Chu Ân Lai và Hội nghị Genève
Nguồn: Tiền Giang (钱江/Qian Jiang), Chu Ân Lai và Hội nghị Genève (周恩来与日内瓦会议/ Chu Ân lai dữ nhật nội ngoã hội nghị), Trung cộng Đảng sử Xuất bản Xã, 2005. ISBN:7-80199-189-3. (chương 27: Quan kiện đích Liễu châu hội nghị; chương 28: Lãnh tụ quyết sách hoàn vũ khinh, tr. 434-465). Chương 27 đã đăng trên tạp chí Thế kỷ 21 số 219 (tr. 13-18) và 220 (tr. 28-32) July-August 2007; và tạp chí Xưa & Nay số 288 (tr. 3, 6-9) và 289 (tr.16-19) tháng 7-8/2007. Chương 28 đăng lần đầu trên talawas.
Tam Dương dịch
(trích hai chương 27-28)
Chương 27: Hội nghị Liễu Châu then chốt
Đang lúc giữa hè nóng nực nhất, lãnh đạo hai bên Trung Việt tiến hành 8 lần họp trong 3 ngày tại Liễu Châu, đưa ra quyết định trọng đại cho số phận tương lai của Việt Nam, điều hoà lập trường của hai bên tại Genève được nhất trí. Chu Ân Lai là người định ra luận cứ cho Hội nghị Liễu Châu, sự lý giải và ủng hộ của Hồ Chí Minh cũng có tác dụng then chốt. Hoàn toàn thực hiện dự tính của Chu Ân Lai, Hội nghị Liễu Châu đã lát con đường cho hội nghị Genève cuối cùng giải quyết được vấn đề Đông Dương.
Ngày 30 tháng 6 (1954), Chu Ân Lai(1) đáp chuyên cơ “Công chúa” do Ấn Độ cung cấp, trở về Quảng Châu(2), rồi tập trung tinh lực chuẩn bị cho cuộc gặp mặt Hồ Chí Minh(3), điều hoà lập trường của hai nước Trung Việt tại Genève(4), bởi vì tại Genève, ý kiến của Phạm Văn Đồng(5), đại biểu Việt Nam chưa thể thống nhất với ý kiến của hai Ngoại trưởng Trung Xô.
Truy ngược lại thời gian thì rõ, khi chuẩn bị tham gia Hội nghị Genève, ba phía Trung, Xô, Việt chưa hoàn toàn nhất trí ý kiến về dự án đàm phán vấn đề Việt Nam; rốt cuộc là vạch một giới tuyến quân sự Nam Bắc hay là xác định vùng tập kết quân sự của hai bên Việt Pháp, phương án nào là lợi nhất, còn đang trong thương lượng. Chu Ân Lai nghiêng về vạch giới tuyến Nam Bắc và cho rằng vĩ tuyến 16 là thích hợp. Lúc này chiến dịch Điện Biên Phủ còn đang gay go quyết liệt, chưa phân thắng bại; vì vậy, mặt trận phương Đông(6) quyết định sau khi đến Genève, sẽ căn cứ vào kết cục của chiến dịch Điện Biên Phủ mà xác định phương án đàm phán.
Tại Genève, phương án giới tuyến dần dần rõ thêm. Ngày 7 tháng 5, quân đội Việt Nam toàn thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, thái độ của Phạm Văn Đồng nhanh chóng cứng rắn lên, đưa ra ý tưởng to gan, vạch giới tuyến quân sự tại vĩ tuyến 13. Như thế Việt Minh có thể khống chế hai phần ba lãnh thổ cả nước. Các cường quốc phương Tây, phản đối dữ dội phương án này.
Phạm Văn Đồng phản đối mạnh mẽ việc rút quân đội Việt Nam ra khỏi Lào và Campuchia. Thái độ của nhà đương cục Việt Nam như vậy đã làm cho Chu Ân Lai, Molotov(7) cảm thấy vô cùng tế nhị, không tiện nói. Sau nhiều lần khuyên can của Chu Ân Lai, Phạm Văn Đồng mới đồng ý rút quân đội Việt Nam ra khỏi Lào và Campuchia; nhưng trên vấn đề vạch giới tuyến, Phạm Văn Đồng chỉ đồng ý lùi có giới hạn. Ngày 19 tháng 6, khi Hội nghị Genève thông qua quyết nghị về việc trước tiên rút quân đội ra khỏi Lào và Campuchia; sau hội nghị, Phạm Văn Đồng đã biểu thị có bảo lưu với đại biểu Trung Xô.
Trước việc giữa đoàn đại biểu Liên Xô và đoàn đại biểu Việt Nam xuất hiện bất đồng, ngày 19 tháng 6, Chu Ân Lai gửi điện cho Mao Trạch Đông(
, Lưu Thiếu Kỳ(9) và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ ra nếu trong vấn đề Lào và Campuchia có nhượng bộ thì tại Việt Nam có thể yêu cầu được nhiều hơn một chút, “tình hình trước mắt là, nếu trong hội đàm quân sự ta đưa ra phương án cụ thể, hợp lý thì có thể tranh thủ Pháp nhanh chóng giải quyết vấn đề, đạt được đình chiến. Như vậy có thể thúc đẩy chính phủ mới của Pháp chống lại sự can thiệp của Mỹ, lại vừa có thể kéo dài vấn đề quân đội châu Âu. Điều này có lợi cho cả Đông, Tây. Vì thế, những vấn đề có tính quan trọng như vậy cần phải bàn cho rõ”. Do đó, nhân dịp Ngoại trưởng các nước rời Hội nghị Genève, tôi “cần phải, sau khi thăm Ấn Độ và trên đường về nước, giữa đường cùng đoàn đi Nam Ninh, Quảng Tây, mời mấy vị phụ trách TƯ Đảng Lao động Việt Nam để tôi báo cáo tình hình với họ, thuyết minh trọng điểm phương châm chia vùng”(10).
Ngày 20 tháng 6, Chu Ân Lai gửi điện cho Đặng Tiểu Bình(11), chuyển Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nói đã bàn và được sự đồng ý của Molotov và Phạm Văn Đồng, sau khi thăm Ấn Độ trên đường về nước sẽ đến Nam Ninh gặp Hồ Chí Minh, Trường Chinh(12), Võ Nguyên Giáp(13), và La Quý Ba(14), Vi Quốc Thanh(15), giới thiệu “tình hình đàm phán và vấn đề chia vùng, mong được nhất trí ý kiến nhằm làm cho đàm phán Genève tiến triển” Chu Ân Lai dự tính trong ngày sẽ được phê chuẩn.
Lúc này trong nước (Trung Quốc) đã chuẩn bị nơi hội đàm lãnh đạo Trung Việt tại Nam Ninh(16). Thế nhưng khi về tới Quảng Châu, Chu Ân Lai lại một lần nữa tỏ ra thận trọng, cho rằng Nam Ninh cách biên giới Trung Việt quá gần, lại đông dân, khó bảo mật, nên chuyển lên phía bắc thì tốt hơn. Tuân theo ý kiến của ông, địa điểm gặp gỡ lãnh đạo Trung Việt lần này tạm thời được đổi đến Liễu Châu(17).
Lãnh đạo Việt Nam đồng ý việc đổi địa điểm hội nghị của phía Trung Quốc. Hồ Chí Minh cử Võ Nguyên Giáp đến Trung Quốc trước. Trung Quốc cử La Quý Ba, Vi Quốc Thanh cố vấn chủ yếu ở Việt Nam, ngoài ra còn có Giải Phương, nguyên Tham mưu trưởng chí nguyện quân Trung Quốc tại Triều Tiên, vừa đến Việt Nam không lâu, trợ giúp lãnh đạo quân sự Việt Nam tiến hành đàm phán quân sự (với Pháp tại) Trung Giã, và Phùng Mục Minh, cán bộ Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đã tham gia đàm phán đình chiến Triều Tiên cũng theo đoàn về Quảng Tây.
Giải Phương là Tham mưu trưởng rất được Bành Đức Hoài, Tư lệnh quân chí nguyện tín nhiệm, sinh năm 1908, vốn tên là Giải Bái Nhiên. Ông sớm gia nhập quân Đông bắc, biết rất rõ hai anh em Trương Học Lương, Trương Học Minh(18); sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông được hai người này bảo đảm, đưa tới học tập tại Trường Sĩ quan lục quân Nhật Bản, sau khi tốt nghiệp lại trở về quân Đông Bắc, nhanh chóng được thăng là thiếu tướng. Ông bí mật gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1936, là một trong những đảng viên hoạt động bí mật đầu tiên trong quân Đông Bắc. Sau khi cuộc kháng chiến bùng nổ toàn diện, ông gia nhập Bát lộ quân, từng công tác tại Bộ tham mưu Diên An, sau đó ra mặt trận. Trong chiến dịch vượt biển giải phóng đảo Hải Nam, ông là phó quân đoàn trưởng kiêm tham mưu trưởng quân đoàn 40, Dã chiến quân thứ tư, trợ giúp quân đoàn trưởng Hàn Tiên Sở chỉ huy quân đội giải phóng Hải Nam. Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, ông giữ chức Tham mưu trưởng quân chí nguyện, phò tá Bành Đức Hoài xuất mưu tính kế. Bành Đức Hoài(19) kiêu dũng thiện chiến gọi ông là “Gia-cát Lượng(20) trong quân”.
_____________
Chú thích
(1) 周恩來/Zhou Enlai (1898-1976), Thủ tướng đầu tiên của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (1949-1976). Từ 1949 đến 1958, kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Ngoại giao. Trưởng đoàn Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tại Hội nghị Genève 1954.
(2) Thành phố tỉnh lị tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.
(3) (1890-1969). Khi đó đang là Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1945-1955), Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam (1951-1969). Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho tới khi mất (1955-1969).
(4) Thành phố Thuỵ Sĩ, nơi ký Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954.
(5) Phạm Văn Đồng (1906–2000) Thủ tướng Việt Nam tại vị lâu nhất (1955–1987). Từ tháng 7/1949, được cử làm Phó Thủ tướng. Uỷ viên Bộ Chính trị TƯ Đảng Lao động Việt Nam từ 1951. Năm 1954, là Trưởng phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Genève về Đông Dương.
(6) Chỉ Việt Trung Xô.
(7) Вячеслав Михайлович Молотов/Vyacheslav Mikhailovich Molotov (1890 –1986), khi đó là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô.
(
毛澤東/Máo Zédōng (1893 –1976). Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1943 đến khi qua đời.
(9) 劉 少奇/Liu Shaoqi (1898–1969), Chủ tịch nước CHND Trung Hoa (1959-1968). Khi đó là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
(10) “Niên phổ Chu Ân Lai năm 1949-1976”. Trung ương Văn hiến Xuất bản Xã, 1997, quyển thượng tr 386. TG (Ngoài các chú thích của tác giả-TG là chú thích của người biên tập)
(11) 邓 小平/ Dèng Xiăopíng (1904-1997), khi đó đang là Phó Tổng lý Chính vụ viện (sau đổi là Quốc vụ viện) tức Phó Thủ tướng nước CHND Trung Hoa.
(12) (1907–1988), tên thật là Đặng Xuân Khu, nhà cách mạng và chính trị gia Việt Nam. Khi đó đang là Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam (1951-10/1956), Trưởng ban cải cách ruộng đất Trung ương (từ 1953).
(13) Võ Nguyên Giáp (1911-) đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chỉ huy chiến thắng trận Điện Biên Phủ. Khi đó là Uỷ viên Bộ Chính trị - Bí thư Quân uỷ Trung ương Đảng Lao động, Tổng Tư lệnh quân đội, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
(14) 罗贵波/Luo Guibo (1908-1995) khi đó là Đại sứ (đầu tiên) kiêm Trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc tại Việt Nam.
(15) 韋國清/Wei Guoqing (1913-1989) trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc ở Điện Biên Phủ.
(16) Thành phố tỉnh lị Khu tự trị Choang Quảng Tây, Trung Quốc.
(17) Thành phố thuộc Khu tự trị Choang Quảng Tây, Trung Quốc.
(18) Các con của Trương Tác Lâm, quân phiệt Đông-bắc Trung Quốc. Trương Học Lương nổi tiếng với Sự biến Tây An năm 1936.
(19) 彭 德懷/ Péng Déhuái (1898–1974) tướng lĩnh quân sự xuất chúng của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, một trong mười Nguyên soái của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
(20) 诸 葛亮/Zhūge Liàng (Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu và một số từ điển khác thì tên ông là Chư-cát Lượng) (181–234) là vị quân sư và đại thần của nước Thục Hán thời Tam Quốc (220-280). chính trị gia, nhà quân sự, học giả, kỹ sư lỗi lạc.