Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:20:06 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đường 5 anh dũng quật khởi - Tập 20  (Đọc 2008 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #40 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:48:43 pm »

KIM ANH - MẢNH ĐẤT KIÊN CƯỜNG


NGUYỄN HUY TRƯỜNG


Dưới chế độ cũ, xã Kim Anh1 (Xã Kim Anh thuộc huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương gồm 3 làng Bất Nạo, Lễ Độ và thôn Đồng Mỹ) do chính sách bóc lột tàn bạo của thực dân phong kiến, đã làm cho nhưng người dân lao động nơi đây phải sống canh lầm than cực khổ. Toàn xã có 801 mẫu đất canh tác thì 5% số người là địa chủ, phú nông đã chiếm giữ 75%, trong khi đó 95% là nông dân, tá điền chỉ có chưa đầy 30% ruộng đất!


Ruộng đất ít lại phải chịu sưu cao thuế nặng nên người dân Kim Anh phải vất vả chạy vạy kiếm sống, nhiều người phải tha phương cầu thực, đi làm phu đồn điền, phu mỏ than Hòn Gai, Uông Bí; đi làm thuê ở thành phố; có người vào tận Nam kỳ, Lục tỉnh... Nền kinh tế trì trệ, chỉ dựa vào độc canh cây lúa nên đời sống của nhân dân lao động vô cùng khó khăn. Trẻ em phần lớn thất học; ốm đau luôn đeo đuổi những người nghèo khó lam lũ; nhà cửa lụp xụp ẩm thấp, mái rạ vách đất là chủ yếu; đường sá lầy lội mất vệ sinh... Tệ nạn cờ bạc, rượu chè, nghiện hút tràn lan làm cho bao gia đình lâm vào cảnh cùng quẫn khốn đốn.


Đặc biệt là từ khi phát xít Nhật vào Đông Dương, nhân dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” áp bức bóc lột, dẫn đến nạn đói năm 1945. Trong số hơn 2 triệu người dân Việt Nam bị chết đói, Kim Anh đã có 713 người, chiếm 1/4 dân số xã. Trong bối cảnh ấy, tệ cường hào lại nổi lên hình thành những phe phái tranh giành nhau, những dòng họ tranh quyền đoạt lợi luôn diễn ra làm đảo lộn đời sống của người dân Kim Anh vốn đã khó khăn lại khó khăn thêm!


CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐÃ ĐEM LẠI SỨC SỐNG MỚI CHO KIM ANH

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) và Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong khí thế sục sôi cách mạng ấy, chỉ trong 3 ngày từ 15 đến 18/8/1945, nhân dân Kim Anh đã vùng lên lật đổ chế độ phong kiến và ách thống trị của Pháp - Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân.


Chính quyền cách mạng lâm thời và non trẻ của Kim Anh lúc bấy giờ gồm có: Ông Nguyễn Thượng Trình làm Chủ tịch, các ông Trần Văn Rụ, Nguyễn Văn Lam, Nguyễn Văn Thà... làm ủy viên, đã bắt tay ngay vào việc thực hiện nhiệm vụ khẩn cấp của cách mạng đặt ra: xây dựng, củng cố chính Quyền, cùng Mặt trận Việt Minh tổ chức các đoàn thể nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang cơ sở, đồng thời tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra là “Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.


Chính quyền và Mặt trận Việt Minh đã khẩn cấp khắc phục nạn đói, phát động phong trào “lá lành đùm lá rách” vận động các nhà giàu có, khá giả giúp các gia đình thiếu đói để có bữa rau cháo, phục hồi sức lao động, đồng thời vận động trông cây lương thực ngắn ngày, đẩy mạnh tăng gia sản xuất để có nhiều lương thực, rau màu cho vụ tới. Do những biện pháp tích cực ấy, đến cuối năm 1945 nạn đói ở Kim Anh cơ bản được đẩy lùi.


Nhiệm vu “diệt giặc dốt” cũng được triển khai rộng khắp, hàng chục lớp “bình dân học vụ” được tổ chức ở từng thôn xóm. Nhân dân sôi nổi đi học theo tinh thần người biết chữ dạy người không biết chữ, dạy và học đều tự nguyện. Đến tháng 6/1946, toàn xã đã có 70% số người mù chữ biết đọc biết viết chữ quốc ngữ.


Nhân dân Kim Anh đã làm theo lời kêu gọi của chính quyền, Mặt trận, đi vào xây dựng cuộc sống mới, động viên nhau ăn sạch, uống sạch, giữ vệ sinh chung, tu sửa đường đi lối lại, các gia đình thi đua với nhau làm cho xóm ngõ sạch đẹp. Phong trào học hát, học múa, diễn kịch cũng được đẩy mạnh, tạo ra một không khí mới, phấn khởi, vui tươi, cuốn hút mọi người vào việc thực hiện các nhiệm vụ do Chính phủ cách mạng lâm thời đề ra. Khắp các thôn xóm, đâu đâu cũng nêu cao khẩu hiệu: “Việt Nam độc lập muôn năm!", “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!’’, “Tinh thần Cách mạng Tháng Tám bất diệt!”, “Kiên quyết bảo vệ cách mạng, bảo vệ chính quyền nhân dân!”, “Toàn dân nêu cao quyết tâm diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm!”, v.v... Kim Anh đã phấn đấu vượt qua những thử thách, khó khăn to lớn để đứng vững và phát triển về mọi mặt.


CÙNG CẢ NƯỚC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, thực dân Pháp lại thực hiện âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Trước tình thế ấy, nhân dân Kim Anh dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh đã đi vào cuộc kháng chiến 9 năm với quyết tâm cùng cả nước đánh thắng giặc Pháp xâm lược.


Kim Anh là một trong những xã của huyện Kim Thành nằm sát đường số 5 - con đường chiến lược quan trọng ở chiến trường Bắc Bộ.

Ngày 20/12/1946, từ Hải Phòng quân Pháp từng bươc đánh chiếm đường số 5. Sau khi chiếm được ga Phú Thái chúng tràn vào Kim Anh bắn phá, đốt nhà, cướp của - cả xã và vùng lân cận chìm trong khói lửa của chiến tranh.


Hưởng ứng lời kêu gọi “Toàn dân kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Kim Anh cùng cả nước đứng lên chiến đâu bằng mọi thứ vũ khí có trong tay với tinh thần “Tất cả để đánh thắng giặc Pháp xâm lược”.


Trong những năm chiến tranh, quân Pháp đã xây dựng trên đất Kim Anh một trại lính, 14 lô cốt, 2 bốt dõng với hệ thống rào thép gai và mìn dầy đặc, lập vành đai trắng, chia cắt địa bàn xã thành 2 khu vực Tây - Bắc và Đông - Nam đường 188. Quân địch thường xuyên vây ráp, tìm diệt cán bộ kháng chiến. Một số cán bộ chú chốt của xã như các đồng chí Trần Đình Dự, Trần Đình Tiêm, Nguyễn Văn Thi... đã bị địch bắn chết, một số khác bị địch bắt tù đày. Có đêm bọn biệt kích sục vào làng bắt được 6 du kích đem ra bắn chết ngay tại cánh đồng cửa Đền Thiện. Bọn địch muốn tiêu diệt sạch, tiêu diệt tận gốc lực lượng kháng chiến của ta ở Kim Anh. Nhưng “Vỏ quýt dày, có móng tay nhọn”, Chi bộ Đảng xã Kim Anh ra đời ngày 15/10/1947, đã giương cao ngọn cờ lãnh đạo kháng chiến, cùng nhân dân bám đất, bám làng; vừa chiến đấu vừa sản xuất, vừa huy động sức người, sức của chi viện cho bộ đội chủ lực, đi dân công hỏa tuyến, đào hầm nuôi giấu cán bộ, bộ đội. Đặc biệt, trước âm mưu tìm diệt tàn bạo của kẻ thù, cán bộ, đảng viên ở Kim Anh vẫn kiên cường bám đất, bám dân, cùng nhân dân xây dựng cơ sở, tiếp tục đấu tranh đến ngày thắng lợi.


Tổng kết kháng chiến chống Pháp, quân dân Kim Anh đã đánh 37 trận lớn nhỏ, tiêu diệt, bắt sống, gọi hàng 657 tên địch, thu 414 súng các loại, 8 tấn dây thông tin, phá hủy 1 đầu máy và một số toa xe lửa, 4 xe quân sự, góp phần xứng đáng cùng quân dân huyện Kim Thành làm nên “Tiếng sấm đường 5 quật khởi”! Toàn xã có 694 người tham gia hoạt động, có công với kháng chiến, 308 người tham gia bộ đội tình nguyện, 37 người đi dân công hóa tuyến, 72 liệt sĩ, có 2 mẹ được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng” và có 1 người con của làng Bất Nạo là bộ đội Kim Thành được Hồ Chủ tịch tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc” năm 1952.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #41 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:49:25 pm »

KIM ANH CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc nước ta hoàn toàn giải phóng. Đất nước ta tạm thời chia làm hai miền. Đảng ta đề ra hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam. Nhân dân Kim Anh lại cùng nhân dân miền Bắc thực hiện nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.


Đế quốc Mỹ đã dùng không quân, hải quân tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Từ ngày 15/11/1965 đến hết tháng 12/1972, máy bay Mỹ liên tiếp đánh phá các khu vực ga Phú Thái, bến đò Thái, đoàn 400. Dã man nhất là đêm 31/10/1967, Mỹ đã ném bom vào khu dân cư Văn Minh (Bất Nạo) phá hủy trường trung học cơ sở, thiêu cháy 40 ngôi nhà, 1 cửa hàng bách hóa, làm chết 13 người, bị thương 28 người. Chiến tranh ngày càng ác liệt, tội ác của đế quốc Mỹ ngày càng chồng chất, lòng căm thù giặc, ý chí chiến đấu của nhân dân Kim Anh ngày càng dâng cao. Lớp lớp thanh niên lên đường nhập ngũ, chiến đấu ở các chiến trường A, B, c, K... Số còn lại lập thành các đội trực chiến, cứu hộ sập hầm, lấy lá ngụy trang các trận địa phòng không, đào hầm hố tránh bom đạn và tham gia trực chiến bảo vệ cầu Lai Vu...


Đảng bộ và nhân dân Kim Anh vừa bám trụ chiến đấu vừa đẩy mạnh sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyên. Phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng" "Phụ nữ ba đảm đang" được dấy lên sôi nổi. Với quyết tâm: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân “Tay cày, tay súng”. Vụ chiêm xuân năm 1967, lần đầu tiên đất Kim Anh đạt năng suất lúa 5 tấn/ha, được Chủ tịch nước thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Bác Hồ gửi thư khen và tặng Huy hiệu của Người cho đảng viên, đội trưởng sản xuất Nguyễn Thị Thuốc. Lực lượng dân quân đã ngày đêm phối hợp với các trận địa tên lửa đặt tại địa bàn xã. Tháng 12/1967, dân quân xã phối hợp với lực lượng phòng không bắn rơi 01 máy bay F4H, bắt sống giặc lái Mỹ.


Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xã Kim Anh có trên 1000 người tham gia hoạt động, có công với kháng chiến, có 415 người tham gia quân đội, 40 người đi thanh niên xung phong, 100 liệt sĩ, 52 thương binh, có 3 mẹ được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”. Nhiều người con của Kim Anh lập công xuất sắc như dũng sĩ lái xe Trường Sơn Trần Ngọc Thế, dũng sĩ lái xe tăng Trần Xuân Nhị... Cán bộ và nhân dân Kim Anh được thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng Ba về thành tích chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chi viện chiến trường, làm tốt công tác hậu phương quán đội và 2 Huân chương Lao động hạng Nhì, hạng Ba về thành tích vừa chiến đấu vừa sản xuất giỏi.
 

KIM ANH VƯƠN LÊN XÂY DỰNG CUỘC SỐNG MỚI

Sau những năm kháng chiến thắng lợi, tình hình kinh tế - xã hội ở Kim Anh gặp rất nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã đã tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, tổ chức lại sản xuất, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Đặc biệt là sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới mở cửa của Đảng, nhân dân Kim Anh dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ đã sớm thích nghi với cơ chế thị trường, thực hiện khoán 10 (04/1988), thực hiện giao đất lâu dài cho hộ nông dân (1992), thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Hải Dương về đổi mới quản lý hợp tác xã theo mô hình dịch vụ (1993). Đảng bộ Kim Anh đã có chủ trương, biện pháp thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo, thâm canh tăng vụ, chuyển đổi cây trồng, cải tạo vườn tạp, đưa các giống cây, con có năng suất, giá trị kinh tế cao vào sản xuất, chăn nuôi, tập trung đầu tư vào chương trình phát triển kinh tế hệ gia đình. Chính vì vậy, tình hình kinh tế - xã hội của Kim Anh ngày nay đã có những bước thay đổi chưa từng có. Chỉ tính 5 năm 2001 - 2005, so với 5 năm trước đó, tổng thu về sản xuất nông nghiệp tăng 8,3%; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 242%; doanh thu về kinh doanh dịch vụ tăng 39,12%; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm qua đạt 11,9% năm.


Từ một nền kinh tế nông nghiệp trì trệ, dựa vào độc canh cây lúa là chủ yếu, đến nay Kim Anh đã hình thành nền kinh tế có cơ cấu đa dạng: Nông nghiệp 52,6%; tiểu thủ công nghiệp 24,2%; kinh doanh dịch vụ 23,2%; hoàn thành cơ bản các mục tiêu xây dựng điện, đường, trường, trạm... với tổng mức đầu tư 5 năm 2001 - 2005 đã lên tới 8.684 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 2.729 triệu đồng. Sự nghiệp giáo dục không ngừng phát triển, trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; đầu tư hàng tỷ đồng để xây dựng cơ sở vật chất cho các trường theo hướng hiện đại hóa, xã hội hóa và chuẩn hóa cấp quốc gia. Cả ba cấp học đều đạt tiên tiến và tiên tiến xuất sắc. 10 năm liền Kim Anh đạt xã “tiên tiến về giáo dục”. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Các mặt công tác văn hóa, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, thực hiện các chính sách xã hội đều được tổ chức thực hiện có kết quả. Đời sống nhân dân không ngừng được nâng cao. Toàn xã đã cơ bản xóa xong nhà tranh tre vách đất. Có 41% số hộ có nhà xây mái bằng, 50,4% số hộ có nhà xây cấp 4; có 15,5% số hộ giầu, 38,6% số hộ khá, 42,1% số hộ có mức sống trung bình, không có hộ đói, số hộ nghèo theo tiêu chí cũ còn 3,8%. Tính bình quân cứ 9 người có 1 xe máy, 14 người có 1 máy điện thoại. Các mật công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể thường xuyên được quan tâm, hàng năm đều đạt từ tiên tiến đến xuất sắc. Từ một Đảng bộ, chính quyền yếu kém ở thập kỷ 90, Kim Anh đã vươn lên đạt danh hiệu “Đảng bộ, chính quyền trong sạch, vững mạnh cấp tỉnh” 4 năm liền.


Kim Anh - mảnh đất kiên cường đã và đang vươn lên xây dựng cuộc sống mới, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,văn minh”!
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #42 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:50:22 pm »

CÔNG TÁC BINH VẬN VỚI TRẬN ĐÁNH CĂNG PHƯƠNG ĐIẾM
ĐÊM 18/12/1951


NGUYỄN THỊ CHẮT
(Nguyên cán bộ địch vận Huyện đội Gia Lộc,
Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1952)


Cuối năm 1947, tôi được đi học một lớp đào tạo cán bộ địch vận, sau đó huyện điều tôi về xây dựng cơ sở ở khu vực Phúc Duyên, rồi sang công tác tại xã Thạch Khôi thuộc huyện Gia Lộc. Các thôn xã này nằm sát thị xã Hải Dương, nên hồi đó tất cả đều nằm trong vùng kiểm soát của địch. Đặc biệt là ở Thạch Khối, bọn phản động chống phá kháng chiến rất quyết liệt, luôn tìm diệt cán bộ và cơ sở của ta.


Được sự phối hợp và giúp đỡ tận tình của các đồng chí lãnh đạo địa phương, bằng các biện pháp nghiệp vụ đã được huấn luyện, đến tháng 6/1949, tôi đã gây dựng được 10 nhân mối trong binh lính và hương dũng ở Thạch Khôi. Đến nay tôi chỉ còn nhớ được tên các anh Thanh, Đáng, An, Quất, Thi...


Mùa thu năm 1949, tôi được Huyện đội điều về công tác tại thị trấn Gia Lộc. Cuối năm 1949, thực dân Pháp chiếm đóng khu vực này, chúng xây dựng chi khu quân sự Phương Điếm, căng Phương Điếm và ráo riết xây dựng chính quyền tay sai ở các thôn xã trong vùng. Đến giữa năm 1950, khu vực huyện lỵ (cũ), phố Cuối, chợ Cuối đã dần dần trở lại làm ăn bình thường, binh lính địch ở chi khu quân sự và căng Phương Điếm qua lại ngày càng nhiều.


Trước diễn biến trên đây, tôi thấy cần phải đẩy mạnh công tác vận động binh lính địch. Nhưng làm công tác này không chỉ dựa vào cán bộ chuyên trách mà cần phải có nhiều người cùng tham gia thì mới có kết quả. Vì vậy tôi đã đề nghị lãnh đạo huyện mở một lớp học về công tác binh vận. Được sự nhất trí của Huyện ủy, Huyện đội Gia Lộc, lớp học ngắn ngày được khai mạc tại thôn Ba Đông Hạ do đồng chí Bùi Quang Thu, Thường vụ Huyện ủy, phụ trách. Tôi đã vận động được một số người ở xã Nghĩa Hưng đi dự lớp học này. Kết thúc lớp học, tôi có thêm một số “chân rết” làm công tác binh vận. Cũng từ đó, công tác binh vận do tôi phụ trách ở khu vực này không ngừng được đẩy mạnh theo bài bản đã được huấn luyện.


Được sự giúp đỡ của đồng chí Nguyễn Hữu Tỳ, chi ủy viên, trưởng ban địch vận xã Nghĩa Hưng, đêm đêm chúng tôi cùng với xã tổ chức gọi loa tuyên truyền vào chi khu quân sự và căng Phương Điếm, rải truyền đơn ở cổng bốt, ở phố, chợ, cổng căng. Truyền đơn có in cả chữ tiếng Pháp, tiếng Việt. Bọn địch ở đây phản ứng mạnh, ngầm mua chuộc một số người theo chúng làm chỉ điểm, tung bọn do thám trà trộn vào phố, chợ, bắt nhiều người chúng nghi ngờ đem về căng tra tấn, mua chuộc. Thôn Đại Liêu (Bung Đại) là trọng điểm săn lùng, có ngày chúng vây láp tới 6, 7 lần.


Tôi sống và làm việc nửa bí mật, nửa công khai, nhờ xã tổ chức được lực lượng truyền tin báo tin nên hễ ở căng, ở bốt có sự việc gì là sớm hôm sau tôi đã biết để đối phó.

Thời gian tôi ở Phúc Duyên, Thạch Khôi gần thị xã Hải Dương tuy khó khăn gian khổ nhưng ít nguy hiểm hơn là ở thị trấn Gia Lộc. Địch tổ chức càn quét vây ráp liên tục đêm ngày, nếu sơ hở là sa vào tay chúng, ở Hội Xuyên, Phương Điêm, Đại Liêu, chúng đều cài được bọn chỉ điểm, nhưng ít lâu sau Công an Việt Hùng đã trừ được chúng. Du kích xã Nghĩa Hưng, do đồng chí Nguyễn Hữu Bịch, xã đội phó phụ trách đã cải trang phục kích bắt sống 1 tên Tây trắng và 2 lính ngụy trên đường đi Thượng Cốc (sát sau huyện lỵ cũ). Từ đó trở đi, bọn ngụy chỉ điểm không còn dám xuống các thôn nữa.


Đầu năm 1951, chúng tôi tổ chức được mấy đợt đưa các bà, các chị lên đồn Phương Điếm gửi đơn xin cho chồng con hết hạn đi lính được trở về nhà làm ăn sinh sống. Vào các ngày lễ hoặc những ngày binh lính ở đồn, ở căng đi càn về mà có những tên bị thương là chúng tôi tổ chức các bà lên đồn thăm hỏi, khóc lóc, kể lể thảm thương, ở phố và chợ Cuối có tổ chị Nở, chị Liên; ở Phương Điếm có tổ cô Xoan, cô Thiều; ở làng Ngà tổ chị Mây, chị Mười; ở Chằm là tổ bà Bẩy. Ngoài ra còn có các anh Huấn, Mai, Man... Các anh, các chị vừa là người vận động tổ chức nhân dân, vừa là người cùng nhân dân thăm dò tin tức, làm quen với cai, đội lính trong đồn, trong căng để công tác địch vận khu vực thị trấn Gia Lộc đạt được kết quả.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #43 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:51:31 pm »

ĐÁNH THẮNG MỘT ĐẠI ĐỘI ĐỊCH Ở CẢNG PHƯƠNG ĐIẾM ĐÊM 18/12/1951

Sau bức tường xây cao 3 mét trên bờ rào dây thép gai về phía Tây nam Chi khu quân sự Phương Điếm, giặc Pháp xây dựng một khu nhà gọi là Căng. Bề dài Căng theo bề dài bức tường với 2 dẫy nhà xây cao lợp ngói, ngăn thành từng buồng rộng, hẹp khác nhau, xung quanh có 2 hàng rào thép gai và hào sâu bảo vệ vững chắc. Gọi là Căng nhưng co thời gian nhân dân quanh vùng gọi là Trại con gái vì có lúc địch đưa gái điếm, gái nhảy về, nay lại có vợ con gia đình binh lính ở.


Căng Phương Điếm có nhiệm vụ cung cấp binh lính cùng với lính Âu Phi ở chi khu đi vây ráp càn quét quanh vùng. Mỗi khi bắt được cán bộ du kích hay người chúng tình nghi thì chúng tra khảo, đánh đập dã man... Nhiều gia đình quanh vùng đã nhờ người quen với cai binh đem tiền, đem lễ vật vào đút lót trong Căng để được tha về. Căng còn là nơi hội họp các xã ủy, hội tề; nhận trình diện về tề; cấp giấy đi lại trong huyện, trong tỉnh, Căng cũng là nơi trú ngụ của một số tên phản động, hội tề “sợ Việt Minh” trốn lên đây.


Căng Phương Điếm do một tên quan hai Pháp chỉ huy, tên sếp nhất Mạc Đăng Dung có vợ người Hoa ở một gian rộng 2 buồng, một gian để sếp Lịch hỏi cung tra tấn, Cai Hạnh trông nom gian giam giữ tù; với một đại đội lính ngụy, được tuyển lựa kỹ. Hai dãy nhà tạm giam để chờ xét xử hoặc dẫn giải lên trên. Căng có một cổng ra vào chính, 2 bốt gác ở 2 đầu. Vũ khí trong Căng có 3 trung liên, 6 tiểu liên và nhiều súng trường, lựu đạn. Trước cổng là con đường to rải đá rộng hơn 10 mét đi về phía tây gặp đường 192 xuống Đò Thưa, đi về phía đông là đường 17 vào phố Cuối, chợ Cuối... Bên kia đường là nhà của nhân dân bán hàng tạp hóa, hàng ăn uống, nhà trọ. Khu vực nhà dân đã tạo điều kiện cho hoạt động địch vận của chúng tôi. Gia đình các đồng chí Mai, Huấn, Man, Thiêu... ở đây làm nhiệm vụ dò la tin tức, làm quen với cai đội binh lính ra uống rượu, ăn quà. Anh Huấn đã làm quen thân được với Đội Đồng khi hắn ra ăn sáng, uống rượu nhà cô Duyên. Đội Đồng đã bộc lộ tâm tư của mình qua nhiều lần trò chuyện, ăn uống, tỏ thái độ hối lỗi khi mình buộc phải đăng lính... Sau khi nghe mọi người báo cáo, tôi quyết định gặp Đội Đồng ở một cơ sở do Huấn bố trí.


Đội Đồng tên là Hoàng Kim Đồng, quê ở Thanh Lâm, sát huyện lỵ Nam Sách (cũ) là gia đình nghèo, bị địch bắt từ năm 1948, đưa vào lính lên Cao Bằng. Sau chiến dịch biên giới, địch đưa về Đại đội Căng Phương Điếm. Do mắt thấy tai nghe cuộc chiến tranh phi nghĩa của Pháp và cảnh bắn giết đồng bào vô tội, Đội Đồng muốn trở về với kháng chiến, lập công chuộc tội. Đội Đồng đã làm quen với cô Duyên và xin cưới cô làm vợ.


Tôi giải thích cho Đồng về tính chất chính nghĩa cuộc kháng chiến của nhân dân ta, về chính sách khoan hồng của Chính phủ kháng chiến đối với những người trong hàng ngũ địch lập công chuộc tội trở về với nhân dân. Đồng tỏ ra ăn năn hối lỗi, xin làm theo lời chỉ dẫn của tôi. Tôi hướng dẫn kỹ cách tuyên truyền, thuyết phục anh em binh lính trong Căng giác ngộ trở về với kháng chiến. Đội Đồng hứa sẽ quyết tâm thực hiện. Tôi bố trí mỗi tuần gặp Đồng một lần để nghe báo cáo và hướng dẫn Đồng làm công tác vận động binh lính... Cho đến tháng 9/1951, tôi đã lần lượt gặp gỡ, giao việc thử thách để công nhận thêm 5 nhân mối nữa với Đồng là 6 người, gồm: Đồng, Thanh, An, Đoan, Dũng, Cửa.


Cuối năm 1951, Tiểu đoàn Quốc Tuấn, Tỉnh đội Hải Dương tiêu diệt cụm tề phản động Xuân Nẻo - Ô Mễ, huyện Gia Lộc tiến hành một đợt chiến đấu và địch vận, tổng phá tề, bức hàng và giải tán từng mảng bốt tề binh... Chiến dịch Hòa Bình của ta thắng lợi, một tiếng vang lớn làm cho binh lính khu vực Phương Điếm và một số nơi hoang mang dao động. Nhân đà chiến thắng này, Huyện ủy và Huyện đội Gia Lộc chủ trương tiêu diệt Căng Phương Điếm.


Cuối tháng 11/1951, tôi được Thường vụ Huyện ủy Gia Lộc báo về họp. Dự họp có các đồng chí Bùi Quang Thu, Bí thư Huyện ủy; Mậu Tàn, Phó Bí thư Huyện ủy, Chính trị viên Huyện đội; Nguyễn Văn Trược, Ủy viên Thường vụ, Huyện đội trưởng; Nguyễn Văn Phác, Tỉnh đội trưởng và mấy anh ở Tỉnh đội cùng về dự... Đồng chí Bùi Quang Thu giới thiệu tôi báo cáo tình hình địch và nhân mối trong Căng. Hội nghị nêu lên hai phương án chiến đấu để thảo luận:

1/ Dùng lực lượng quân sự cắt hàng rào rồi đánh thẳng vào các buồng ngủ của những tên chỉ huy, nhân mối hướng dẫn, buộc binh lính đầu hàng.   

2/ Đánh Căng bằng lực lượng nhân mối: Nhân mối có nhiệm vụ đưa bộ đội ta vào trong, trừ khử những tên chỉ huy trước, bức binh lính đầu hàng không phải nổ súng.

Đồng chí Phác, Tỉnh đội trưởng, nhất trí sử dụng cách; đánh thứ hai và nêu ý kiến phải hành động thật bí mật, mau lẹ, không để bên chi khu Phương Điếm biết đánh trả lại ta...

Hội nghị thảo luận đi đến nhất trí, trao cho tôi về gặp nhân mối để lên kế hoạch thật cụ thể. Sau đó Thường vụ Huyện ủy giao cho đồng chí Nguyễn Văn Trược, Huyện đội trưởng, cùng với tôi bố trí bộ đội Tây Sơn của Gia Lộc để sẵn sàng làm nhiệm vụ.


Tôi trở về Đại Liêu sau hai lần gặp Đội Đồng để thông báo chủ trương của ta và bàn với Đồng kế hoạch cụ thể để thực hiện cách đánh. Đội Đồng phấn khởi hứa quyết tâm thực hiện và nhất trí với tôi cách đánh Căng vào đêm 18/12/1951.


Tôi bàn bạc và giao nhiệm vụ cụ thể cho Đội Đồng rồi cùng anh Trược, Huyện đội trưởng, về huyện thông qua kế hoạch xin đánh Căng vào đêm 18/12/1951.

10 giờ tối ngày 18/12/1951, Đại đội Tây Sơn tập kết ở Đại Liêu. 12 giờ đêm, các bộ phận xuất phát. Chúng tôi không sử dụng du kích mà chỉ có các đồng chí Huấn, Mai, Man đi với tôi, do anh Huấn dẫn đường tiến về phía cãng. Đêm về khuya, trời trở rét, đèn điện ở trên tường bốt gác vẫn sáng. Bọn lính gác trên lô cốt Chi khu thỉnh thoảng vẫn lia đèn pha soi mói. Nhưng chúng tôi vẫn vào cổng chính theo ám hiệu của nhân mối... Đội Đồng cho biết tên Pháp chỉ huy đi Hải Dương chưa về, các tổ bộ đội theo từng nhân mối vào các vị trí chiến đấu của mình... Tiếng Đội Đồng vừa gọi vừa đập cửa buồng: “Ông Dung ơi! Dậy đi! Bên đồn có lệnh điểm quân! Ông Liêu! Ông Hạnh ơi! dậy! dậy đi! Bên đồn có lệnh báo. Mời các ông dậy mau cho”. Tiếng gọi của Đội Đồng nhỏ nhưng rõ ràng, không làm ồn ào. Tôi và Huấn, Man, Mai, đi theo Đồng sang dãy nhà lính: “Tất cả anh em dậy mau! Tập hợp để nhận lệnh bên đồn!”. “Gần 100 người gồm binh lính và số gia đình vợ con họ ra sân thì bộ đội Tây Sơn đã quây kín. Họ ngơ ngác, còn binh lính không tên nào dám phản ứng. Vợ chồng sếp Dung, đội Lịch, cai Hạnh cũng đã bị anh em giải ra sân rồi. Đội Đồng nói cho binh lính và mọi người biết bộ đội Cụ Hồ đã đột nhập vào Căng, tất cả anh em hãy trở về với kháng chiến, với gia đình vợ con, trước mắt hãy bình tĩnh đi theo bộ đội ra vùng tự do, không ai được gây tiếng động, ồn ào, nếu ai manh động sẽ dẫn thân vào tội ác... Gần 100 người lặng lẽ ra khỏi Căng đi theo bộ đội ra vùng kháng chiến.


Toàn bộ vũ khí, đạn dược trong Căng ta thu hết. Các đồng chí Huấn, Mai, Man tìm được 3 đôi quang gánh, thu toàn bộ các giấy tờ sổ sách và một số đồ dùng văn phòng của sếp Dung, đội Liêu gánh hết ra vùng tự do...


Trận đánh Căng Phương Điếm của quân ta diễn ra rất êm. Mãi sáng hôm sau (19/12) bọn Pháp ở chi khu quân sự Phương Điếm mới biết bọn quân quan của chúng ở Căng đã bị Việt Minh đánh bại.

Anh em nhân mối ở Căng Phương Điếm được chính quyền huyện Gia Lộc cấp giấy chứng nhận trở về quê cũ. Vợ chồng Đội Đồng làm ăn buôn bán ở Bùi Hòa - Ninh Giang một thời gian, sau đó xin vào bộ đội Tây Sơn. Hòa bình lập lại ở miền Bấc thì phục viên về quê làm ăn (gia đình Đội Đồng ở khu Hoàng Hanh, thị trấn Nam Sách - Hải Dương).


Năm 1952, tôi được Tỉnh đội Hải Dương cử đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quân. Từ đại hội này, tôi được bầu đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất họp ở chiến khu Việt Bắc, được Hồ Chủ tịch tặng danh hiệu “Chiến sĩ thi đua toàn quốc”, được thường Huân chương Chiến công hạng Nhất.


Sau đại hội, tôi được điều về làm công tác địch vận ở khu vực Đông Triều rồi chuyển về Tỉnh đội Quảng Yên. Năm 1956, tôi được chuyển ngành về nhà máy cá hộp Hải Phòng công tác cho đến khi về hưu. Hiện nay, tôi sinh sống với gia đình, chồng con, các cháu ở khu tập thể Hải quân, thành phố Hồ Chí Minh.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #44 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:52:36 pm »

NGƯỜI CON GÁI QUANG VINH


NGUYỄN VĂN CẤP
(Nguyên Chi ủy viên,
xã đội phó xã Nam Tân)


Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ở xã Nam Tân huyện Nam Sách đã xuất hiện gương chiến đấu bền bỉ kiên cường của một nữ du kích người thôn Long Động. Đó là đồng chí Mạc Thị Bưởi.

Mạc Thi Bưởi sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh gia đình túng bấn, làm thuê làm mướn. Cha mất sớm, mẹ Chanh dìu dắt Bưởi mò cua bắt ốc sống qua ngày và đã được Cách mạng Tháng Tám đổi đời. Bưởi hoạt động trong giới phụ nữ, vào du kích, làm liên lạc cho xã... Trong những ngày đầu của cuộc chiến đấu, bà Chanh và cô Bưởi đêm đêm lần mò đặt cơm tiếp tế, đặt giây báo tin ở nhiều địa điểm bí mật cho xã, cho anh em du kích. Lúc đầu sống công khai hợp pháp, Bưởi tổ chức đường dây báo động từ xóm ngõ, từng cánh đồng, đường đi do các bà làm đồng, các gia đình ven đường thực hiện nên đã giúp cho cán bộ thoát nhiều cuộc vây ráp của địch. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng, Mạc Thi Bưởi đã phát huy mọi khả năng sẵn có của mình mà hoạt động. Vốn hoạt bát, chị đã làm quen với nhiều vợ con binh lính ở Trung Hà, Linh Xá để lấy tin, phá nhiều đợt vây ráp của địch. Bưởi đi mò cua bắt cá đưa vào bán rẻ ở khu gia binh nên nhiều tin càn quét quanh vùng đã được mật báo... Bưởi tổ chức được đường dây mang rải truyền đơn ở Linh Xá, Trung Hà, Bến Bình gây dư luận xôn xao, hoang mang trong binh lính địch. Năm 1949 - 1950, không rõ hoạt động của Mạc Thị Bưởi đã có tác động thế nào mà ở Trung Hà có cụ Lệ nghèo khó chỉ đơm đó bắt cua, cá sinh nhai quanh khu đê bối, ao, ruộng, từ Trung Hà sang Long Động... tối mịt một mình đi đặt đó, đặt đơm, gà gáy lại lần mò đi nhấc đó, miệng nói lầm rầm điều gì đó. Bọn địch biết cụ đi đơm đó nên không để ý, nhưng đã nhiều lần cụ lầm rầm to nhỏ để người gặp biết ngay: “Chúng nó càn đấy... Chúng nó càn đấy!” mà nhiều lần địch vây ráp, ta đều tránh được là nhờ đường dây báo động của Bưởi, kể cả số lần địch vây ráp ban đêm... Năm 1950, địch khủng bố vây ráp mạnh đến nỗi Trần Văn Khỏa, bí thư thanh niên, đã chạy vào Linh Xá rồi đưa quân về chỉ hầm đồng chí San, xã đội trưởng; sau đó chỉ hầm của đồng chí Trần Văn Nhiễm. Nhiễm đội nắp hầm lên dùng dao găm đâm chết tên lính Trung Hà và chạy thoát. Tên Khỏa đã khai báo ra Mạc Thị Bưởi nên tên Cầu, đồn trưởng Trung Ha, mấy lần váy ráp mà không bất được Bưởi.


Đầu năm 1951, chiến dịch đường 18 (Chí Linh - Quảng Yên) bắt đầu. Mạc Thị Bưởi cùng Ban chấp hành Phụ nữ xã vận động nhân dân quyên góp đường sữa gửi ra chiến trường, tổ chức đưa thanh niên dân công lên dường phục vụ chiến dịch. Tối 18 tháng 4 năm 1951, sau khi tổ chức hướng dẫn đoàn dân công lên đường phục vụ, Mạc Thị Bưởi về nhà bà cụ Mẫn, một cơ sở của ủy ban, xã đội để cùng các đồng chí Tương, Tung chuẩn bị lên đường sang Chí Linh dự lớp học đào tạo Huyện ủy Viên do Tỉnh ủy Quảng Yên triệu tập, thì địch bất ngờ đến quây ráp. Ba người cùng lẩn tránh khỏi nhà để ẩn hầm. Các đồng chí Tương, Tung ẩn hầm nhà ông Viên, Bưởi không thể chạy để ẩn hầm khác, đành quay trở lại ẩn hầm ở giữa 2 đống rạ ngoài vườn do bà cụ Mẫn phụ trách. Địch lùng sục nhà ông Viên không tìm được hầm. Không may tối hôm đó tên Khỏa dẫn đường, khi sang nhà cụ Mẫn, nó đã chỉ đúng hầm giữa 2 đống rạ. Tên Câu đồn trưởng Trung Hà reo to mừng rỡ: “Bắt được Việt Minh đầu sỏ”. Chúng lập tức xông vào đánh đập túi bụi bắt Bưởi chỉ hầm, khai báo nơi cất giấu vũ khí. Tên Câu khét tiếng gian ác thấy Bưởi đẹp người, lòng lang dạ thú của Câu nổi dậy, y ngon ngọt dỗ dành: “Tội gì khổ cả đời người! Anh sẽ nhận em làm vợ, cứ khai ra, mọi việc anh gánh vác! Em sẽ có cuộc đời sung sướng”. Mạc Thị Bưởi đã nhổ nước bọt vào mặt y... Câu nổi khùng bắt bọn lính trói Mạc Thị Bưởi ngồi trên hè, đưa hòm điện đến tra tấn rất dã man... nhưng chúng cũng không moi được tin tức gì. 10 giờ đêm chúng dẫn Mạc Thị Bưởi về bốt Trung Hà. Mấy ngày sau, chúng tung tin là Mạc Thị Bưởi đã khai báo các cơ sở Nam Tân, sẽ đưa lính về chỉ bắt. Mấy ngày đó, Chi ủy, xã đội Nam Tân họp bàn cách đối phó, cách thay đổi chỗ ở, giải thích để nhân dân yên lòng là “Mạc Thị Bưởi không phản lại nhân dân”.


Thực ra từ tối ngày 18-4-1951, địch đưa chị về Trung Hà giam giữ, chúng dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ phỉnh phờ để khuất phục, nhưng đều thất bại. Chúng mời ăn uống cao sang, tìm cách thay nhau hãm hiếp dã man chị Bưởi, rồi tiếp tục cực hình tra tấn làm chị chết đi, sống lại. Mạc Thị Bưởi biết rõ luận điệu xảo quyệt của địch, đồng thời biết mình khó sống với đòn tra tấn dã man của chúng. Để vạch trần thủ đoạn gian ác của đội Câu và để yên lòng đồng chí, đồng đội và nhân dân xã Nam Tân thân thương, Mạc Thị Bưởi đánh lừa địch đưa về thôn Đột Trên nhà bà cụ Mẫn vào một buổi trưa se lạnh tháng 3 âm lịch. Hơn 30 lính ngụy súng ống đầy người do tên Câu dẫn đầu, dìu cô Bưởi bước đi từng bước. Đến ngã ba đầu cầu ao nhà bà cụ Mẫn, chúng dừng lại. Dân làng biết tin, một số các bà, các ông kéo đến. Cô Bưởi, mặt mũi sưng húp tím bầm, chỉ còn đôi mắt đen sáng. Tên Câu quát hỏi: “Mày bảo súng vất ở ao đâu?”. Bưởi hất hàm: “Vất đấy!”. Hồi ấy ao trước nhà bà cụ Mẫn cạn nước, Câu cho 10 tên lính lôi ông Chuyên, ông Tân (lúc này 2 ông 50 tuổi, nay đã mất) cởi quần áo xuống mò. Gần tiếng đồng hồ sau, ông Chuyên, ông Tân quá rét, môi đã thâm, phải nhảy lên bờ: “Chúng tôi không thấy gì cả, để các ông lính mò”, rồi vơ quần áo chạy vào nhà. Một lúc sau, 10 tên lính cùng nhảy lên bờ. Tên Câu bẽ mặt trước dân làng, nó nổi khùng xông vào trước mặt Bưởi quát: “Mày có chỉ hầm Việt Minh không?”. - “Tao đã nói rồi”! - Tên Câu túm tóc Bưởi lôi đến mé cầu ao, hầm hầm ra lệnh: “Xin tiết!...”. Nó lồng lộn lên, bắt mấy tến lính sang nhà bà Dự lấy cái xanh đồng có quai đem về mé cầu ao... Lúc này dân làng chạy hết. Bà Trung kể rằng vì mắc con mọn nên bế cháu chạy sang nhà bà Dự, thấy tên Câu quát nạt, nghe tiếng chị Bưởi chửi lại tên Câu, tiếng vật lộn huỳnh huỵch rồi tiếng hô ngắt quãng: “Đảng... muôn năm..., Bác Hồ muôn năm...” rồi tắt lịm, Được một lúc chúng châm lửa đốt mấy khu nhà bà cụ Mẫn, nhà cô Trung, nhà ông Hồ, nhà anh Giới... lửa bốc ngút trời. Tên Câu đưa, quân rút khỏi Đột Trên, để lại tội ác tầy trời trên bờ ao bà cụ Mẫn. Mạc Thị Bưởi đã đi vào cõi vĩnh hằng!


Bọn giặc vừa ra khỏi Đột Trên, những người còn ở lại đổ xô nhau đến cứu chữa đám cháy nhưng chẳng còn gì. Các ông Bùi Văn Đán, Bùi Văn Tẳng lội xuống mé bờ ao đang loang máu vớt xác Mạc Thị Bưởi lên bờ. Nhân dân đã mang vải trắng để quấn vết thương cứa gần đứt cổ, chải tóc cho Bưởi, bọc Bưởi trong một tấm chăn mới đặt trên tấm chiếu mới ngay cạnh bờ ao nền gạch bên bụi tre. Một bát cơm quả trứng, đôi đũa tre mới vót đã được trịnh trọng đặt bên bát hương khói bay nghi ngút. Suốt đêm hôm đó, trời quang mây tạnh, khói hương không tắt trước linh hồn người con gái quang vinh của dân làng. Sáng hôm sau, gia đình đồng chí Mạc Thị Bưởi và bà con ở Long Động lên Đột Trên võng Bưởi về an táng.


Sau khi đồng chí Mạc Thị Bưởi bị tên Khỏa chỉ điểm cho tên Câu đồn trưởng Trung Hà bắt và giết, một làn sóng căm thù quân bán nước lan tràn khắp xóm thôn. Ai ai cũng tiếc thương Mạc Thị Bưởi, ai ai cũng mong muốn được trả thù cho cô. Lòng mong muốn của nhân dân Nam Tân đã được đáp ứng. Vào ngày rầm tháng 8 âm lịch năm 1951, tên chỉ điểm Khỏa đã bị bắt và bị tiêu diệt ở chùa thôn Đột Dưới. Đầu năm 1953, một trận phục kích ở vùng Linh Xá, bộ đội ta đã bắt sống tên Câu và buộc y phải đền tội ác...


Sự việc diễn ra đã được 50 năm. Tôi ở tuổi ngoài 80, là lớp người chiến đấu cùng thời với Mạc Thị Bưởi, cùng người Long Động xã Nam Tân, ghi lại những dòng kỷ niệm trên đây.

Tôi nghiệm ra rằng: Trong những năm tháng chống quân xâm lược Pháp ở giai đoạn gay go ác liệt nhất, lại càng thấy rõ nhất tinh thần dũng cảm, đức tính hy sinh, hành động anh hùng của cán bộ, đảng viên, của nhân dân mình trước khó khăn nguy hiểm, trước mun mô xảo quyệt, trước súng đạn, trước đòn thù tra tấn dã man của địch.


Mạc Thị Bưởi, người con gái quang vinh của Chi bộ và nhân dân xã Nam Tân, đã thể hiện đầy đủ nhất những đức tính cao cả của người đảng viên trong thời kỳ đó.

Ngay sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cảm khái trước gương chiến đấu của nữ liệt sĩ Mạc Thị Bưởi, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đã viết bài thơ ca ngợi chị với bút danh là C.B. đăng trên báo Nhân dân số ra ngày 21 tháng 4 năm 1955, sau đó được in trong Hồ Chí Minh toàn tập (tập vn, trang 221) do Nhà xuất bản Sự Thật ấn hành.


Ngày 2-9-1955, người đảng viên quang vinh Mạc Thị Bưởi của xã Nam Tân đã được Hội đồng Chính phủ truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” và Huân chương Quân công hạng Nhì. Một tượng đài Nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi đã được dựng lên tại Quảng trường huyện Nam Thanh (Nam Sách, Thanh Hà) cạnh đường số 5 - con đường anh hùng lộng gió.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #45 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:53:05 pm »

BÀI THƠ CA NGỢI NỮ ANH HÙNG MẠC THỊ BƯỞI


C.B.

   Người Long Động, tỉnh Quảng Yên1 (Thời gian đó Nam Sách thuộc tỉnh Quảng Yên)
   Hai mươi bốn tuổi, tính hiền và ngoan
   Từ ngày giặc đánh vào làng
   Chị đánh du kích, to gan anh hùng
   Việc gì chị cũng xung phong
   Khiến cho đồng đội cũng hăng thêm nhiều
   Chiến tranh càng khó bao nhiêu
   Tinh thẩn càng vững, càng nhiều chiến công
   Khi đánh giặc, khi giao thông
   Tuyên truyền, tổ chức, chị không ngại nề
   Một hôm, khai hội ra về
   Chẳng may địch bắt, không hề khai ra
   Chúng dùng đủ cách khảo tra
   Rồi cho lính hiếp suốt ba, bốn tuần
   Chém cha lũ giặc bất nhân
   Chúng toan bắn chị ở chân ngôi đình
   Nghĩ mình tuy chết đã đành
   Còn tài liệu Đảng giấu quanh mái nhà
   Chị bèn một chước, bước ra
   Xin về lấy súng đặng mà báo tin
   Đến làng, gặp một người quen
   Thừa cơ chị đã đưa tin rõ ràng
   Rồi quay mặt lại đường hoàng
   Chửi vào mặt giặc, giặc càng căm gan
   Chúng bèn đạp chị ngã lăn
   Đứa dao khoét vú, đứa chân dẫm đầu
   Đứa thì tay đỡ chậu thau
   Đứa thì mổ chị từ đầu đến chân
   Chị luôn giữ vững tinh thần
   Hô to khẩu hiệu, chửi quân bạo tàn
   Vì lòng yêu nước nồng nàn
   Nêu gương oanh liệt muôn vàn đời sau...
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #46 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:53:46 pm »

TIỂU ĐỘI HIỆP SƠN TRÊN TRẬN ĐỊA ĐÒ NỐNG


LÊ ĐỈNH VƯƠNG


Những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, huyện Kinh Môn được giao nhiệm vụ tổ chức đánh địch hành quân bằng đường thủy trên sông Kinh Môn, phá vỡ âm mưu của quân đội Pháp tập trung lực lượng lớn ở Hải Phòng, thần tốc giải tỏa thị xã Hải Dương tiến về Hà Nội.


Phòng tuyến chiến đấu của huyện Kinh Môn dài khoảng 10 km từ Đò Nống đến Tuần Mây. Lực lượng tham gia chiến đấu gồm Hải đội Ký Con, một Đại đội Vệ quốc đoàn hai đại đội địa phương (một của tỉnh, một của huyện).


Đò Nống cách phủ lỵ Kinh Môn chừng 3 km và cách thành phố Hải Phòng 17 km. Địa hình ở đây trống trải, xa làng mạc, mục tiêu dễ bị phát hiện, đường rút quân không thuận lợi. Khi đó, Đò Nống vừa là trận địa đầu cầu, vừa là vị trí tiền tiêu ở phía đông phòng tuyến. Do đó, đơn vị tham gia chiến đấu tại Đò Nống phải có ý chí và khả năng tác chiến rất cao. Sau khi cân nhắc, Huyện ủy Kinh Môn nhất trí với đề xuất của ban chỉ huy Huyện đội, điều tiểu đội tự vệ xã Hiệp Sơn về đây làm nhiệm vụ.


Tiểu đội tự vệ Hiệp Sơn là đơn vị mạnh được tổ chức chặt chẽ, huấn luyện chu đáo và được trang bị vũ khí tương đối tốt. Cán bộ, chiến sĩ đều là những thanh niên hăng hái, xuất thân từ lao động, căm thù bọn thực dân, phong kiến. Tuy mỗi người có hoàn cảnh khác nhau, song tất cả đều chung chí hướng, mong ngày giết giặc lập công, đáp lại lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chủ tịch.


Dưới sự chỉ huy của tiểu đội trưởng Vũ Văn Tóa, tiểu đội phó Phạm Văn Soi, chiến sĩ nai nịt gọn gàng, hành quân cấp tốc về vị trí. Họ chưa hình dung nổi cuộc chiến đấu sẽ ra sao cách đánh địch thế nào, nhưng trong đôi mắt họ ánh lên niềm tin sắt đá.


Theo thông báo của Bộ chỉ huy mặt trận, ngày 19-12-1946 ở thị xã Hải Dương tất cả các vị trí của địch đều bị tấn công. Ta làm chủ cầu Phú Lương, uy hiếp, bao vây sở chỉ huy địch ở Nhà máy Chai. Quân Pháp ở Hải Phòng đang gấp rút viện binh bằng cả đường bộ, đường thủy, đường không cho Hải Dương, Hà Nội. Bộ chỉ huy mặt trận Hải Dương ra mệnh lệnh cho tất cả các lực lượng tham gia chiến đấu dọc tuyến đường 5 sẵn sàng tiêu diệt địch.


Rạng sáng ngày 21-12. Dòng sông hoang vắng. Trời rét đậm, gió ù ù thổi. Bỗng mọi người nghe rõ tiếng động cơ. Từ phía hạ lưu, 2 chiếc ca nô và một chiếc tàu chiến từ từ xuất hiện, mỗi chiếc cách nhau chừng 100 m dẫn xác vào trận tuyến. Chiếc tàu chiến đi sau lừng lững như một con quái vật. Khẩu đại bác trên boong dữ tợn. Lần đầu tiên đối mặt với tàu chiến giặc, nhưng cán bộ, chiến sĩ ta chẳng ai sợ hãi. Chiêc ca nô thứ nhât đến gần, mấy anh em sốt ruột đòi nổ súng. Tiểu đội trưởng Vũ Văn Tóa yêu cầu chấp hành nghiêm mệnh lệnh, để chúng vào sâu, cùng các đơn vị bạn thực hiện dướị đánh lên, trên đánh xuống. Bất ngờ bọn lính trên tàu nổ súng vào trận địa ta. Lập tức tiểu đội trưởng Vũ Văn Tóa hạ lệnh bắn trả. Đạn bay vun vút, đập vào mạn tàu chát chúa. Mấy thằng lố nhố trên khoang chạy ào tránh đạn. Ta không ngớt bắn về phía địch. Nhưng phát hiện thấy lực lượng ta nhỏ bé lại chỉ có vũ khí thông thường, bọn chỉ huy ra lệnh cho 2 chiếc ca nô quay trở lại đánh vào sườn bên phải đội hình tiểu đội. Cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt. Lợi dụng ưu thế tuyệt đối về hỏa lực, địch bắn như vãi đạn. Một số đồng chí bị thương nặng. Tưởng chừng nuốt sống ăn tươi, bọn địch cho 2 chiếc ca nô áp sát bờ thực hiện âm mưu đổ bộ. Lòng căm thù giặc sôi lên, tất cả tiểu đội thề chiến đấu đến cùng, nhất định không đầu hàng địch. Trước sự đánh trả quyết liệt của ta, bọn chúng hoảng sợ không dám xông lên.


Chiến sĩ Phan Văn Đứng chạy như bay về sở chỉ huy xin ý kiến. Đồng chí Huyện đội trưởng hạ lệnh cho số anh em còn lại bí mật rút lui bảo toàn lực lượng.

Noi gương chiến đấu của tiểu đội Hiệp Sơn, tiêu biểu là các đồng chí Vũ Văn Tóa, Phạm Văn Soi, Trần Văn Tống, Nguyễn Văn Chúng, Phạm Văn Chuẩn, Nguyễn Văn Chúc các trận địa Mỹ Động, Ngự Uyên, Thượng Quân, Tuần Mây, các đơn vị bộ đội, dân quân, tự vệ dũng mãnh tấn công, ngăn cản bước tiến, bắn bị thương tàu chiến giặc, nhiều binh lính sĩ quan Pháp phải đền mạng. Đoàn tàu chiến, ca nô của chúng mãi chiều 23-12 mới vượt được chặng đường hơn 40 km về tới thị xã Hải Dương. Đó là thành tích của quân và dân huyện Kinh Môn, quân và dân tỉnh Hải Dương từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #47 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:55:12 pm »

C - QUẢNG NINH

TIỂU ĐOÀN BẠCH ĐẰNG TIẾN QUÂN VÀO VÙNG ĐỊCH HẬU


TRỊNH NGUYÊN
(Nguyên Bí thư Tỉnh ủy,
Chính trị viên Tỉnh đội Quảng Yên)


Tháng 4 năm 1951, sau chiến dịch đường 18, giặc Pháp lo ngại cho phòng tuyến bảo vệ thành phố Hải Phòng và đường 5 nên tăng cường lực lượng, liên tục càn quét bình định các huyện tạm bị chiếm của tỉnh Quảng Yên (cũ) trọng tâm là Nam Sách, Kinh Môn, Chí Linh và Đông Triều – địa bàn nằm giữa hai con đường chiến lược số 5 và số 18.


Chúng xây dựng, củng cố đồn bốt, lập vành đai trắng, dồn dân, chia cắt vùng căn cứ rìmg núi với đồng bằng, ven biển của tỉnh hòng cỏ lập vùng bị tạm chiếm; khủng bố dã man nhân dân để bắt lính, bắt phu, vơ vét của cải, hãm hiếp phụ nữ, tiêu diệt cơ sở kháng chiến. Trong tình thế lúc bấy giờ, phong trào nhiều nơi hầu như tan rã; lực lượng quân sự và cán bộ cơ sở phải bật ra vùng tự do và ở các khu căn cứ du kích.


Tháng 6 năm 1951, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Yên lần thứ tư họp tại Bãi Đá (Sơn Động) nêu quyết tâm đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, giành thế chủ động trên chiến trường. Những vấn đề cấp bách được đề ra: về tư tường, xác định rõ ''chịu đựng gian khổ kháng chiến lâu dài”, đảng viên gương mẫu đi đầu về cơ sở địch hậu "bám đất bám dân"', lấy hoạt động quân sự trước hết và trên hết làm hậu thuẫn bảo vệ cơ sở và phát triển lực lượng. Tiểu đoàn Bạch Đằng chủ lực của tỉnh có kế hoạch vào vùng tạm chiêm hoạt động làm chỗ dựa cho phong trào dân quân du kích, phát động cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện. Các đảng viên ở xã, 100% phải là dân quân du kích. Các bí thư chi bộ xã, huyện nhất thiết phải là các chính trị viên xã đội, huyện đội, tỉnh đội. Xây dựng hệ thống công tác địch vận từ xã đến tỉnh. Các phong trào quần chúng của các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, thiếu niên, nông dân, phụ lão hướng vào mục tiêu ”Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng”. Phát động thi đua "giết giặc lập công" trong tỉnh, hình thành thế trận “chiến tranh nhân dân" rộng khắp. Những cuộc họp "Quân dân chính Đảng" ở các địa phương, các cấp bày mưu, hiến kế “đánh giặc, lập công". Công tác địch vận trở thành phong trào của quần chúng gây nhân bắt mối ở các đồn bốt địch. Tỉnh mở các đợt hoạt động quân sự phá âm mưu địch giành thế chủ động chiến trường như: "Chặt đường 18" - phá vòng vây địch - "thông đường liên lạc giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm" - xây dựng khu căn cứ Nhị Chiểu (Kinh Môn) đồng thời mở rộng các khu du kích trong lòng địch. Xây dựng lực lượng dự bị để bộ đội, du kích luôn đảm bảo quân số, liên tục chiến đấu và trưởng thành.


Cuối năm 1951, lợi dụng thời gian địch tiến đánh tỉnh Hòa Bình, để sơ hở chiến trường đồng bằng, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích ở các huyện.

Bộ tư lệnh Quân khu Việt Bắc chỉ thị cho Quảng Yên đưa tiểu đoàn chủ lực tỉnh vào hoạt động sâu trong các huyện địch hậu Nam Sách, Kinh Môn uy hiếp đường số 5. Nhiệm vụ trên giao là sự cổ vũ cho Tiểu đoàn Bạch Đằng và tinh thần chiến đấu chung của quân dân Quảng Yên lúc bấy giờ, nhất là đại đội địa phương Nam Sách. Tuy nhiên, cũng là mối lo lắng, quan tâm của Tỉnh đội vì Nam Sách bị chiếm đóng ngay từ ngày đầu kháng chiến, bốn bề bao bọc bởi sông to và đường 5. Muốn đỡ thiệt hại, cần có một kế hoạch cho tiểu đoàn kết hợp chặt chẽ với lực lượng huyện tác chiến linh hoạt, kết hợp giữa phân tán và tập trung, đánh nhanh rút nhanh, dựa vào dân, bảo toàn lực lượng.


Ngày 2/2/1952, trong lúc nhân dân đang chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Nhâm Thìn, hai Đại đội 910 và 908 của Tiểu đoàn Bạch Đằng được lệnh rời vùng du kích Kinh Mồn, Đông Triều, Chí Linh vượt sông Kinh Thầy tiến vào Nam Sách. Tỉnh đội cử đồng chí Nguyễn Hữu, Tham mưu phó, đi với tiểu đoàn và trực tiếp chỉ huy Đại đội 908 cùng với chính trị viên đại đội Vũ Bằng. Các đơn vị được liên lạc địa phương dẫn đường áp sát các cứ điểm địch, chờ lệnh đồng loạt nổ súng. Bộ đội ta dũng mãnh tiến công trong tiếng bộc phá ầm vang, kết hợp tiếng loa địch vận... Trong một đêm, ta tiêu diệt một số đồn bảo an và 10 tháp canh; lực lượng nhân dân nổi dậy phá 20 tháp canh khác. Bọn địch ở các vị trí hoang mang không dám đối phó. Và chỉ ít ngày sau, gần 50 tháp canh ở Nam Sách đã bị phá trụi1 (Tổng kết lịch sử chiến tranh của tỉnh Quảng Yên cũ, xuất bản năm 1964, trang 158), ở Kinh Môn thì không còn một tháp canh nào nối liền với khu Nhị Chiểu2 (Tổng kết lịch sử chiến tranh của tỉnh Quảng Yên cũ, xuất bản năm 1964, trang 158).


Ngày 3/2/1952, Đại đội 910 rút về bên sông, còn Đại đội 908 tiếp tục ở lại hoạt động. Địch tăng cường quân cơ động đến càn thôn Tạ Xá (nơi ta đóng quân). Trước lực lượng địch đông, mạnh hơn gấp bội về quân số và hỏa lực, Đại đội 908 chiến đấu dũng cảm suốt ngày, giữ vững trận địa. Địch phải lui quân và dùng pháo binh bắn vào trận địa ta rất ác liệt. Một số cán bộ, chiến sĩ ta trúng đạn hy sinh, trong đó có tham mưu phó Nguyễn Hữu và chính trị viên Vũ Bằng. (Chính trị viên Vũ Bằng quê ở Đông Triều có người yêu là cô Tiến cùng quê, là một nữ du kích, gia đình đôi bên đã chuẩn bị đám cưới cho hai người. Tôi đã bàn xin gia đình để lui lại tổ chức đám cưới sau. Nào ngờ, sau một trận chiến đấu ác liệt, một loạt đạn pháo vô tình đã vĩnh viễn cướp đi hai đồng chí Nguyễn Hữu và Vũ Bằng,để lại nỗi đau không gì bù đắp cho hai người phụ nữ ngóng chờ người yêu không ngày trở lại).


Đại đội 908 sau này do đại đội trưởng Nguyền Thanh Toàn và quyền Chính trị viên Trần Minh Thái chỉ huy chuyển quân sang đóng ở thôn Đột Lĩnh. Ngày 4/2/1952, địch đưa hàng nghìn quân đến bao vây, cuộc chiến chống càn ác liêt tiếp diễn suốt một ngày. Thế trận chiến tranh nhân dân trước quân xâm lược diễn ra ác liệt, hào hùng. Dưới làn hom đạn của phi pháo địch, dân công phục vụ chiến trường, các mẹ, các chị chăm sóc thương binh, tiếp tế cơm nước kết hợp với tiếng loa địch vận... Địch xung phong nhiều đợt không vào được làng, chiều tối chúng phải rút quân đi với hơn 100 tên chết và bị thương. Đại đội 908 đã mở đầu truyền thống chiến đấu chống càn quét của địch ở đồng bằng vùng tạm bị chiếm huyện Nam Sách, Quảng Yên.


Từ đó, Tiểu đoàn Bạch Đằng và các đại đội huyện cùng dân quân du kích liên tiếp chống càn thắng lợi, mở rộng các khư du kích thành vùng du kích liên hoàn, xây dựng hành lang giao thông để các lực lượng trong tỉnh từ vùng căn cứ qua lại đường 18 vào vùng tạm bị chiếm, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chống địch đồng thời tạo điều kiện tiêu diệt sinh lực địch. Căn cứ trung tâm trong địch hậu là khu Nhị Chiểu đồng thời là đầu não kháng chiến của huyện Kinh Môn được củng cố, làm bàn đạp đánh rộng ra khu ngoài vượt qua dãy núi An Phụ cùng với huyện Nam Sách hoạt động sát đường 5.


Tháng 2 năm 1952, Tiểu đoàn Bạch Đằng cùng Đại đội 921 tiêu diệt bốt Vạn Tải Thiên Khê trên đường số 5B; các xã Minh Tân, Thượng Đạt và các xã vùng Tây Nam Sách tổng phá tề... Địch phản ứng điên cuồng, đưa hàng tiểu đoàn quân cơ động có cả xe tăng rải trên đê sông Thái Bình từ Ngã ba bến Hàn đến xã Minh Tân. Nhưng chúng đã bị tiểu đoàn chủ lực tỉnh và Đại đội 921 Nam Sách phục kích đánh ở thôn Đoàn Kết (vốn là đồn điền Đờ Mông Ba Da cũ), tiêu diệt nhiều tên, bắt sống 30 tên, số còn lại ta đánh đuổi lên cánh đồng Mạc Xá, Uông Hạ và bị bọn trên đê sông Thái Bình bắn lầm nằm chết nhiều ở cánh đồng. Du kích Mạc Xá đón đánh diệt 10 tên, thu 1 trung liên, 6 súng trường, bắn chết một tên quan ba người Pháp. Ngày hôm sau địch đem quân về thu nhặt binh lính bị chết, bị thương và hòng tìm xác tên quan ba. Cho đến ngày thứ ba, khi xã đội Minh Tân đóng bè chuối đưa xác tên quan ba trôi theo dòng sông Thái Bình đến cầu Phú Lương địch mới chấm dứt càn quét.


Ngày 2/7/1952, địch huy động 2 tiểu đoàn quân cơ động, một tàu chiến, 4 canô, 10 xe lội nước càn vào thôn An Dật gần sông Thái Bình. Tiểu đoàn Bạch Đằng phối hợp với du kích địa phương đón đánh. Trận chiến diễn ra suốt ngày, ta và địch giành nhau từng xóm nhỏ, từng căn nhà. Địch đã đốt hàng trăm nóc nhà, chùa An Dật cũng bị đốt cháy. Chiều tối, địch vào được trong làng. Ta bí mật vượt vây. Địch vừa chết Vưa bị thương tới 100 tên... Bốn chiến sĩ ta hy sinh, trong đó có một xã đội phó...


Qua 1 năm thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ Quảng Yên lần thứ IV và Chỉ thị của Bộ tư lệnh Liên khu Việt Bắc, Tỉnh đội Quảng Yên đã vượt qua mọi gian khổ hy sinh đầy mạnh phong trào thi đua "Giết giặc lập công" của quân dân địch hậu lên rất cao. Có thể nói, từ khi Tiểu đoàn Bạch Đằng tiến sâu vào vùng Nam Sách - Kinh Môn là một bước ngoặt lịch sử của chiến tranh nhân dân tỉnh Quảng Yên. Nhiều trận chiến đấu rất oanh liệt đã diễn ra, một vùng du kích được mở rộng sát đường 5, ven sông Thái Bình và gần ngay thị xã Hải Dương. Nhiều gương mặt anh hùng, chiến sĩ thi đua trong lực lượng bộ đội, dân quân du kích, kể cả các tầng lớp "Nam, phụ, lão, ấu” xuất hiện trong chiến dịch chống địch, trong công tác địch vận, chăm sóc thương binh, phục vụ chiến trường.


Một năm sau, tháng 4/1953, Tiểu đoàn Bạch Đằng và bộ đội du kích Nam Sách mở rộng địa   bàn chiến đấu, liên tiếp tấn công vào các vị trí địch, trong đó có đồn Ngô Đồng hai lần bị diệt. Đặc biệt trận đánh lần thứ hai của Đại đội 908 phối hợp với du kích địa phương, trong đó có nữ du kích Trần Thị Trì trước đây ở tổ du kích bí mật của chị Mạc Thị Bưởi (về thành tích chiến đấu của nữ anh hùng Mạc Thị Bưởi, xin đọc bài “Người con gái quang vinh" của Nguyễn Văn Cấp) đã san phẳng đồn, bắt sống tên đồn trưởng Câu đưa về căn cứ xử tội.
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #48 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:55:54 pm »

Ngày 28/2/1952, giặc Pháp tổ chức một cuộc hành binh lớn gọi là chiến dịch Bô-lê-rô (Bolero) nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang ta ở 4 huyện Kinh Môn, Đông Triều, Chí Linh, Nam Sách hòng bình định trở lại địa bàn Quảng Yên và khu vực ven đường 18, đường số 5 hồi trước chiến dịch Hòa Bình năm 1951. Trọng điểm đánh phá của địch là khu căn cứ du kích Nhị Chiểu (Kinh Môn). Những ngày đầu chiến dịch, địch tiến công xã An Sinh, thăm dò lực lượng của ta, cắt đường liên lạc giữa khu ngoài với căn cứ Nhị Chiểu, đồng thời đánh vào các khu du kích Chí Linh, Đông Triều, Nam Sách.


Ngày 3/7/1952, địch chiếm được Nhị Chiểu, chúng dồn số dân còn lại của 4 xã (Duy Tân, Tân Dân, Phú Thứ và Minh Tân) về các xã vùng tạm chiếm, biến các xã trên thành khu không người. Tình hình Kinh Môn trở nên nghiêm trọng, một số cán bộ và nhân dân sơ tán vào rừng. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy Quảng Yên quyết định đưa bộ đội bằng mọi cách vào Kinh Môn đánh địch, bảo vệ cơ sở, bảo vệ nhân dân; cán bộ lãnh đạo huyện, xã phải trở về "bám đất, bám dân" phục hồi phong trào. Các huyện bạn tích cực chủ động phối hợp tác chiến cùng Kinh Môn phân tán lực lượng, phá càn quét của địch. Các cán bộ lãnh đạo tỉnh vào Kinh Môn trực tiếp chỉ đạo kiểm tra việc thực hiện.


Trước ngày 21/7/1952, đồng chí Vũ Hiền, Thường vụ Tỉnh ủy cũng được phân công về khu ngoài kiểm tra tình hình cùng Huyện ủy lãnh đạo chống càn quét của địch.

Tháng 8/1952, Đại đội 908 cùng hơn 200 đồng bào rút khỏi hang đá Nhị Chiểu về căn cứ. Đại đội 910, chủ công của tiểu đoàn vào thay phiên chiến đấu ở khu hang đá Nhị Chiểu.

Trong thời gian này, bộ đội và đồng bào ở lại trong các hang đá đã nêu cao tinh thần bất khuất, chiến đấu đến cùng trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ, phải chia nhau từng nắm cơm, lon nước, ngày thì túc trực chiến đấu đánh lui những đợt tiến công của địch, đêm thì len lỏi về thôn làng đã bị thiêu hủy tìm thức ăn, cùng nhau cầm hơi đánh giặc. Hàng tháng trời sống và chiến đấu như vậy nhưng tinh thần được động viên giữ vững trước quyết tâm của Tinh ủy dồn sức lãnh đạo chống phá bằng được trận càn ác liệt. Trong tình hình ấy, bài hát “Kinh Môn vùng lên" do Nguyễn Phú Đạt, cán bộ của Tiểu đoàn Bạch Đằng sáng tác ngay trong trận địa hang đá vang lên và nhanh chóng truyền đi, gây một luồng không khí động viên chiến đấu ở các đơn vị và nhân dân toàn huyện. Tôi cũng ca hát với cán bộ chiến sĩ và ngày nay vẫn còn nhớ:

   "Kinh Môn, Kinh Môn...
   Này đây thung xanh còn tanh máu giặc...
   Đây hang Ma, chiến thắng oai hùng.
   ... Lòng đoàn quân Kinh Môn, vì tình dân Kinh Môn
   ... Trong hang tối vẫn sáng ngời vững lời thề chung
   Kinh Môn vùng lên, Kinh Môn vùng lên!..."


Sau 148 ngày đêm, dưới sự lãnh đạo tập trung kiên quyết của Tỉnh ủy, sự phối hợp chiến đấu của huyện bạn, tinh thần dũng cảm ngoan cường của tiểu đoàn chủ lực tỉnh, quân dân Kinh Môn đã đoàn kết, hy sinh chiến đấu buộc địch phải rút hết lực lượng cơ động, chấm dứt chiến dịch Bỏlêrô. Ngày 5/2/1953, địch phải bỏ vị trí Hạ Chiểu (thuộc xã Minh Tân). Khu căn cứ du kích Nhị Chiểu - Kinh Môn trở thành khu căn cứ tự do trong lòng địch.


Sang năm 1953, chiến tranh nhân dân tiên lên một bước mới. Lực lượng của ta đã phát triển lớn mạnh, đồng đều, nhân dân có kinh nghiệm chiến đấu và đấu tranh phong phú. Tiểu Bạch Đằng và các đại đội địa phương chủ động "tìm địch mà đánh" ngay cả vùng bị chiếm đóng sâu nhất như Yên Hưng và Nam Thủy Nguyên. Địch không còn tự do càn quét, trái lại còn lo sợ bị bộ đội, du kích ta tấn công tiêu diệt. Hiện tượng đảo ngũ, đầu hàng trong binh lính địch phát triển.


Ở khu vực Nam Sách, một bộ phận của bộ đội chủ lực tỉnh cùng Đại đội 921 mở rộng khu vực hoạt động của mình, cùng với huyện trang bị thêm vũ khí cho du kích các xã Thanh Quang, Hợp Tiến, Nam Chính.

Trận chống càn ở Thanh Quang ta đã diệt 20 lính Âu Phi, cả tiểu đoàn địch phải rút lui. Sau đó, bộ đội và du kích Thanh Quang - Hợp Tiến - Nam Chính phục kích ở đê La bắt gọn đội vệ sĩ Kim Bịch, thu 20 súng trường (6/1/1953).


Trận Thái Tân tháng 2/1953, bộ đội tỉnh cùng Đại đội 921 và du kích chống càn bắt sống tên quan hai Pháp và 12 lính Âu Phi; sau đó ta tổ chức chặn viện binh diệt 86 tên cùng nhiều tên khác bị thương. Trận đánh càn của Đại đội 921 và du kích An Lâm diệt tên quan hai Các Đa và 17 tên khác. Nổi bật là bộ đội chủ lực tỉnh, bộ đội 921 cùng du kích xã Nam Đồng và khu vực Vối Đụn đã diệt 90 tên, phá hủy 2 xe lội nước (tháng 8/1953). Tiếp đó, ta tiêu diệt bốt Ngô Đồng, Linh Khuê và trừ khử một số Việt gian phản động, nhân dân trong vùng vô cùng phấn khởi. Khu du kích của huyện Nam Sách được mở rộng tới các xã Quốc Tuấn, Hợp Tiến, Nam Hưng, Hiệp Cát, Thái Tân, Đồng Lạc, Phú Điền, Cộng Hòa...


Bước vào năm 1954, bộ đội chủ lực tỉnh và các đại đội huyện Chí Linh, Kinh Môn, Nam Sách tiếp tục phát huy khí thế tiến công, đánh thắng địch nhiều trận; đã phối hợp với quân và dân tỉnh Hải Dương thực hiện nhiệm vụ của ''Chiến dịch tổng công kích đường số 5" phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ giành thắng lợi hoàn toàn...


Trong đợt thi đua giành cờ Quyết chiến quyết thăn2: của Hồ Chủ tịch và cờ Tiểu đoàn gương mẫu của “Liên khu Việt Bắc", Tiểu đoàn Bạch Đằng đã đánh tới 23 trận, diệt 766 tên, bắt sống 324 tên (1/4 trong số đó là lính Âu Phi), thu 532 súng các loại, mở rộng và giữ vững đường dây liên lạc giao thông từ Khu Việt Bắc và Liên khu III, đồng bằng sông Hồng...


Tôi sinh ra và lớn lên ở huyện Kim Môn - tỉnh Hải Dương nhưng công tác và chiến đấu ở Quảng Yên; là Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chính trị viên Tỉnh đội. Tồi có điều kiện dành thời gian xuống cơ sở, đơn vị như họp mặt cán bộ, động viên các chiến sĩ trước khi tiến quân vào địch hậu, khi mừng công, khi chuẩn bị chiến đấu... Tuy nhiên, tôi không thể đi được nhiều cơ sở nên hồi ký có phần hạn chế. Dù sao cũng là những kỷ niệm sâu sắc về cuộc sống chiến đấu trong vùng địch hậu, góp phần tô đậm thêm truyền thống vẻ vang của bộ đội tỉnh Quảng Yên, của quân và dân 3 huyện Nam Sách - Kinh Môn - Chí Linh đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".
Logged
dungnuocgiunuoc
Thành viên
*
Bài viết: 614



« Trả lời #49 vào lúc: 01 Tháng Mười Hai, 2022, 07:56:49 pm »

D - HẢI PHÒNG

CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ KHU CĂN CỨ ĐÈO VOI

NGUYỄN ĐỨC NHIẾP
(Chỉ hội lịch sử quân sự Hải Phòng)


Trong cuộc kháng chiến chống giặc Pháp xâm lược, thành phố Hải Phòng là vùng sâu địch hậu. Cơ quan nào chỉ đạo cuộc kháng chiến là Thành ủy, Ủy ban kháng chiến thành phố Hải Phòng phải đóng ở vùng núi huyện Thủy Nguyên, sau lại chuyển đến khu vực Đèo Voi thuộc huyện Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh) tiếp giáp với huyện Sơn Động (tỉnh Bắc Giang). Vì những nơi này địa bàn hiểm trở, đảm bảo được bí mật và bảo vệ được an toàn.


Lực lượng bảo vệ khu căn cứ Đèo Voi được giao cho Đại đội 1911 của Thành đội Hải Phòng, do các đồng chí Lê Thảo (đại đội trưởng), Phạm Vinh và Bùi Mạnh sĩ (đại đội phó), Nguyễn Quang Triển (chính trị viên) cùng các cán bộ chỉ huy trung, tiểu đội là Nguyễn Minh Tâm, Phan Thọ, Tuấn Hải, Tuấn Thành, Minh Giang, Trần Doãn Trân, Thanh Luận...


Từ khi quân địch phát hiện ra khu căn cứ kháng chiến Đèo Voi, chúng luôn cho máy bay thám thính và nã pháo vào phòng tuyến Bãi Bằng, rồi hành quân tấn công tiêu diệt. Trong những năm 1950 đã có tới 11 lần quân Pháp mở các cuộc hành binh dữ dội, nhưng đều bị quân ta chặn đánh quyết liệt, nhiều tên phải đền tội ác và chịu thua. Nhưng đến ngày 26-11-1950 chúng mở cuộc hành binh thứ 12. Theo quân báo đưa tin là địch tập trung một trung đoàn bộ binh cơ giới tiến quân bao vây và kiên quyết tiêu diệt căn cứ Đèo Voi. Theo lệnh của Ban chỉ huy Thành đội Hải Phòng, Đại đội 1911 sau khi được phổ biến phương án tác chiến cụ thể, có thêm lực lượng dân quân du kích các xã trên địa bàn phối hợp tác chiến, đơn vị được tăng cường một khẩu đội súng cối 81 ly và một trọng liên 12 ly 7. Trận địa của đơn vị được bố trí 3 mũi phòng thủ ở hai bên triền núi đá cao, đồi rừng ở cửa Ngăn sẵn sàng tiếp địch.


Vào hồi 8 giờ sáng ngày 26-11-1950, một lực lượng bộ binh địch đông đảo, có máy bay “Bà già” chỉ điểm, dẫn đường cho hàng loạt pháo cỡ lớn bắn cấp tập vào trận địa ta. Tiếp theo là các tốp lính Âu Phi hung hăng hành quân vào sâu trận địa ta. Đúng như phương án tác chiến của đại đội, chúng đã vấp phải sự đánh trả quyết liệt của lực lượng ta tại các chốt phòng thủ. Hỏa lực của ta ở ba hướng đều phát huy giòn giã ngay từ đầu khiến nhiều tên địch phải gục ngã. Số còn lại vẫn tiến quân nhưng chậm chạp hơn và phân tán lẻ, tỏa ra nhiểu mũi luồn lách vào những cánh rừng sâu. Nhưng đi đâu cũng không thoát vì các đơn vị dân quân du kích đã bố trí ken dầy những bãi mìn và hố chông trên những nẻo đường mòn mà dự đoán quân địch sẽ đi qua. Quả nhiên khi những tên lính đội mũ nồi đỏ còn đang lò dò nhòm ngó thì hàng loạt tiếng mìn nổ rầm trời, bụi khói bốc cao từ nhiều phía, binh lính địch hoảng loạn, kẻ gục ngã, kẻ tháo chạy lại chịu tiếp những loạt súng bắn tỉa của quân ta từ các vách núi. Tên chỉ huy hung hãn cho thổi kèn hội quân xốc lại đội hình tiến men theo bờ rừng, theo đường vào phía chân núi Đá Chồng và Ngọa Vân. Đồng thời gọi hai máy bay chiến đấu bắn như vãi đạn xuống khu vực quân ta. Lực lượng pháo binh từ Đông Triều, Mạo Khê cũng được huy động chi viện.


Trước hỏa lực của không quân và pháo binh địch, để bảo toàn lực lượng, đơn vị được lệnh rời trận địa từ tuyến I về tuyến II phối hợp với lực lượng dân quân du kích địa phương đánh tiêu hao sinh lực địch. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt và dai dẳng đến 11 giờ thì kết thúc. Đoàn quân Âu Phi bại trận phải rút lui đem theo các xe xác chết và những cáng thương, để lại núi rừng những vũng máu đỏ ngòm và xác một máy bay “Bà già” bị cháy dở do hỏa lực của ta bắn đuổi đã đâm đầu vào núi. Đơn vị 1911 bị hy sinh đồng chí Vũ Đức Hiệp cùng một chiến sĩ trong trường hợp bắn súng cối 81 ly thì quả đạn đầu tiên nổ tại chỗ. Các đồng chí Nguyễn Minh Tâm, trung đội trưởng và Phan Thọ, khẩu đội trưởng khẩu đội súng cối 81 ly, cùng một số chiến sĩ khác bị thương. Từ đó giặc Pháp không dám bén mảng đến “thánh địa Đèo Voi” để nộp mạng.


Sau chiến thắng này, đồng chí Minh Giang đã sáng tác bài thơ “Giặc tiến vào Đèo Voi":

   Giặc tiến vào “thánh địa Đèo Voi ”
   Định xóa sổ cơ quan đầu não Hải Phòng
   Tưởng ngon xơi, nhưng nuốt phải mìn, chông
   Vào hùng hổ, khi rút ra thảm hại
   Quân thì nhiều, đạn bắn như mưa vãi
   Chỉ thu về một con số không
   Rừng oai nghiêm Tân Mộc, Đá Chồng
   Năm Mẫu, Khe Châm, Suối Vàng, Suối Bạc
   Hổ Lao, Cái Hàm, ngã ba Chòi Đắc
   Dốc Sọt, Đồng Vành, rừng núi bủa vây
   Phòng tuyến Bãi Bằng quân ta chặn lại
   Máy bay bà già nhòm ngó dò la
   Súng bộ binh từ vách núi bắn ra
   Máy bay lao đầu vào núi rừng tan xác
   Cuộc tiến quân 12 ngày đêm lầm lạc
   Bao xác thù bỏ lại núi rừng xanh
   Khu căn cứ Đèo Voi “thánh địa của Hải Phòng”.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM