết kế đã dẫn đến sự khác nhau về độ giày giáp của xe, trang bị và bộ phận truyền động và kéo theo sự khó khăn trong việc sửa chữa trong điều kiện chiến trường. Trong thời kỳ từ năm 1929 đến năm 1937, tổng cộng 230 xe tăng “2589” được sản xuất. Toàn bộ chúng đã bị mất trong các trận đánh trên mặt trận Thái Bình Dương rất lâu trước khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai.
“Osu” theo tiếng Nhật có nghĩa là thứ 2. Theo ý nghĩa, đây là loại xe tăng thứ hai trong trang bị của Lục quân Nhật. Dòng xe tăng đầu tiên được tính cho loại xe tăng hạng nhẹ “Kha-go”.
Các thông số chính:
Tên gọi: 2589
Phân loại: hạng trung bình
Kíp xe: 4 người
Khối lượng chiến đấu: 14 tấn
Chiều dài,m: 6,36 (với đuôi)
Chiều rộng,m: 2,15
Chiều cao,m: 2,6
Số lượng vũ khí:
Pháo chính/mm: 1/57
Hỗ trợ/mm: 2/6,5
Độ dày giáp đầu: 17mm
Độ dày giáp bên: 11mm
Động cơ: “Mitsubisi”, bộ chế hòa khí, 115 sức ngựa
Tốc độ tối đa: 27km/h
Tầm hoạt động: 160km.