Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Năm, 2024, 03:12:45 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Nỗi buồn chiến tranh  (Đọc 31740 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #10 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 06:04:45 pm »

Những bãi cỏ ven đường đã ngập nắng. Bóng Kiên ngả dài. Anh bước đi, đẩu cúi xuống. Bầu trời mùa hạ cao xanh, buồn bã. Khi anh ngoảnh lại, Lan còn đứng đó trông theo. Nhưng một lần nữa, anh ngoái nhìn, bóng Lan đã khuất sau đồi. Mấy năm sau, một chiều nọ, cũng đang hè, trên đường từ biên giới trở về Hà Nội, chiếc com măng ca chở Kiên và nhóm phóng viên trong tòa soạn chạy chéo qua ngả Bắc Giang, miền bán sơn địa nhấp nhô đồi gò, khe lũng và những vạt rừng thưa. Trong xe dần dần chỉ còn Kiên thức cùng người lái. Gió lướt dài mát rượi. Hai bên đường từ các khe ngòi um tùm hơi đất mềm mại lan ra, toàn bộ không gian đất trời tĩnh lặng một khối lam chiều hoang vắng. Trong lòng Kiên chợt thấy nao lên một nỗi buồn đơn giản, xót xa choáng ngợp. Phải, chính là ở đây. "Vẫn còn một nơi, vẫn còn một người!! - Lời ước hẹn buồn bã và vô vọng ngày nào vẳng lên gợi cho anh nhớ rằng cuộc đời mình thế là đã hết rồi, đã hết cả chút dư âm cuối cùng. Bao nhiêu quãng đời yêu dấu với bao người thân yêu nay đều đã biệt tăm tích mà anh chẳng hề lưu giữ được gì, đã để phí hoài tất cả. Có thể nói rằng trong nhiều năm qua anh đã sống mà chẳng hề ngoái nhìn lại. Không có dịp và cũng chẳng có nhu cầu, ngày tháng công việc cứ xô trào lên che lấp hết. Giờ thì đã muộn mất rồi. Anh nhắm mắt lại và một cảm giác nghén nghẹn lìm lịm lặng lẽ dìm tim anh xuống. Tuy nhiên không phải là niềm tuyệt vọng. . .

Chiều hôm ây, thật kỳ lạ, kỷ niệm về Đồi Mơ, về mối tình đầu vô danh đêm ven đồi năm nào trỗi dậy trên đường xa đã đồng thời làm tỉnh lại trong anh ý thức về một thiên mệnh đầy thôi thúc. Thôi thúc một cách tha thiết và u buồn. Đời anh rộng mở: hãy đi và hãy sống...
Đấy, cần phải viết về chiến tranh trong niềm thôi thúc ấy, viết sao cho xao xuyến nổi lòng dạ, xúc động nổi trái tim con người như thể viết về tình yêu, về nỗi buồn, sao cho có thể truyền được vào cuộc sững đương thời luồng điện của những cảm xúc chỉ có thể diễn đạt bằng quá khứ của quá khứ, Kiên nghĩ. Mặc dù cố nhiên chiến tranh không hề là như vậy. Chiến tranh...

Nhưng vì sao anh lại chọn đề tài chiến tranh và vì sao nhất thiết phải là đề tài ấy? Trong chiến tranh, cuộc sống của anh, của bao người khác thật kinh khủng, thậm chí khó có thể bảo đấy là cuộc sống nói gì đến sự tìm kiếm những sắc thái nghệ thuật trong cuộc sống đó. Và chính anh chứ chẳng phải ai khác cho đến tận ngày hôm nay vẫn không tài nào bước vào rạp chiếu bóng để xem những bộ phim trong đó người ta nhè đầu nhau mà khạc đạn. Không những thế văn chương về chiến tranh, tất nhiên là văn chương của người khác, anh hết sức tránh đọc. Thú thật là anh cực kỳ khiếp hãi những thiên truyện ấy. Thế nhưng bản thân anh thì lại thế, một mực sống chết viết mãi không chán những súng nổ bom rơi, những mùa khô mùa mưa, rồi quân địch, quân ta. Anh không thể viết khác, mai sau ví dụ có viết khác đi thì cũng là bởi vì thâm tâm luôn muốn viết về chiến tranh sao cho khác trước. Đôi khi cũng toan một hướng mới nào đó nhưng ngòi bút lại chẳng tuân theo. Như là khi bắt đẩu cuốn tiểu thuyết đầu tay này Kiên đã dự định một cốt chuyện hậu chiến và vì thế chương thứ nhất anh viết về những người đi thu hài cốt tử sĩ, những người lính sắp giải ngũ để trở về với đời thường. Song một cách không thể cưỡng lại, các trang bản thảo dựng dậy hết cái chết này qua cái chết khác, dần dần đi sâu mãi vào những cánh rừng nguyên thủy của chiến tranh, lặng lẽ nhóm lên mãi cái lò lửa tàn khốc ấy của ký ức. Vậy mà thực ra anh có thể viết bao nhiêu chuyện có lẽ chẳng dính dấp gì tới trận mạc, bởi vì cũng như mọi người ngày nay anh nhìn cuộc đời đâu phải chỉ từ mặt cửa duy nhất nào đó.

Chẳng hạn về thời thơ ấu, thời thơ ấu vô cùng hạnh phúc và vô cùng buồn đau trước chiến tranh còn rất nhiều kỷ niệm chưa phai nhòa, anh nghĩ là mình hoàn toàn có thể viết với niềm tuyệt hứng "... Tôi sinh ra và lớn lên... cha tôi mẹ tôi lúc sinh thời... !, đại khái thế. Mà tại sao không viết về cuộc đời của cha và cả về thế hệ của Người nữa, một thế hệ vĩ đại và bi thảm, đầy những hoài bão và đầy những không tưởng, mang nặng những phẩm chất và những tình cảm cao quý mà ngày nay đã bị thế hệ của anh làm cho vĩnh viễn mai một. Cứ mỗi lần nghĩ lại tuổi thơ, nhớ đến cha bao giờ Kiên cũng cảm thấy ân hận, dường như anh đã yêu thương, tôn kính cha chưa đủ mức một người con, anh đã biết quá ít, hầu như không biết gì cả những năm tháng cuộc đời cha. Anh đã chẳng nhớ gì mấy nữa về tấn bi kịch gia đình, không biết vì sao cha mẹ lại chia tay, không biết rằng cha mẹ đã đau khổ như thế nào. Về mẹ thì anh càng ít hơn... Và lạ lùng là anh lại rất nhớ người chồng sau của mẹ, một nhà thơ tiền chiến đã ẩn danh và đã về già Kiên đã một lần và chỉ một lần duy nhất đến thăm ông ở ngôi nhà nhỏ gần Chém có cửa sổ nhìn ra đê sông Hồng. Mùa đông ấy anh vừa mười bảy tuổi, cha thì mới qua đời, còn mẹ thì mất từ mấy năm trước đấy hơn năm năm rồi. Trước ngày nhập ngũ, Kiên đến để từ biệt dượng. ấn tượng thật khó quên. Ngôi nhà xám xịt, cũ kỹ. Những ngọn gió lạnh lẽo vô định làm nghiêng ngả ngọn phi lao nhô lên sau mái nhà nằm lọt giữa khu vườn thê lương trơ trụi chiều đông. Cảnh sinh hoạt trong nhà nghèo nàn lộ liễu. Bàn thờ bụi bặm, tấm hình mẹ lồng trong khung kính rạn nứt. Chiếc giường ọp ẹp. Bàn làm việc bừa bộn sách vở, ly chén. Cuộc sống độc thân rời rã, đắp đổi qua ngày của dượng làm anh mủi lòng. Nhưng bản thân dượng cố giữ một phong độ trái ngược với tình cảnh. Tóc bạc trắng, lưng hơi còng, rõ ràng là đang rộc đi vì một chứng bệnh nào đó, tay run run, mắt mờ, trang phục tàn cũ nhưng không luộm thuộm và ông cư xử với anh một cách thân mật, hào hứng mà lịch thiệp. ông pha trà ngon mời anh, dưa thuốc cho anh hút, nhìn anh với vẻ buồn buồn, và nói với anh bằng giọng hết sức dịu dàng:

- Thế có nghĩa là con sẽ ra đi đánh trận? Không phải là ta muốn cản con đâu, ta đã già mà con thì còn trẻ, ngăn chí con làm sao nổi, chỉ muốn con thật thấu hiểu lòng mình. Nghĩa vụ của một con người trước Trời Đất là sống chứ không phải là hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ... Không phải là ta khuyên con trọng mạng sống hơn cả nhưng mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy. Với lại, con ạ, mẹ con, cha con và cả ta nữa chỉ có mình con ở lại trên đời nên ta mong con hãy sống và hãy trở về. Cuộc đời còn rất dài với bao nhiêu hạnh phúc và lạc thú phải hưởng của con kia có ai sống hộ cho con được bây giờ?

Ngạc nhiên và không đồng tình nhưng Kiên cảm thấy tin cậy những lời lẽ của dượng. Anh tự thấy gần gũi với suy nghĩ của ông mặc dù không hoàn toàn hiểu. Anh cảm nhận ở ông một trí tuệ sâu sắc, đa dạng với một tâm hồn lãng mạn và nhiệt thành theo lối tình cảm chủ nghĩa thời xưa, mơ mộng ngọt ngào, giàu nhạy cảm nhưng dường như rất ngây thơ, thiếu thiết thực và vô bổ, thậm chí lầm lạc. Và bất chợt anh hiểu được rằng vì sao mẹ đã từ bỏ cha con anh để đến với người đàn ông tâm tình yếu đuối này. Suốt chiều anh ngồi bên ông trong căn phòng mà trước đây mẹ đã từng sống và đã qua đời. Và buổi chiều mùa đông ấy đã trở thành hầu như kỷ niệm duy nhất của anh về người mẹ mặc dù trong kỷ niệm đó không hề thoáng lên hình bóng của bà. Còn dượng, sau khi đọc cho anh nghe mấy câu thơ về tình yêu ông đã sáng tác từ thời trai trẻ, liền lấy đàn ghi ta treo trên tường xuống rồi bắt đầu hát bằng giọng trầm một bài hát của Văn Cao mà ông bảo ngày xưa mẹ anh hằng ưa thích. Bài hát chầm chậm, buồn buồn gợi nhớ những người thân yêu đã khuất, tiên cảm những ngày mai bất hạnh song lại như khuyên nhủ đừng nên vô vọng, đừng mãi mãi sầu thương, đừng nhiều lời than tiếc vì như thế chẳng ích gì mà hãy sống, hãy sống... Vào bộ đội, khi còn sống ở Nhã Nam, Kiên đã viết thư cho dượng, nhưng không nhận được hồi âm. Mười năm sau sống trở về anh đi tìm nhưng chỉ được biết rằng dượng đã mất từ lâu. Còn ngôi nhà nọ thì không ai nhớ đã bị san đi từ bao giờ. Một con người như thế đấy và một câu chuyện như thế và còn bao nhiêu chuyện khác, bao nhiêu người khác nữa trong đời anh. Những người thân quen và những người xa lạ, đã chết hoặc còn sống, những chuyện cầm chắc là có thật lẫn những chuyện chẳng rõ thực hư. Có lần, một người đàn ông lạ mặt và không chịu xưng tên đã đến tìm Kiên ở tòa soạn đề nghị được thông qua anh hiến cho văn học nước nhà mối tình của hai vợ chồng ông ta, "Chỉ cần đồng chí hư cấu một cái tên cho tôi và một cái tên cho bà nó nhà tôi, còn xin là cứ giữ nguyên tất cả. Vâng, xúc động và bi thảm lắm ạ", ông ta bảo thế. Nhạt nhẽo, vớ vẩn và mất thì giờ, có lẽ thế thật, song bản thân lòng tự tin của ông ta, nhất là cái ước muốn có món quà phi thường để tặng bà vợ đau yếu nhân kỷ mềm ba mươi năm lễ thành hôn chẳng phải một chuyện tuyệt vời hay sao? Nói chung bất kỳ ở đâu, bất kỳ lúc nào cũng có thể cảm nhận được một điều gì đấy để viết một cái gì đấy về bất kỳ ai đấy chẳng phải là như thế đó sao? Bởi vì, từ cuộc sững phức tạp ẩn đằng sau vẻ bình thường dung dị, định hình cho được một nét dù là cực nhỏ nhưng thực sự đáng ghi lại, đấy quả là một trời những khả năng sáng tạo mở về muôn hướng.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #11 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 08:40:49 pm »

Chẳng hạn, Kiên nghĩ, tại sao lại không viết tiểu thuyết về cái cộng đồng kỳ thú những người hàng xóm ở tầng trên, tầng dưới và ở chung tầng với anh trong ngôi nhà này? Có thể nói rằng, thật là một bản hòa tấu của những khuôn mặt và những cuộc đời. Những chuyện - tuyệt nực cười cũng có mà cũng có những nỗi buồn đau xé lòng diễn ra hàng ngày, hàng ngày chung đụng, chen chúc sống quần tụ trong ngôi nhà nhiều hộ này. Nhất là vào những buổi tối mùa hè mất điện nóng như hầm phải ra sân ngồi hóng gió tới khuya, hoặc những khi cùng bà con chầu chực trước cái vòi máy nước độc nhất cho cả ba tầng tứ mùa khốn khổ khốn nạn tóc tách từng giọt, còn thiếu chuyện gì nữa về đời sống trong nhà ngoài phường mà Kiên chưa được nghe. Người ta kể chuyện rằng bà giáo Thủy ở tầng một góa chồng từ ngoài dôi mươi, ở vậy nuôi con suốt bấy nhiêu năm giời, nay sắp sửa về hưu và cũng sắp sửa có cháu ngoại rồi, bỗng dưng phải lòng ông Tư bán sách ở đầu phố, cả hai ông bà đều cố giấu nhưng giấu nổi ai bởi giữa họ rõ ràng là tình yêu chứ có phải là tình gì mà che giấu nổi, hẳn hoi là sẽ chuốc lấy khổ. Hay như chuyện nhà Cường ở tầng ba, bữa nọ anh chồng rượu vào lên cơn hùng hổ toan dạy vợ, không ngờ trông gà hóa cuốc nhè ngay đầu bà mẹ đẻ ra mình mà hạ đo ván. Mới đây nhất là chuyện ông Tánh tầng hai, đại úy quân nhu về vườn, do quá nghèo khổ, gia đình lại lục đục băm bổ đay nghiến nhau từng bát cơm, sinh quẫn ông toan tự tử một lần bằng thừng, một lần bằng thuốc trừ sâu nhưng đều bị người ta phát giác cứu sống. ấy vậy mà tình cảnh của ông đại úy vẫn còn khá so với nông nỗi bà cụ Sen mù lòa góa bụa, mẹ của hai liệt sĩ bị vợ chồng anh cháu họ lập mưu cướp mất nhà và đẩy cụ vào nằm chết trong sở điên Trâu Quỳ. Mà anh cháu họ của cụ không chỉ giàu có, anh còn thông minh tài cán, tính tình xởi lởi, tốt nghiệp đại học kinh tài, hay đi nước ngoài, biết hai ngoại ngữ. Mỗi khi đi làm về anh thường ăn thật no, nghỉ ngơi thoải mái hơn người rồi sau đó trên mình bận pizama anh ngồi trước cửa sổ Ơï lên liên hồi và ngáp to để vơi sầu. Chị vợ anh làm gì đó ở tòa án, một con người trang trọng, đuồn đuỗn, môi luôn mím chặt, chưa hề ban cho ai một lời chào hỏi gọi là. Trong khi đó thì Bảo, con của ông bà Bình bác sĩ ở tầng ba, vốn là một "trừ" có thâm niên cao ở Hỏa Lò, mới vừa được ân xá hồi đầu năm, lại nhanh chóng được bà con trong căn nhà cảm thông, thương mến. Phạm tội giết người lãnh án tử hình, hạ xuống chung thân, ngồi đã ngót hai chục năm rồi nhưng nom Bảo không có vẻ gì là một phần tử như vậy, trái lại con đường zê-rô dằng dặc suốt thời trai trẻ tạo ra cho Bảo một dáng dấp chay tịnh như thể vẻ chay tịnh của một đời chân tu. Chỉ một thời gian ngắn sau khi ra tù, con người nguy hiểm này đã làm cho bà con dân phố phải ngạc nhiên trước tâm tính dịu hiền, tấm lòng chân thực trong sáng, ngây thơ và khắc khổ thể hiện ở từng cử chỉ, từng lời ăn tiếng nói của anh. Chỉ có điều nom Bảo quá buồn. Đôi mắt buồn. Nụ cười hiền hậu cũng buồn khôn xiết, buồn đến nỗi mỗi khi bắt gặp nụ cười ấy ai nấy không khỏi thấy lòng mình se lại. Nghĩa là, chỉ riêng một khúc cực ngắn chảy qua một ngôi nhà này mà dòng sông cuộc sống đá thác ghềnh đã ngoắt ngạo và đã là muôn vẻ như vậy rồi. Bao nhiêu chuyện đời. Bao nhiêu cuộc đời. Lũ trẻ sinh sôi ra như nấm sau trận mưa, lớn lên và trưởng thành, người lớn thì già đi, từng năm hao dần từng tuổi. Cuộc đời của các thế bệ tựa hồ những đợt sóng. Cuối mùa hạ vừa rồi, "cố" Dụ - người thợ cạo vĩ đại của Hà thành đã qua đời, thọ chín mươi bảy tuổi. CỐ là cụ già cuối cùng của thời trước chiến tranh, khi Kiên còn bé, đã sống được tới ngày nay. Cả Ngọc hoàng lẫn Diêm vương nhất định không cho ta rốn nốt ba năm cho tròn một thế kỷ của riêng ta - Giọng đã mất âm sắc, hơi thở phều phào mà cố vẫn gượng nói riêng khi Kiên vào thăm - Những chuyện đời hay nhất ta còn chưa kể. . . nhưng anh cháu nhà văn hãy gắng dựng lên vì ta một vở "người thợ cạo thành Hà Nội" nhé... Từ dưới đó ta sẽ lần lên xem công diễn...

CỐ hành nghề tóc tai từ thuở người đàn ông Hà Nội còn trĩu sau ót cái búi tóc cổ lỗ của tổ tiên, và cố tự hào nói: dưới bàn tay của ta một vạn ba lượt mái đầu và bộ mặt đã được mỹ hóa, từ xù xì, thô lậu thành đẹp đẽ, thơm tho như tảng đá được điêu khắc thành con người. Trước chiến tranh, con cháu và cả các chắt của cố đều quây quần chật ních xung quanh cố, và dù không ai theo nghề tông đơ dao kéo song tất cả đều nhiễm bệnh thợ cạo, đều giống cố ở nét xởi lởi hay chuyện, hay tán dóc pha trò, hay lam hay làm, lập thành một đại gia hiền lành, vui vẻ và hơi buồn cười. Trong hồi ức tuổi thơ của Kiên có lẽ không thể thiếu âm điệu giòn tan của chiếc kéo diệu kỳ trong tay cố, không thể thiếu các giai thoại cố kể và giai điệu ngang phè của La Mác-xây-e cố hát bằng tiếng Tây bồi. Đối với Kiên vang vọng lâu bền nhất của cuộc sống đã qua là tiếng rì rầm của cuộc đời thường chứ tuyệt nhiên không phải là tiếng rền động của các biến cố thời chiến, mặc dù cái đời thường xa xưa ấy đã bị bão tố lật trời của chiến tranh quét sạch. Như là gia đình cố Dụ xưa đông vui thế mà sau chiến tranh cố như là người đàn ông duy nhất. Như là gia đình ông Huynh có ba con tử trận, như là Sinh, thương binh cột sống, bán thân bất toại... Nhưng tất cả những gì bị chiến tranh nghiền nát thì dư âm lại bền lâu, bền lâu hơn tất cả các tàn tích của chiến tranh và chinh biến.

Bao bạn bè đồng lứa với Kiên trong chung cư đã ra đi mà không trở về song ngôi nhà vẫn đây, hình bóng của họ vẫn đấy. Đời sống của những người hy sinh còn vương hình bóng trên gương mặt của các thế hệ sau. Kiên nhớ tới Hạnh, người phụ nữ độc thân từng sống trong căn phòng nhỏ sát chân cầu thang mà bây giờ thuộc gia đình ông Sự. Chẳng hiểu vì sao giờ đây ở nhà này ít người còn nhớ tới Hạnh, càng không mấy ai nhớ nổi rằng Hạnh đã rời khỏi nhà này từ năm nào và đi đâu? Vì sao mà đi?

Hạnh hơn tuổi Kiên, hơn chừng nào chẳng biết. Chỉ biết khi anh còn oắt con thì đám đàn ông trong phố đã nhiều tay bê bết cuộc đời vì Hạnh. Người ta ẩu đả nhau vì cô. Bọn trai bên số chẵn đánh nhau chí chết với bên số lẻ để có thể tiếp cận cửa phòng Hạnh. Mỗi lần thấy cô đi qua với dáng mềm mại trẻ trung đung đưa toàn thân, õng ẹo uể oải thì các bậc nam nhi trong phố đều nhất loạt đứng sững, dán mắt nhìn theo, người thì với vẻ si ngốc, người thì cặp mắt rực lóe lên như sắp văng ra những tàn lửa thèm khát. Các bà các chị thì vừa ghét vừa sợ. "Đồ đĩ ?" Họ chửi sau lưng Hạnh - ĐỒ giăng hà? Con ma chài! Song cả sự thù ghét lẫn cả lòng say mê của mọi người đối với Hạnh, Kiên thấy đều phi lý. Cậu thấy Hạnh là một người hàng xóm như những người khác, "Chào chị ạ! , gặp Hạnh, Kiên lễ phép chào. "Chào chú em, ngoan quá?", Hạnh đáp, chỉ thiếu điều xoa đẩu cậu. Ngày tết chị mừng tuổi Kiên như lì xì bất cứ đứa bé nào trong chung cư. Những đồng năm hào loạt soạt mới tinh với lời chúc học giỏi. "Chúc cậu em học hành tấn tới... Năm nay ra dáng lắm rồi. Nhưng coi chừng chỉ giỏi giang cơ bắp thôi là thành đồ ngốc đấy nhé, cậu em?".

Nhưng rồi cũng đến lúc Hạnh phải đổi cách xưng hô, khi ấy Kiên đang học lớp mười, mười bảy tuổi. Thời gian đó chiến tranh đã ngấp nghé. Thăng Long vẫn phi chiến địa song đã có sơ tán, có đào hầm, nghe còi báo động và phải mặc áo sẫm màu. Hôm ấy, buổi trưa, vừa đi học về, đang ngồi ăn cơm, Kiên thấy Hạnh hé cửa ló đẩu vào nói:

- Này chú em, chiều nay xuống giúp chị một cái tăng xê nhé. Chị muốn có sẵn một cái trong giường để đêm có còi khỏi phải chạy ra đường. Có được không?

- Vâng, rồi em sẽ xuống.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #12 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 08:42:12 pm »

Đấy là lần đầu tiên Kiên vào buồng của người đàn bà trẻ tuổi độc thân ấy. Phòng nhỏ, bài trí giản dị nhưng đẹp và gợi cảm. Kiên muốn khuyên chị không nên phá mất vẻ hài hòa trong phòng nhưng cậu tặc lưỡi ở góc buồng phía chân giường đơn của Hạnh, cậu nạy lên chừng chục viên gạch hoa rồi dùng xà beng chọc thủng móng nhà. Sau đó dùng cuốc chim và xẻng. Từng tý đá, tý gạch một, moi dần lên. Hạnh dọn một bữa cơm tối rất ngon có cả bia chai để thết Kiên. Cơm xong, chẳng nói năng gì, cảm thấy lúng túng lạ, Kiên hì hục đào tiếp ngay. Mất điện phải thắp đèn dầu. Kiên đào, còn Hạnh thì xách các xô đất đá ra đổ ở góc vườn sau. Hai chị em làm, im lặng, lầm lùi.

- Có lẽ được rồi chị ạ, - Kiên nói, thở dốc - Lút ngực em thì có lẽ chị quá cằm rồi. Có khi là sâu quá cũng nên.

- ừ, thôi thôi. Nhưng để chị xuống thử xem đã. Có khi còn phải nhờ em xẻ hộ cho mấy bậc để lên xuống cho nhanh.

Bình thường nhìn Hạnh không thấp hơn Kiên nhưng khi cùng đứng dưới hố cá nhân trong căn phòng mập mờ sáng tối để thử độ sâu thì chị chỉ cao đến cằm cậu bé, vóc người mảnh mai của chị như lọt thỏm vào thân hình chẳng ngờ lại cao lớn, vạm vỡ và đàn ông đến thế của cậu. Cảm nhận được điều đó, vừa chạm chân xuống đáy hố, Hạnh như bất giác rùng mình và hớt hải toan co mình vọt trở lên miệng hố. Nhưng hố quá sâu, và hơn nữa do lòng hố quá hẹp nên cái rùng mình của Hạnh như luồng điện truyền vụt sang Kiên. Toàn thân đột ngột sững sờ như thể điện giật, cứng lại trong một nỗi tê dại mà trong đời cậu cho đến khi đó chưa từng cảm thấy bao giờ, Kiên thở hực lên. Lần đầu tiên cậu cảm thấy không phải bằng mắt mà bằng cả thính giác sự sát kề bên mình một tấm thân phụ nữ, mùi da thịt ngây ngây của đôi vai, của cặp vú mát rượi mồ hôi dưới lần áo mỏng.

Ngờ nghệch và rối loạn, run lên vì choáng xốc Kiên chụp lấy Hạnh, choàng ôm, hung dại hôn lên cổ, lên vai. Hạnh âm thầm vùng quậy, chống tay vào ngực Kiên cố ẩy ra. Vụng về, Kiên ấn hai vai Hạnh, ép vào bờ đá. Cúc áo đứt phựt, và vải bị rách xoạc ra như thể một làn roi quất dọc lưng Kiên. Kinh hoàng cậu sực tỉnh, lập tức thả Hạnh ra và đu người vọt lên miệng hố, toan chạy. Chiếc đèn dầu đổ nghiêng vụt tắt.

- Kiên? - Hạnh gọi khẽ, hớt hải - Chạy đi đâu... Sao lại thế. Cho mình lên với.

Run rẩy, Kiên cúi xuống xốc vai Hạnh kéo nhấc lên. Cái áo mỏng vừa bị rách toạc lại rách thêm. Hạnh quàng tay lên cổ Kiên, thì thầm hổn hển:

- Hẵng lên trên nhà một lát... rồi trở xuống đây. Mình sẽ . . . Mình cần nói với Kiên điều này. . .

Kiên trở lên phòng. Tắm táp, thay quần áo, nhưng không dám xuống. Song không ngủ được, trằn trọc. Tảng sáng bất ngờ cậu ra khỏi phòng, đi chân không, rón rén bước xuống cầu thang, rón rén bước tới bên cửa buồng Hạnh. áp mặt vào cánh cửa gỗ, cậu đứng lặng, trống ngực nện thùm thùm, không dám gõ. Nhưng... chợt cậu nghe thấy rất nhẹ tiếng chân bước trong phòng, rồi dường như cái móc cài cửa được nhấc lên thật khẽ. Nín thở. Kiên cảm nhận thân mình Hạnh đang áp nhẹ vào bên kia lần cửa gỗ. Run run, cậu để tay lên nắm đấm bằng sứ. Nhưng nhiều giây, rồi có lẽ nhiều phút đã qua, vẫn tịnh không một tiếng động cả ở bên trong lẫn bên ngoài cánh cửa. Đột nhiên Kiên buông tay khỏi nắm đấm, bước lùi một bước rồi ngoắt người vụt chạy lên cầu thang, xô về phòng, vật xuống giường. Nhưng, thế là từ đấy Kiên tránh giáp mặt Hạnh. Khi chạm nhau không thể nào lánh mặt thì cúi gầm xuống cậu lí nhí: "Chị..." Hạnh nhìn, khẽ đáp:
"Chào em", và luôn luôn như thể muốn nói thêm nữa một điều gì mà rồi không bao giờ nói.

Một thời gian sau, khi Kiên nhập ngũ thì Hạnh đã vào Thanh niên xung phong và đã đi sâu vào Khu Bốn từ nhiều tuần trước. Ngày Kiên trở về, buồng chị đã có người khác ở. Chiếc hố sâu đào ngày nọ tất nhiên chẳng còn mảy may dấu vết trên nền gạch hoa. Bỗng dưng một nỗi buồn làm Kiên chìm ngập vào trong thời thơ ấu.

"...rồi trở xuống đây. Mình sẽ... Mình cần nói với Kiên điều này . . . " .

Mãi mãi trong lòng Kiên lưu giữ thầm lặng một tình cảm biết ơn đầy tha thiết và ngậm ngùi đối với chị. Mãi mãi ấy là niềm nuối tiếc và là một nỗi đau mất mát lớn. Vậy mà tuyệt nhiên chưa bao giờ Kiên định rằng sẽ viết một cái gì đấy về kỷ niệm này. Và còn bao nhiêu kỷ niệm khác nữa, bao nhiêu con người, bao nhiêu số phận suốt đời anh không thể quên song cũng sẽ suốt đời anh không thể viết được lên thành truyện. Không bao giờ có thể, thực thế, dù là trong kiếp này hay là kiếp sau . . .

Thở dài, Kiên áp mặt vào tấm kính cửa lạnh ngắt, nặng nề đưa mắt nhìn sâu vào ngoài đêm. Chẳng nhìn thấy gì nhiều lắm. Cây bằng lăng trước nhà ngọn dâng cao lên quá cửa sổ buồng anh, cành lá ướt nhóng nhánh xòe che các ô kính.

Dưới đường, những ngọn đèn khuya sáng rải thành một rẻo rời rạc nhòa mờ luồn trong lưới mưa đan, chạy xa hút về khoảng trống của hồ nước ở cuối phố. Bên kia lòng đường bóng đêm lay động theo những vòm cây tối đen làm hiện lên dập dờn những mái nhà, nhọn và tù. Suốt dọc phố hầu như không còn một khuôn cửa sáng đèn, không một bóng xe cộ cũng tịnh không một bóng bộ hành.

Vào lúc không giờ này thành phố yên ắng đến độ tưởng chừng như có thể nghe thấy cả tiếng mây trôi và tưởng chừng như cõi thực đã lui khỏi thế giới nhường lại cõi trống không cho hằng hà miên man những ảo giác. Hà Nội của anh mỗi giờ mỗi vẻ khác nhau nhưng Hà Nội nhất vẫn là Hà Nội giờ khuya, Hà Nội mưa rơi, Hà Nội như chính lúc này đây khi mà các đường phố trở nên gần như hoang vu ướt át và cô quạnh, lạnh lẽo, da diết buồn.

Hồi xưa, ngủ rừng với tiếng mưa sa trên vòm lá nhiều tầng không hiểu sao Kiên đặc biệt hay nằm mơ thấy Hà Nội mùa đông những đêm tối trời, suốt đêm gió thổi, mưa rơi, lá rụng. Bây giờ như để đáp lời những giấc mơ thùa ấy, khi đêm xuống đứng bên cửa sổ lặng nhìn màn mưa giăng mờ mặt phố anh thường bất giác mường tượng ra trước mắt cảnh rừng mưa âm vang mênh mang buồn của những đại ngàn năm xưa vươn qua biển mái nhà nhấp nhô, tràn lên tiếng rì rầm của phố xá canh khuya, dội tới triền miên như sóng vỗ, như ký ức xô bờ . . .

Năm ấy, Kiên nhớ, ở Hà Nội xuất hiện một mùa xuân giả. Ban ngày nắng hửng trời quang, không gian thoáng đãng êm ả tựa như đã là trời của tháng tư, tháng năm rồi vậy. Các hàng cây trụi lá mùa đông đã xanh rì lá mới, không còn chút nào vẻ tiêu điều. Trong công viên bừng rộ hoa nở và các loài chim di trú lại trở về gây tổ dưới những mái nhà. Thế nhưng thời tiết thì kì thực là còn lâu mới vượt qua nổi khúc quanh tăm tối nhất trên con đường hầm. Và cứ khoảng xế chiều là da trời lại xám ngăn ngắt. Gió lạnh lùa dọc phố, mưa phùn lại bắt đầu rơi, lại nỗi nao buồn. Phương đã bỏ ra đi từ đầu mùa đông. Không có tin tức gì cả, chẳng thư từ gì hết như thể là nàng đã quyết một đi không trở lại. Cửa giả bên buồng nàng im lìm khóa trái, có vẻ như sẽ không bao giờ còn mở ra nữa. ấy là lần đầu tiên kể từ ngày gặp lại nhau sau chiến tranh Phương đã dứt khỏi anh mà đi theo kiểu như thế, đột ngột, đau đớn và độc địa như thế. Kiên rộc đi. Nhìn vào gương mà giật mình: tóc tai râu na, hốc mắt, gò má, những nếp nhăn, vẻ suy tàn...

Ngay cả giọng nói cũng như lạc khác đi, như thể lại một lần nữa vỡ giọng, nằng nặng buồn phiền. Cái nhìn của anh làm nản lòng người. Một cái nhìn chằm chằm mà chẳng nhìn gì cả, trống rỗng, vô cảm... mà vì sao cơ chứ, diều gì đã xảy ra, duyên do nào?

Bấy giờ, tuồng như chán ngấy nền học vấn, Kiên thôi không đến lớp nghe giảng nữa, lặng lẽ và vô cớ kết liễu mất của mình cuộc đời sinh viên suôn sẻ. Sách vở chẳng buồn đụng tới. Báo chí không đọc, mọi nhẽ đời đều để buông xuôi, sống hoàn toàn là được không hay chớ. Dửng dưng, Ơ hờ, thu mình trong vỏ, chẳng chơi bời giao du, chẳng thiết tha tâm tình trò chuyện cùng ai. Và mặc kệ rằng luôn luôn cạn tiền liên miên anh cần rượu. Thuốc lá đốt không ngừng. Và dù hết sức kém chịu rét, dạo đấy anh bắt đầu ham đi lang thang trong khuya, rất ít ngủ. Những giấc ngủ nặng trịch như bị đổ chì. Trong mơ thi thoảng mới chợt thoáng thấy Phương còn thường thì anh chỉ rặt mộng thấy những chuyện điên rồ, những điều dễ sợ biến tướng của mềm cô đơn và nỗi đa sầu. Đôi khi là những ác mộng rợn người, kinh khủng như những liều thuốc độc. Vô vàn những ám ảnh từ những đời nảo đời nào trong chiến tranh tưởng rằng đã phải yên ngủ từ lâu như thể được truyền phép ma mà hùa theo nhau thức cả dậy. Tâm hồn mỗi ngày một thêm hoang phế, tranh tối tranh sáng, vật vờ toàn những hồn ma bóng quỷ. Vào những đêm xuân giá rét ấy những cô hồn thân thuộc lên tiếng thì thầm trò chuyện với anh, lên tiếng rên rỉ và thở dài. Các tử thần xanh tái lỗ chỗ vết đạn cúi xuống như muốn soi bóng vào giấc ngủ của anh. Đã bao đêm như thế, Kiên choàng tỉnh bắt gặp mình không phải đang ở trên giường mà vật vã, dụi do dưới sàn nhà nước mắt ướt mặt, run lên vì lạnh, vì khiếp đảm, vì tê dại trong lòng một mềm thương thân não nùng và vô duyên cớ. ở ngoài cửa sổ gió bấc rít dài. Mưa vỗ ràn rát trên mái hiên. Hơi ẩm trong phòng quánh lại. Kiên quờ tay tìm công tắc điện nhưng những đêm ấy thường là cả đến ngọn đèn cũng không còn tinh lục mà sáng lên nổi. Anh đã gắng quên Phương, đã cố hết sức. Chỉ dở là không tài nào quên nổi và dở nhất là vẫn cứ âm thầm mong ngóng. Tất nhiên, anh biết, tất cả rồi sẽ trôi qua, không có gì có thể là vĩnh cửu trong thế giới ngày nay, kể cả tình yêu và kể cả nỗi buồn trong lòng một người đã đứng tuổi rồi như anh. Và anh cũng biết những giằn vặt những khổ sở của mình là nhỏ bé xiết bao, vô nghĩa nữa, chẳng khác nào tà khói mong manh trong bầu trời cuộc sống. Song le...Người ta kể rằng, trong mùa xuân năm ấy, một đêm nọ, từ quán rượu ra Kiên đã dắt theo về phòng một ả "cà phê xanh" một trong những hồ ly tinh nổi tiếng nhất của suốt rẻo bờ Thuyền Quang và Bẩy Mẫu. Nhưng suốt đêm anh ả chẳng ngủ nghê, họ bảo thế, không làm tình, chỉ cùng nhau uống rượu, cùng nhau trong sự hòa hợp đến mê mụ... Đêm ấy lạnh ngang đêm đại hàn. Kiên đi bộ qua hồ Ha le. Trong bóng tối dưới vòm cây gạo ở góc hồ, một cặp đang giằng co nhau. Gã đàn ông thình lình rút từ lưng quần ra một con dao găm lưỡi mỏng, sáng lạnh người. Không đâu hấp tấp nhảy xô vào can thiệp, Kiên đấm gã nọ lộn úp mặt xuống rãnh cùng, rồi chặn một chiếc xích lô lại, kéo đại cô gái nhào lên xe với mình và thúc ông xế già phóng tạt đi trước khi cảnh sát ập tới.

- Anh giai biết em gái là đứa thế nào không mà dám mời vào vòm?

Khi anh bật đèn trong phòng lên, cô bé nhoẻn cười dọa. Mới mười chín tuổi là cùng, nhỏ nhắn, ngang tàng nhưng xanh xao phờ phạc, cô ăn mặc phong phanh và rõ ràng là bị đói.

- Anh giai ra đòn siêu thật. Chưởng ấy phải mấy ngàn tuy rằng đánh trộm. Đêm nay coi như anh khỏi phải chi gì thêm...

Cô không nói nổi hết câu. Dù sao thì cũng không thể không nhận ra nhau. CÔ tái người đi, vai so lại run rẩy. Cũng cả vì đói và rét quá nữa. Kiên lục chạn. Chỉ còn nửa nồi cơm nguội với chút mỡ. Anh châm bếp dầu lên, rang cơm. ăn xong, cô bé uống trà, hút tàn một điếu thuốc rồi lẳng lặng tới bên giường từ từ cởi quần áo, vừa cởi vừa xo ro, cười gượng gạo, nửa hoang mang nửa như thẹn thùng. Khi cô cúi xuống để lột manh áo lót qua đầu, mảnh lưng ốm yếu trắng xanh của cô sởn gai ốc và trồi lên từng đốt sống, nom rõ mồn một, có thể đếm được. Liếc Kiên một cách e lệ, cười cười một cách nhợt nhạt và nhút nhát, cô bé ruồi mình vào chăn bông, miệng thốt rên trong khoái cảm ấm áp đê mê thư giãn. Đoạn cô thiếp đi. Khi chợt mở mắt cô lạ lùng thấy Kiên vẫn ngồi bên bàn hút thuốc.

- Em hút mấy, anh...!
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #13 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 08:43:49 pm »

Kiên châm một điếu đưa cô và ngồi xuống ở bên giường. Thời gian tích tắc lặng trôi, cả hai cùng im lặng, im lặng chịu dựng nỗi oái oăm bất hạnh. Kiên chẳng nhớ nổi tên cô và cô, hẳn rằng cũng vậy. Mà cũng chẳng biết nói gì, nói gì cũng chạm đau, cũng khía vào lòng cái nhục nhã, cái ê chề và báng hổ của tình cảnh này. Nhưng ký ức đã dần dần xích họ lại. Ký ức chung về Vĩnh, người anh trai của cô bé và là người bạn cùng trung đội trinh sát với Kiên thuở nào, đã nằm lại ở chân đèo Ma Đơ Rắc. Ký ức về một buổi chiều mùa hè sau chiến tranh khi Kiên mang một số di vật của Vĩnh đến thăm gia đình cô. Cái xóm nhỏ ven thành phố nhưng mà đói nghèo thảm hại nổi lên giữa một vùng dở đầm lầy dở bãi rác. Lũ trẻ ốm o rách rưới. Đàn chó bẩn thỉu chạy rông. Ruồi muỗi chuột bọ, mùi hôi thối kinh hồn và những ngọn gió cực kỳ tanh tưởi. Dân xóm nửa phần đi ăn mày, nửa phần chuyên nghiệp bới rác nhặt giấy vụn và chạy đồ ăn cắp. Nhà của gia đình Vĩnh cũng như mọi nhà khác trong xóm, nhếch nhác, tối tăm, chằng đụp, vá víu, nhớt nhát. Cô bé này khi đó mới chừng mười lăm tuổi nước mắt lưng tròng, thút thít, sụt sịt dỡ các thứ trong chiếc ba lô cóc bẹp dúm của Vĩnh ra cho bà mẹ mù lòa rờ rẫm vuốt ve. Một bộ quần áo lính tàng nát. Chiếc mũ tai bèo. Con dao xếp. Cái bát sắt. Cây sáo trúc đã nứt toác. Cuốn sổ tay. Khi Kiên cáo từ, bà cụ đưa tay khô gầy rờ rờ lên má anh và nói như để an ủi anh:

- Biết làm sao được hả con... Mọi sự đều có "duy vật" cả. Em nó không về nhưng các con về. . . !

- Mẹ, mất ngay trong năm ấy. Em cũng bỏ đi, thôi nghề rác từ năm ấy. Mà bây giờ cũng chẳng còn Xóm Rác, chỉ còn bãi rác. . .

Cô bé bắt đầu kể, và Kiên cũng bắt đầu kể. Những kỷ mềm buồn ngắt. Mãi đến tảng sáng thì như giật mình sực nhớ, cô nàng giở hé chăn ra và kéo kéo tay Kiên, miệng cười yếu ớt Đời ơi là đời!

- Không, - Kiên nói - Đừng...

- Nhưng... Anh đã đánh nhau vì em.

Kiên lắc đầu. Hôm ấy có sẵn bao nhiêu tiền, Kiên dốc hết cho cô. Anh cộng thêm vào món tiền một bộ năm vé xổ số mới mua. Cô bé bật cười, hì hì. Anh tiễn cô đi một đoạn phố. Đến bên hồ Thuyền Quang dừng lại, cô bảo:

- Thôi. Anh lặn đi. Em cũng lặn đây. Không đời nó thấy nó lại chửi anh. Em sẽ nhớ anh mãi. Anh thật buồn cười.

- ừ, Kiên bảo, nắm nhẹ tay cô - Em đi nhé!

Anh định nói thêm nữa nhưng chẳng biết nói gì. Chẳng cần phải nhắc đến Vĩnh. CÔ bé rút tay ra và quay đi. Kiên nhìn theo, khô cằn, già nua, bất lực và tầm thường biết bao cuộc đời anh những năm tháng này. Anh chẳng biết dùng đời anh vào chuyện gì nữa. Việc học hành, sự thành đạt, đường tiến thân tất tật những gì mà khi từ chiến tranh trở về anh coi là trong bỗng chốc trở thành bèo bọt cả. Nhưng một kế sinh nhai tắm tạm anh cũng chẳng màng. Vẫn sống đấy, tồn tại, vẫn có mặt nhưng sâu xa về mặt tinh thần thì Kiên đã đầu hàng rồi trước cái không gì cả của cuộc đời và số phận.

Ấy vậy mà chính lúc bấy giờ, trong mùa xuân đấy, đâu đâu cũng sôi sục bầu không khí hừng hực chủ nghĩa anh hùng và nhiệt tình ái quốc. Chiến tranh đến nơi rồi, sắp có những bước ngoặt và những đột biến cho mọi cuộc đời. Những người tưởng rằng biết rõ Kiên đều khuyên anh nên tái ngũ. Binh nghiệp ở Việt Nam mình là muôn năm, người lính luôn luôn là có giá, họ bảo thế. ở ngoài phố, trên tàu điện, trên xe buýt, trước các quầy hàng, trong công sở, trong tiệm cắt tóc và cả những nơi bàn trà, quán nhậu thiên hạ mê mải với rặt những tin thời sự súng đạn. Có cảm giác là ngay cả những cặp ôm nhau bên Hồ Tây trong gió mưa rét mướt cũng không khỏi thủ thỉ sự tình hai biên giới. Đêm đêm, trên tàu tốc hành quân lính không ngừng trẩy qua thành phố. Xe tăng, đại bác nhiều cơ man xếp dọc các toa sàn, còn trong các toa đen thì đầy nghẹt bộ đội. Từ các cửa toa mùi mồ hôi lính quen thuộc phả xuống. Mùi của gian khổ, của tuổi trẻ trĩu nặng lửa đạn, đói rét, sương gió. "Cảnh tượng y hệt mười lăm năm về trước, thuở 64, 65 đầu thời đánh Mỹ - Những ông thị dân sang trọng tấm tắc. Dĩ nhiên là so với thời đó bây giờ ta mạnh hơn, hùng tráng và chắc thắng hơn gấp bội lần" .

Có lẽ là như thế thật. Kiên cũng chẳng biết nữa. Anh do dự. Đã đành là đánh nhau thì phải đánh nhau thôi một khi không còn cách nào khác, nhưng dù sao thì... Trai đất Việt thực ra không ham chiến trận lắm đâu như người ta hay đồn, hăng chiến phải nói là mấy ông trí thức tuổi sồn sồn bụng to chân ngắn. Còn với dân chúng, cơn binh lửa v rồi đã đủ đau thấu tới ngàn năm. Tuy nhiên nói vậy chứ cũng chẳng biết là thế nào. Có thể là bởi vì đối với Kiên muôn thuở chỉ có duy nhất một cuộc chiến tranh kia, một cuộc chiến tranh chẳng những mãi mãi đè nặng, mãi mãi ám ảnh mà về thực chất nó còn là nguyên nhân của mọi khúc đoạn và nông nỗi của đời anh, kể cả hạnh phúc, kể cả đau khổ, niềm vui và nỗi buồn, tình yêu và oán hờn.

Với anh ấy là cuộc chiến tranh cuối cùng. Và dù sao mặc lòng sự nghiệp thiêng liêng đau khổ của người lính chống Mỹ sống mãi trong tâm hồn Kiên trước tiên là như một lời trăn trối. Kiên hiểu rất rõ rằng sứ mệnh của cuộc đời anh là đến một ngày nào đấy phải nói lên
được nội dung của lời trăn trối ấy, cho dù bản thân việc nhận thức ra được lời trăn trối đó chẳng mang lại gì nhiều nhặn cho đời sống hiện tại. Có thể nói rằng chính trong mùa xuân năm ấy, khi mà đất nước một lần nữa lại mấp mé bên bờ chiến tranh, Kiên đã trải qua những ngày bể dâu của tâm hồn mình. Một cái gì đấy vô cùng lớn lao và vô cùng trọng đại mà anh chưa hoàn toàn hiểu, chưa đủ năng lực dể gỏi đích danh tên điều ấy lên đã đồng thời a sụp đổ vừa được tái sinh trong toàn bộ con người anh. Có thể đó là tình yêu, là tin lành, là sự thú nhận chân lý?

Và chính trong mùa xuân chiến tranh ấy, một đêm giá rét anh đã viết nên thiên truyện đầu tay. Kiên nhớ, đêm ấy dưới tầng một. Trần Sinh, người bạn học của anh và Phương, đang hấp hối. Sau một thời gian dài nằm viện, Sinh được đưa về nhà để chờ chết. Giờ chết đã điểm rồi: mà thần chết lại lần chần. Đã hơn hai ngày hôn mê mà người bệnh chưa ngừng thở. Đi bộ đội sau Kiên nhưng bị thương nên Sinh giải ngũ trước. Thời gian đầu thấy nói Sinh chẳng có vẻ gì là phế binh. Anh đã định cưới vợ. Nhưng dần dần từ chân trái lan sang chân phải rồi nửa người Sinh bị liệt. Dạo Kiên mới về, Sinh còn chống gậy nhúc nhắc được, sau phải đành nằm bẹp. Các bác sĩ lấy làm lạ không hiểu vì sao cái vết thương cột sống kinh khủng ấy không lượm Sinh ngay trong chiến tranh mà nấn ná lâu thế mới giáng họa. Y học bó tay, họ bảo thế, càng chữa chạy càng khổ sở và người thân càng điêu linh vì hầu hạ phục dịch. Ròng rã như thế đã bốn năm giời. BỐ mẹ Sinh đã qua đời. Người anh trai có gia đình. Phòng họ ở tầng một, sâu cuối hành lang, tối tăm, ẩm thấp, cửa sổ hướng trực diện nhà vệ sinh. Kiên đẩy cửa bước vào. Trong buồng mờ tối. Hai đứa bé và một người đàn bà hom hem - chị dâu của Sinh, đang ngồi giữa nền nhà hí húi cắt dán những hộp bìa các tông gia công cho xí nghiệp bánh kẹo. Không ai ngẩng lên.

- Anh ấy thế nào rồi? - Kiên khẽ hỏi.

- Vẫn thế, còn thở - Bà chị dâu ngán ngẩm đáp - Ai đến thăm cũng chịu chú ấy giỏi kéo dài.

Nói đoạn chị thở dài đánh sượt. Người ốm nằm trên một chiếc chõng tre kê giúi trong xó. Kiên lại gần. Mùi hôi thối lợm giọng. Chăn chiếu bẩn thỉu. Đầu Sinh trụi hết tóc, đen sạm, quắt queo như cái gộc cây. Mũi dẹt lét chỉ còn cái sống mảnh như lưỡi dao. Môi má chẳng
thấy, chỉ thấy hai hàm răng và hai hố mắt, không rõ nhắm hay mở. Kiên cúi xuống, hỏi:

- Nhận ra mình không Sinh?

Vẫn nhận ra đấy. Chị dâu nói chõ tới, cơ mà chả nói nổi, còn hơi nữa đâu mà nói.

- Có ăn uống được gì không?

- Vẫn, nhưng lại tự tháo ra hết. Vậy mà vẫn cứ gượng. Khổ lắm thay!

Kiên ngồi xuống chiếc ghế bên chõng. Chẳng biết nói gì. Ngồi mười lăm, hai mươi phút. Nhìn kỹ mới thấy tấm chăn chiên nâng hạ chút ít theo một thứ nhịp thở nào đó. Trong phòng im ắng. Thỉnh thoảng mới nghe tiếng bà chị dâu lẩm bẩm gì đấy. Huấn, ông anh trai của Sinh nằm ngáy trên gác xép, chếch bên trên chỗ Sinh. Khổ thân Sinh, nhà thơ của lớp 10A, đáng thương thay. Hồi hè, có lần Kiên vào bệnh viện thăm Sinh. Bấy giờ hy vọng khỏi đã lụi hẳn nhưng Sinh còn cử động được đôi chút, còn có thể ngồi xe đẩy và đầu óc hoàn toàn tỉnh táo. Khác với nhiều người mắc phải nan y cầm chắc sẽ chết, Sinh không tự dối mình về tình trạng vô phương của bản thân, song anh không rên rỉ, than thân trách phận, luôn luôn anh cố gắng để không làm rầu lòng người đến thăm, không tìm cách trút sang bạn nỗi bất hạnh của mình. Khuôn mặt xanh lướt cố rạng rỡ, anh cố mỉm cười, và dịu dàng, .với giọng nói yếu ớt, anh khơi mạch chuyện vãn, chủ động kéo Kiên vào những mẩu hồi ức học trò, những kỷ niệm về các cô bạn học, các thầy cô giáo, những ký ức lảng xa cảnh ngộ của anh. Rồi với vẻ chăm chú hết mức, ngạc nhiên, say mê, hiếu kỳ, đầy tin tưởng, anh làm như thể hoàn toàn bị lôi cuốn vào những chuyện Kiên kể. Gật gù, nhướn cao cặp lông mày, anh thẩm thì: "Thế kia à? Tuyệt thật... Thú vị nhỉ . . . Oà , cô ấy là như vậy đấy, đáng yêu thật . . . à ,mình nhớ ra rồi, chà, chuyện đó mới thực là nhộn...".

Kiên đẩy chiếc xe lăn đưa Sinh ra vãn cảnh khu vườn hoa của bệnh viện. Chiều hè yên ả, không khí thoáng đãng. Những tia xiên khoai
màu hồng chiếu dài lên thảm cỏ xanh um. Kiên dừng xe dưới một cây bồ đề.

- Nắng chia nửa bãi chiều rồi... vườn hoang trinh nữ khép đôi lá rầu... Đấy, thơ thế mới là thơ chứ, - Sinh mỉm cười, mắt nheo nheo - vậy mà mình đây đã từng ôm mộng thành nhà thơ cơ đấy. Đi lính ấy mà, mình định bụng sẽ trở thành Lê Anh Xuân, tạc vào thế kỷ. Đấy ước mơ thế đấy... Còn hồi trước nữa thì thú thực mình đã làm khối thơ tình tặng Phương, chỉ hãi cậu biết cậu đấm cho thì khốn."

Rồi cả hai cùng im lặng. Chẳng phải nói gì nữa. Hai người bạn thân thời niên thiếu, sau những năm dài trận mạc giờ đây trong hai cảnh ngộ ngồi bên nhau, thầm lặng nói với nhau bằng nỗi lòng, cùng nhau trầm tư nhớ lại những chuyện xa lắc, những ngày xưa kia.
Kiên đưa Sinh về giường rồi cáo từ. Anh ôm lấy vai Sinh, hôn lên đôi má gầy hóp, hạnh như đồng của bạn.

- Thỉnh thoảng vào với mình nhé, Kiên ơi... thỉnh thoảng nhé - Thương thân, bi thiết nín mãi trong lòng, không còn gượng nổi nữa, Sinh bật nức lên, nghẹn ngào - Lắm lúc nghĩ cay cực khôn cùng. ước gì có cách nào tự chết ngay cho chóng cuộc đời. Thân phận những
thằng bị thương như mình bị chiến tranh đoạt mất tự do có khác nào thân phận nô lệ...

Kiên đưa tay bưng mặt, và không chịu đựng nổi anh bật đứng dậy bước vội ra khỏi căn buồng nửa nhà mồ, không kịp chào cả bà chị dâu của Sinh. Trở lên phòng không cởi áo bông, Kiên nằm ngửa xuống giường, gác đôi giày đen lấm bùn lên chiếu. Vòng tay dưới gáy anh trừng trừng nhìn lên trần nhà nẻ rạn, vàng. Lặng lẽ nước mắt ứa ra, nóng rực và đau nhói. Đi đâu bây giờ? Làm gì bây giờ?

Anh bật ho như thể buột rên lên nỗi day dứt giằn vặt, khó hiểu, ám mãi trong lòng. Kể ra thì sau chiến tranh anh đã từng có được cảm giác hạnh phúc, chí ít thì cũng là ấn tượng hạnh phúc của ngày trở về. Hơn ba ngày đêm rong ruổi dọc đường sắt Xuyên Việt vào cuối mùa thu năm 76 ấy có thể ví như là chút niềm vui vớt vát cuối cùng của đời bộ đội. Tuy nhiên nhớ lại cứ thấy đau đau trong lòng thế nào ấy. Trên tàu Thống Nhất chuyến ấy toàn là thương phế binh và lính về vườn. Ba lô ken dày trên giá, võng chăng dọc ngang lòng toa biến đoàn tàu thành một bãi khách. Thoạt đầu, tâm trạng chung phải nói là khá chua chát. Không kèn, không trống, không khúc khải hoàn thì đã đành rồi nhưng đến một chút đối xử có trước có sau người ta cũng chẳng buồn giành cho bộ đội. Cảnh chợ chiều nhốn nháo, nháo nhào không khác gì lại một thứ tùy nghi di tản. Đã thế lại còn kiểm tra lên, kiểm tra xuống, lục lọi săm soi từng cái túi cóc ba lô tuồng như người ta cho rằng một núi của cải ở miền Nam sau giải phóng bị hư hao thất thoát, bị xâu xé, tranh đoạt, bị hốt vơ cào xúc cho đến sạch sành sanh là bởi anh bộ đội chứ không phải bởi bọn người nào khác...
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #14 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 08:44:57 pm »

Tại các ga mà đoàn tàu dừng bánh các loa phóng thanh oang oang trút vào tai đám lính đui què mẻ sứt mắt trắng môi thâm này hàng lô xích xông những lời dạy bảo trớ trêu nhất đời nào chống cầu an, chống đạn bọc lường, chống thói đam mê các tàn tích của xã hội phồn vinh giả tạo và nào là cần đặc biệt chống tư tưởng công thần?

Nhưng anh em công thần biết an ủi nhau, biết biến tất cả những sự khó chịu thành chuyện đùa, thành lời giễu cợt, thành chuyện tiếu lâm để cười. Và khi hai bên đường sắt bắt đầu những quang cảnh thân yêu của đồng bằng sông Hồng thì ai ai nấy như bơi trong niềm hạnh phúc. Bao nhiêu ước mơ đã đào sâu chôn chặt giờ đây thỏa sức cất lên thành lời. Mê mải trong lòng mỗi người những dự định tươi hồng phi lý về cuộc sống bắt đầu từ đây của nền hòa bình vĩnh viễn. Ngày cuối cùng trên tàu, Kiên làm thân được với Hiền, chiến sĩ của mặt trận khu 9 đi B từ năm 66, quê Nam Định, gái chợ Rồng nhưng giọng nói đã ăn đậm chất Hà Tiên. Đêm, Kiên bế Hiền sang bên võng mình. Và suốt đêm, trong nhịp tàu dồn dập lắc lư, mặc kệ rằng xung quanh lính tráng đùa cợt trêu chọc, hai người thoải mái ôm xiết lấy nhau mà ngủ, cùng nhau nói mê, thỉnh thoảng thức dậy càng ôm chặt nhau, thỏa sức hôn hít nhau, sống gấp lên với nhau những cây số cuối cùng còn vương lại của tuổi thanh xuân chiến hào. Khi tàu dừng ở Nam Định, Kiên dìu Hiền xuống sân ga. Anh chực bỏ chuyến tàu để đưa Hiền về nhà. Hiền cười gạt đi:

- Thôi mà. Cho thành tro mọi chuyện đi. Vương vấn làm gì. Mà anh cũng cần phải về gấp xem cửa nhà, xem còn gì không cho ngày mai sống tiếp chứ. Với xem xem liệu có còn ai đó chờ đợi mình không? Biết đâu đấy

- Nhưng, sẽ gặp lại nhau chứ?

- Đời hòa bình biết nông sâu thế nào mà lường, anh. Có phải là còn chiến tranh, còn trong bộ đội đâu mà bảo rằng sẽ một điều gì. Thôi, mai rày có nhớ nhau thì cứ cậy vào run rủi...

Một mình Hiền quay đi, khó nhọc lết tới cửa ga. Hai vai cô tỳ lên hai chiếc nạng gỗ. Thân hình mềm mại hơi lệch nghiêng, phướn lên, cô đu người tới trước từng đoạn, bả vai nhô cao. Gần khuất sau cổng kiểm soát đông nghịt người, Hiền chợt ngoái đầu lại chăm chú nhìn Kiên lần cuối. Đôi mắt đen trong sáng nhưng sâu thẳm nỗi buồn và tâm trạng tan hoang bi đát. Cô loạng choạng, lúng túng cất một bàn tay lên vẫy vẫy Kiên, gượng một nụ cười, rồi quả quyết quay đi biến mất. Từ đấy về tới Hà Nội đầu tàu như không ngừng hân hoan thúc lên hồi còi reo vui lanh lảnh: Hạnh phúc, hạnh phúc... Và các đầu dập nối toa rầm rầm nhắc lại:

Hạnh phúc, hạnh phúc... Càng về tới gần Hà Nội đầu óc Kiên càng thêm choáng váng, đê mê một cơn sốt nhẹ nhàng, tim đập rộn lên bởi bao dự cảm mơ hồ, dịu ngọt và khó tin. Xúc cảm bình yên làm mắt anh mờ lệ. Khi từ ga Hàng CỎ về đến nhà thì trời đã tối khuya.
Phố phường im ắng. Anh bước vào trong sân. Ngôi nhà tối sẫm. Các gia đình có lẽ đã ngủ cả nhưng cánh cửa đầu cầu thang không hiểu hôm ấy sao không cài then như để hé đấy chờ anh về. Đúng là không ai chờ đợi anh, không ai cả, Kiên biết... nhưng biết đâu đấy! Kiên bước lên cầu thang lòng thắt lại trong linh cảm về một sự bất ngờ đang lặng nín đón rình anh. Dưới ánh sáng của ngọn đèn vàng vọt, hành lang mờ tối cánh cửa căn phòng của cha con anh vẫn nguyên màu nâu thùa xưa, vẫn tấm biển đồng nhỏ khắc tên cha anh. Mờ mịt, chao đảo, Kiên đứng cơ hồ không vững, hai tay mỗi lúc một run. Hạnh phúc và nước mắt thầm lặng dào tuôn. Chợt có tiếng cửa kẹt mở. Từ căn hộ giáp phòng anh một người phụ nữ thân hình dong dỏng, bận chiếc áo ngủ sáng màu bước nhẹ ra hành lang. Nàng nhìn anh. Một tiếng kêu câm lặng trong ánh mắt. Kiên rùng mình. Toàn thể cảm giác của anh như thể bị xô nghiêng đi. Năm tháng rất dài lâu của đời người vụt thu lại trong chớp mắt này. Nàng bứt khỏi ngưỡng cửa, ngả người, bước lướt tới. Kiên hơi cúi xuống. Rất nhanh, mềm mại, tuyệt trần, hai cánh tay nàng choàng quấn lấy cổ anh.

- Kiên!

- Phương... Em!

Mười năm trời ấy một cái hôn dài. Cái hôn bất tuyệt thấu vào tim, cái hôn mà mãi mãi mỗi người trong họ còn phải nhớ bởi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ cả hai còn được hưởng một cái gì tột đỉnh cuộc đời đến như thế nữa. Nàng khẽ cọ má vào môi anh, rồi lặng lẽ áp mặt vào ngực áo bộ đội thô ráp của anh.

- Phương ơi... Vậy mà, - Kiên thì thào - Mười năm qua anh nghĩ em không còn sống.

- Vậy ra... chúng mình đã thành luồn ma trong nhau. . . bởi e ai cũng nghĩ thế. . .

Nhưng, thôi thế là từ nay không bao giờ chúng mình rời xa nhau nữa, phải không em?

Tuy nhiên không hiểu sao ngay lúc đó, anh đã cảm thấy những xung động rối ren giữa niềm hạnh phúc vô bờ lẫn cùng sự hoang mang bấn loạn từ tấm thân yêu kiều trong vòng tay của mình. Anh cắn răng lại, anh nghe dường như có những bước chân rón rén nào đó và có một ai đó đang chứng kiến anh với Phương gặp gỡ nhau. Phương mở cúc áo. Chiếc chìa khóa của phòng anh đính vào sợi dây chuyền, lấp lánh như một cây thập ác nhỏ trên ngực nàng để hở. Mắt mờ đi, Kiên mở khóa và đẩy cửa ra. Bầu không khí trong căn phòng đã nhiều năm trời hầu như thường xuyên khép kín ùa ra, bao bọc lấy anh như làn hơi thở cuối cùng của cuộc đời yêu dấu xa xưa. Đột nhiên, Kiên chộp lấy khuỷu tay Phương, như thể chực dùng sức du nàng vào trong cửa. Anh đã thoáng thấy một bóng người đứng ở bên trong cánh cửa phòng Phương hé mở. Gương mặt Phương trắng bệch, cái nhìn như lả đi. Nàng bước theo anh. Nhưng chỉ một bước thôi, một giây thôi, Kiên cảm thấy Phương đang trì ngón phân xuống ngưỡng cửa. Anh buông nàng ra. Cúi xuống, anh nhặt cái ba lô ở ngạch cửa rồi một mình bước vào phòng. Khép cửa lại.

Chao ôi! Như vậy đấy: Hoà bình, hạnh phúc, ánh huy hoàng của chiến thắng, ấn tượng êm dịu của ngày trở về niềm tin đầy đắc thắng về tương lai... Tội nghiệp thằng bé. Mỗi lần nhớ lại đêm đầu tiên của cuộc đời mới sau chiến tranh lòng dạ anh đau nhói, chua xót, không thể rên lên.

Kiên vùng bật dậy, không ngừng đi đi lại lại trong phòng. Cuộc chiến tranh thần thánh rốt cuộc đã bù đắp những mất mát anh đã phải chịu bằng một thứ đời sống như ngày hôm nay đây. Sau cuộc chiến tranh ấy chẳng còn gì nữa cả trong đời anh. Chỉ còn những mộng mị
hao huyền. Sau cuộc chiến tranh ấy anh dường như chẳng còn ở trong một "kênh" với mọi người. Càng ngày Kiên càng có cảm giác rằng không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên cõi đời này. Thẫn thờ, anh ngồi xuống ghế. Bao nhiêu hình ảnh dồn dập kế tiếp nhau. Không. Cứ nói rằng số phận không cho một lời mách bảo nào sau khi chiến tranh kết thúc, song, cái đêm đầu tiên ấy chẳng là lời
mách bảo hay sao? Nhưng cả anh và cả Phương đều đã cưỡng lại. Để làm gì cơ chứ?

Ngay đêm hôm ấy, Phương sang lại với anh. Người đàn ông mà nàng đang chung sống và đã định với nàng một lễ cưới bỏ ra đi lập tức. Mù quáng biết chừng nào, anh và Phương?
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #15 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 08:47:19 pm »

Dù đã dầm mình trong rượu, dù đã hàng trăm lần tự cầu xin lòng mình hãy lặng yên đi cho, thì trong tâm trí anh vẫn không ngừng nhói đau những hồi tưởng tan nát về thời gian sống cùng nhau sau chiến tranh của anh và Phương. Mảnh đời còn lại sau mười năm bị lửa đạn của chiến tranh vằm xé lại bị móng vuốt của tình yêu xéo nát. Cuộc chung sống làm đổ bể tâm hồn nhau và cuộc đời nhau mới chấm dứt cách đây không lâu. Trong một cuộc xô xát ở quán rượu Kiên đã đánh trọng thương một người tình cũ của Phương. Từ đồn công an, nơi mà người ta tưởng anh là thằng điên, Kiên mò về gặp Phương. Anh chẳng nói được gì hết, chỉ trào nước mắt. Ký ức chẳng buông tha. Chúng mình đã lầm tưởng rằng có thể vượt qua được một hạt sạn.

- Phương nói với anh khi bỏ ra đi - Không phải là hạt sạn mà là một quả núi. Lẽ ra lần ấy em nên chết đi... Như thế thì chí ít em vẫn là cái gì tốt đẹp trong trắng đối với anh. Còn bây giờ em sống, sống cạnh anh nhưng em là vực thẳm xấu xa và đen tối của đời anh. Phải không Kiên?

Khi Phương bỏ đi, Kiên không cản. Anh cũng nghĩ là nên như thế. Song có thái độ cứng rắn trong chốc lát là chuyện dễ, duy trì được thái độ đó khó hơn nhiều. Một tuần, hai tuần, rồi hàng tháng đã trôi qua. Anh không thể đến nổi trường đại học. Không biết ngồi thế nào, nằm thế nào, nhìn về đâu, đi về đâu. Một khi có tiếng giầy cao gót lên cầu thang, tim anh ngừng đập. Giờ này qua giờ khác anh đứng bên cửa sổ mắt nhìn đăm đăm xuống đường. Đi dọc phố chốc chốc anh ngoái đầu nhìn lại đằng sau với nỗi hồi hộp lố bịch nhất đời. Và đôi khi giữa đêm, lòng tràn tuyệt vọng anh nấc lên, nước mắt giàn giụa, phải thúc mặt vào gối cho đến kỳ ngạt thở...

Anh biết chỉ có biện pháp duy nhất để thoát khỏi tình trạng yếm thế thê thảm này là Phương trở về, là anh lại được nhìn thấy nàng, để lại cùng nhau lặp lại nỗi thống khổ...

Trong phòng ẩm ướt, dường như càng lúc càng lạnh hơn. Gió cào trên ô cửa. Trên bàn, một ấm trà đã pha mà chẳng uống nguội lạnh, mấy cuốn sách, một tập giấy, cây bút, lọ mực, cái gạt tàn và bình hoa với mấy bông hồng đã nguội ngắt hương thơm. Và, chính một đêm như thế vào mùa xuân năm ấy anh đã cảm nhận được thiên mệnh của đời mình: sống ngược trở lại, lần tìm trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến đấu. Tất nhiên anh chưa nghĩ ngay rằng đấy là một thiên mệnh, anh nghĩ đấy là một lối thoát. Kể lại, viết lại làm sống lại những linh hồn đã mai một, những tình yêu đã phai tàn, bừng sáng lại những giấc mộng xưa. Đó là con đường cứu rỗi của anh. Kiên nghĩ. Nhưng cho đến tận bây giờ và có thể là mãi mãi Kiên cũng không thể cắt nghĩa được vì sao mà vào cái đêm lạnh giá ấy, đứng trước cửa sổ nhìn màn mưa mỏng đang chầm chậm tràn ngang qua bầu không khí xanh xám run rẩy, uốn ngả theo chiều gió đông bắc, lòng đăm đắm nhớ tới Phương, anh lại chợt nhìn thấy mùa mưa Cánh Bắc, nhìn thấy Ngọc Bơ Rẫy, truông Gọi Hồn. Vì sao? Lại gương mặt của từng anh em trong trung đội hiện lên. Và phép mầu nào ngay sau đấy đã đẩy lùi thời gian về xa hơn, dựng lại trước mắt anh trận đánh ghê rợn đã xóa sổ tiểu đoàn 27 của anh?

Không khí trong căn phòng này khi đấy thật kỳ lạ, như thể bị hút vào trường hấp dẫn của quá khứ: cũng rung lên, xô giật, đập thình thình vì sóng xung kích của hàng trăm trái đạn pháo dội cấp tập xuống lòng truông Gọi Hồn. Và tường vách căn phòng rầm rầm rung lên trong tiếng động cơ máy bay bổ nhào. Kiên giật mình bật lùi khỏi cửa sổ.

Hồn phách xiêu lạc, ý thức mờ mịt, lú lẫn, mê mẩn Kiên đi đi lại lại, ký ức lóe chớp. Loạng choạng ngồi xuống bên bàn, mộ t cách máy móc anh cầm lấy bút, và thay vì viết thư, anh viết một cái gì hoàn toàn khác. Suốt đêm ấy, đến sáng, giữa mớ đồ đạc và bàn ghế tồi tàn, giữa bốn bức tường tróc lở, những sách những báo chồng đống trên sàn nhà bụi bặm, nứt nẻ, những vỏ chai lăn lóc, cái tủ đầy gián, chiếc giường xiên vẹo bừa bãi chăn màn xơ xác anh đã viết một mạch trọn vẹn với thần hứng không bao giờ còn có lại - thiên truyện đầu tiên trong đời, làm sống dậy một cách đặc biệt tàn nhẫn trận tử chiến truông Gọi Hồn với những diễn biến nặng nề của nó và số phận bi thảm của tiểu đoàn anh. Tay mỏi tê, run lên, tim như rách dần, cả hai buồng phổi nghẹt khói thuốc, miệng khô đắng, cổ tắc lại nấc, anh cắm đầu viết. Quanh anh, tiếng kêu, tiếng la hét đau đớn, tiếng đạn ríu rít sát mang tai, tiếng gầm giật dội của những chùm rốc két dọt từ trực thăng xuống. Các nhân vật của anh cứ nối nhau gục ngã. Và cho tới lúc nhân vật chính, một trong những người trụ lại đoạn hậu cho cuộc rút lui đã hóa thành một đống giẻ nát nhừ vắt mình trên bờ công sự mà chết thì ngày xuân trên thành phố đã vào đến góc tối nhất trong phòng. Tác giả đã cạn sức. Chếnh choáng, anh lần ra khỏi nhà, lê bước trên vỉa hè, xiên đảo, mê tơi như thể một cô hồn lang thang đi phơi nắng. Khối cảm giác nóng bỏng căng nhức hồi đêm dẫu dịu dần nhưng tâm trạng Kiên hình như không thể bình quân lại được nữa. Anh có cảm giác giống như khi bị thương mất nhiều máu, ngất đi, vừa hồi tỉnh lại ngay trên bãi chiến trường.

Thế giới trước mắt anh cơ hồ đã đổi khác. Chỉ sau một đêm thôi nhưng là một đêm kỳ ảo chóng vánh dài dặc mà giờ đây... đường Nguyễn Du sắc nét và trang nhã của anh, hồ Thuyền Quang trong lành êm ả và thân thuộc từ tấm bé không còn hẳn như ngày hôm qua nữa. Cả tâm hồn của anh, anh cũng không còn nhận ra nổi. Và bầu trời buổi sớm và những cụm mây lững thững trôi từ miền đông bắc quang đều như nhuộm một sắc màu khác biệt. Những nóc nhà vốn xám xỉn, lóng lánh trong màn nắng mai nom như vừa được vớt lên từ dưới nước. Suốt cả ngày chủ nhật hôm ấy, như thành người ngây, Kiên lang thang trong phố. Một niềm vui buồn thảm tựa như một buổi bình minh pha trộn ánh hoàng hôn soi chiếu những suy nghĩ của Kiên. Toàn bộ cuộc sống bấy lâu nay được rọi sáng trong luồng tâm tưởng ngược chiều thời gian. Những mối bận tâm, những niềm đau khổ, những xót xa cay đắng trong lòng những năm gần đây đã trở nên tầm thường, nhợt nhạt và lúc đó Kiên nghĩ, chúng chẳng còn nghĩa lý gì đối với mình. Kiên tin rằng anh đã phục sinh, nhưng là một sự phục sinh lùi về sâu xa. Sẽ mỗi ngày một lùi xa hơn, sẽ không ngừng phục sinh trong chuỗi dài tái hiện. Có vẻ như anh đã tìm ra cuộc đời mới của mình: đấy chính là cuộc đời đã qua, là tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi đau buồn chiến tranh.

Buổi chiều vào công viên, anh đi dọc theo những lối sỏi hai bên um tùm cỏ và hoa, bước qua những bụi cây đọng nước tìm tới một ghế đá bỏ trống gần nơi trai gái đang tình tự, và ngồi im cả giờ nghe gió thầm thổi qua hồ. Con người nội tâm trong anh cô quạnh, âu sầu không hề cảm thấy gió lạnh chiều tà, lặng lẽ đưa mắt nhìn vượt khỏi tầm mắt, vươn tới cõi xa xăm bên ngoài biên giới của tư duy, đạt đến cõi hòa đồng người sống và người chết, hạnh phúc và khổ đau, hồi ức và ước mơ. Mênh mang trời nước. Mênh mang hương sặc mùa xuân tươi sáng đượm sầu xao xuyến truyền lan theo sóng hồ. Và, trên vùng không gian tinh thần ấy Kiên thấy hiện lên rõ một cách bí ẩn, khó giải thích một đoạn đời, một phong cảnh, một hình ảnh, một gương mặt mà đã từ lâu rồi anh quên lãng. Và sau đó lại những đoạn đời khác, những kỷ niệm khác, lần lượt kế tiếp nhau, âm thầm chậm rãi duyệt lại quá khứ... ký ức về một trưa mùa khô rực rỡ nắng, hoa nở đầy trong những khoảnh rừng thưa... Ký ức một ngày mưa gian truân bên bờ Sa Thầy vào rừng hái măng đào củ... những bờ suối, bãi lau, buôn nhỏ hoang tàn... những gương mặt đàn bà mến thương xa lạ gợi niềm nhớ nhung âu yếm . . . mềm đau của mối tình . . . Ký ức xa vời, trập trùng và lặng lẽ, khắc nghiệt và thẳm sâu như rừng như núi trong lòng anh chiều ấy, một chiều xuân lạnh lẽo sáng trong bên lề trống không của trời nước một mầu làm cho tâm hồn từ đấy không còn có thể dừng mắt ở điểm nào nữa trên cõi không cùng của quá khứ.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #16 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 08:49:19 pm »

Chương 3

NHIỀU THÁNG VÀ Có LẼ NHIỀU NĂM ĐÃ TRÔI qua. Từng đêm lần hồi, cần mẫn và do dự, bản thảo tiểu thuyết của Kiên đầy dần lên và dần đến đoạn kết, song đồng thời cũng như thể mỗi ngày một thêm dang dở. Những chương sau là những điệp khúc của các chương trước. Những khung cảnh và những tình tiết đã có tự phần đầu rốt cuộc lại đang chờ Kiên ở phần chót. Tuy nhiên ấy là bởi dòng trôi của tiểu thuyết này nó như thế, tự nó chứ không phải tự Kiên. Tác phẩm tự nó cấu trúc nên thời gian của nó, tự định hướng, chọn luồng và tự chọn lấy một bến bờ. Còn Kiên anh chỉ là người viết, bền bỉ và lặng lẽ hòa nhập thân phận mình vào cộng đồng số phận các nhân vật. Nói chung anh hết sức thụ động, hầu như trở thành bất khả tri trước các trang viết của chính mình. Mạch truyện nó thế nào thì buông thẻo như thế, anh như hoàn toàn cam chịu cái lô giốc bí ẩn của trí nhớ và trí tưởng tượng.

Bắt đầu vào tiểu thuyết, ánh đuốc hồi ức đã đưa Kiên lạc sâu trong mê cung, vòng vo trong muôn ngóc ngách rồi lại dẫn anh về với những rừng rậm hoang vu của thì quá khứ. Lại sông Sa Thầy, đèo Thăng Thiên, truông Gọi Hồn, hồ Cá Sấu... những địa danh tù mù như tên tuổi sông núi của cõi âm. Rồi lại cuộc đời chiến đấu của trung đội trinh sát với những khúc buồn vui tình đồng đội, những thống khổ thời trận mạc hòa cùng bao lạc thú tuổi trẻ. Và theo dòng tiềm thức con đường của tiểu thuyết lại nhập vào với chặng đường hành hương sau chiến tranh của đội thu nhặt hài cốt tử sĩ, chặng đường xa nối những nấm mồ bộ đội tản mát vương rắc trên hầu hết khắp liền non cao Cánh Bắc Tây Nguyên. Quá trình tập hợp lại những nhân vật đã chết làm nên cuộc sống của từng trang bản thảo. Có thể nói không khí truyện của Kiên là bầu không khí của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt tử khí và lam chướng, mờ mịt bóng yêu tà. Những di vật và những bộ xương mủn nát được vớt lên từ đáy những rừng cây ấy.

Cũng từ bóng tối của rừng sinh ra những huyền thoại, những truyền thuyết về cuộc đời của những người lính thường, những người làm nên thi hứng, làm nên cốt truyện, cho Kiên giọng văn, nhịp điệu câu chữ và cả nhịp sống của từng từ. Có thể thấy trước là chẳng mấy người trong số các nhân vật của cuốn tiểu thuyết được như Kiên sống đến ngày thắng lợi. Ngay từ đầu họ đã phải hành động quyết liệt để không lập tức bị nhận chìm tăm tích vào những huống cảnh chiến trận kinh hoàng, những cảnh huống mà cầu trời cho đừng bao giờ có ai đó trên đời này lại một lần nữa phải lâm vào. Họ bị cái chết rình rập, săn đuổi, xô dồn vào thế mất còn chỉ trong nháy mắt và trong tấc gang. Họ bị giết từng người một hoặc là hàng loạt, bị bắn gục tại chỗ hay bị thương mất máu chết dần, chưa kể tới bao nhiêu kiểu đọa đày khác, chưa kể những cơn ác mộng hủy diệt tâm hồn và lột trần nhân tính.

Có lẽ rất ít người cầm bút đương thời nào chứng kiến nhiều cái chết và thấy phải nhiều xác chết đến như Kiên. Vì thế sách anh đầy rẫy tử thi. Những xâu lính Mỹ trẻ măng mình mẩy không chút sây sát, ngồi ngả đẩu vào vai nhau thiu thiu giấc ngủ ngàn năm dưới những ngách hầm ngầm bị tống thủ pháo. Những lính dù trang phục vằn vện nằm phơi nắng trong các lùm bụi lúp xúp ven rừng KỜ Leng, thản nhiên trương phình lên, thản nhiên chịu đựng lũ ruồi, bầy dòi và mùi da thịt khắm lặm của mình. Và ai đã đọc Kiên thì đều có dịp hình dung những trận mưa cẳng chân, bàn tay rơi lịch bịch lẹt bẹt xuống đồng cỏ voi bên bờ sông Sa Thầy vào lúc rạng mơ sau suốt một đêm B52 liên tục chần. có thể tận mắt ngắm sườn đồi Xáo Thịt sau ba ngày huyết chiến nom y hệt một mái nhà lợp bằng thây người. Có thể thậm chí giật bắn mình khi thấy một người lính nọ đạp phải mìn nhẩy cẫng lên ngọn cây như được chắp cánh... Những cái chết "của Kiên" đa dạng, nhiều màu vẻ, giàu sắc khí và sinh động hơn người. Anh như thể là một người lính không còn sống từ trong lòng đất và từ trong các giấc mơ lên tiếng kể cho ta nghe về sự sống chết; kể về phút lìa đời và thậm chí kể về cuộc đời sau khi đã bị giết.

- Các bạn hãy tin tôi: trong lòng cái chết không phải là địa ngục khủng khiếp - một linh hồn trong truyện đã nói như thế với những người sống - Trong lòng cái chết vẫn là cuộc sống, dĩ nhiên là một kiểu khác của cuộc sống kia. Trong lòng cái chết ta có được sự bình yên, sự thanh thoát và tự do chân chính. . .
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #17 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 08:50:31 pm »

Đối với Kiên thì người chết vừa mơ hồ vừa sâu xa hơn người sống. Họ cô đơn, trầm lắng và kỳ diệu, như ảo ảnh. Và đôi khi hương hồn người chết trận hóa thành những âm thanh chứ không phải là những hình bóng. Bản thân Kiên thì chưa từng nhưng anh em khác trong đội hài cốt thì đã từng nghe thấy người chết đàn và hát. Chuyện xảy ra ở chân đèo Thăng Thiên họ bảo thế... Khi bóng tối vùi kín rừng cây trong hẻm núi thì từ đáy rừng phủ lá mục tiếng hát thì thào dâng lên, có cả tiếng đàn ghi-ta hòa theo nữa hoàn toàn hư, hoàn toàn thực
"... Năm tháng vinh quang khổ đau bất tận...", lời và giai điệu bài ca vô danh ấy giản dị và huyền bí nên mỗi người nghe ra mỗi khác, song không ai là không nghe thấy. Cuối cùng, sau mấy đêm lắng nghe người ta đã định vị được chỗ đất có hồn người. Trong tấm tăng bó xác xương cốt đã hóa mùn cả, riêng cây đàn ghi ta tự tạo của người chết thì còn nguyên vẹn.

Chẳng biết có phải là do hư cấu thêm không mà người ta kể rằng khi vốc xương mủn và cây đàn vừa được đưa lên từ đáy huyệt thì tất cả những ai có mặt đều nghe thấy vang lên trong lòng rừng những âm điệu bi tráng của bài ca ấy. Sau đó thì vĩnh viễn tắt bặt. Bài ca chắc là đã mãi mãi lìa bỏ khu rừng.

Tất nhiên đấy là một huyền thoại. Hình như có bao nhiêu nấm mồ vô danh và bộ xương đã mất lai lịch thì có bấy nhiêu huyền thoại cùng với hằng hà dị bản hợp lại thành kho tàng những truyện truyền kỳ về sự nghiệp thiêng liêng đau khổ của người lính chống Mỹ, một sự nghiệp vừa được ghi nhớ vĩnh hằng vừa không ngừng bị lãng quên.

Kiên nhớ: ở thung lũng Mo Rai bên bờ sông Sa Thầy một hôm tổ của anh đào trúng một ngôi mộ kết. MỘ nổi lên như một đụn mối lớn trên vuông đất cao gần dốc bờ sông. Chỗ này ngay giữa mùa mưa lũ cũng không bị ngập. Thế nhưng thật khó lòng mà hiểu nổi nguyên nhân vì sao mặc dù chẳng trong quan ngoài quách, chẳng ướp thuốc tẩm dầu, thi thể người chết lại sống như thế. Nằm trong một cái túi nilông dày giống bao đựng xác của quân Mỹ nhưng trong suốt, người chiến sĩ như là vẫn còn đang thở, mắt nhắm lại ngủ say, khuôn mặt đẹp đẽ trẻ trung vẻ trang nghiêm trầm mặc, da thịt tuồng như còn ấm, bộ đồ tô châu thậm chí còn nguyên độ bóng và nếp là. Nhưng chỉ phút chốc cái túi đã đục trắng, mù mịt như dây khói, rồi sau đó như chói lên một đạo hào quang và một cái gì đấy vô hình đã siêu thoát. Màu trắng đục tan nhanh, cái túi xẹp xuống và trong đó bày ra trọn vẹn một bộ hài cốt màu vàng sạm. Kiên và mọi người sững lặng, xúc động đến bàng hoàng. Không ai bảo ai tất cả đều quì xuống, đưa cao tay lên với theo bóng hồn thiêng liêng người đồng đội đã về thần. Đúng lúc bấy giờ trên vòm trời bao la, cuồn cuộn gió mây miền cánh Bắc, một đàn thiên đường cánh đen vừa từ hướng biển lên, đội hình chữ V đều tăm tắp, nhịp nhàng vỗ cánh, thong thả và trang trọng bay vượt qua miền núi non trùng điệp.

- Nhưng mà nếu không lần ra được tên tuổi của họ thì cuộc đời chúng ta sẽ mãi mãi bị cái chết của họ đè nặng.

Đội trưởng thu nhặt hài cốt của sư đoàn, một trợ lý chính sách đã lâu niên, trọn cả binh nghiệp chôn chặt vào độc một nhiệm vụ lo khâm liệm và mai táng, vẫn thường nói thế như là đưa ra một lời nguyền cho anh em trong đội.

Nhưng chẳng cần đến lời nguyền ấy thì cũng như Kiên hầu hết anh em ở đội hài cất đã ra khỏi chiến tranh với một tâm hồn tràn ngập bóng tối tang thương, oan khốc của bao nhiêu là cuộc đời còn hoặc đã mất sạch tên tuổi.

"- Tên tuổi anh ta tôi không biết, chỉ biết anh ta là lính của liên đoàn 6 biệt động quân; người Nam hay Bắc hay Trung cũng chả biết vì anh ta chỉ rên, rên thì dân xứ nào cũng một giọng như nhau. Tay Phán, một trinh sát của trung .đoàn 24, quê ở Hải Phòng, kể cho Kiên nghe - Bấy giờ là cuối mùa mưa đầu mùa khô năm 69, một mùa mưa ra sao chả cần phải nói, anh cũng biết rồi đấy. Đại đội của anh ta và đại đội của tôi sống mái với nhau một trận mưa hòa máu ở đầu lối lên đèo Thăng Thiên. Chẳng thắng chẳng thua, cả hai đều tan nát nhừ tử. Và bất chấp trong tầm pháo có cả đồng minh, tụi Mỹ từ trên đèo nã đại bác xuống suốt hai giờ liên tục. Ngớt pháo, Con ma ào tới bỏ bom. Tôi nhào vào một hố 155, kịp thoát lượt bom phát quang. Rồi bom bi nổ xay nổ nghiến. Tôi nằm chết dí. Và chính lúc đó thì anh ta lộn sấp xuống uỵch đè lên tôi như súc gỗ. Điên lên vì sợ tôi rút dao thí liền hai nhát vào ngực áo rằn ri, vào bụng một nhát nữa, rồi vào cổ. Anh ta kêu ằng ặc, giãy đành đạch, mắt trợn lên. Bấy giờ tôi mới biết là anh ta bị thương từ trước lúc ăn dao. Mảnh bom chém lìa một bàn chân, người đầm đìa máu, miệng anh cũng ứa máu, hai tay run bần bật ôm lấy chỗ ruột đang phòi ra nghi ngút hơi nóng. Tôi chẳng biết làm thế nào, nom khủng khiếp quá và thương tâm quá. Tôi nhét ruột vào bụng cho anh ta, rồi xé áo để băng. Nhưng toàn những vết thương tàn bạo. Máu chẳng cầm được bao nhiêu. Phải nói là anh ta khỏe như voi, người khác thì hết ngáp rồi nhưng anh ta càng lúc càng to miệng rên rỉ, nước mắt tuôn ròng ròng. Tôi run sợ đến thấu tim, và xót thương nữa. Khi đó trận oanh tạc đã dứt. Không còn tiếng súng cá nhân, chỉ còn tiếng mưa mỗi lúc một mau "- Mày nằm đây một lát nhé" - Tôi lay vai anh ta bảo - "Tao lên tìm ít vải và bông băng. Sẽ quay lại ngay". Anh ta ngừng rên và chớp chớp mắt nhìn tôi, mặt ướt ròng ròng nước mưa, nước mắt với máu, tôi leo lên khỏi hố. Khu rừng nát bét. Ta địch đều đã dạt ra khỏi vùng bị bắn phá. Tìm quanh tìm quẩn mãi, tôi nhặt được một túi cứu thương còn đầy bông băng. Lập tức quay trở lại với anh ta... Nhưng, tôi ngu quá! - Phát rên lên. Lắc đầu. Im lặng một lúc rồi lại rầu rĩ kể - Tôi ngu quá? Trời đã tối sập. Mưa lụt trời. Rừng thì sụp đổ, ngổn ngang cây cối bị đốn hạ và đáy rừng tanh bành hàng trăm hố bom, hố pháo. Cái hố của tôi với thằng ngụy ở dưới đó đâu rồi? Trời thì mưa kinh khủng là mưa. Nước tràn từ núi xuống réo Oà ồ. Rừng tối đen lại rất mau. Ngụy ơi! Ngụy ơi! - Tôi gọi, lồng lên chạy tìm cuống quít. Ngã òm xuống một hố, thấy rằng nước đã qua đầu gối, nghĩa là nếu ngồi thì ngập ngực... Mưa ngất trời. Nghĩ đến cảnh ngộ của anh ta lòng tôi đau đớn cuồng thắt. Suốt đêm tôi mò mẫm lăn lộn lần tìm. Càng lúc càng hụt hơi, kiệt sức, bất lực. Sáng ra, mưa có phần ngớt, những cảnh tượng bày ra trước mắt làm tôi sầm tối mặt mày. Tất cả các hố bom, hố pháo đều là những huyệt nước đầy phè. Kinh hoàng, tôi lao đầu chạy, có nhẽ khi ấy tôi đã phát rồ. Cứ tưởng tượng cái chết từ từ man rợ không kém cái chết của người bị sa hố lầy đã đến với anh ta: nước ngập bụng dâng lên vai, tới cổ, chấm cằm, chạm vành môi, rồi nhân trung, kề ngang hai lỗ mũi... Và bắt đầu sặc. Anh ta hẳn là hy vọng kinh khủng tôi sẽ hiện lên ở giây chót... Nhưng thậm chí. . . Và rốt cuộc thì anh ta đã ngồi chết như thế ở cái hố nào? Bao năm qua, cứ nhìn cảnh mưa lũ là tim tôi lại như bị thọc dùi. Tôi nhớ tới con người ấy, nhớ tới sự ngu ngốc bạo tàn của tôi. Thà rằng tôi giết phứt ngay anh ta. Đằng này. . . là người thì không ai đáng phải chịu một nhục hình như tôi đã bắt anh ta phải chịu .

Không biết rằng đến nay, sau bấy nhiêu năm sống bình yên, lòng Phán đã nguôi được hay chưa nỗi dằn vặt? Cái người ngồi chết trong hố nước có còn ngoi ngóp nổi lên trong tâm trí anh không? - Kiên vẫn thường hỏi vậy như là tự hỏi mình.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #18 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 10:40:02 pm »

Nỗi buồn chiến tranh trong lòng người lính có cái gì tựa như nỗi buồn của tình yêu, như nỗi nhớ nhung quê nhà, như biển sầu lúc chiều buông trên bến sông bát ngát. Nghĩa là buồn, là nhớ, là niềm đau êm dịu, có thể làm cho người ta bay bổng lên trong thời gian quá khứ, tuy nhiên với điều kiện không được dừng nỗi buồn chiến trận lại ở cụ thể một điểm nào, một sự việc nào, một con người nào, bởi vì khi dừng phắt lại thì không còn là nỗi buồn nữa mà là sự xé đau trong lòng, và nhất là đừng có nhớ chạm tới những cái chết. Cho đến mãn đời Kiên còn nhớ tới Quảng, người tiểu đội trưởng đầu tiên của mình. Bấy giờ là mùa khô năm 66, chiến dịch Đông Sa Thầy, và Kiên còn là lính mới, lần đầu dự trận. Suốt ba ngày đêm ác liệt quần nhau với bọn Ngựa bay, Kiên theo sát Quảng, được Quảng lẫn dắt, kèm cặp và thực chất là che chắn cho. Đứng, nằm, lăn, bắn, vọt tiến, chạy, nhất nhất Kiên theo Quảng. Nhưng rồi Quảng bị đốn ngã trên đường vận động chiến, khi toàn đại đội đang băng qua vùng rừng le dưới đồi 300 để áp sát bọn Mỹ đang từ trực thăng đổ xuống. Một trái cối 106 nổ tung gần như dưới chân, nhấc Quảng lên, quăng bổng theo đường vòng cung rồi giáng quật xuống. Kiên quỳ cạnh anh, luống cuống không biết băng thế nào. Bụng rách trào ruột. Nhưng tiều đáng sợ là xương xầu dường như gãy hết, mạng sườn lõm vào, tay lủng liểng, và hai đùi tím ngắt. Thế mà Quảng chỉ lịm đi một lúc. Có lẽ vì quá đau đớn nên tỉnh lại ngay. Vốn là một dân chài quê Móng Cái, Quảng cực khỏe, to cao, thô thiển và tốt bụng, tính tình liều lĩnh, trẩm lặng, giờ đây anh rống lên:

- Đừng chạm vào tao . . . đừng băng nữa . . . Oâ ô. . . đừng. . . a...

Kiên vẫn loay hoay tìm cách bó nẹp hai đùi của Quảng.

-       Thôi ôi thôi. . . Giời ơi . . . ? Quảng nấc, mép ứa máu. Lịm đi một lát, Quảng cựa cựa đầu và lại mở mắt.

- Kiên... Kiên... -Kiên? Bắn anh đi em... - Quảng khóc khe khẽ và gầm lên hung tợn - Bắn?

- Kiên, tao hạ lệnh cho mày giết tao mau! Trời ơi? Trời ơi bắn đi mà em, bắn? bắn! Mẹ mày chứ, bắn đi, giời?!

Trận đánh rung chuyển rừng cây. Kình? Kình! Kình! Cối nã dồn dập. Tiếng reo hò dội tới qua màn khói. Kiên run cầm cập nhưng vẫn cố băng bó cho Quảng. Vừa gắng gượng nhẹ tới quá mức có thể Kiên vừa âm thầm hy vọng có thể là tiểu đội trưởng sẽ ngất đi mà nhãng khỏi cái đau rùng rợn đang dày xéo cả lên chính cả bản thân Kiên. Nhưng cái chết như muốn nhất định bắt Quảng phải tỉnh để chịu đến cùng sự hành hạ cua nó.

Lát sau lại một trận pháo nữa dập tới cấp tập trong vài phút, xé toang vạt rừng thưa và lấp đầy đất lên hai người. Mãi sau Kiên mới moi được Quảng lên: Vẫn sống, vẫn tỉnh, mồm ứa máu nhưng còn thở, sủi bong bóng đỏ, mắt mở trừng như muốn mà không nhắm lại được Và môi vẫn mấp máy gượng nói. Kiên cúi sát xuống, nghe:

- Thương anh đừng bắt lê lết mãi... Anh khổ quá rồi, xương gãy hết cả, ruột nữa... đứt hết... - Cái giọng lào thào lí nhí như thể tiếng của loài kiến mà đầy vẻ tâm tình của Quảng làm Kiên rùng rợn, ớn lạnh - Cho anh được chết đi... một phát thôi mà... là xong... nào?

Kiên giật mình. Bất ngờ, cực lẹ thu hết tàn lực, Quảng đưa cánh tay chưa gãy lên rút thoắt quả u-ét Kiên cài bên hông.

- Nào . . . ! - Quảng cao giọng hầu như đắc thắng, hoan hỉ và cả cười lên nữa, ha ha, khàn khàn dễ sợ - Ha hà... nào, lùi mau! Kiên, lùi xa ra, nào! Hà hà... ha ha ha ha. . . Kiên nhỏm dậy lùi, lùi, lùi, mắt dán vào cái mỏ vịt và vụt quay lưng, lao đầu chạy, chạy lướt qua cái lùm le gãy nát ngút khói. Ha ha ha... Tiếng cười cuồng loạn nức nở rượt sát sau lưng... ha ha ha ha...

Tôi nghĩ, có lẽ là loài quỷ rừng hay cười mà người Triêng gọi là ma ỏm. Hay là quỷ cùi? Nhưng không phải người cười là cái chắc. Rũ rượi. Sằng sặc. Vọng ra dưới đồi 300.

Chín năm sau, một người trong tổ hài cốt, khi nghe thấy tiếng cười điên rồ vọng lên từ phía đồi 300 bên bờ sông Sa Thầy, vào buổi chiều tối đã ngỡ rằng mình nghe thấy yêu quái. Anh ta hồi hộp kể. Mọi người xúm quanh, sa sầm.

- Chỉ cất lên trong chốc lát, nhưng tiếng cười làm tôi lạnh hết người. Nhưng mà tôi cứ thử liều lần về hướng phát ra tiếng cười. Chợt gặp một cái tràng hẹp khoanh một khoang giữa rừng. Mẹ kiếp, và tôi thấy gì... một túp lều Thoảng gió qua tôi ngửi thấy mùi khét và mùi sắn nướng. Nghĩa là người. Nhưng... Các cậu hiểu không, trước cửa lều trong ánh nhá nhem tôi thấy một hình thù lồm xồm lông lá, đúng hơn là râu tóc quá dài, cởi trần, trần truồng đang ngồi trên một thân cây đổ nhìn thẳng về chỗ bụi cây tôi đang núp. Và tôi thấy, một quả lựu đạn các bạn ạ ở trong tay hắn. Tôi bò lui. Hình như có làm động cành cây nên con ma để ý hơn, nó đứng lên, chăm chú nhìn, và đi tới.
Tôi bật lên vùng chạy. Lập tức tiếng cười kinh dị khi nãy lại cất lên đuổi theo tôi.

- Hay là "xà niên"? - Một người phỏng đoán.

- Nhưng xà niên sao lại có vũ khí, với lại họ đâu có ở lều cũng không phải tàn tích của một bản làng nào vì chẳng hề có vết tích nương rẫy nào ngoài cái rẫy tự giác của lính ta. Mà nhất là người không ai cười như thế.

- Hay là thằng Tùng, anh Kiên?

- Tùng nào?

- Tùng điên chứ Tùng nào, ở vệ binh trung đoàn ấy, anh quên à. Nó hóa điên và bỏ vào rừng khi trung đoàn mình về chốt gần ngã ba đường 90 hồi năm 71 ấy. Rất gần khu vực này.

- À, Tùng. . . nhớ rồi . Cũng chả biết chừng, thằng đó lên cơn toàn cười. Nghe rất ớn. Người ta bảo rằng trong rừng có những mạch suối ma, uống phải nước của những mạch đó có thể mắc đủ thứ bệnh, kể cả bệnh điên. Nhưng Tùng thì điên do bị một viên bom bi lọt vào não, bác sĩ trung đoàn bảo thế.
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
baogt
Thành viên
*
Bài viết: 771



« Trả lời #19 vào lúc: 14 Tháng Hai, 2009, 10:41:06 pm »

Kiên nhớ là lần ấy trung đoàn bộ bị oanh tạc. Nhiều người chết và bị thương. Riêng Tùng hoàn toàn lành lặn. Chỉ có điều là Tùng kêu đau đầu lắm. Y tá cho thuốc cảm, chẳng thuyên giảm, càng đau. Rồi một buổi đêm các lán của cả trung đoàn bộ bị lay thức vì tiếng cười của Tùng. Phải rồi, chuyện đó xảy ra ở vùng này đây. Mọi người tổ chức vây lùng để đưa Tùng về cứu chữa. Nhưng người bệnh lẩn tránh rất tài. Thỉnh thoảng từ một lùm cây anh ta bật cười như để chọc dờn mọi người, nhưng mà tiếng cười ảo não và thương tâm vô cùng. Vờn đuổi, truy sục cả tháng trời rồi đơn vị đế mất dấu tích của Tùng. Cậu ta mất hút vào rừng thẳm. Người ta bảo rằng, viên bi đã không chịu nằm yên ở một góc não mà trườn chạy, luồn lách đưa cơn điên vào tất cả những ngõ ngách trong đầu óc Tùng. . .

Tuy nhiên bây giờ nghe kể về tiếng cười ma quỷ ở góc đồi 300, Kiên ít nghĩ đến Tùng. Anh nhớ lại cái chết của Quảng. cũng ở khoảng rừng này đây 9 năm về trước. Sự đau đớn như thế có thể từ thân xác ăn vào đất mọc lên thành cây thành rừng, gây lên những vang âm và những ảo hình không tan đi được về tấm thảm kịch. Nói chung thời gian này Kiên đã bắt đầu tin tưởng vào những bóng ma, tin vào những ngọn gió âm hồn và những lời lẽ thần bí vọng lên từ đáy rừng âm u. Khi anh và những người trong tổ tiến tới gần túp lều thì bóng ma đã lên tiếng cười để ngăn lại. Tiếng cười dằn dữ như thể lời cảnh cáo.

- Anh là ai? - Kiên hỏi to - Hãy ra với chúng tôi. Chúng tôi là bạn. Chúng tôi tìm anh, chúng tôi đã tìm anh bấy lâu nay, khắp nơi.

Im lặng lan xa. Túp lều hoang, bãi trống, vùng cỏ xanh, rừng cây. Tiếng suối từ đồi 300 vọng tới nghe rì rầm như tiếng cầu nguyện.

- Chúng tôi muốn nói để anh hay rằng đã hòa bình rồi - Kiên lại lên tiếng, anh cảm thấy luồng mắt của cô hồn đang xói qua kẽ hở ở vách lều rọi vào mình - Hãy để chúng tôi đưa anh rời bỏ nơi hoang vu này.

Đáp lời Kiên là một chuỗi kinh khủng tiếng cười sởn tóc gáy. Có phải tiếng cười hay không, hay là khóc than, kêu gào, hay chỉ đơn thuần là tiếng hô hú điên loạn mất trí? Rền rĩ, rùng rợn, man rợ... Và, dường như không phải chỉ có một giọng cười. Bên dưới cái giọng khàn khàn là một giọng run run nho nhỏ cười nương theo.

Chờ, không biết là đã chờ bao lâu cho tới lúc tiếng cười kiệt hơi, Kiên bước tới, đi thong thả tới túp lều. Cái lều ọp ẹp rùng mình, Kiên và mọi người không ai kịp thấy rõ một cái gì. Từ trong lều băng ra phía sau, "họ" - nghĩa là không phải chỉ một cái bóng, vút lao đi bay biến và vô hình vào triền cỏ tranh cao lút đầu.

Thảng thốt một tiếng chim kêu lên. Vệt cỏ gianh rẽ giạt trườn lướt đi.

- Kìa! - Một người thốt lên đờ đẫn.

Ở nơi bãi gianh tiếp giáp rừng le, hiện thoáng lên chỉ trong tích tắc một bóng ma rách bươm, uyển chuyển và huyền bí, lướt ngang luồng ánh sáng rồi mất hút đi với mái tóc đen dài xõa bay. Còn một bóng ma nữa nhưng do rạp cúi xuống chạy nên chỉ lộ cho mọi người vụt thấy một cái sống lưng đen cháy như lưng vượn. Ảo giác và cảnh thực đan xen lẫn vào nhau như hai vòng sóng giao thoa trên nền xanh thẫm tối của thảm rừng. Thẫn thờ, rời khỏi khoảng rừng trống, bọn Kiên để lại trước cửa lều một hòm lương khô chứa ít gạo, muối và thuốc men. Nhưng, mấy bữa sau trở lại đó thì buồn thay chỗ quà vẫn nguyên đấy chẳng được ai đụng tới.

- Họ nghi có cạm bẫy - Một người nói - Họ sợ.

- Họ ư? Có nghĩa là người à?

Qua lỗ hổng hẹp dùng làm cửa ra vào mọi người luồn vào bên trong lều. Chỗ nằm trải những giát lồ ô có phủ bên trên một lượt cỏ Mỹ làm đệm. Ba tảng đá kê lên thành một chiếc bếp ở góc lều. Vương rắc xung quanh bếp, vỏ sắn và lõi ngô. Bầu không khí hăng hắc mùi khói và lờ lợ một thứ mùi người.

- Đây này... - Kiên nói, gần như thành kính nhặt ở đệm lên một cái lược làm bằng nhôm máy bay. Kẽ lược giắt những sợi tóc rất dài và mềm.

- Nghĩa là không phải ma. Không phải xà niên.

- Nhưng là ai? - Một người thì thào - Là ngụy hay là lính mình đào ngũ sống ẩn trong rừng?

Không ai trả lời. Và trong một thời gian khá lâu sau đó cả tổ đã cố công tìm kiếm. Nhưng cặp uyên ương mất trí ấy đã được rừng che chắn trong vòng huyền hoặc. Mặc dù thỉnh thoảng trong gió hình như vẫn nghe văng vẳng họ cười song chẳng thể nào định hướng được để tìm đến. Một lần một người trong tổ nói là đã nom thấy chính người đàn bà nọ ở bờ sông dưới bóng chiều chạng vạng, đang tắm. Khi anh ta tiến gần lại thì người ấy bật lên cười, vẫn chuỗi cười rất rợn ấy và lập tức biến mất, không biết là biến vào các lùm cây ven bờ nước hay là biến vào trong sóng.

- Hình như chị ta còn lại có một mình. Người kia có thể là đã lưu lạc ra xa khỏi vùng này. Nhưng có lẽ chị ta không hoàn toàn có lẻ. Tôi ngờ là chị ta có mang.

Chắc là do tưởng tượng ra thế thôi. Chắc anh ta cho rằng có thêm một đứa bé, một hài nhi tham gia vào thì câu chuyện tối tăm điên dở mịt mờ không lối thoát này sẽ đỡ thương tâm, sẽ có hương vị hy vọng và sẽ thành ra một chuyện có hậu. Bởi vậy anh ta nói thêm:

- Bệnh điên sẽ không nhiễm sang đứa bé. Và nó sẽ lớn lên. Người ta sẽ tìm ra, hoặc là chính nó sẽ tìm thấy mọi người.

- Thì cũng đành hy vọng thế - Một người khác nói - Phải có một lối thoát chứ. Cảnh ngộ này và những cảnh ngộ tương tự. Chưa nói tới những cảnh ngộ kinh khủng hơn.

Những người chết chẳng hạn. Phải rồi. Cả những người chết. Họ cũng phải được cứu rỗi bằng một cánh nào đó.

Phải rồi. Kiên nghĩ. Mình, chính mình, sau từng ấy năm trời đã trở nên hoàn toàn sa đọa, đã trở nên thác loạn, đã ngập chìm trong tủi nhục, oán hờn và lú lẫn. Nhưng là người thì không thể thế mãi. Phải có được một con đường nào đấy để tự giải thoát chứ. Nhưng là con đường nào và đến bao giờ thì mình tìm được con đường ấy?
Logged

Nhờ trời! Không yêu cầu cũng được ra
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM