Bác nào am hiểu cho em hỏi chút. Súng K54 và K59 ban đầu do nước nào sản xuất? về khả năng công phá của đạn, "thằng" nào hơn. Ví dụ với khoảng cách 7m thằng nào có thể xuyên được áo giáp. Vì hôm trước em "nghe nói" bọn Israel sang mình quảng cáo một loại áo giáp chống đạn của nó, mình đem K54 ra thử ở khoảng cách 5m xuyên luôn. Nó phát hoảng.------------------------------------------------------
Hic, mình không "am hiểu" thì có được trả lời không?
- K54 nguyên bản là khẩu Tokarev TT33, TQ copy đặt là K54, VN nhận viện trợ thì gọi theo, giờ sản xuất được cũng gọi luôn là K54.
- K59 nguyên bản là khẩu Makarov PM, TQ gọi là K59, nhà ta cũng theo thế mà đặt tên.
Về nguyên lý thì K54 phải mạnh hơn rồi vì nó là đạn cỡ 7,62mm K51 dùng chung cho tiểu liên K43/50, trọng lượng đạn khoảng 11gr trong đó đầu đạn nặng 5,5. Còn đạn K59 loại 9mm cả viên đạn nặng 10gr thì đầu đạn đã 6,1gr rồi. Từ đó bạn có thể suy ra loại đạn nào nhiều thuốc phóng hơn rồi, nhiều thuốc phóng hơn chắc chắn sẽ bắn mạnh hơn.
Súng ngắn lại ưa đầu đạn cỡ lớn bác à. Đầu đạn cỡ lớn nhưng ngắn làm cho nòng cũng ngắn theo, đạn ngắn thì gia tốc mạnh mà. Đạn dài phải tăng nòng dài lên, với nòng ngắn như súng ngắn bắn phát một cầm tay thì thuốc nhiều nhưng hao năng lượng nhiều. Vì vậy, đạn súng ngắn cỡ đầu đạn 9mm, 11mm các loại động năng mạnh, mặc dù sơ tốc không tốt. (internal ballistic, thuật phóng trong)
Thêm nữa, đạn đường kính lớn có sức phá mạnh hơn , do tiếp xúc nhiều hơn và tốc độ chuyển năng lượng ra phá cao hơn. Khả năng phá, sát thương là "đường đạn giai đoạn cuối", terminal ballistic, hay là "thuật phóng cuối".
Đầu và cuối thì hơn, nhưng giữa thì tồi. (externel ballistic, thuật phóng ngoài). Đạn lớn có sơ tốc nhỏ, ngay cả khi sơ tốc lớn nhưng đạn quá ngắn, nên tản mát, cong, lệch gió vân vân là vân vân. Ví dụ, khẩu M3 Grease và các loại súng như Thomson dùng đạn 11mm chỉ có sơ tốc 280m/s (dưới âm, nhưng lại là loại đầu đạn ngắn nhỏ của súng cầm tay nói chung, chỉ có một loại đạn dưới âm đặc biệt của súng bắn tỉa Nga nặng như cái nắm đấm, 70gram mới đạt tầm bắn hiệu quả cao), tầm bắn hiệu quả chỉ 50 mét, tầm bắn tối đa 150 mét. (Thế nhưng mấy cái của nợ ấy vẫn được sản xuất hàng triệu khẩu, thằng mẽo chưa bao h có súng tốt là phải).
PPSh-41, PPS-43 đạt được ưu thế là do nó gần súng trường hơn các MP (PP tiếng Nga, SMG hay dùng ở Anh-Mỹ), sơ tốc khá lớn, tầm bắn hiệu quả đạt 150 m/s, trong khi đó vẫn nhỏ gọn. MP-44 và MP-45 Đức lại quá cồng kềnh do đạn yếu, phải làm nòng và máy rất to tận dụng năng lượng, MP-44 nặng hơn 5kg, hơn cả trung liên RPK, do đó MP-44 và MP-45 không được ứng dụng nhiều, sau này, máy MP-45 được áp dụng lên các đạn lớn hơn mới đắc dụng.