Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:38:05 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Ngọn lửa chiến tranh lạnh - Tập 3  (Đọc 74314 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #60 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 08:52:18 pm »


Đồng bào Tây Tạng mong chờ giải phóng

Hành động đi ngược trào lưu lịch sử, âm mưu gọi là “Tây Tạng độc lập” trái với nguyện vọng nhân dân Trung Quốc bị nhân dân các dân tộc Triều Tiên lên án và trừng phạt.

Những người bất bình phẫn nộ đầu tiên với âm mưu “Tây Tạng độc lập” đó là các tầng lớp nhân sĩ yêu nước, các dân tộc Tây Tạng và nhân dân các tỉnh đông dân tộc Tạng như Cam Túc, Thanh Hải, Tứ Xuyên.

Ngày 1-10-1949, ngày thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Ban Thiền một trong hai đại giáo chủ Hoàng giáo Tây Tạng, từ Thanh Hải gửi điện mừng tới Chủ tịch Mao Trạch Đông và Tổng tư lệnh Chu Đức, “Chính phủ nhân dân Trung ương thành lập, những người có tâm huyết cùng nhau cổ vũ. Từ nay về sau nhân dân có thể đón chờ an lạc, đất nước có hy vọng phục hưng. Tây Tạng giải phóng sắp được thực hiện. Ban Thiền xin thay mặt nhân dân Tây Tạng gửi tới các ngài lời chào cao cả, và bày tỏ lòng nhiệt thành ủng hộ và kính trọng”.

Một ngày cuối tháng giêng năm 1950 đang độ tuyết rơi, Văn phòng hội nghị Kham Bố Ban Thiền lại một lần nữa thay mặt Nhân dân Tây Tạng yêu nước gửi điện tới Chính phủ nhân dân Trung ương:

Được tin chính quyền phản động Lạp Tát ở Tây Tạng lấy danh nghĩa là “Đoàn đại biểu thân thiện”, cử đại biểu phi pháp đi vận động các nước Anh-Mỹ, biểu thị “Tây Tạng độc lập”, ý đồ cấu kết với đế quốc, chống lại Chính phủ Nhân dân Trung Quốc, để đạt tới âm mưu chia cắt Trung Quốc bán rẻ Tây Tạng. Tây Tạng gắn liền với lãnh thổ Trung Quốc, được thế giới công nhận, nhân dân Tây Tạng cũng tự nhận mình là một trong các dân tộc Trung Hoa. Ngày nay chính quyền Lạp Tát hành động như vậy, thực là phá vỡ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ quốc gia, đi ngược lại ý chí nhân dân Tây Tạng. Xin thay mặt nhân dân Tây Tạng, kính mong sớm cử nghĩa binh giải phóng Tây Tạng, củng cố quốc phòng Tây Nam, giải phóng nhân dân Tây Tạng. Chúng tôi nguyện lãnh đạo nhân dân yêu nước, kêu gọi nhân dân Tây Tạng phối hợp cùng quân Giải phóng phấn đấu đến cùng cho nhân dân và Tổ quốc.

Ích Tây Sở thần thay mặt cho thế lực yêu nước “nóng bỏng” trước đây chạy khỏi Tây Tạng lưu vong trong nội địa, tới bái kiến đại biểu Trung ương ở Tây Ninh, nhiều lần khóc lóc “chân thành đề nghị quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc nhanh chóng tiến vào Tây Tạng, cứu đồng bào trong nước sôi lửa bỏng, để Tây Tạng được trở về trong lòng Tổ quốc!”.

Ngày 21-11-1949, Chủ tịch Mao Trạch Đông, Tổng tư lệnh Chu Đức điện trả lời Ban Thiền, trong điện văn có nói:

Nhân dân Tây Tạng yêu Tổ quốc mà phản đối nước ngoài xâm lược, họ không vừa lòng với chính sách của Chính phủ phản động Quốc Dân Đảng, mà mong muốn trở thành một thành viên trong đại gia đình Trung Quốc mới, thống nhất giàu mạnh, các dân tộc hợp tác với nhau bình đẳng, Chính phủ Nhân dân Trung Quốc và quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc nhất định làm thỏa mãn ý nguyện ấy của nhân dân Tây Tạng.

Trước mùa xuân 1950, với khí thế ngọn cờ của quân Giải phóng nhân dân các khu vực dân cư người Tạng trong 5 tỉnh Tứ Xuyên, Thanh Hải, Cam Túc, Tây Khang và Vân Nam đã hoàn toàn được giải phóng, chính quyền mới của nhân dân tiếp tục được xây dựng.

Tiếp theo sự kiện “xua đuổi người Hán”, bọn gián điệp Mỹ vào Tây Tạng hoạt động bí mật, kích động Tây Tạng thành lập một đội quân kỹ thuật. Tiếp nhận bọn chúng huấn luyện, cản trở quân Giải phóng tiến vào Tây Tạng. Chính quyền Tây Tạng đề nghị Mỹ “viện trợ” một tỷ đô la và cung cấp loại vũ khí sử dụng trong đại chiến thứ 2. Tiếp đó, chuyến vũ khí đầu tiên của Mỹ đã qua Cancútta Ấn Độ chuyển tới Lạp Tát, tư lệnh quân Tây Tạng đích thân dẫn người tới doanh trại quân Ấn tại Giang Tư để huấn luyện...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #61 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 08:54:18 pm »


PHẦN 2
QUÂN GIẢI PHÓNG NHÂN DÂN TIẾN VÀO TÂY TẠNG


Viên ngọc sáng ở biên thùy tây nam

Chỉ sau tháng thứ 2 sau ngày thành lập nước, vị thống soái nước cộng hoà mới ra đời chuẩn bị hành trang cho một chuyến thăm đầu tiên.

Ngày 16-12-1949, đoàn xe đặc biệt chở Mao Trạch Đông đi Liên Xô bắt đầu xuất phát. Đoàn xe mang biển hiệu 9002 gồm 3 toa, toa đầu là đại đội cảnh vệ, toa sau là hậu cần, Mao Trạch Đông và những người cùng đi ở toa giữa. Cùng đi với Chủ tịch Mao Trạch Đông có Trần Bá Đạt uỷ viên dự khuyết Trung ương Đảng Thư ký chính trị của Chủ tịch nước, Sư Triết là phiên dịch, Diệp Tử Long Thư ký cơ yếu, Uông Đông Hưng Phó Chủ nhiệm văn phòng Trung ương kiêm trưởng đoàn cảnh vệ Trung ương, Côvalép Tổng cố vấn Liên Xô đang công tác giúp đỡ Trung Quốc cũng đi theo. Phụ trách công tác bảo vệ tuyến đường Trung Quốc có Đằng Đại Viễn Bộ trưởng Bộ Đường sắt, Dương Kỳ Thanh Thứ trưởng Bộ Công an, Phùng Kỷ Cục trưởng Cục công an đường sắt. Từ Bắc Kinh đến Mãn Châu Lý, dọc theo đường sắt cứ 1 km bố trí một trạm canh. Thủ tướng Chu Ân Lai kêu gọi Đảng, chính quyền, quân đội các địa phương dọc đường, nhất định phải bảo đảm an toàn tuyệt đối cho Chủ tịch Mao Trạch Đông, không để xảy ra chuyện gì đáng tiếc.

5 giờ chiều, đoàn xe đặc biệt dừng tại ga Sơn Hải quan, trước cảnh “Thiên hạ đệ nhất quan” hùng vĩ, Mao Trạch Đông khoan khoái hít thở không khí trong lành, quyết định xuống ngắm cảnh.

Ông khoác áo dạ, chân đi giày vải mũi vuông, tay kẹp thuốc lá thơm, từ trong toa bước tới Thứ trưởng Dương Kỳ Thanh khiêm tốn tươi cười nói: “Công an đại thần, tàu dừng tại đây bao lâu?”

“Thưa, nửa giờ ạ” Dương Kỳ Thanh trả lời.

“Ờ xuống tham quan một chút được không?” Mao Trạch Đông nói với giọng thương lượng.

Dương Kỳ Thanh thấy Mao Trạch Đông xuống tầu, liền nói với Uông Đông Hưng ngồi cạnh: “Ngoài trời gió to, anh đưa thêm áo cho Chủ tịch!”, sau đó vẫy gọi Đằng Đại Viễn, Phùng Kỷ trong toa rồi bước xuống trước.

Tại ga vì có chuyến tầu đặc biệt dừng bánh, bỗng rộn rã hẳn lên.

Các nhân viên trực ban trên ga, trong phòng đợi, chợt nhìn thấy một thủ trưởng đi giữa gật đầu chào mọi người. A, Mao Trạch Đông! Đúng Mao Chủ tịch rồi! Một dòng chảy ấm áp hạnh phúc bỗng trào dâng trong tim họ, họ đang muốn hoan hô vang dậy, song nhìn qua ánh mắt bình tĩnh nghiêm nghị của người cảnh vệ đứng trước và đôi môi mím chặt của anh ta, họ hiểu ý đành nén lại trong lòng; chỉ bằng ánh mát của mình biểu lộ tình cảm tôn kính chân thành hướng về lãnh tụ...

Mao Trạch Đông đứng cạnh đường mời các đồng chí phụ trách địa phương lên tàu, làm việc điều tra nghiên cứu.

Với phong độ vui vẻ sinh động, Người bỏ qua mọi nguy hiểm cá nhân!

Ngày 9-12, đoàn tầu đặc biệt của Mao Trạch Đông tới thành phố Mãn Châu Lý, dừng ngay tại vùng thảo nguyên mênh mông; vì đường sắt Trung Quốc cỡ hẹp, đường sắt Liên Xô cỡ rộng, cho nên phải chuyển tàu.

Ngay tại ga biên giới Liên Xô, đã có một đoàn tàu cao cấp, đặc biệt chờ sẵn đón tiếp Mao Trạch Đông, một đoàn xe trang bị khá đầy đủ. Trên xe có đủ phòng họp, phòng ngủ, phòng nghỉ và phòng tắm, không khí thoáng rộng đường hoàng. Những người lãnh đạo Đảng, chính quyền quân đội ở Châuchita thuộc Liên Xô và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô ra tận biên giới đón tiếp Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông bước tới lần lượt thân thiết bắt tay những người ra đón, sau giây phút thăm hỏi, lại tiếp tục lên tàu Liên Xô.

Vùng hàn lưu Xibêri thật nổi tiếng, những người khách Trung Quốc lần đầu tiên tới đây không để ý trên nóc tầu, cửa tầu đã bắt đầu treo những chuỗi hoa sương trong suốt, lấm tấm long lanh rung động.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #62 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 08:55:07 pm »


Nhìn ngoài trời tuyết rơi trắng xóa, Mao Trạch Đông búng nhẹ đầu tàn thuốc lá, tự như: “Xibêri... băng tuyết muôn trùng Tây Tạng có lẽ cũng như vậy...”

Mao Trạch Đông suy nghĩ từ Mãn Châu Lý cho tới dãy Himalaia như một đường chéo góc trên bản đồ Trung Quốc.

Tây Tạng - viên ngọc sáng của biên thùy Tây nam Tổ quốc.

Đối với những người chưa hiểu biết gì về nó: Tây Tạng đi liền với những ngôn từ đất trời băng tuyết, cây cỏ hoang vu, thâm nghiêm giá lạnh, rùng rợn thê lương. Thực ra là một “ngoại thế đào nguyên” muôn màu muôn vẻ, cảnh sắc mê người.

Nhìn về thế hình địa lý và điều kiện khí hậu, cao nguyên Tây Tạng 1 triệu 20 vạn km2, có thể chia ra vùng núi Himalaia, cao nguyên bắc Tạng, thung lũng nam Tạng, cao nguyên miền tây và lưu vực Tam Giang miền đông... Mỗi vùng đều có cảnh quan tự nhiên khác lạ, tình cảm hứng thú đặc thù.

Ở vùng ven phía nam Tây Tạng, dãy núi Himalaia sừng sững khí thế chập chùng. Trong 14 ngọn núi cao trên 8000 m thì tập trung tại đây 9 ngọn. Trong đó có ngọn Trômôlungma (núi Thánh mẫu) cao nhất thế giới, lừng danh thiên hạ.

Thảo nguyên bắc Tạng mênh mông cao từ 4500 đến 4800m so với mặt biển. Thảo nguyên bát ngát, hoang mạc mênh mông cùng các loài dê cỏ và ly ngưu chỉ có ở Tây Tạng. Độ cao ấy cũng tạo ra mùa đông dằng dặc và “ngày hạ chết non”. Trong 6 tháng mùa hè, mà cũng thường thấy đôi lúc tuyết rơi.

Thảo nguyên bắc Tạng là một vùng nhiều đầm hồ thuộc cao nguyên nổi tiếng trên thế giới, có tới hơn 30 hồ có diện tích 400 km2; còn các đầm hồ nhỏ không sao kể xiết. Những đầm hồ ấy đều cao hơn mặt biển tới hơn 4000 mét. Vì vậy cũng là khu cao nguyên cao nhất hành tinh.

Tây Tạng cổ đại gọi là Thổ Phồn. Từ pháp luật Thổ Phồn cho tới “Thập tam pháp điển”, “Thập lục pháp điển” pháp luật phong kiến lịch đại ngày xưa đều qui định:

“Con người có 3 bậc thượng, trung, hạ, mỗi bậc lại chia thành 3 cấp thượng, trung, hạ”. Trong đó bậc thượng đẳng bao gồm vua Tạng, Phật sống lớn nhỏ và quí tộc; bậc trung bao gồm thương nhân, chủ chăn nuôi và viên chức; bậc hạ đẳng gồm nông dân, thợ rèn và thợ sát sinh.

“Người có phân chia đẳng cấp, vì vậy giá nhân mạng cũng có thấp cao”. Giá nhân mạng của ông vua do pháp luật qui định: “Người Hồ giết hại Nhã Tư Vương, giá mạng tính bằng vàng theo thi thể; nông dân sát hại Cát Tát Vương, bồi thường tính không rõ”, giá mạng người bậc trung qui định “300 lạng đến 400 lạng vàng”. Cấp hạ đẳng, pháp luật qui định: “Người đi săn, thợ rèn, người sát sinh, bị hại giá mạng là một sợi dây thừng”.

Về mặt quan hệ pháp luật hình sự, “Người thấp hèn và người quyền quý tranh chấp thì bị bắt” (Điều 3 “thập tam pháp điển”) “Người bị thương cao thấp có phân biệt: dân làm cho quan thương tích, xem xét tình trạng gẫy chân tay; chủ quá tay gây nô bộc thương tích, chữa khỏi không phải xét tội. Chủ đánh nô bộc bị thương không phải bồi thường” (Điều 8 “thập tam pháp điển”). Trong “thập tam pháp điển” điều 4 về luật trọng tội nhục hình qui định gồm có: móc mắt, chặt chân, cắt lưỡi, bẻ tay, đẩy xuống vực dìm chết đuối, xử tử. Những nhục hình tàn khốc này dùng chấn áp nông nô và nô lệ. Ai qua vùng Tây Tạng, có dịp sẽ thấy những mặt trống bịt bằng da người, cái dáo (tịch) làm bằng xương chân nữ nô lệ, cái bô bịt vàng làm bằng xương sọ nô lệ.

Theo thống kê của nhà nước Quốc Dân Đảng trước đây, Tây Tạng có khoảng một triệu dân, chia ra hai giai cấp đối lập: một là giai cấp chủ nô chiếm khoảng 5% dân số tức là ba loại đại lãnh chúa quan gia (Chính phủ phong kiến địa phương), đền chùa và quí tộc, 3 loại lãnh chúa ấy xây dựng hàng nghìn nông trang, mục trường trên cao nguyên mênh mông của Tây Tạng, chiếm hữu toàn bộ đất đai đồng cỏ, tuyệt đại đa số súc vật và toàn bộ nô lệ; hai là nông nô chiếm khoảng 90% dân số và nô lệ khoảng 5%, nông nô không có ruộng đất, chỉ có dựa vào đất đai của chủ nô, bắt buộc phải lao động nặng nhọc cho chủ nô, chịu tạp dịch và tô thuế nặng nề; nô lệ thì không những không có ruộng đất và gia súc, mà còn không có cả quyền lợi con người.

Chủ nông nô sử dụng một phần đất đai phì nhiêu làm “đất tự doanh”, lợi dụng sức lao dịch không công để tiến hành canh tác, hoặc do nô lệ cấy trồng; còn một phần ruộng đất nữa gọi là “sai địa” dùng hình thức địa tô hiện vật và địa tô lao dịch cho nông nô thuê cấy trồng. Người nông nô bị ràng buộc vào ruộng đất của chủ nô, ngoài việc nộp tô hiện vật hà khắc cho chủ nô ra, còn phải gánh chịu sai dịch và thuế khóa nặng nề, nhiều nông nô và nô lệ chịu không nổi áp bức bóc lột đã chạy trốn tháo thân, khi họ bị bắt thì phải chịu bao cực hình: cắt tay, chặt chân, khoét mắt, rút não.

Vay nợ lãi ở Tây Tạng hết sức ghê người. Theo điều tra ở Lạp Tát, Sơn Nam, Hắc Hà, Xương Đô, Giang Tư thì 70% đến 80% nông nô mắc nợ, có nơi tới trên 90%. Đền chùa là chủ nợ lớn nhất, lãi suất thường là vay 4 trả 5 (25%).

Chế độ chính trị kinh tế ở Tây Tạng như thế nào. Chế độ nông nô phong kiến dã man lạc hậu cực đoan ấy còn có thể cho phép tiếp tục tồn tại nữa không? Không? Mao Trạch Đông lắc đầu kiên quyết. Sự kiện xua đuổi người Hán ở Tây Tạng mấy tháng trước, giờ đây lại lởn vởn trong đầu óc Người.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #63 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 10:57:54 pm »


Mao Trạch Đông chỉ đạo từ xa

Do thế lực phản động quốc tế can thiệp, vấn đề Tây Tạng ngay từ đầu đã rối ren phức tạp, mà lại bức thiết phải giải quyết ngay trước mắt. Tầu vẫn lăn bánh ầm ầm rung chuyển, Mao Trạch Đông thì luôn tay búng thuốc gạt tàn. Ông lật từng trang tập tài liệu về Tây Tạng mang theo, trầm tư suy nghĩ về bức thư gửi Trung ương Đảng: “Để không lỡ thời cơ giải phóng Tây Tạng, đánh tan dã tâm mở rộng xâm lược của bọn đế quốc, thúc đẩy Tây Tạng chuyển hóa theo nội địa, tiến quân vào Tây Tạng nên sớm, không nên muộn, càng sớm càng có lợi, nếu không thì, đêm càng dài mộng càng nhiều”.

Thư nhanh chóng được gửi tới Bành Đức Hoài Phó tổng Tư lệnh ở quân khu Tây Bắc.

Bành Đức Hoài hết sức sốt ruột. Bởi vì trước khi đi thăm Liên Xô (23-11) Mao Trạch Đông đã điện hạ lệnh cho ông tiến quân vào Tây Tạng: giải quyết vấn đề Tây Tạng cần tranh thủ hoàn thành vào mùa thu hoặc mùa đông năm tới. Căn cứ tình hình hiện tại, nên yêu cầu Cục tây bắc gánh trách nhiệm chủ yếu, còn Cục tây nam thì gánh trách nhiệm thứ yếu. Bởi vì tây bắc kết thúc chiến tranh sớm hơn tây nam, đường từ Thanh Hải đi Tây Tạng nghe nói bằng phẳng dễ đi, Ban Thiền và tuỳ tùng lại ở Thanh Hải. Giải quyết vấn đề Tây Tạng không xuất binh là không thể được, xuất binh đương nhiên không chỉ là một đường tây bắc, còn phải có một đường tây nam... Đánh Tây Tạng phải cần tới 3 quân đoàn, phân phối như thế nào, ai chỉ huy hiện nay vẫn còn khó quyết định. Nhưng Cục tây bắc cần gấp rút vạch kế hoạch về vấn đề chuẩn bị của cán bộ nhân dân Tây Tạng và những vấn đề khác cần chú ý hiện nay.

Sau khi nhận được điện báo, Bành Đức Hoài, con người quả cảm đã từng tham gia không biết bao nhiêu trận đánh lớn ác liệt, nhìn thấy mà không tiến lên được. Ông không bao giờ sợ khó khăn gian khổ, cũng không có thói quen che giấu tâm tư. Khi ông đã tức giận thì mọi người xung quanh nhón chân mà đi và nên tránh xa ánh mắt của ông khi ấy. Sau khi được Bộ trưởng liên lạc Phạm Minh đi điều tra ông càng tin tưởng hơn, trước kia quân đội từ tây bắc tiến vào Tây Tạng chưa hề thành công, vậy trong điều kiện gấp gáp, chúng ta nắm chắc được bao phần thắng lợi?

Bức điện của Mao Trạch Đông còn nóng bỏng trong tay, Bành Đức Hoài sùi bọt mép. Ông chắp tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng. Ngày 30-12 ông báo cáo thực tế:

Báo cáo Trung ương cùng Mao Chủ tịch:

... Từ Bu Điền, Hòa Điền vượt qua núi Côn Luân đến Hắc Hà biên giới Tây Tạng qua Diêm Hồ cần 17 ngày, toàn đường nhỏ, la ngựa không đi được, vắng bóng người đi. Nghe nói từ Hắc Hà qua Diêm Hồ đến Lạp Tát đi ngựa phải 40 ngày, nói gọn cần 2 tháng. Từ Nam Cương vào Tây Tạng rất khó khăn. Máy bay vượt qua núi Côn Luân cũng phải có thiết bị đặc biệt. Riêng con đường ruột Kasigơ qua Puli, phía đông cao nguyên Pamia thồ ngựa đi được, nhưng phải qua đất Ấn Độ từ phía đông vào Tây Tạng. Phía Bắc đường đi tốt. Nhưng vì hạn chế về chính trị nên không có khả năng... nếu nhiệm vụ vào Tây Tạng qui về tây bắc, thì phải trú quân trữ lương thực tại Hoà Điền, Vu Điền, Ngọc Thụ, tu sửa đường sá, hoàn thành việc chuẩn bị vào Tạng, cần phải hai năm...

Mao Trạch Đông ở Mátxcơva, vì không thông với cách suy nghĩ của Stalin, tinh thần không thoải mái, ông trút nỗi bực dọc với liên lạc viên Liên Xô, nói là các bạn mời tôi tới Mátxcơva, mà chẳng được việc, tôi đến để làm gì? Lẽ nào tôi tới đây để ăn uống, tiêu hóa, ngủ nghê? Thông tấn xã Anh còn rêu rao là Stalin đã giam lỏng Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông nhận được điện của Bành Đức Hoài, xem đi xem lại nhiều lần, lòng ông nặng trĩu. Những việc mà Bành Đức Hoài đã điều tra kỹ lưỡng, ông tin là không sai, từ tây bắc đi vào Tây Tạng là không thể được, chỉ có thể tiến quân từ phía tây nam. Nhưng Lưu, Đặng vào đóng giữ tây nam, trụ chân chưa vững, trước mắt lại bận tiễu phỉ. Nhưng địa vị quốc tế của Tây Tạng cực kỳ quan trọng, cần phải giải phóng, chỉ có nhờ tới Lưu, Đặng, Hạ thôi. 4 giờ sáng ngày 2-1, khi người cảnh vệ đi ra đổ tàn thứ hai đầy ắp những mẩu thuốc, Mao Trạch Đông vươn vai thư giãn, trao bức điện cho thư ký hoả tốc chuyển về nước.

Điện gửi cho Trung ương, Bành Đức Hoài, và chuyển tiếp tới Tiểu Bình, Bá Thừa và Hạ Long, nội dung như sau:

Từ Thanh Hải và Tân Cương tiến quân về Tây Tạng khó khăn rất lớn, nhiệm vụ tiến quân vào Tây Tạng và trù liệu mọi việc ở Tây Tạng cần xác định do Cục tây nam đảrn nhận.

… Ý tôi là nếu không còn khó khăn nào mà không khắc phục được nữa thì nên tranh thủ bắt đầu tiến quân vào Tây Tạng ngay trung tuần tháng 4 năm nay, giải phóng Tây Tạng trước tháng 10. Vì vậy tôi kiến nghị: 3 đồng chí Lưu, Đặng, Hạ Long trong thời gian sắp tới (ví dụ trung tuần tháng 10) họp bàn một lần, quyết định các vấn đề cán bộ phụ trách bộ đội vào Tây Tạng và lo liệu công việc ở Tây Tạng, đồng thời bắt đầu bố trí ngay mọi việc...

Mao Trạch Đông cũng cảm thấy còn khiếm khuyết, sau bức điện, lại ghi thêm:

Tây nam vừa mới giải phóng, công việc của các đồng chí Cục tây nam rất bận rộn, hiện tại lại trao thêm nhiệm vụ vào Tây Tạng, nhưng vì nhiệm vụ quan trọng, lại mang tính chất thời gian, cho nên phải làm theo kiến nghị trên. Những kiến nghị trên có tiến hành được hay không, đề nghị Cục tây nam tính toán rồi điện trả lời cho biết.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #64 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 10:58:35 pm »


Đặng Tiểu Bình chỉ định Tướng Trương Quốc Hoa

Tại Tằng Gia Nham Trùng Khánh, Lưu Bá Thừa và Đặng Tiểu Bình nhận được điện của Mao Trạch Đông, xem đi xem lại vài lần. Lưu Bá Thừa có vẻ “văn” hơn, lúc nghỉ ngơi tay không rời sách, tựa vách đá xem tới vài giờ. Có người gọi vui là “bà mẹ già” đương nhiên là chỉ nhìn bề ngoài thôi, còn cái tên gọi “thần chiến chột mắt” từ xưa đã nổi tiếng gần xa; còn Đặng Tiểu Bình một dũng khí anh tài rất băn khoăn không biết nên cử ai xuất binh Tây Tạng đây?

Bộ đội tập đoàn 2 dã chiến đúng là không thiếu: 3 binh đoàn, 9 quân đoàn. Nhưng trước mắt đã chiếm lĩnh tỉnh Tây Khang yên ổn, chẳng phải là bộ đội cũ của tập đoàn 2 dã chiến, mà là quân đoàn 62 của Hạ Long. Nhìn về vị trí địa lý, kinh tế và thời gian, thích hợp nhất là quân đoàn này. Song hai ông đã thoáng bỏ qua suy nghĩ ấy, công việc gian khổ nhất vẫn phải là do bộ đội của mình chấp hành. Họ lại lần lượt rút ra chín quân đoàn của mình, cho rằng khả năng chiến đấu của quân đoàn 10 mạnh nhất, cử đi là thích hợp. Đáng tiếc là Đỗ Nghĩa Đức, quân đoàn trưởng sức khỏe gần đây giảm sút, vào Tây Tạng sẽ rất khó khăn.

“Cho địa chủ đi vậy nhé?”, Đặng Tiểu Bình hút thuốc đã tê lưỡi dúi tắt mẩu thuốc, xua làn khói bay nói một câu “lạ tai”. Lưu Bá Thừa nghe nói mập mờ, vội hỏi: “Ai?”

“Trương Quốc Hoa”

Lưu Bá Thừa cười vui vẻ: “Tôi cũng đang dự định ông ta, được, hãy để ông ta đi”.

Tham gia Hồng quân vừa tròn 15 năm, đã kinh qua trường chinh, đã từng quần đảo với quân Tưởng Giới Thạch đông gấp 10 mình, chiến công hiển hách, là quân đoàn trưởng quân đoàn 18, lại có kinh nghiệm phong phú mở mang khu mới, Trương Quốc Hoa sao lại là “địa chủ” được?

Cần phải nói tới đội ngũ cán bộ của quân đoàn 18. Quân đoàn này có không ít cựu Hồng quân và dũng sĩ kháng chiến tương đối nhiều, còn có không ít cán bộ đã kinh qua công tác địa phương lại có cả một số trí thức. Nam Kinh sau khi giải phóng, đòi hỏi một loạt cán bộ đi tiếp quản, nhưng đa số bộ đội còn đang đánh giặc, không tìm được người. Lưu, Đặng, quyết định các trường của các quân đoàn đi tiếp quản Nam Kinh. Tại hội nghị phân công, khi Hiệu uỷ quân đoàn 18 Lâm Lượng nói là nhân viên nhà trường có hơn 4.500 người, cả hội trường ồ lên. Bởi vì con số này đã vượt quá tổng số người của các quân đoàn. Có người thì thầm: “Quân đoàn trưởng Trương giàu quá, đúng là “địa chủ!” cho nên quyết định nhiệm vụ tiếp quản Nam Kinh do trường của quân đoàn 18 đảm nhiệm. Tuy vậy sau đó, lại có thay đổi, trường đó được biên nhập vào binh đoàn 5 đi Giang Tây, Hồ Nam, Quí Châu thu mua lương thực, nhưng biệt danh địa chủ Trương Quốc Hoa đã lan truyền khắp nơi, ngay đến khi Đặng Tiểu Bình nói tới vấn đề cán bộ, cũng nói vui: “Cán bộ của quân đoàn 18 chẳng cần phải lo, Trương Quốc Hoa là địa chủ mà!”

Nhưng hình như Trương Quốc Hoa đang lãnh đạo bộ đội mở mang Tân khu Xuyên Nam, số đông cán bộ đã được cử về các vùng Xuyên Nam làm lãnh đạo huyện thị. Chính uỷ Đàm Quán Tam đã uống rượu tiễn chân của quân đoàn 18, sắp đi thị xã Tự Cống làm Bí thư thị uỷ. Trương Quốc Hoa cũng đã nhận làm Chủ nhiệm thứ nhất hành sở Xuyên Nam. Bộ đội đang đóng quân giữ đất. Ngày 8-1, Thủ trưởng Lưu, Đặng đánh điện ra lệnh: Quân đoàn 18 đóng quân chờ lệnh, Trương Quốc Hoa và các cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp sư đoàn đến ngay Trùng Khánh.

Trương Quốc Hoa giật mình, ông nghĩ ngay rằng: nhiệm vụ có thay đổi!

Ông lên xe hoả tốc đi Trùng Khánh, suốt dọc đường suy nghĩ: Đi đâu nhỉ? Vân Nam chăng? Đây là địa bàn binh đoàn 4. Hay Tây Khang? Binh đoàn 18 đã đóng quân. Hay là đánh Đài Loan? Đã có tập đoàn 3 dã chiến, xem ra 8-9 phần là đi Tây Tạng, bởi vì chỉ có ở đây là trống. Đánh giá của ông quả không sải. Vừa tới Tằng Gia Nham, Lưu, Đặng liền nói với Trương Quốc Hoa về việc Mao Trạch Đông yêu cầu tập đoàn dã chiến 2 tiến quân vào Tây Tạng. Trong thời gian này Lưu, Đặng cũng thấy rằng quân đoàn trưởng của quân đoàn 10 không đi Tây Tạng được, mà để cho Trương Quốc Hoa lãnh đạo bộ đội quân đoàn 10 đi Tây Tạng, kế hoạch không thay đổi, đã quyết định rõ ràng rồi: để Trương Quốc Hoa tuỳ ý chọn 3 sư chủ lực trong tập đoàn dã chiến 2, tổ chức thành 1 sư 3 vạn quân.

Lưu Bá Thừa thấy Trương Quốc Hoa im lặng, liền hỏi:

“Ý kiến của anh thế nào?”

Trương Quốc Hoa trầm tư suy nghĩ. Ông hiểu rất rõ, lực lượng chiến đấu của một quân đoàn tổ chức như vậy không thành vấn đề, nhưng vào Tây Tạng không chỉ có đánh trận, lớn hơn là đấu tranh chính trị, nên đối với một quân đoàn mới chưa quen biết mà nói là đáng lo nhất. Nhưng uẩn khúc tư tưởng quân đoàn 18 của mình cũng không dễ xoay chuyển. Vốn là phải đi Quí Châu, Lưu, Đặng suy nghĩ là quân đoàn 18 sau khi vượt sông bị điều động đi lại nhiều nhất, gian khổ lớn nhất; nửa chừng lại chuyển hướng tiến vào Xuyên Nam đất nước của sự giàu có Quan quân chưa được phấn chấn, lại phải quay đi 1800, từ mảnh đất thiên phủ mưa thuận gió hoà giàu có phì nhiêu lại đi tới Tây Tạng thần bí, băng tuyết đầy trời. Song, ông càng tin tưởng hơn một đội quân kỳ cựu vẫn luôn theo sát ông cho tới cả sau khi trở về xây dựng tập đoàn dã chiến 2. Ông hạ quyết tâm, ông ngửng cao đầu, ánh mắt ông nhìn thẳng vào Lưu, Đặng: “Tôi vẫn sẵn sàng để quân đoàn 18 làm nhiệm vụ tiến vào Tây Tạng”

Lưu Bá Thừa đưa mắt thăm dò ý kiến của Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình quay sang hỏi Trương Quốc Hoa:

“Anh cảm thấy đã chắc chắn chưa?”

“Vấn đề không lớn”.

Đặng Tiểu Bình liếc sang Lưu Bá Thừa, Lưu Bá Thừa cười và im lặng. Đặng Tiểu Bình biết cũng đồng tình, liền chỉ thị cho Trương Quốc Hoa: “Chúng tôi định như thế này: báo cáo ngay về Trung ương. Anh còn có khó khăn gì nữa không?”

“Bây giờ thì tôi chưa nghĩ ra”.

Lưu Bá Thừa dặn dò: “Có khó khăn thì phải nói. Cả tập đoàn dã chiến 2 sẽ ủng hộ viện trợ các anh”.

Sau khi Trương Quốc Hoa đi ra, Lưu, Đặng điện gấp cho Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông cũng điện trả lời ngay:

Hoàn toàn đồng ý với kế hoạch tiến quân vào Tây Tạng của các đồng chí Đặng, Lưu trong bức điện ngày 7-1. Hiện giờ Anh, Ấn và Pakixtan đều thừa nhận chúng ta, tiến quân vào Tây Tạng là có lợi. Theo thời gian tiến quân mà đồng chí Bành Đức Hoài nói là 4 tháng, từ trung tuần tháng 5 (bức điện trước tôi viết 3 tháng là viết nhầm) chỉ cần các đồng chí Lưu, Đặng, Hạ tăng cường đôn đốc Trương Quốc Hoa và quân đoàn 18, trong thời gian này tiến hành được rồi đấy...
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #65 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 11:00:04 pm »


Mỹ lợi dụng Liên Hợp Quốc can thiệp vào Tây Tạng

Tháng 1-1950, Cục Tình báo Trung ương Mỹ cử tên gián điệp Laowei Tômát cùng với Sácsun, Đại Trát nhiếp chính Tây Tạng bí mật thương lượng thành lập một “Đoàn đại biểu thân thiện” phi pháp, dự định lần lượt đi Mỹ, Anh, Ấn Độ, Nêpan cầu viện, nghiễm nhiên tô vẽ cho Tây Tạng sớm trở thành dáng vẻ “một nước độc lập”.

Để tăng cường sức mạnh tuyên truyền, Hợp chúng xã của Mỹ phát tin điện khắp thế giới: “Tây Tạng sắp cử đoàn sứ giả thân thiện lần lượt tới Anh, Mỹ, Ấn Độ, Nêpan và Bắc Kinh tuyên bố độc lập”.

Ngày 20-1-1950 Tân Hoa xã đăng bài nói của người phát ngôn Bộ Ngoại giao của Chính phủ Trung ương, nghiêm chỉnh nêu rõ Tây Tạng là một sự thực thiêng liêng bất di bất dịch của lãnh thổ Trung Quốc, nói rõ Tây Tạng không có quyền cử riêng bất cứ một đoàn sứ giả nào, càng không có quyền tuyên bố cái gọi là “độc lập”.

Khi đoàn đại biểu này cử trước nhân viên tới Giang Tư, do Bộ Ngoại giao Trung Quốc nêu kháng nghị: Anh Mỹ không thể không điện yêu cầu Chính phủ địa phương Tây Tạng rút đoàn đại biểu trở về.

Đầu năm 1950, Mỹ định hợp tác với Anh, Ấn, hy vọng có thể cung cấp vũ khí cho Chính phủ địa phương Tây Tạng. Nhưng Ấn Độ đã độc lập tự chủ, nên do dự trong việc đóng vai làm phúc phải tội cho người khác như trước đây. Tháng 3, lãnh sự Mỹ tại Cancutta lần đầu tiên tiếp xúc với Sacaba nhân vật cấp cao Tây Tạng, do Mỹ cung cấp vũ khí, lập kế bí mật tàng trữ ở Sikkin, Nêpan và Butan sát gần Tây Tạng, để Tây Tạng thuận tiện sử dụng. Vì phía Mỹ ngại can thiệp, sợ can thiệp quá lộ liễu có thể làm bằng cớ cho Trung Quốc phản kháng, cho nên trước sau hy vọng nhờ bàn tay chính phủ Ấn Độ. Về điểm này có thể qua Quốc vụ khanh Aichixu, thế là ngày 29-4 trong chỉ lệnh Đại sứ thường trú tại Ấn Độ và nhân vật Tây Tạng vẫn thực thi chi tiết viện trợ quân sự. Đến ngày 18-6 sứ quán Mỹ báo cáo Quốc vụ viện, đại ý là mọi suy nghĩ cho quá trình quyết sách cần bao gồm nội dung sau:

1- Viện trợ quân sự cho Tây Tạng cần phải có khả năng chống cự thành công Trung cộng.

2- Đường vận chuyển khó khăn, về phương diện này phải xem xét thái độ của Chính phủ Ấn Độ.

3- Ảnh hưởng của sự việc có thể thúc đẩy Trung cộng tiến quân vào Tây Tạng và gây ra hậu quả ngược lại hay không?

Nhưng không vì vậy mà bỏ qua ý định, sau khi cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, Quốc vụ viện Mỹ tiếp tay với Cục Tình báo Trung ương, qua sứ quán Mỹ, nhiều lần thăm dò khả năng Chính phủ Ấn Độ thay đổi thái dộ nhưng vẫn không có được đầu mối mà tiến hành.

Quân đoàn 18 động viên huấn luyện chỉnh đốn

Tin tức đi Tây Tạng lan truyền, cán bộ chiến sĩ quân đoàn 18 vừa từ chiến đấu chuyển sang hòa bình tuy có nhiều suy nghĩ khác nhau, nhưng phần dông vẫn tỏ ra vui vẻ phục tùng. Trong khi họp hội nghị động viên, mọi người tò mò phát hiện thấy Trương Quốc Hoa bế một bé gái chưa đầy 3 tuổi ngồi ở trên. Bé gái là con đầu lòng của Trương Quốc Hoa. Tháng 6 năm 1946 Trương Quốc Hoa kết hôn với Phàn Cận Chân, 33 tuổi mới có con; được coi là viên ngọc trên tay. Cháu bé ngây thơ và đáng yêu, cũng rất bạo dạn, thấy cha đứng trên bục nói chuyện; cháu đầu đội mũ lưỡi trai, đứng dậy chào mọi người ở dưới, nghếch cái miệng nhỏ xíu nói: “Chào các chú, các cô, cháu xin hát một bài!” và cháu ê a cất tiếng. Mọi người ngồi dưới đều thích thú vỗ tay. Sau khi mọi người đã tề tựu, ông đưa con cho người ngồi bên, đứng dậy tiếp tục phát biểu:

“Trước đây chúng ta hiệp đồng với đơn vị bạn giải phóng một tỉnh, tiêu diệt mấy vạn quân địch đã vui mừng phấn khởi, cảm thấy ghê gớm. Còn hiện nay tiến quân vào Tây Tạng quân đoàn 18 chúng ta là chính, không phải chỉ giải phóng một tỉnh, mà là giải phóng toàn Tây Tạng, đánh đuổi thế lực đế quốc ra khỏi Tây Tạng hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Chúng ta còn phải tới đây xây dựng Đảng, mở mang công tác Đảng, chúng ta không đáng tự hào sao?”

Những chiến sĩ ở dưới ngồi im phăng phắc, lời nói của quân đoàn trưởng có sức động viên cổ vũ mạnh mẽ.

“Ta coi vùng Tây Tạng là cằn cỗi, nhưng bọn đế quốc Anh không bao giờ xem là hoang vu, từ lâu chúng đã liều lĩnh lần mò vào Tây Tạng. Giờ đây đế quốc Mỹ cũng tích cực nhúng tay vào. Đối với đất nước của mình lẽ nào chúng ta lại không nhiệt tình bằng đế quốc?! Một tỉnh không vững, bốn tỉnh không yên, nếu Tây Tạng thật sự bị đế quốc chia cắt, biên cương tây nam của chúng ta sẽ lùi về tận sông Kim Sa, e rằng chúng ta ở Tứ Xuyên cũng không yên ổn!”

Ở dưới có tiếng xôn xao, ai dám nói lý lẽ ấy là không đúng? Nhưng điều mà đại đa số đều lo lắng đó là gia đình vợ con mình. Trọng tâm bài nói của quân đoàn trưởng chuyển sang hướng khác, đánh trúng tâm lý mọi người:

“Giải quyết vấn đề riêng tư cá nhân, người xưa có câu “Tự cổ người đẹp chuộng anh hùng, chúng ta đi hoàn thành nhiệm vụ lịch sử vĩ đại giải phóng Tây Tạng, có thể nói mọi người đều là anh hùng. Chỉ cần chúng ta chăm chỉ học tập, tích cực công tác, tinh thần thoải mái tiến vào Tây Tạng, tìm vợ không thành vấn đề; bất kỳ những cô gái ở nông thôn hay thành thị đều có thể yêu các chiến sĩ chúng ta. Có người đề xuất có thể kết hôn với con gái Tây Tạng được không? Mọi người đều hiểu rằng, đời nhà Đường cách đây hơn 1000 năm, đã có công chúa Văn Thành, công chúa Kim Thành kết duyên với các vua Tạng Tùng Tán Can Bố (Songzanganbu) và Xích Đức Tổ Tán (Chidezuzan). Ngày nay chúng ta tới Tây Tạng cũng có thể kết hôn với con gái Tây Tạng, mà những cô gái Tây Tạng đều rất cần cù và lương thiện, cũng rất xinh xẻo, vì điều kiện kết hôn, trước đây do hạn chế của chiến tranh, cần phải nghiêm một phút; sau một vài năm, nhà nước chúng ta thực hành chế độ tiền lương, điều kiện có thể rộng rãi, cho phép cán bộ đều có thể mang theo gia đình; chế độ hôn nhân của chiến sĩ theo chế độ nghĩa vụ quân sự, cũng rất dễ giải quyết”.

Không biết ai là người khởi đầu mà cả hội trường đều vỗ tay, mỗi lúc một vang dội. Bao khuôn mặt trầm tư bỗng tươi tắn hẳn lên. Trương Quốc Hoa phải dang tay ra hiệu yên lặng, sắc mặt ông trở nên nghiêm túc:

“Cần phải nhận thấy rằng, chúng ta tiến quân vào Tây Tạng lần này khác với cuộc trường chinh của Hồng quân; lúc ấy chúng ta thi hành di chuyển chiến lược, Tưởng Giới Thạch đem quân chặn phía trước, truy kích phía sau, máy bay đuổi trên không oanh tạc. Còn lần này được nhân dân cả nước ủng hộ, lại có nhân dân Liên Xô giúp đỡ, điều kiện ngày nay thuận lợi gấp trăm nghìn lần so với cuộc trường chinh ngày ấy, so với cuộc chiến tranh chống Nhật và chiến tranh giải phóng cũng ưu việt hơn; trang bị và cung ứng của chúng ta kể từ ngày xây dựng quân đội cũng hiện đại hơn. Có một số đồng chí lớn tuổi một chút ngại đi. Cho rằng trước ngực mình đã có vài ba tấm kỷ niệm chương vinh dự, muốn nằm dài trước những vinh quang ngơi nghỉ, không muốn tiến lên, như vậy thật không đúng. Cán bộ phải gương mẫu đi đầu, tư tưởng của mọi người đều phải thông suốt, phải vui vẻ ra đi tiến quân vào Tây Tạng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #66 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 11:00:55 pm »


PHẦN 3
PHẬT SỐNG CÁCH ĐẠT BỊ HÃM HẠI


Đường vào Tây Tạng vất vả gian gian

Bộ đội càng tiến vào sâu, vận chuyển và cung cấp càng khó khăn vất vả. Trên những con đường ngột ngạt của cao nguyên, đoàn người đi mãi đi mãi, có người bỗng ngã xuống và không bao giờ tỉnh lại. Có những con ngựa mắt vẫn mở, miệng và mũi cứ sùi bọt trắng đứng sừng sững bỗng đổ kềnh ra, trong khoảnh khắc không còn thở nữa. Đầu tháng 7, quân đoàn 18 đã tới Cam Tư một vùng tương đối giàu có. Tại một địa phương cách thành phố Cam Tư khoảng 35 km có chùa Bạch Lợi nổi tiếng gần xa, nằm giữa cánh rừng thông rậm rạp. Trương Quốc Hoa liền vào chùa bái kiến Phật sống Cách Đạt.

Cách Đạt là một vị Phật sống yêu nước xuất thân từ nghèo khổ. Năm xưa trên đường trường chinh khi Hồng quân qua đây, vị Phật sống ấy đã làm Phó Chủ tịch Chính phủ Xô viết người Tạng, đã đặt quan hệ hữu nghị với Tổng tư lệnh Chu Đức.

Nghe tin Trương Quốc Hoa tới, Phật sống Cách Đạt mặc bộ cà sa mới ra đón từ xa rồi mời bộ đội vào tận kinh đường, và cử ngay người đi chuẩn bị lương thảo. Vị Phật sống tự giới thiệu là anh em thân thiết của Chu Đức, nghe nói Trương Quốc Hoa khi tham gia trường chinh cũng đã qua đây, không khí càng sôi nổi, nói rất rõ ràng: “Các ông những người vô thần đã tới, nhưng tôi là người theo hữu thần luận, phải nhiệt tình đón tiếp các ông, ủng hộ các ông”. Trương Quốc Hoa ngước lên, thấy tấm “bản đồ chiến đấu của Bát lộ quân tại Sơn Tây” vẫn còn treo tọa giữa kinh đường. Cách Đạt còn lấy ra bản bố cáo và biểu ngữ của Hồng quân mà bao năm vẫn cất giấu trân trọng trong khám thờ Phật, nói lên cuộc sống dân chủ trong giai đoạn ấy, vừa nói vừa khóc: “Mao Chủ tịch không cho bộ đội tới, các dân tộc Tây Tạng chúng tôi sắp bị diệt chủng rồi”. Nói đoạn lấy áo cà sa lau nước mắt, chắp tay hướng về đông đọc kinh cầu khẩn.

Trương Quốc Hoa nói với Phật sống Cách Đạt rằng, Chính phủ đã nhiều lần thông báo cho chính quyền Lạp Tát cử đại biểu về kinh đàm phán, nhưng họ không đếm xỉa tới phật sống Cách Đạt xin tự nguyện đi Lạp Tát khuyên giải.



Cảnh ngộ của ba đoàn hoà giải

Những người lãnh đạo của nước Trung Hoa mới trước sau như một kiên trì chờ đợi sự thức tỉnh của chính quyền Tây Tạng, hy vọng giải phóng mảnh đất cuối cùng của Đại lục Trung Quốc bằng phương thức đàm phán hoà bình. Vì vậy đã hết sức cố gắng về nhiều mặt.

Ngay từ mùa xuân năm 1950, trên những con đường rừng núi khúc khuỷu quanh co, một đoàn người ngựa vẫn lần mò dò dẫm, được một vị pháp sư khoác áo cà sa đi giữa hộ vệ, ngồi trên lưng ngựa lắc lư tụng kinh cầu nguyện. Pháp sư Mật Ngộ nổi tiếng ấy dẫn đầu đoàn hòa giải. Khi khởi hành từ Thành Đô, đoàn khuyến hoà này gồm năm người, Mật Ngộ cùng với hai đồ đệ là Như Ý và Thắng Hưng; cùng với Giả Đề Thao, A-Vượng Gia Thế.

Đoàn khuyến hòa đã liên hệ được với một nhóm thương nhân có ngựa cùng đi, tới Cam Tư phải vượt sông kim Sa, họ đều không có giấy tờ, không đi được, liền dựng lều chờ đợi bên bờ sông.

Lúc này, đoàn khuyến hoà thứ hai do Phật sống Cách Đạt ở chùa Bạch Lợi Cam Tư dẫn đầu cũng tới đây. Cách Đạt có uy tín lớn ở Tây Khang, việc qua sông Kim Sa thuận lợi. Đoàn của pháp sư Mật Ngộ không đi được, đành nhìn sông nước than phiền.

Đoàn khuyến hoà thứ 3 là đoàn Thanh Hải được tổ chức vào tháng 5-1950, do Phật sống Đương Tài anh trai của Đạt Lai dẫn đầu, còn Phật sống Hạ Nhật Thương Hô, Đồ Khắc Đồ ở Châu Hoàng Nam Thanh Hải và Phật sống Tiên Linh ở huyện Đại Thông làm đại biểu.

Đoàn khuyến hoà Thanh Hải, tháng 7 chia làm 2 đồng khởi hành từ Tây Ninh và Nhân Đồng, đến tháng 8 gặp nhau tại Đại Hà Bác thuộc vùng lòng chảo Sài Đạt Mộc cùng vào Tây Tạng. Sau khi đến Đạt Na Khúc thì bị giam giữ, Trị Ngọc Nhuệ và bốn cán bộ người Hán bị quân Tạng giải về Sơn Nam giam lỏng.

Trong các đoàn khuyến hoà trên đường vào Tạng, có ảnh hưởng lớn nhất là đoàn do Phật sống Cách Đạt ở chùa Bạch Lợi Cam Tư.

Để Tây Tạng nhanh được hoà bình giải phóng, Phật sống Cách Đạt gửi điện cho Tổng Tư lệnh Chu Đức, yêu cầu tới Lạp Tát xúc tiến hoà đàm. Tổng tư lệnh điện trả lời, hoan nghênh nhiệt tình yêu nước của Phật sống Cách Đạt

Ngày 10-7 Phật sống Cách Đạt với tư cách là Uỷ viên uỷ ban quân chính tây nam, phó Chủ tịch chính quyền nhân dân tỉnh Tây Khang xuất phát từ Cam Tư vào Tạng. Hôm ấy đông đảo quần chúng nhân dân địa phương tụ tập tiễn đưa, các cụ già còn đi theo hoan hô chúc tụng. Ngờ đâu tới Xương Đô, Phật sống Cách Đạt đã bị hãm hại!

Nguyên do là, ngày 24-7 vừa tới Xương Đô; Phật sống Cách Đạt đã tiếp xúc rộng rãi với các tầng lớp nhân sĩ tăng ni, với sự nhận thức hiểu biết của bản thân mình đã giới thiệu là quân Giải phóng đóng tại Cam Tư rất tôn trọng quần chúng dân tộc Tây Tạng. Bọn phân biệt thân đế quốc ở Xương Đô vừa căm tức vừa sợ hãi. Đặc vụ đã bỏ thuốc độc vào nước uống của Phật sống Cách Đạt. Phật sống trúng độc, đau bụng, nhức đầu, nôn ra nước vàng, thổ huyết; ngày hôm sau 22-8 Cách Đạt đã viên tịch. Sau khi tắt thở toàn thân tím đen, thịt da nhũn mủn.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #67 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 11:01:49 pm »


Gián điệp sát hại Phật sống Cách Đạt

Mùa xuân 1951 tại Trùng Khánh.

Sương mù bao trùm lên núi Ca Nhạc, tùng bách xum xuê chen chúc quanh một biệt thự màu trắng, qua bức tường vây thấp thoáng những cột điện khi tỏ khi mờ, người lính bồng súng gác trước cổng tĩnh lặng qua qua lại lại. Ngôi biệt thự ấy chính là “Quách Bạch cung” nổi tiếng.

Thời kỳ chiến tranh chống Nhật, đại biểu Mỹ Meilơ ký hiệp nghị với Đới Lạp Đạt, xây dựng một “Phòng hợp tác kỹ thuật đặc biệt Trung-Mỹ”. Sau này, Chính phủ Quốc Dân Đảng biến “Quách Bạch cung” và “Động Cặn bã” thành trại tập trung, bao nhiêu người cách mạng và nhân sĩ dân chủ đã hy sinh tại đó. Sau giải phóng, cơ quan công an Tây Nam lợi dụng địa thế cũng dùng làm đồn gác, bắt giữ hàng loạt tội phạm Quốc Dân Đảng, trong đó có Vương Lăng Cơ, Tằng Khuếch Tình, Từ Diễn Cử, Thẩm Tuý... Còn có một phạm nhân người nước ngoài, rất đáng chú ý, đó là Futơ trung tá lục quân hoàng gia Anh, một tên gián điệp; chính hắn can dự vào việc mưu sát Phật sống Cách Đạt Phó Chủ tịch chính quyền nhân dân tỉnh Tây Khang.

Futơ vóc người cao to, tóc rậm mầu tro, râu cằm và ria mép tỉa tót khá cầu kỳ, năm ấy khoảng ngoài 30 tuổi. Hắn xuất thân từ một gia đình giàu sang có danh vọng, được giáo dục chu đáo, học chuyên ngành vô tuyến điện. Sau khi tốt nghiệp đại học, hắn không muốn quay trở lại sống kiểu gia đình cổ mà khát khao cái mới và ưa kích động, rồi đến một ngày đã gia nhập cơ quan tình báo, trở thành một quan chức ngành tình báo Hoàng gia.

Đầu năm 1949, giông tố đỏ lan tràn đại lục châu Á, khói lửa ngút trời, nhiều điệp viên không muốn đi tới Viễn Đông, phương Đông xa xôi; khi Futơ còn đi học đã hết sức ngưỡng vọng, hiếu kỳ mạo hiểm càng thúc giục hắn muốn đi chu du một lần, thế là hắn chủ động xin lệnh ra đi.

Sau khi tới Niuđêli, được bọn đầu sỏ tình báo Anh tại Ấn triệu kiến tán dương: “Cử một nhân viên đắc lực nhất của chúng ta tới Tây Tạng, là một nhu cầu lợi ích của nước Anh”. Hắn nói tiếp: “Chắc là ông đã rõ, mất đi chính quyền Quốc Dân Đảng được Mỹ ủng hộ, sự sụp đổ sắp diễn ra ngay trước mắt. Chúng ta không hứng thú gì đối với chính quyền xấu số này, điều cần quan tâm chỉ là sự quy thuộc của Tây Tạng, diện tích của nó lớn hơn nhiều quốc gia châu Âu”.

“Trước khi tôi tới Niuđêli, có người đã lên lớp cho tôi như vậy”, Futơ tỏ ý không quan tâm.

Tên điệp viên đầu sỏ nói: “Những tài liệu mà ông đọc đều là những thứ cũ rích cách đây 5 năm. Tây Tạng là một vùng tương đối phức tạp, những người cầm quyền ở đây chia làm mấy phái, hành động khác nhau. Song, chỉ cần họ thường xuyên xuất ra nguồn sản vật địa phương, thì nhà máy của nước Anh cũng đủ nguyên liệu, ý của tôi có thể tóm tắt trong một câu là, ông cần phải toàn tâm toàn lực giữ chốt tiền tiêu Tây Tạng”.

“Tôi cần phải đi bao lâu?” Futơ nêu câu hỏi đầu tiên như vậy.

“Thật khó nói, có thể là một năm, cũng có thể dài hơn”.

“Tôi sẽ có thể được cung cấp những trang bị gì?” Futơ lại hỏi.

“Điện đài, súng đạn, và có thêm hai báo vụ viên người Ấn biết tiếng Tạng”.

Futơ nêu câu hỏi thứ 3: “Có hậu viện không?”

“Nói chính xác là không có. Tây Tạng giao thông khó khăn, thường xuyên cử người đi là không làm được, không quân hoàng gia cũng không muốn hàng tháng cho máy bay vượt qua dãy Himalaia đầy nguy hiểm”.

“Tôi muốn ký một bản hợp đồng, để cho nửa cuộc đời còn lại của tôi được bảo đảm!” Futơ suy nghĩ trong khoảnh khắc, rồi nêu yêu cầu như vậy.

“Đương nhiên có thể tiếp nhận. Như thế này nhé, lương của ông một năm là 2 vạn bảng Anh, không kể các phụ cấp khác, thế nào, ông bằng lòng chứ?”. Đối phương cười.

Sau nửa tháng, núp dưới danh nghĩa đại diện mậu dịch Futơ đi vào Tây Tạng, được Chính phủ Tây Tạng thân Anh đón tiếp như một vị thượng khách.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #68 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 11:02:22 pm »


Tại Lạp Tát Futơ không thay đổi kiểu trang phục, từ đầu tháng đến cuối tháng đều mặc thường phục, không một lần thắt ca vát lụa màu, hắn thường đi lại quanh vùng, còn phát kẹo sôcôla cho những trẻ con rách rưới ở đầu đường cuối phố, dần dà hắn được các thiện nam tín nữ bình luận ngợi khen, được bà con nơi đây xem là một con người tốt bụng.

Dựa vào uy tín, hắn đi lại tự do khắp vùng Lạp Tát, thường xuyên kết nghĩa và hào phóng với “bạn bè mới”, đặc biệt là trong tầng lớp quan chức trung sơ cấp của chính quyền địa phương Tây Tạng, từ đây thu thập được rất nhiều tình hình bố phòng và nhu cầu của quân Tạng mọi nơi. Tại 1 căn phòng xây dựng bằng đá kiểu lô cốt ở Lạp Tát, hai tên báo vụ người Ấn đổi nhau thao tác máy thu phát, nhanh chóng truyền đi những tin tức tình báo cơ mật đã thu thập được.

Tháng 4-1949, sau chiến dịch vượt sông của quân Giải phóng, Chính quyền Quốc Dân Đảng lung lay rệu rã, Chính quyền Tây Tạng cũng không ổn định, không ít gia đình quí tộc giàu có tính toán chạy sang Ấn Độ, bởi vì tập tục Ấn Độ cũng gần giống Tây Tạng. Nhưng, những nhân vật đầu sỏ trong Chính quyền Tây Tạng thì không muốn đi, để mất địa bàn, cũng có nghĩa là cây không có gốc, và đi đến đâu cũng không sống được. Thế là họ nghĩ tới Futơ coi hắn là một vị bồ tát cứu tinh, mời hắn vào tận cung Bố Đạt Lạp vàng son lộng lẫy. Ở đây, hắn đã mật đàm rất lâu với Đạt Trát nhiếp chính chủ trì sự vụ chính giáo của Tây Tạng, dự định một âm mưu ý đồ đen tối.

Sau đó, bọn Quốc Dân Đảng đã rút chạy, bản “tuyên ngôn” của chính quyền Tây Tạng cũng được công bố, song không thể ngăn cản nổi sức mạnh đào núi lấp biển của quân Giải phóng nhân dân tiến thẳng vào hướng tây. Trời vào đông, cao nguyên Tây Tạng trắng xóa một màu, đơn vị bộ đội đi đầu quân Giải phóng đã đóng quân tại Cam Tư, chỉ còn cách dòng sông Kim Sa, sẵn sàng tiến vào Tây Tạng. Để tiếp cận quan sát tình hình Futơ đã rời khỏi Lạp Tát đi Xương Đô, thành phố phía đông Tạng, hắn như một con bạc, cuốn gói cả sứ mệnh và tiền đồ ra đi.

Thành phố Xương Đô một vùng hỗn loạn, gia đình quí tộc nhà nhà chuyển dời lánh nạn, trên đường phố đã có nhiều xe ngựa vận hành, bắt đầu cuộc di tản đường dài. Bảy trung đoàn quân Tạng và dân binh đeo những khẩu súng trường cũ rích do Anh cấp phát đang tập hợp đội ngũ, chuẩn bị ra đi phòng thủ bờ sông Kim Sa; trong cơn hoảng loạn không biết ai đã nổ súng gây nên hỗn độn hoang mang, thế là bao nhiêu ngựa xe lạch cạch phóng ra cổng thành.

Futơ chạy tới Phủ Tổng quản Xương Đô do chính quyền Tây Tạng thành lập. Sự thực hắn không thể tưởng tượng được bộ mặt ngôi nhà như thế nào: cửa, cột chăng đầy màng nhện, trong sân đầy rẫy phân chim, một góc tường đã sạt lở tự bao giờ, vài người lực lưỡng đang ngồi uống rượu hút thuốc dưới thềm, còn có mấy người nằm dài ngáy như kéo gỗ trên tấm bao tải.

Lạp Lỗ Tổng quản đại nhân chợt nhìn thấy một người tây liền trợn tròn hai mắt, nói vẻ lịch sự: “Xin mời ngài ngồi, tôi có thể giúp gì ngài được đây?” Futơ nói: “Tôi muốn ở lại Xương Đô một thời gian. Tôi ở lại đây có một mối hàng”.

Lạp Lỗ làm ra vẻ khổ não: “Ái chà, hiện giờ Xương Đô thật không an toàn, ngay đến bản thân tôi cũng rất lo ngại, rất sợ bị ám sát. Nhưng nói vậy thôi, chỉ cần ngài bỏ ra một khoản phí, thì vài anh bảo vệ vẫn có thể tìm được”.

Futơ mỉm cười. Hắn rút tiền ra. Nhìn tờ bạc mới cứng, Lạp Lỗ cười híp mắt: “Ngài tuy là người nước ngoài nhưng từ nay chúng ta là anh em, dù có việc gì cứ lại tìm tới!” 

Trong đêm tối, sóng điện thần kỳ lan tỏa lên không trung. Futơ báo về Đêli: Quân Tạng đang bố phòng, tìm cách ngăn cản quân Giải phóng vượt sông Kim Sa, chính quyền Tây Tạng vẫn chưa có dấu hiệu tiếp xúc với Cộng sản, chí ít là trước mắt chưa thấy gì.

Tiếp theo, là điện trả lời: tiếp tục quan sát tình huống.

Xương Đô năm xưa đã có giáo sĩ nước ngoài tới truyền đạo do đó Futơ tới đây không làm cho ai kinh ngạc, thậm chí với danh nghĩa buôn bán, công khai xây dựng điện đài ngay tại Xương Đô cũng chẳng có ai tò mò. Thêm vào đó hắn nói tiếng Tạng khá thạo, vì thế hắn tìm hiểu được rất nhiều tư liệu tình báo về chính trị, quân sự, địa lý, văn nhân mà cục tình báo Anh cần tới.

Mùa xuân 1950, chính quyền Tây Tạng cử một đoàn gọi là “sứ giả thân thiện” đi Bắc Kinh, Anh, Mỹ, Ấn Độ, Nêpan, bày tỏ nguyện vọng “độc lập”. Chính phủ Trung Quốc lập tức ra tuyên bố cực lực bác bỏ. Để chống lại thế lực nước ngoài can thiệp vào Hội chính Trung Quốc, Chính phủ Trung ương đề nghị Phật sống Cách Đạt một nhân sĩ tôn giáo cấp cao của dân tộc Tạng vào Tây Tạng, để tranh thủ đạt tới hiệp nghị hoà bình giải phóng Tây Tạng.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #69 vào lúc: 20 Tháng Mười, 2008, 11:03:00 pm »


Hạ tuần tháng 7, Phật sống Cách Đạt cùng một đoàn tùy viên từ Cam Tư đến Xương Đô, và tiếp tục tiến về hướng tây. Sau khi nghỉ ngơi tại khách sạn, Phật sống Cách Đạt gặp Tổng quản Xương Đô Lạp Lỗ cùng quan chức địa phương liền trong mấy ngày; tuyên truyền kỹ lưỡng “cương lĩnh chung” của Hội nghị Chính trị hiệp thương đã thông qua, khuyên họ không nên coi quân Giải phóng là kẻ thù, song Lạp Lỗ và bọn họ vẫn bỏ ngoài tai.

Phật sống Cách Đạt ở lại Xương Đô khoảng nửa tháng, công việc hoà đàm không có tiến triển, ông vô cùng sốt ruột. Ngày 03-8 Phật sống Cách Đạt định đánh điện tới Lạp Tát, trực tiếp hiệp thương với chính quyền Tây Tạng, và điện luôn cho một số bè bạn tại đó cùng thúc đẩy hoà đàm. Do vậy mà ông đích thân tới điện đài địa phương tại Xương Đô, trao đổi về việc đánh điện, ai ngờ đã tạo cho Futơ một cơ hội...

Hôm ấy Futơ xuất đầu lộ diện với tư cách trưởng đài, ân cần tiếp đón Phật sống Cách Đạt... Sau khi hiểu ý Cách Đạt tới đây hắn mượn cớ sửa chữa máy phát, tạo thời cơ thông báo sự việc tới Lạp Lỗ và cấp trên tại Đêli.

Tổng quản Lạp Lỗ vội tới nơi, bình tĩnh hỏi Cách Đạt: “Nghe nói ngài muốn đi Lạp Tát?”

“Vâng, tôi được Chính phủ nhân dân Trung ương uỷ thác, đương nhiên phải đi Lạp Tát gặp các vị đại thần”. Phật sống trả lời.

“Tôi xin nói rõ với ngài, bản thân Đạt Trát không muốn gặp ngài, bởi vì Cộng sản muốn tiêu diệt tôn giáo”. Lạp Lỗ ngang nhiên nói vậy.

“Không đúng! Tôi biết Cộng .sản chủ trương khu dân tộc tự trị, bảo vệ tôn giáo tự do tín ngưỡng, tôn trọng phong tục tập quán của dân tộc thiểu số. Tôi đã gắn bó với họ”. Cách Đạt lần tràng hạt niệm Phật, không chút khoan nhượng.

Lúc này, ở tầng dưới Futơ đã nhận được điện mật từ Niuđêli, chỉ thị cho hắn mượn cớ gây mâu thuẫn Hán - Tạng, thậm chí phát động xung đột vũ trang, sau đó mới có văn bản.

Đọc xong điện văn, tình thế phức tạp khiến hắn phải lựa chọn: Nếu cho Cách Đạt chết ngay đầu đường, sẽ sinh ra ác chiến giữa quân Giải phóng và quân Tạng, chùa chiền nơi nơi bị phá hủy, quần chúng giáo đồ sẽ bạo loạn, quân đội nước ngoài đường hoàng tiến vào Tây Tạng.

Yêu cầu “bảo hộ”, Futơ liền trở thành một nhân viên đặc công có chiến tích đặc biệt, và địa vị như diều gặp gió: nhưng nếu giết chết Cách Đạt thì còn một đoàn thị vệ kia bên cạnh Phật sống cũng chẳng phải dễ dàng đối phó nổi. Qua một hồi suy nghĩ cân nhắc căng thẳng, hắn quyết định sử dụng biện pháp giết người không dao, ám sát Cách Đạt.

Futơ lôi chiếc va ly từ gầm giường ra, lấy một lọ thuốc in hai chữ “Kịch độc”.

Đó là loại thuốc độc hoãn tính, uống sau một tuần mới kiến hiệu. Hắn tự tay pha một cốc trà đen thêm ba phần sữa và nhỏ vào một ít thuốc độc.

Thủ đoạn của hắn thực hiện khi bưng khay vào phòng, hai thị vệ đi theo Phật sống không để ý tới hắn có gì khác thường. Phật sống Cách Đạt không còn muốn nghe Tổng quản Lạp Lỗ nói năng hồ đồ, chỉ ngồi trên đệm, đôi mắt lim dim, miệng thầm niệm Phật, hy vọng Bồ Tát khoan dung Lạp Lỗ.

“Xin mời Phật sống dùng trà, có chuyện gì xin cứ thư thả”.

Futơ đặt khay xuống, đặt cốc trà độc ngay trước mặt Cách Đạt còn hai cốc kia dành cho hắn và Lạp Lỗ.

Cách Đạt mở mắt cám ơn, thị vệ bưng tới một thau nước để Phật sống rửa tay.

“Mong Phật sống gặp tốt lành như ý”. Futơ nói vậy rồi nâng cốc cùng Lạp Lỗ uống vài hớp cạn chén.

Phật sống Cách Đạt hít hít hương trà, thiếu sự đề phòng, nhắp từng hợp cạn cốc trà độc.

Sau buổi chiều, giờ nghỉ ngơi Phật sống Cách Đạt thấy nhức đầu đau bụng, đành nghỉ tạm tại đây. Sau vài ngày Cách Đạt mặc dầu không dậy được nữa, nhưng vẫn không quên trọng trách của mình, nói với tùy viên của mình: “Đại quân với nhân dân Tạng là một gia đình, chúng ta phải giúp đỡ họ vào Tạng được thuận lợi”.

Một tuần qua đi, Lạp Lỗ cho thầy thuốc riêng của hắn tới “chẩn đoán”, lại cấp thêm một liều thuốc. Phật sống uống thuốc xong thì không nói được nữa, sáng ngày 22-8 đã qua đời, mới 47 tuổi.

Sau khi Cách Đạt chết, toàn thân tím, thất khiếu đều xuất huyết, vỡ nứt thịt da. Để thoái thác liên quan, Futơ và Lạp Lỗ nhanh chóng hỏa táng, đồng thời đưa các tùy viên về Lạp Tát “chủ trì siêu độ”; các nhân viên muốn về Cam Tư báo tang đều bị Lạp Lỗ giam lỏng tại Xương Đô.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM