Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Năm, 2024, 09:40:31 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ngày 17/02/1979  (Đọc 227923 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
baoleo
Moderator
*
Bài viết: 1500


« Trả lời #220 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 02:29:30 pm »

Ngày 17/02/1979

Ngày 17/02/1979, bạn đang làm gì, ở đâu và bạn nhớ gì hoặc được nghe kể gì về ngày đó và những ngày tiếp theo ?
Để nhớ về một sự kiện lịch sử cách đây tròn 30 năm, xin các bác cùng có đôi dòng hồi tưởng về ngày đó.


(tiếp dòng hồi ức)

Đã khởi động phong trào triển khai hầm phòng ở Hà Nội, trong trí nhớ của vài cụ cốp (có tham gia chống chiến tranh phá hoại của Mỹ) lúc ấy, ám ảnh của từ sơ tán chắc lại đã hiện về.
Tuy nhiên, cuộc chiến khác nhau, thì tính chất sơ tán cũng phải khác nhau.
Thời chống Mỹ, các cơ quan chỉ cần dịch ra khỏi Hà Nội vài chục cây số, đã được coi là đi sơ tán.
Còn lần này Huh
Thực sự là bây giờ, đã sau 30 năm, baoleo cũng không thể tìm ra quân sư nào đã hiến ra cái sáng kiến vĩ đại đấy.
Quân sư đó dường như đã thổi vào tai mấy cụ cốp rằng:
Không quân TQ không đáng ngại bằng không quân Mỹ. Trình độ và trang bị của ta bây giờ, sau khi tịch thu được hằng hà sa số máy bay của Mỹ, đáng được xếp vào hàng thứ ba trên thế giới, thì cái đám Míc cổ lỗ kia chỉ đáng làm rau gém. Tuy nhiên, cái đáng ngại lại nằm ở chỗ: TQ hiện đã trang bị đại trà loại tên lửa vượt đại châu, mang đầu nổ thông thường. Từ trận địa bố trí gần biên giới Việt Nam nhất, loại tên lửa này có tầm bắn với đến tận đèo Hải Vân Huh.
Thế là 1 kế hoạch sơ tán hoành tráng được ra đời: không sơ tán loanh quanh ra khỏi nội thành Hà Nội nữa, mà phải sơ tán ra ngoài tầm tên lửa đối phương !
Thế là tên của thành phố Đà Nẵng bắt đầu được ra đời trong cái kế hoạch huy hoàng ấy. Bởi vì Đà Nẵng vừa khuýp là ra khỏi tầm bắn tên lửa đối phương, lại vừa là chốn đô thị (tuy rằng thời 1979 thì Đà Nẵng cũng mới chỉ như thành phố Thanh Hóa bây giờ, chứ chưa được phát triển như ngày nay), lại có cung đường vận chuyển gần Hà Nội nhất.

Thế là cái tên Đà Nẵng xuất hiện trong tất cả các kế hoạch sơ tán của kính thưa tất cả mọi loại cơ quan.

Cái tên thành phố Đà Nẵng được nhắc nhiều đến mức, ngay cả trẻ con cũng thuộc lòng. Đến nỗi ngày nay, khi hồi tưởng lại, nhiều bác tham gia diễn đàn này hồi ấy mới chỉ tầm 5 tuổi, đã bật lên ngay: hồi đó cơ quan ông già em định về Đà Nẵng.

Cũng may, nước nhà còn vượng, nên còn có kẻ trung quân can gián. Kế hoạch rời đô vào Đà Nẵng đã kịp dừng lại trên giấy tờ.

Sang năm 1980, cùng với việc cho dân đào ống tăng xê lên làm của riêng, kế hoạch đi sơ tán ở Đà Nẵng, được đưa về kho lưu chiểu.

Đại phúc.

Huyền thoại đi sơ tán như nhiều bác đã kể, dưới góc nhìn của em, nó là vậy.

(còn tiếp)
______________________
Để sẩy ra những quyết định, những kế hoạch, những tồn tại không hoàn hảo này của ta- chính cũng là một tội ác của quân cướp nước
.

Logged
baoleo
Moderator
*
Bài viết: 1500


« Trả lời #221 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 02:31:25 pm »

Ngày 17/02/1979

Ngày 17/02/1979, bạn đang làm gì, ở đâu và bạn nhớ gì hoặc được nghe kể gì về ngày đó và những ngày tiếp theo ?
Để nhớ về một sự kiện lịch sử cách đây tròn 30 năm, xin các bác cùng có đôi dòng hồi tưởng về ngày đó.


(tiếp dòng hồi ức)

Theo thời gian, cỗ máy chiến tranh đã được khởi động và tăng tốc vận hành. Như sợi dây chun đã căng hết cỡ, và bây giờ là lúc thả tay để bắn viên đạn về phía mục tiêu đã lựa chọn.

Đó đã là tháng 4/1979. Mục tiêu cụ thể là địch quân xâm lược, thì chúng đã rút từ lâu. Nhưng công tác tuyên truyền trong nhân dân, hun đúc lòng căm thù, đến bấy giờ mới đạt đến độ căng hết của dây chun.
Vấn đề là bắn viên đạn căm thù ấy vào đâu.
Thế là theo sáng kiến vỹ đại của cánh Tuyên giáo, 2 mục tiêu huyền thoại ra đời: huyền thoại thứ nhất là về phòng tuyến Sông Cầu chứ danh, dành cho nhân dân thành thị, cụ thể là nhân dân Hà Nội. Huyền thoại thứ hai, là chiến dịch vót chông, dành cho toàn thể nhân dân các tỉnh phía bắc, phía sau chiến tuyến.

Tại sao lại có thể nói: phòng tuyến Sông Cầu là một phòng tuyến huyền thoại của cánh tuyên giáo, mà không phải là một kế hoạch quân sự của bộ Tổng tham mưu.
Xin được thưa, cái bản chấm cơm của tay quản lý đại đội, còn được coi là tài liệu “tối mật”, vì sợ địch quân có thể nắm được thực trạng sẵn sàng chiến đấu của đại đội bộ binh ấy, huống hồ lại là cả một kế hoạch của một phòng tuyến.

Suốt từ tháng 4/1979 đến tháng 5/1980, từ bà bán chè chén vỉa hè đến cô nội chợ xếp hàng mua rau mậu dịch, câu chuyện cửa miệng là: tuần này, tuần sau, con tôi, chồng em đi đào phòng tuyến Sông Cầu.
Mà phàm là đã gọi là phòng tuyến, thì phải có nơi đào, nơi đắp, các cứ điểm quân sự phải được liên thông, liên kết với nhau.
Nhưng không. Cứ theo kế hoạch cấp uỷ bổ xuống, cơ quan A cử x anh, khu phố B cử y nhân mạng, đến ngày z cứ thế mà lên mấy quả đồi mạn Hà Bắc mà đào thục mạng.

ã là chiến hào, thì là một cậu A trưởng cũng phải biết điều sơ đẳng là: phải đào dích dắc chữ chi. Nhưng không, cứ chỗ nào cuốc dễ là bà con ta băm xẻng vào. Đứng ở dưới đường 1A nhìn lên mấy quả đồi sát đường: những vết rãnh cứ thẳng đuồn đuột, vuông góc với tim đường Huh. Ngách râu tôm: không. Ụ bắn súng máy: không. Hầm hoả lực: không. Hầm quân y: không. Hầm trú ẩn có nắp tránh pháo: không.
Hệ thống chiến hào, chiến luỹ liên kết giữa các quả đồi rời rạc: không.

Tất cả chỉ là các rãnh thẳng, cắt xé các của quả đồi và nông sâu tuỳ theo điều kiện địa chất dễ đào. Tàn phá không thương tiếc sự ổn định bền vững của các mái dốc tự nhiên, gây ra sự sụt lở đất, tàn phá môi trường kinh khiếp.

Thậm trí theo thời gian, các quả đồi gần đường 1 A đã được đào nham nhở hết, những cơ quan, khối phố được huy động thời gian sau, phải đi tìm các quả đồi sâu hơn, xa tít hơn, chẳng ăn nhập gì với các quả đồi trước, để lại tiếp tục cắt xén các mái dốc.

Suốt trong quá trình thi công phòng tuyến Sông Cầu huyền thoại, không có một đơn vị công binh nào tham gia.
Đại phúc. Ơn giời, lính ta được dưỡng sức để làm những việc có lợi hơn.
Cái phòng tuyến Sông Cầu, cứ để cho cánh tuyên giáo có công ăn, việc làm.

Cũng may, cuối năm 80, có nhiều công việc khác cần sự ra đời của các câu khẩu hiệu mới hay hơn, nên cánh tuyên giáo cũng cho việc thi công phòng tuyến vào hàng thứ yếu, rồi hết hẳn.
Đến tận năm 1985, dân Hà Bắc còn rên la, khi đơn vị baoleo hỏi chuyện mùa màng của bà con nông dân ở dưới chân các quả đồi, trong phòng tuyến huyền thoại Sông Cầu.

Huyền thoại phòng tuyến Sông Cầu, như nhiều bác đã kể, dưới góc nhìn của em, nó là vậy.

P.S:
Ngày nay, công tác tuyên truyền của cánh tuyên giáo vẫn thế.
Thanh niên sau khi được tuyên truyền, phát động, lòng tràn đầy nhiệt huyết. Tất thẩy xung vào đội “thanh niên tình nguyện”, những mong làm những việc chuyển đất, long trời.
Rồi cũng đến ngày chủ nhật để cống hiến. Vài chục nữ tú, nam thanh được huy động đi tổng vệ sinh.
Găng tay: không. Cuốc, xẻng: không. Chổi, hót rác: không. Rồi nữ tú óng ả, lướt thân mình đẫm mùi phấn son qua mũi các nam thanh, 2 bên ỏn ẻn hoặc mắt tít cười, tay vung vẩy cây que tình cờ tìm được, gẩy tít mù đám cỏ hoặc búi rác ni lông, chẳng buồn biết là nó về đâu.
Hiện đại nhất là độ chục sức xuân, xúm quanh cái thùng đựng thứ nước được gọi là vôi, vung vẩy cây chổi cùn, phết cái nước thánh ấy lên gốc cây già tội nghiệp. Một hành động mà giới truyền thông quốc tế mãi băn khoăn, mà chưa có lời giải đáp: tại sao ở VN, chúng mày lại cứ bôi trắng một vài đoạn gốc cây Huh

(còn tiếp)
______________________
Để xẩy ra những quyết định, những kế hoạch, những tồn tại không hoàn hảo này của ta- chính cũng là một tội ác của quân cướp nước.

Logged
baoleo
Moderator
*
Bài viết: 1500


« Trả lời #222 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 02:33:03 pm »

Ngày 17/02/1979

Ngày 17/02/1979, bạn đang làm gì, ở đâu và bạn nhớ gì hoặc được nghe kể gì về ngày đó và những ngày tiếp theo ?
Để nhớ về một sự kiện lịch sử cách đây tròn 30 năm, xin các bác cùng có đôi dòng hồi tưởng về ngày đó.


(tiếp dòng hồi ức)

Cũng có số phận như phòng tuyến Sông Cầu chứ danh, huyền thoại  vót chông, cũng có số phận ly kỳ không kém.
Một khi cánh tuyên giáo đã ‘phát” xong, thì sẽ đến lượt thảo dân xa gần bắt tay vào “động”.

Thế là kính thưa các loại chông ra đời, tuỳ thuộc vào trí tưởng tượng phong phú của ông trưởng thôn, hay bác tổ trưởng công đoàn xí nghiệp và trình độ tay nghề của thảo dân.
Đủ loại, chông dài, chông ngắn, chông có ngạnh hay không có ngạnh, chông vót nhọn hay chặt vát một đầu.
Chông thông thường hay chông tẩm thuốc. Thuốc độc cũng kính thưa các loại độc dược bảng A, B, C. Nơi thì ông dân phố hô ngâm nước đái, nơi thì cụ trưởng thôn hét bôi dung dịch hỗn hợp mồ hóng và phân trâu .
Chông đủ loại chất liệu.
Tre: nơi thôn dã dưới xuôi. Nứa, vầu: nơi trung du, miền núi. Sang nhất là nơi có nhà máy, xí nghiệp. Ông cán bộ công đoàn nào khéo gãi tai, vớ được ông giám đốc là lính chống Pháp hay Mỹ là được gật phéng: ok, cứ lấy ít sắt kế hoạch 3 ra mà làm chông, cho kịp phong trào.
Cứ thế, phong trào làm chông rầm rộ được thi hành, suốt từ miền ngược đến miền xuôi.

Vấn đề được đặt ra: xong rồi, chông đi đâu?
Ai mà chẳng có câu trả lời là: sẽ được cắm trên biên giới.

Vâng. Nhưng ai cắm, cắm ở đâu? Bình độ 400 hay cửa hang Làng Lò.

Ngay đến như tận năm 1985, bác dongadoan ở cứ trung đoàn tại Hà Giang, mà cũng còn phải nghiến răng xuất 60 lít xăng để về Tuyên Quang lĩnh 60 kg xu hào, cung đường, địa hình ở đâu mà dễ thế, để thi triển cắm chông.

Còn sức lính ư? Năm 1984-1985, baoleo tham gia vác thanh bê tông làm hầm cho đồng đội ở Hà Giang, một tuần vác được 7 thanh, đã là thành tích.
Những ai có sức, đã từng tham gia cắm chông hồi ấy: xin giơ tay.

Và thế là kính thưa các loại chông với đủ các thứ mùi thuốc độc kể trên, sau khi được chất đống tại ban chỉ huy quân sự xã, phường, làm tội làm tình môi trường và cơ quan hô hấp, sau đủ hồi kính thưa, kính gửi, kèm theo sự gãi tai thân thiết, thi thoảng cũng có xe của huyện đội về lấy chông đi.

Nhưng đích đến của những chuyến xe chở chông ấy, nó đi đâu. Sau 30 năm, đó vẫn là vấn đề bí mật quân sự chưa đến hạn giải mật.

Huyền thoại vót chông, như nhiều bác đã kể, dưới góc nhìn của em, nó là vậy.

P.S:
Ngày nay, công tác tuyên truyền của cánh tuyên giáo vẫn thế.
Chuyện ở tại phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, một phường có trình độ dân trí cao vào loại nhất thủ đô.
Phường được đối tác Nhật viện trợ không hoàn lại cho 1 dự án mang tên: phân loại rác tại nguồn. Dự án vô cùng hoàng tráng. Họp toàn thể, họp tổ, tập huấn đầu bờ… để phân biệt thế nào là rác vô cơ, rác hữu cơ, rác sẽ được tái chế, rác sẽ được làm phân, rác sẽ được tiêu huỷ, rác sẽ được x,y,z. Rồi các hộ dân được phát không các thùng nhựa tổng hợp nhập ngoại. Mầu đỏ để chứa rác y, mầu xanh để chưa rác x, mầu vàng để chứa rác z, mầu @ để chứa bê ta, v.v…. Lại được dặn dò tỷ mỉ: thứ hai, xe thu rác có hiệu còi tu tu, thì mang thùng rác mầu đỏ đi thu gom, thứ ba, xe thu rác có hiệu còi toét toét thì mang thùng @ ra, v.v….
Hỡi ôi, đến ngày thực hiện, chẳng có xe thổi còi tu tu, cũng chẳng có xe thổi còi toét toét. Vưỡn là cái xe gõ kẻng keng keng như hồi xưa thẳm. Này thì thùng mầu đỏ, này thì thùng mầu @. Vẽ. Về bãi Nam Sơn tuốt. Chôn tốt. 
Nay lại đang cấm xe Hon Đa chở lợn, các bác ạ.

(còn tiếp)
______________________
Để xẩy ra những quyết định, những kế hoạch, những tồn tại không hoàn hảo này của ta- chính cũng là một tội ác của quân cướp nước.

Logged
linh moi
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 669


« Trả lời #223 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 03:09:34 pm »

  1 buổi sáng thứ 2 tháng 3 năm 79 , buổi chào cờ tại sân trường có vẻ trang nghiêm khác lạ . Trước cửa ban giám hiệu đặt 1 cái bàn được trình bày như 1 cái bàn thờ cùng di ảnh của 1 chú bộ đội . Mọi ngày cứ lúc nào tập trung ở sân trường các cô phải gào khản cổ mới lập được trật tự , vậy mà sau khi nhìn thấy cái bàn thờ , không ai bảo ai tự nhiên hàng lối chỉnh tề ...

Sau đó có 1 chú bộ đội đứng kể lại tấm guơng chiến đấu dũng cảm của người chiến sỹ trong tấm di ảnh ấy . Đó là anh hùng Trần Ngọc Sơn nhà ở Truơng Định , anh Sơn là chiến sỹ Sư đoàn 3 chiến đấu tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan , Đồng Đăng và hi sinh anh dũng tại đây . Ngoài chuyện chiến đấu anh dũng của anh ra , bọn em còn được nghe kể về tính hiếu thảo của anh hồi còn ở nhà ... Bên dưới càng ngày càng nhiều tiếng khóc nổi lên , nhất là các bạn gái .
 
Ngay hôm ấy bọn em , những học sinh nam cuối cấp 2 đã cùng nhau viết chung 1 lá đơn tình nguyện đi bộ đội . Thằng Hiếu lớp trưởng mang lên cô hiệu trưởng và sau đó theo lời cô hiệu trưởng , cả bọn kéo nhau ra phường . Cuối cùng thì cả bọn cũng bị đuổi về với lí do "các cháu còn bé quá , nhiệm vụ của các cháu là học ..."

Không ngờ mấy năm sau , em lại trở thành chú bộ đội chiến đấu ngay tại địa danh mà anh Sơn đã cùng đồng đội chiến đấu và hi sinh anh dũng năm 79 .

Xin nghiêng mình kính cẩn trước anh cùng các đồng đội của anh , những chiến sỹ đã xả thân mình  chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta !
Logged
Cao Sơn
Moderator
*
Bài viết: 539



« Trả lời #224 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 03:51:06 pm »

Cảm ơn bác Baleo. Đến giờ em mới biết rằng Phòng tuyến sông Cầu nó là như thế.

Còn chông thì sau này ở HG có dùng chông sắt chân chim, nhưng mà là công binh làm chứ không phải: "Tí vót chông gửi ra biên giới".

Bác Đoàn xuất 60 lít xăng đi lấy su hào vào năm 88 - 89 chứ không phải 85 bác ạ. 85 là chiến dịch vác lương khô của bác.
Logged

BỐ ĐI CHIẾN ĐẤU, CÁC CON Ở NHÀ GIÚP MẸ LƯỚT SÓNG
Cao Sơn
Moderator
*
Bài viết: 539



« Trả lời #225 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 03:54:17 pm »

Bác Lính mới. Bác kể em mới nhớ đến tầm 82, 83 bọn em vẫn được các chú bộ đội về trường nói chuyện về gương chiến đấu dũng cảm.
Logged

BỐ ĐI CHIẾN ĐẤU, CÁC CON Ở NHÀ GIÚP MẸ LƯỚT SÓNG
Tmct
Thành viên
*
Bài viết: 155


« Trả lời #226 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 04:46:31 pm »

Cảm ơn bác baoleo về các hồi ức và các thông tin quý giá sẽ không bao giờ có trong sách vở. Nhưng mà cái chữ kí của bác đi với các nội dung đó thấy khó đọc quá! Mình làm mình chịu, đổ cho thằng khác ....thấy không "lính" lắm.

Xin lỗi bác vì bứt rứt phải nói ra. Đúng ra chữ ký là chuyện riêng, ai thích ghi gì là quyền của người đó, kể cả đối với thành viên mà chữ ký cũng như bài viết người khác nên tránh không đọc phải thì khỏe hơn.
Logged
chiangshan
Thành viên
*
Bài viết: 3405


No sacrifice, no victory


WWW
« Trả lời #227 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 06:11:38 pm »

Các bạn Bê Bê Xê đăng bài này đấy bác tuaans ạ Grin


Nhớ lại đêm 17 tháng 2 năm 1979

Dương Danh Dy

Tháng 9 năm 1977, tôi được lãnh đạo Bộ Ngoại giao Việt Nam cử sang làm Bí thư thứ nhất tại Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh, chuyên làm công tác nghiên cứu.

Quan hệ hai nước Việt Trung, từ lúc tôi ở trong nước đã xấu, lúc này càng xấu đi từng ngày.

Dòng “nạn kiều” dưới sự kích động của nhà đương cục Trung Quốc vẫn lũ lượt kéo nhau rời khỏi Việt Nam, một phần về Trung Quốc một phần đi sang các nước khác.

Lấy lý do cần có tiền để “nuôi nạn kiều”, ngày 13/5/1978 lần đầu tiên nhà cầm quyền Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút một bộ phận chuyên gia về nước.

Không lâu sau đó, ngày 3/7/1978 chính phủ Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.

Xung đột biên giới trên đất liền, nhất là tại điểm nối ray trên đường sắt liên vận Hà Nội-Bằng Tường ngày càng tăng (có lúc có nơi đã xảy ra đổ máu).

Chuẩn bị tình huống xấu

Tháng 7 năm 1978 chúng tôi được phổ biến Nghị Quyết TW 4, tinh thần là phải thấu suốt quan điểm nắm vững cả hai nhiệm vụ vừa xây dựng kinh tế vừa tăng cường lực lượng quốc phòng, chuẩn bị tốt và sẵn sàng chiến đấu.

Tháng 11 năm 1978 Việt Nam ký “hiệp ước hữu nghị và hợp tác” với Liên Xô.

Đến tháng 12 năm 1978 mọi việc chuẩn bị cho tình huống xấu nhất trong đại sứ quán đã làm xong. Sứ quán nhận được máy phát điện chạy xăng (và đã cho chạy thử), gạo nước, thực phẩm khô đã được tích trữ đầy đủ, đại sứ quán mấy nước anh em thân thiết cũng nhận được các đề nghị cụ thể khi bất trắc xẩy ra…
   
Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta (Đặng Tiểu Bình).
 

Tôi được đồng chí đại sứ phân công đọc và lựa chọn các tài liệu lưu trữ quan trọng, cái phải gửi về nhà, cái có thể hủy,

Tháng 12 năm 1978 trong chuyến thăm mấy nước Đông Nam Á, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, Đặng Tiểu Bình vừa hùng hổ vừa tức tối nói một câu không xứng đáng với tư cách của một người lãnh đạo một nước được coi là văn minh: “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”.

Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan” - tức du côn, côn đồ.

Rồi ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đơn phương ngừng vận chuyển hành khách xe lửa liên vận tới Việt Nam, rất nhiều cán bộ, sinh viên Việt Nam từ Liên Xô Đông Âu trở về bị đọng lại trong nhà khách sứ quán chờ đường hàng không và cuối cùng đến đầu tháng 1 năm 1979 đường bay Bắc Kinh Hà Nội cũng bị cắt.

Đầu tháng 1 năm 1979 quân đội Việt Nam bất ngờ phản công trên toàn tuyến biên giới Tây Nam, chỉ trong thời gian ngắn đã đập tan sức chống cự của bè lũ Polpot, tiến vào giải phóng Phom Penh. Đây cũng là điều mà Đặng Tiểu Bình không ngờ.

Lại một quả đắng khó nuốt nữa đối với nhà lãnh đạo Trung Quốc này.

'Không đánh nhau không xong'

Cuối tháng 1 năm 1979 Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ, được Tổng thống Carter đón tiếp với nghi lễ rất cao, hai nước quyết định thiết lập quan hệ ngoại giao, và không biết còn bàn bạc gì nữa? Trên đường về nước Đặng Tiểu Bình ghé qua Nhật Bản.

Trước những tình hình trên, một số anh em nghiên cứu chúng tôi đã khẳng định khá sớm: hai nước anh em thân thiết như răng với môi này không đánh nhau một trận không xong!

   
Tù binh Trung Quốc
Lính Trung Quốc bị bắt tại Phố Lu

Lý trí mách bảo như vậy, thậm chí còn mách bảo hơn nữa: Trung quốc đã từng gây cuộc chiến tranh biên giới với Ấn Độ và nhất là với Liên Xô và cả hai lần họ đều bất ngờ ra tay trước.

Thế nhưng về mặt tình cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả sự ngây thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù chỉ là chút ít thôi: quan hệ Việt Trung đã từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ không thể một sớm một chiều trở mặt được.

Không nói tới những khoản viện trợ to lớn có hiệu quả, những tình cảm thân thiết như anh em trước đây, mà ngay trong những giờ phút căng thẳng này, tôi vẫn không thể quên được những việc làm tốt hay tỏ ra biết điều của một số cán bộ Trung Quốc:

Năm 1977, Nhà máy dệt Vĩnh Phúc do Trung Quốc viện trợ cho ta, sau một hồi chạy thử vẫn không hiện đúng màu nhuộm cần thiết, một kỹ sư Trung Quốc đã bí mật cung cấp cho ta bí quyết. Khi các chuyên gia Trung Quốc khác thấy kết quả đó, không biết do ai chỉ đạo, họ đã “xử lý” một cách tàn bạo, anh bị đánh tới chết.

Khi đoàn chuyên gia Trung Quốc thi công cầu Thăng Long bị cấp trên của họ điều về nước, một số đồng chí đã để lại khá nhiều bản vẽ, tài liệu kỹ thuật về chiếc cầu này cho ta. Tôi biết chiếc cầu Chương Dương do ta tự thiết kế thi công sau này đã dùng một số sắt thép do phía Trung Quốc đưa sang để dựng cầu Thăng Long.

Mặc dù khi truyền hình trực tiếp , Trung Quốc không thể cắt được câu nói lỗ mãng của Đặng Tiểu Bình: Việt Nam là côn đồ, nhưng báo chí chính thức ngày hôm sau của Trung Quốc đã cắt bỏ câu này khi đưa tin ( chỉ còn đăng câu “phải dạy cho Việt Nam bài học” , nghĩa là đỡ tệ hơn).

Chúng tôi đã làm gì?

Trong bối cảnh trên, cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu ngày 17/2/1979 do nhà cầm quyền Trung Quốc - mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình, phát động, về tổng thể không bất ngờ đối với chúng tôi, nhưng về thời gian cụ thể và nhất là về qui mô binh lực mà Trung Quốc sử dụng thì quả là không tính tới.

Sau này những day dứt về dự báo không chính xác trên đã có phần giảm bớt, khi được biết có một số cán bộ trung cấp và một số đơn vị quân đội Trung Quốc chỉ sau khi đã tiến vào lãnh thổ nước ta rồi họ mới biết là phải đi đánh Việt Nam.

10 giờ tối ngày 17/2/79( tức 9 giờ tối Việt Nam) tôi bật đài nghe tin của đài tiếng nói Việt Nam, không thấy có tin quan trọng nào liên quan đến hai nước, tôi chuyển đài khác nghe tin.

Khoảng 10 giờ 30 phút đồng chí Trần Trung, tham tán đại biện lâm thời( thời gian này đại sứ Nguyễn Trọng Vĩnh về Việt Nam họp) đến đập mạnh vào cửa phòng tôi: Dy, lên phòng hạnh phúc họp ngay, Trung Quốc đánh ta rồi!

   
  Về mặt tình cảm (bây giờ nhìn lại thì còn có cả sự ngây thơ, cả tin nữa) vẫn hy vọng dù chỉ là chút ít thôi: quan hệ Việt Trung đã từng gắn bó, sâu nặng như vậy, họ không thể một sớm một chiều trở mặt được.
 

Ít phút sau, một số đồng chí có trách nhiệm đã có mặt đông đủ. Đồng chí Trần Trung phổ biến tình hình nhà vừa thông báo: sáng sớm ngày 17/2, bọn bành trướng Trung Quốc đã tấn công trên toàn tuyến biên giới trên đất liền ( 6 tỉnh của Việt Nam lúc đó) với qui mô 20 sư đoàn bộ binh.

Hai sư đoàn chủ lực của ta cùng với bộ đội địa phương và anh chị em dân quân du kích đang anh dũng chống trả.

"Nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là dịch ngay bản Tuyên Bố của chính phủ ta ra 3 tiếng Trung, Anh, Pháp để phục vụ cho cuộc họp báo quốc tế sẽ phải tổ chức và để thông bào càng rộng càng tốt cho một số nhân dân Trung Quốc biết rõ sự thực."

Bộ phận dịch tiếng Trung, dưới sự chỉ huy của anh Thái Hoàng-Bí thư thứ nhất, gồm hai đồng chí Hoàng Như Lý, bí thư thứ ba và Chu Công Phùng cán bộ phòng chính trị, đã dịch văn bản một cách “ngon lành”; đồng chí Lê Công Phụng, bí thư thứ ba phụ trách phần dịch tiếng Anh cũng không vất vả gì; riêng phần tiếng Pháp, đồng chí Minh, phiên dịch tiếng Pháp do mới ra trường không lâu, nên có đôi lúc tỏ ra luống cuống.

Guồng máy dịch, in roneo, soát, sửa lại bản in nhanh chóng chạy đều, mọi người làm việc không biết mệt với lòng căm giận bọn bành trướng.

Thi thoảng mấy câu chửi bọn chúng như kìm nén không nổi lại khe khẽ bật ra từ vài đồng chí. Không căm tức uất hận sao được?

Khi chúng tôi hoàn thành công việc thì trời đã hửng sáng (đài BBC sau đó đã đưa tin, tối ngày 17/2/1979 toàn Đại sứ quán Việt Nam để sáng đèn).

Những người ngoài 40, 50 chúng tôi sau một đêm vất vả không ngủ vẫn tỏ ra bình thường nhưng riêng hai đồng chí Phùng và Minh đang tuổi ăn tuổi ngủ, tuy được đồng chí Đặng Hữu-Bí thư thứ nhất, tiếp sâm, nhưng vẻ mặt sau một đêm căng thẳng đã lộ nét mệt mỏi. Thương cảm vô cùng.

Tuy vậy, chúng tôi đã nhanh chóng bước vào ngày làm việc mới với tất cả sức mạnh tinh thần và lòng căm thù bọn bành trướng bá quyền, nước lớn.

Quá khứ 30 năm

Cuộc chiến tranh do nhà cầm quyền Bắc Kinh mà người chủ xướng là Đặng Tiểu Bình gây ra, kết thúc đã 30 năm.

Sau khi bình thường hóa, quan hệ hai nước nhìn chung phát triển khá tốt.

Tuy nhiên cần nhấn mạnh một điều, vì nghĩa lớn, chúng ta đã thực hiện đúng lời cam kết: không nhắc lại chuyện cũ. Nhưng ở phía bên kia, một số kẻ không biết điều, vẫn thường xuyên, xuyên tạc sự thật lịch sử, rêu rao, tự cho là đã “giành thắng lợi”, là “chính nghĩa”, là “Việt Nam bài Hoa, Việt Nam chống Hoa, Việt Nam “xua đuổi nạn kiều”, Việt Nam xâm lược Cămpuchia” v.v..

Cho đến hôm nay, một số cuốn sách lịch sử, sách nghiên cứu, không ít bài thơ, truyện, ký…vẫn nhai lại những luận điệu trên dù hai nước đã bình thường hóa quan hệ được gần hai chục năm.

   
Tôi nghỉ hưu đã được hơn mười năm nhưng do vẫn tiếp tục nghiên cứu về Trung Quốc, nên thỉnh thoảng vẫn có dịp gặp các bạn cũ công tác tại Bộ Ngoại Giao Trung Quốc trước đây cũng như nhiều học giả Trung Quốc.

Không dưới một lần tôi đã thân tình và nghiêm túc nhắc họ: nếu các bạn chỉ nhận phần đúng trong những việc xảy ra trong thời gian trước đây, đổ hết lỗi cho cho người khác thì quan hệ Việt Trung dù ai đó có dùng những chữ vàng để tô vẽ cũng không thể nào xóa bỏ được những vết hằn lịch sử do người lãnh đạo của các bạn gây ra, quan hệ hai nước không thể nào thực sự phát triển tốt đẹp được, vì những hoài nghi lớn của nhân dân hai bên chưa được giải tỏa?

Mong rằng một số nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay nên nhớ chuyện sau: nếu không biết lời dặn của Chủ tịch Mao với đoàn cố vấn Trung Quốc khi sang giúp Việt nam thời kỳ chống Pháp: ‘Tổ tiên chúng ta trước đây đã làm một số việc không phải với nhân dân Việt Nam, các anh sang giúp nước bạn lần này là để trả nợ cho cha ông’; và nếu không thấy trong chuyến thăm Việt Nam lần đầu tiên sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, Thủ tướng Chu đã tới dâng hương tại đền thờ Hai Bà, thì chắc chắn những người Việt Nam thời đó không dễ quên được chuyện cũ để nhanh chóng hòa hiếu với Trung Quốc như sau đó đâu?

Vết thương chung phải do cả hai bên cùng đồng tâm, thành ý chữa trị thì mới có thể lành hẳn.

Chúng ta không nói lại chuyện cũ là vì nghĩa lớn, chứ không phải vì chúng ta không có lý, không phải vì người Việt Nam sợ hãi hay chóng quên.
------------------------------------------------

Cũng ngày hôm nay, phiên tòa xét xử bọn thủ lĩnh Khmer Đỏ sẽ bắt đầu: http://vietnamnet.vn/thegioi/2009/02/829453/
« Sửa lần cuối: 17 Tháng Hai, 2009, 06:27:57 pm gửi bởi chiangshan » Logged

Dân ta phải biết sử ta
Cái gì không biết cần tra Gúc gồ
altus
Moderator
*
Bài viết: 1782



« Trả lời #228 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 07:39:41 pm »

Bản gốc (có đủ một số câu chữ BBC lược bỏ) để trên blog  của bác Trần Hữu Dũng.

http://www.viet-studies.info/kinhte/DuongDanhDy_17_2_1979.htm
Logged
pain
Thành viên
*
Bài viết: 421



« Trả lời #229 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2009, 07:43:21 pm »

Ngày 17/02/1979

Ngày 17/02/1979, bạn đang làm gì, ở đâu và bạn nhớ gì hoặc được nghe kể gì về ngày đó và những ngày tiếp theo ?
Để nhớ về một sự kiện lịch sử cách đây tròn 30 năm, xin các bác cùng có đôi dòng hồi tưởng về ngày đó.


(tiếp dòng hồi ức)

Theo thời gian, cỗ máy chiến tranh đã được khởi động và tăng tốc vận hành. Như sợi dây chun đã căng hết cỡ, và bây giờ là lúc thả tay để bắn viên đạn về phía mục tiêu đã lựa chọn.

Đó đã là tháng 4/1979. Mục tiêu cụ thể là địch quân xâm lược, thì chúng đã rút từ lâu. Nhưng công tác tuyên truyền trong nhân dân, hun đúc lòng căm thù, đến bấy giờ mới đạt đến độ căng hết của dây chun.
Vấn đề là bắn viên đạn căm thù ấy vào đâu.
Thế là theo sáng kiến vỹ đại của cánh Tuyên giáo, 2 mục tiêu huyền thoại ra đời: huyền thoại thứ nhất là về phòng tuyến Sông Cầu chứ danh, dành cho nhân dân thành thị, cụ thể là nhân dân Hà Nội. Huyền thoại thứ hai, là chiến dịch vót chông, dành cho toàn thể nhân dân các tỉnh phía bắc, phía sau chiến tuyến.

Tại sao lại có thể nói: phòng tuyến Sông Cầu là một phòng tuyến huyền thoại của cánh tuyên giáo, mà không phải là một kế hoạch quân sự của bộ Tổng tham mưu.
Xin được thưa, cái bản chấm cơm của tay quản lý đại đội, còn được coi là tài liệu “tối mật”, vì sợ địch quân có thể nắm được thực trạng sẵn sàng chiến đấu của đại đội bộ binh ấy, huống hồ lại là cả một kế hoạch của một phòng tuyến.

Suốt từ tháng 4/1979 đến tháng 5/1980, từ bà bán chè chén vỉa hè đến cô nội chợ xếp hàng mua rau mậu dịch, câu chuyện cửa miệng là: tuần này, tuần sau, con tôi, chồng em đi đào phòng tuyến Sông Cầu.
Mà phàm là đã gọi là phòng tuyến, thì phải có nơi đào, nơi đắp, các cứ điểm quân sự phải được liên thông, liên kết với nhau.
Nhưng không. Cứ theo kế hoạch cấp uỷ bổ xuống, cơ quan A cử x anh, khu phố B cử y nhân mạng, đến ngày z cứ thế mà lên mấy quả đồi mạn Hà Bắc mà đào thục mạng.

ã là chiến hào, thì là một cậu A trưởng cũng phải biết điều sơ đẳng là: phải đào dích dắc chữ chi. Nhưng không, cứ chỗ nào cuốc dễ là bà con ta băm xẻng vào. Đứng ở dưới đường 1A nhìn lên mấy quả đồi sát đường: những vết rãnh cứ thẳng đuồn đuột, vuông góc với tim đường Huh. Ngách râu tôm: không. Ụ bắn súng máy: không. Hầm hoả lực: không. Hầm quân y: không. Hầm trú ẩn có nắp tránh pháo: không.
Hệ thống chiến hào, chiến luỹ liên kết giữa các quả đồi rời rạc: không.

Tất cả chỉ là các rãnh thẳng, cắt xé các của quả đồi và nông sâu tuỳ theo điều kiện địa chất dễ đào. Tàn phá không thương tiếc sự ổn định bền vững của các mái dốc tự nhiên, gây ra sự sụt lở đất, tàn phá môi trường kinh khiếp.

Thậm trí theo thời gian, các quả đồi gần đường 1 A đã được đào nham nhở hết, những cơ quan, khối phố được huy động thời gian sau, phải đi tìm các quả đồi sâu hơn, xa tít hơn, chẳng ăn nhập gì với các quả đồi trước, để lại tiếp tục cắt xén các mái dốc.

Suốt trong quá trình thi công phòng tuyến Sông Cầu huyền thoại, không có một đơn vị công binh nào tham gia.
Đại phúc. Ơn giời, lính ta được dưỡng sức để làm những việc có lợi hơn.
Cái phòng tuyến Sông Cầu, cứ để cho cánh tuyên giáo có công ăn, việc làm.

Cũng may, cuối năm 80, có nhiều công việc khác cần sự ra đời của các câu khẩu hiệu mới hay hơn, nên cánh tuyên giáo cũng cho việc thi công phòng tuyến vào hàng thứ yếu, rồi hết hẳn.
Đến tận năm 1985, dân Hà Bắc còn rên la, khi đơn vị baoleo hỏi chuyện mùa màng của bà con nông dân ở dưới chân các quả đồi, trong phòng tuyến huyền thoại Sông Cầu.

Huyền thoại phòng tuyến Sông Cầu, như nhiều bác đã kể, dưới góc nhìn của em, nó là vậy.

P.S:
Ngày nay, công tác tuyên truyền của cánh tuyên giáo vẫn thế.
Thanh niên sau khi được tuyên truyền, phát động, lòng tràn đầy nhiệt huyết. Tất thẩy xung vào đội “thanh niên tình nguyện”, những mong làm những việc chuyển đất, long trời.
Rồi cũng đến ngày chủ nhật để cống hiến. Vài chục nữ tú, nam thanh được huy động đi tổng vệ sinh.
Găng tay: không. Cuốc, xẻng: không. Chổi, hót rác: không. Rồi nữ tú óng ả, lướt thân mình đẫm mùi phấn son qua mũi các nam thanh, 2 bên ỏn ẻn hoặc mắt tít cười, tay vung vẩy cây que tình cờ tìm được, gẩy tít mù đám cỏ hoặc búi rác ni lông, chẳng buồn biết là nó về đâu.
Hiện đại nhất là độ chục sức xuân, xúm quanh cái thùng đựng thứ nước được gọi là vôi, vung vẩy cây chổi cùn, phết cái nước thánh ấy lên gốc cây già tội nghiệp. Một hành động mà giới truyền thông quốc tế mãi băn khoăn, mà chưa có lời giải đáp: tại sao ở VN, chúng mày lại cứ bôi trắng một vài đoạn gốc cây Huh

(còn tiếp)
______________________
Để xẩy ra những quyết định, những kế hoạch, những tồn tại không hoàn hảo này của ta- chính cũng là một tội ác của quân cướp nước.



Cám ơn và rất thán phục bác Baoleo: Thấy núi nhưng biết cách chỉ núi mà không trưc tiếp dùng từ núi. Em bái phục và xin cõ cơ hội lĩnh giáo.
Logged

Tôi chỉ có một ham muốn, một ham muốn tột bậc. Đó là không...ham muốn gì nữa!!!
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM