Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 06:25:52 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phong trào Nam tiến 1945-1946  (Đọc 4249 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2021, 08:18:04 pm »

Theo đường 21, đến cây số 12 thì gặp phân đội Sơn Nam. Chúng tôi mừng quá báo cáo với các anh tình hình trận chiến đấu. Ban chỉ huy phân đội Sơn Nam bố trí tôi vào tổ trinh sát, chuẩn bị dẫn đường cho các đơn vị đánh chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột.


10 giờ ngày 2 tháng 12 năm 1945, các đơn vị hành quân tiến vào thị xã. Nhân dân thị xã ra báo cho biết, quân địch đã rút từ lúc tờ mờ sáng. Vào tới đồn khố xanh, thấy nhiều thi hài đồng đội và nhân dân còn nằm ngổn ngang. Ban chỉ huy phân đội phân công anh em nhanh chóng thu dọn chiến trường, trước tiên là di chuyển thi hài của đồng đội và nhân dân đưa đi chôn cất chu đáo. Tôi được giao nhiệm vụ phụ trách một tiểu đội đóng tại nhà máy đèn, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ ban chỉ huy mặt trận, vừa làm trợ lý giúp việc cho đồng chí Sơn Vỹ, cán bộ chỉ huy mặt trận.


Bị địch tập kích bất ngờ, khi vừa đặt chân tới thị xã Buôn Ma Thuột, đóng quân ở vị trí bất lợi, lực lượng và trang bị vũ khí ít hơn địch, các chiến sĩ phân đội Đỗ Tín phần đông là thanh niên học sinh tuổi quân mới 3-4 tháng đã chiến đấu rất dũng cảm, gây cho địch nhiều tổn thất, nhưng phân đội bị thiệt hại nặng1 (Nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột đã lấy ngày 27 tháng 10 âm lịch hàng năm là ngày tưởng niệm các liệt sĩ Nam tiến đã hy sinh. Lễ tưởng niệm tổ chức tại đình Lạc Giao. Trong 30 năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, mặc dù địch tìm mọi cách ngăn cản, lễ tưởng niệm vẫn được nhân dân tổ chức hàng năm).


Sáng ngày 2 tháng 12, ban chỉ huy mặt trận giao nhiệm vụ cho các đơn vị nhanh chóng thu dọn chiến trường, giúp đỡ cho nhân dân thị xã sơ tán và di chuyển kho tàng về địa điểm an toàn (từ ki-lô-mét số 82 đến Ca Đa). Các đơn vị giải phóng quân và bộ đội địa phương triển khai lực lượng bố phòng các vị trí trọng yếu. Tự vệ chiến đấu bố trí các tổ chiến đấu và chướng ngại vật trên khắp các đường phố. Hàng ngày, ban chỉ huy các phân đội thường xuyên kiểm tra đôn đốc, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống. Trong sinh hoạt hàng ngày, trước mỗi bữa ăn các tổ dành một phút tưởng niệm những đồng đội đã hy sinh, nhắc nhở thực hiện nghiêm kỷ luật và sẵn sàng chiến đấu.


Khoảng 10 giờ sáng ngày 6 tháng 12, ban chỉ huy mặt trận, đồng chí Sơn Nam cùng một số cán bộ đi kiểm tra các trận địa. Chúng tôi nghe có nhiều tiếng súng nổ ở phía tây nam thị xã và được tin quân Pháp tiếp tục tấn công, đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột bằng lực lượng và trang bị vũ khí mạnh hơn lần trước.


Khi địch tiến đến cầu Xê Rê Pak, lực lượng bảo vệ cầu nổ súng đánh trả quyết liệt, nhưng lượng thuốc nổ không đủ sức phá sập cầu. Địch tràn được qua cầu, đánh vào thị xã.

Các đơn vị giải phóng quân, bộ đội địa phương và tự vệ tổ chức ngăn chặn, gây cho địch nhiều tổn thất. Cuộc chiến đấu diễn ra từ sáng đến chiều. Khoảng 5 giờ chiều, ban chỉ huy mặt trận lệnh cho các đơn vị rút quân về các vị trí đã dự định để bảo tồn lực lượng.


Chiều ngày 6 tháng 12 giặc Pháp đã chiếm được thị xã Buôn Ma Thuột. Ta phát động chiến tranh du kích quấy rối tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch.

Đồng chí Lê Thanh được giao nhiệm vụ trinh sát, tìm cách đánh phá nhà máy thủy điện, làm cho quân địch mất nguồn điện sử dụng.

Lực lượng chiến đấu được chia thành hai bộ phận. Một bộ phận do đồng chí Lê Thanh chỉ huy đánh phá nhà máy thủy điện ở suối Ea Nao, buôn Cô Xia. Một bộ phận do đồng chí Đặng Quân Thụy chỉ huy vượt suối buôn Cô Xia phục kích địch ra ứng cứu.


Đúng như ta dự kiến, khi nhà máy điện bị đánh, nguồn điện bị mất đột ngột, địch đã cho quân ra ứng cứu.

Khi xe chở quân ra tới ngã ba rẽ vào buôn Cô Xia, bộ phận phục kích vừa bố trí xong trận địa, kịp thời nổ súng diệt gần 20 tên, số còn lại hoảng hốt lên xe chạy về thị xã Buôn Ma Thuột.

Bên ta 3 đồng chí bị thương, trong đó có đồng chí Đặng Quân Thụy.

Trung tuần tháng 12 năm 1945, ban chỉ huy mặt trận họp tại Ca Đa, để kiểm điểm tình hình, rút kinh nghiệm các mặt chiến đấu, củng cố chính quyền và các mặt công tác khác, chủ trương tiến công giải phóng Buôn Ma Thuột, triển khai công tác chuẩn bị bầu cử quốc hội và chuẩn bị kháng chiến lâu dài.


Trận đánh lần thứ hai vào thị xã Buôn Ma Thuột có sự tham gia của một số phân đội thuộc chi đội Vi Dân, chi đội Nam Long... diễn ra rất quyết liệt. Do lực lượng chênh lệnh, địch phòng thủ kiên cố, ta chỉ tiêu hao được một số sinh lực địch. Tuy nhiên, trận đánh đã có ảnh hưởng tốt.


Sau trận đánh, một số đơn vị tự vệ tiếp tục hoạt động trong thị xã. Các đơn vị giải phóng quân và bộ đội địa phương rút về phía đường 21 và 14 tổ chức phòng tuyến chiến đấu ngăn chặn địch đánh xuống các tỉnh Khu 5. Từ đây, cùng với lực lượng vũ trang địa phương, bộ đội Nam tiến trên chiến trường Buôn Ma Thuột bước vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2021, 08:19:21 pm »

CHI ĐỘI THU SƠN ĐƠN VỊ GIẢI PHÓNG QUÂN
THUỘC BA TỈNH HÀ NAM NINH
TRONG PHONG TRÀO NAM TIẾN


TRẦN MINH VÂN
Nguyên chính trị viên trung đội, chi đội Thu Sơn


Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình là ba tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nơi có nhân tài vật lực dồi dào. Thành phố Nam Định là thành phố lớn thứ ba ở miền Bắc thời thuộc Pháp, có công nghiệp dệt, đội ngủ công nhân mạnh. Hà Nam Ninh là nơi có truyền thống đánh giặc giữ nước qua các thời đại lịch sử và là một trung tâm văn hóa của đồng bằng Bắc Bộ. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, lực lượng vũ trang cách mạng được tổ chức khá mạnh, bao gồm lực lượng quân sự của chiến khu Quỳnh Lưu (thành lập năm 1944, nơi giáp ranh giữa tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình), đội vũ trang tuyên truyền tỉnh Nam Định, lực lượng tự vệ do Việt Minh tổ chức ở các làng xã đã tham gia khởi nghĩa tháng Tám, các đội tự vệ công nhân nhà máy dệt Nam Định. Ba tỉnh đã tổ chức được bốn chi đội (Ninh Bình một chi đội, Hà Nam một chi đội, Nam Định hai chi đội), trang bị tương đối tốt do thu và mua được khá nhiều vũ khí của Nhật.


Ngày 23 tháng 9 năm 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Nam Ninh gấp rút chuẩn bị lực lượng chi viện cho miền Nam đánh giặc. Đầu tháng 10 năm 1945, đồng chí Thu Sơn, một cán bộ quân sự của Cao Bắc Lạng từng học trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc); từng tham gia đội "Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân", là một tiểu đội trưởng xuất sắc trong các trận đánh đầu tiên của đội, được lệnh của đồng chí Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) về Nam Định nắm tình hình, bàn việc tổ chức lực lượng vũ trang Nam tiến. Chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương lúc đó là đồng chí Hà Kế Tấn, Xứ ủy viên Bắc Kỳ. Do tình hình khẩn trương đồng chí đã quyết định lấy một đại đội thuộc chi đội Lạc Quần và một đại đội thuộc chi đội Ninh Bình thành lập một chi đội lấy tên là chi đội Thu Sơn do đồng chí Thu Sơn làm chi đội trưởng, tổ chức hành quân gấp vào Nam chiến đấu. Chi đội Hà Nam chuẩn bị một đại đội hành quân sau.


Đại đội 1 (Lạc Quần) do đồng chí Đặng Ngọc Tất (quản khố đỏ cũ) làm đại đội trưởng, đồng chí Lê Phù Sai (tức Thạch Sơn) làm chính trị viên. Hầu hết cán bộ, chiến sĩ là đội viên tự vệ đã tham gia khởi nghĩa tháng Tám, một số là cựu binh theo cách mạng, một số là công nhân tự vệ nhà máy dệt Nam Định, là học sinh tham gia phong trào Việt Minh và cán bộ đội vũ trang tuyên truyền của tỉnh Nam Định. Số cán bộ này đã được học lớp quân sự một tháng của Bộ Tổng tham mưu tại Hà Nội trước khởi nghĩa.


Đại đội 2 (Ninh Bình) nòng cốt là cán bộ chiến sĩ thuộc chiến khu Quỳnh Lưu đã từng tham gia đánh Nhật, có trận đã tiêu diệt địch và thu nhiều vũ khí. Cán bộ, chiến sĩ hầu hết là người Ninh Bình và một số của Việt Bắc. Đại đội trưởng là đồng chí Đặng Văn Thành, chính trị viên là đồng chí Quý.


Quân số mỗi đại đội khoảng 150 người chia thành 3 trung đội. Mỗi trung đội có 3 tiểu đội. Mỗi tiểu đội 13 người kể cả cán bộ tiểu đội. Đại đội bộ có tổ liên lạc, trinh sát, y tá và quản trị trưởng. Trung đội cũng có liên lạc, trinh sát, cứu thương và cấp dưỡng.


Về vũ khí, chi đội được trang bị khá đầy đủ (so với lúc đó), cán bộ đại đội có súng ngắn, cán bộ trung đội có tiểu liên, chiến sĩ có súng trường (kiểu súng Pháp, Nhật, Trung Hoa), lựu đạn, có một số súng phóng lựu đạn Nhật, súng cối 60 và trung liên.


Về trang phục, đại đội 1 được trang bị tương đối đầy đủ, mỗi người 2 đồng phục màu xanh và màu nâu bằng vải của nhà máy dệt Nam Định. Đại đội 2 được trang bị quần áo ka ki (quân phục của quân Pháp cũ).


Do tình hình khẩn trương, bộ đội được tập kết ở Đồng Giao (nay là nông trường Đồng Giao, thị trấn Tam Điệp), vừa là nơi làm lễ thành lập chi đội, vừa là nơi xuất phát bằng tàu hỏa đi vào Nam. Một ngày cuối tháng 10 năm 1945, khoảng 2 giờ chiều, bộ đội đã tập kết đầy đủ ở ga Đồng Giao. Dự lễ thành lập và xuất phát hành quân có đồng chí Hoàng Sâm, Khu trưởng Chiến khu 2 và các đại biểu hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình. Khai mạc buổi lễ, đồng chí Hoàng Sâm tuyên bố thành lập chi đội, giao nhiệm vụ cho chi đội, trao tặng một thanh kiếm và một lá cờ Tổ quốc, động viên cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đồng chí Thu Sơn thay mặt chi đội hứa với Khu trưởng và đại biểu hai tỉnh kiên quyết thành mọi nhiệm vụ trên chiến trường. Đồng chí dặn dò cán bộ chiến sĩ đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, giữ nghiêm kỷ luật, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tốt. Buổi lễ diễn ra nghiêm trang, giản dị trong không khí phấn khởi được lên đường Nam tiến cùng quân và dân Nam Bộ đánh kẻ thù xâm lược. Trước khi lên tàu, toàn chi đội sôi nổi, say sưa hát vang những bài ca cách mạng.


Cùng đi trên chuyến tàu với đơn vị có một viên đại tá quân Tưởng có nhiệm vụ giao dịch, hạn chế khó khăn do quân Tưởng gây ra trên đường hành quân. Đồng chí Thu Sơn biết tiếng Trung Quốc cũng thuận lợi trong việc giao dịch. Tuy vậy cũng có lúc quân Tưởng gây căng thẳng (ở Huế). Chi đội được lệnh sẵn sàng chiến đấu để tự bảo vệ, song rồi cũng được thu xếp ổn thỏa.


Nửa tháng hành quân là thời gian bộ đội được động viên, cổ vũ, giáo dục sâu sắc. Đến ga nào cũng có đồng bào mang cờ hoa, khẩu hiệu ra đón tiếp, ở các ga chính, nơi cung cấp bữa ăn cho đơn vị hoặc nơi đơn vị dừng nghỉ ngơi một vài ngày thường có đại biểu chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương đến chào mừng, thăm hỏi, tặng quà bánh, trao các suất ăn đến từng chiến sĩ. Khí thế sôi nổi, hoan nghênh và cổ vũ tinh thần chiến đấu của bộ đội Nam tiến trên dọc đường hành quân của đồng bào đã cổ vũ niềm tự hào và trách nhiệm của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Ấn tượng sâu sắc nhất là khi đơn vị đến Quảng Ngãi, được nghỉ ba ngày, được đi tham quan, gặp gỡ các đại biểu đến thăm đơn vị, thăm một số gia đình đồng bào thôn xóm xung quanh thị xã Quảng Ngãi. Cán bộ chiến sĩ chi đội được tận mắt chứng kiến tinh thần cách mạng sôi động và mạnh mẽ của nhân dân, quyết tâm chiến đấu đến cùng để bảo vệ nền độc lập dân tộc vừa giành được. Tình cảm của nhân dân, các mẹ chiến sĩ, các em thiếu nhi rất thắm thiết, chân thực càng củng cố quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị.


Tàu vào đến Ninh Hòa gần đèo Rù Rì. Chi đội xuống hành quân bộ vào Diên Khánh là tỉnh lỵ của tỉnh Khánh Hòa cách Nha Trang khoảng 10km, trú quân tại xã Trường Lạc cạnh quốc lộ 1A, lối đi Nha Trang và đi Cam Ranh.


Đầu tháng 11 năm 1945, chi đội nhận được lệnh của Ủy ban quân chính Nam Trung Bộ tăng cường cho mặt trận Nha Trang. Đồng chí Trần Công Khanh, chỉ huy trưởng mặt trận Nha Trang trực tiếp đến nơi đóng quân để nhận đơn vị, nắm tình hình và giao nhiệm vụ chiến đấu cho chi đội.


Tháng 10 năm 1945, sau khi phá vỡ mặt trận Bắc Sài Gòn, Bộ chỉ huy Pháp tập trung gần một vạn quân tinh nhuệ gồm phần lớn sư đoàn thiết giáp số 2 (2èDB), trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 (5èRIC) cùng không quân và tàu chiến mở cuộc tấn công theo hai hướng, phía đông theo quốc lộ số 1A đánh ra Nha Trang và phía tây theo quốc lộ 14 đánh lên Buôn Ma Thuôt với âm mưu đánh chiếm Nam Trung Bộ ra đến vĩ tuyến 16 trong vòng vài tháng. Cùng lúc đó, Bộ tư lệnh quân Anh ra lệnh cho quân Nhật đồn trú ở các thành phố, thị xã Quy Nhơn, Tuy Hòa, Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết, Đà Lạt bung ra chiếm giữ các vị trí quan trọng để phối hợp với các cánh quân của Pháp.


Ngày 22 tháng 10 năm 1945, quân Pháp tiến đánh Nha Trang. Sau những trận chiến đấu quyết liệt, gây cho địch nhiều tổn thất, đêm 23 tháng 10 ta chủ động rút ra khỏi thành phố, tổ chức trận địa bao vây quân địch. Quân Pháp ráo riết tập trung lực lượng chuẩn bị đợt tấn công mới hòng phá vỡ trận địa ta.


Được giao nhiệm vụ, chi đội Thu Sơn khẩn trương hành quân vào thay phiên cho đơn vị bạn ở khu vực ga Phú Vinh với nhiệm vụ tích cực bám sát, đánh tiêu hao tiêu diệt từng bộ phận địch, ngăn chặn cuộc tấn công của chúng, giữ vững trận địa.


Lực lượng địch ở ga Phú Vinh có một tiểu đoàn quân Pháp và một số tổ chức Việt gian. Chúng xây dựng lô cốt trên tháp nước nhà ga và trong nhà ga, có hàng rào dây thép gai và mìn, được pháo ở tàu chiến, phi cơ và pháo binh yểm hộ.


Trận địa của chi đội là những dãy chiến hào lẫn trong các làng mạc, một số đoạn có nắp sơ sài, các ụ súng được xếp bằng các bao cát. Phía trước các đại đội có những đội tiền tiêu bám sát địch, cách khoảng 200 mét. Đại đội 1 chiếm lĩnh trận địa bên phải ở khu vực nhà thờ "Khói đồng". Bên trái là đại đội 2 tại khu vực "cây đa xóm giếng". Các đại đội tranh thủ củng cố công sự làm thêm hầm hào để cơ động và chống phi pháo.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2021, 08:20:06 pm »

Từ ngày 19 tháng 11 năm 1945, sáu tiểu đoàn quân Pháp có máy bay, đại bác và tàu chiến yểm hộ chia làm nhiều mũi tiến công trên toàn mặt trận Nha Trang hòng phá vỡ trận địa và tiêu diệt lực lượng ta. Tuy quân địch có ưu thế áp đảo cả về xung lực và hỏa lực, các đơn vị ta vẫn bám sát trận địa, dũng cảm ngoan cường chiến đấu, bẻ gãy, đẩy lùi các mũi tiến công của địch, gây cho chúng nhiều thương vong. Chiến sự diễn ra quyết liệt. Nhân dân sơ tán, chỉ còn bộ đội chiến đấu cùng dân quân phối hợp đánh địch và tiếp tế hậu cần, tải thương.


Chi đội Thu Sơn tổ chức từng tổ, từng tiểu đội có lúc từng trung đội chiến đấu ngày đêm bám sát địch, tập kích, phục kích tiêu diệt những toán quân tuần tiễu và từng bộ phận địch lấn ra hoặc dùng súng cối bẳn phá vào trận địa địch làm cho chúng mất ăn mất ngủ. Nhiều gương chiến đấu rất dũng cảm của cán bộ chiến sĩ xuất hiện. Trung đội trưởng Vân (đại đội 2) là học sinh Huế, người cao to luôn đeo bên mình một thanh kiếm Nhật hăng hái dẫn đầu đơn vị chiến đấu. Anh đã anh dũng hy sinh trong một trận đánh quân tuần tiễu địch.


Sau nhiều lần đánh phá trận địa ta không được, vào lúc 0 giờ ngày 24 tháng 11 năm 1945, một tiểu đoàn lê dương Pháp lợi dụng đêm tối bất ngờ từ ga Phú Vinh tiến đánh trận địa ta. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Một số cán bộ chiến sĩ bị thương vong, số còn lại vẫn kiên cường chiến đấu dưới hỏa lực phi pháo địch trong suốt ngày 24. Có đơn vị phải đánh giáp lá cà. xung phong đuổi địch về sát ga Phú Vinh. Xác địch chết ngổn ngang trên cánh đồng. Đồng chí Trần Công Khanh, chỉ huy trưởng mặt trận Nha Trang trực tiếp tham gia chiến đấu, chỉ huy bộ đội xung phong diệt địch. Vừa chạy theo bộ đội anh vừa hô "Các chiến sĩ Việt Nam hãy anh dũng tiến lên, giết, giết hết bọn thực dân xâm lược". Khí thế tiến công thật dũng mãnh.


Sau trận thất bại này, quân Pháp phải rút bỏ một số đồn bốt nhỏ lẻ, co về giữ thành phố Nha Trang để đợi quân tiếp viện. Chi đội giữ vững trận địa tiếp tục chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận nhỏ của dịch. Cuối tháng 1 năm 1946, chi đội được lệnh rút về phía sau củng cố lực lượng. Chi đội Bắc Bắc đến thay phiên.


Sau khi có quân tăng viện từ Pháp sang, Bộ chỉ huy quân Pháp tập trung 15.000 quân, tổ chức cuộc tấn công lần thứ hai đánh ra miền Nam Trung Bộ. Ngày 28 tháng 1 năm 1946, địch chiếm Phan Rang. Từ đây chúng chia làm hai mũi tiến đánh Nha Trang và Phan Thiết.


Ngày 28 tháng 1, đại đội 2 được lệnh rút về Diên Khánh, đại đội 1 hành quân xuống Ba Ngòi để ngăn chặn cánh quân phía nam của địch. Sáng 29, đại đội 1 hành quân vào đến suối Dầu thì địch đã chiếm Ba Ngòi, nên được lệnh hành quân về Đồng Tranh. Đầu tháng 2, toàn chi đội tập trung ở khu vực Đồng Tranh, Đất Sét. Củng cố được vài ngày thì có lệnh hành quân theo đường núi qua đường 21 về Sông Cầu, tỉnh lỵ Phú Yên.


Lúc này, cánh quân phía tây của địch đã từ Tây Nguyên tiến chiếm Ninh Hòa và kiểm soát đường 21. Từ Diên Khánh ra Đồng Tranh, Đất Sét đến Sông Cầu theo đường núi khoảng 200 ki-lô-mét. Bản đồ không có, lương thực chuẩn bị được có 3 ngày, lại không có người dẫn đường, bộ đội cứ theo dấu hành quân của đơn vị trước mà đi. Ra đến đường 21 thì gặp địch, đánh nhau một hồi thì địch rút, ta tiếp tục hành quân.


Một tuần hành quân vất vả, vừa đi vừa đánh nhau với địch, chi đội đã ra đến Đồng Bò thuộc huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Sau một tuần nghỉ ngơi, được cung cấp lương thực, ăn uống bình thường, sức khỏe hồi phục, đơn vị tiếp tục hành quân ra Sông Cầu nhận lệnh mới.

Ba tháng liên tục chiến đấu và hành quân, sức khỏe bộ đội giảm sút, một số thương vong, số ốm đau, thương binh nặng được chuyển tiếp ra Bắc điều trị. Đơn vị được bổ sung, chấn chỉnh tổ chức. Theo chủ trương của trên, các lực lượng từ Nha Trang rút ra củng cố được tổ chức thành chi đội 3 Sông Cầu, trong đó có đại đội 1 chi đội Thu Sơn do đồng chí Hữu Thành chỉ huy.


Sau Hiệp định sơ bộ 6 tháng 3 năm 1946, một số cán bộ của chi đội được cử đi học Trường lục quân Quảng Ngãi. Đồng chí Thành đại đội trưởng đại đội 2 được bổ sung về trung đoàn tiếp phòng quân Đà Nẵng do đồng chí Nam Long làm trung đoàn trưởng.


Tháng 4 năm 1946, trung đoàn 79 được thành lập ở Phú Yên do đồng chí Thu Sơn làm trung đoàn trưởng. Lực lượng nòng cốt của trung đoàn này là các đơn vị của chi đội Thu Sơn cũ. Tháng 5 năm 1946, trung đoàn 79 cùng trung đoàn 80 của tỉnh Phú Yên do đồng chí Hữu Thành chỉ huy cơ động từ Phú Yên vào, tấn công phá hủy gần hết chi khu Vạn Giã, đánh thiệt hại nặng cứ điểm Hiền Lương, diệt và làm bị thương 150 tên địch, thu 100 súng các loại. Trung đoàn 79 tiếp tục chiến đấu trên địa bàn Nam Trung Bộ trong suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.


Là một đơn vị mới được thành lập sau Cách mạng tháng Tám, lực lượng còn non trẻ, tổ chức chưa thống nhất, trang bị còn lạc hậu so với địch, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, chi đội Thu Sơn là một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có lòng tin vững chắc vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.


Chỉ trong một thời gian ngắn, từ tháng 10 năm 1945 đến tháng 4 năm 1946, chi đội đã tổ chức hành quân, chiến đấu trong tình hình rất khẩn trương, tuy còn nhiều thiếu sót bỡ ngỡ, nhưng đã nêu cao tinh thần chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, của nhân dân Hà Nam Ninh, nhân dân miền Nam Trung Bộ và nhân dân toàn quốc.


Chi đội đã tỏ rõ sức mạnh của một đội quân cách mạng, phát huy truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, có tinh thần kỷ luật tự giác cao, tinh thần đoàn kết chiến đấu trong đơn vị và tình đoàn kết quân dân tốt, kiên quyết triệt để chấp hành mệnh lệnh cấp trên trong lúc thường cũng như lúc chiến đấu, dũng cảm ngoan cường chiến đấu, không ngại hy sinh, khó khăn gian khổ mặc dầu phải đương đầu với một đội quân nhà nghề có kinh nghiệm và trang bị mạnh hơn ta nhiều lần.


Chi đội Thu Sơn ra đời và hoạt động trong một thời gian rất ngắn, nhưng đã cùng với các chi đội Nam tiến khác và quân dân miền Nam Trung Bộ ở mặt trận Nha Trang bao vây tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quân địch, kìm chân chúng được 3 tháng, chặn đứng mũi tiến quân phía đông của giặc, góp phần làm thất bại âm mưu của Bộ chỉ huy Pháp đánh chiếm nam phần Trung Bộ đến vĩ tuyến 16 trong vòng vài tháng, tạo điều kiện cho các tỉnh phía sau có thời gian chuẩn bị chiến đấu. Đây là một trong những chiến công to lớn trong những ngày đầu chống Pháp ở miền Nam, góp một phần kinh nghiệm thực tế cho cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:17:04 pm »

CÁN BỘ TRƯỜNG QUÂN CHÍNH TRUNG ƯƠNG KHÓA 4 VÀ 5
NAM TIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC


Thiếu tướng TRẦN ĐÌNH CỬU


Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công được gần một tháng, Chính phủ quyết định mở ở Hà Nội Trường quân chính Trung ương khóa 4 (tiền thân là Trường quân chính kháng Nhật ở Việt Bắc, đã mở 3 khóa).


Khóa 4 mở ở trường phổ thông trung học phố Cửa Bắc. Thời gian huấn luyện là 15 ngày, bế giảng đầu tháng 10 năm 1945.

Vào thời gian này, không khí cách mạng rất sôi động. Sau ngày Tổng khởi nghĩa, tuyên bố độc lập (2 tháng 9) khí thế quần chúng lên rất cao, nhưng tình hình có rất nhiều khó khăn.

Ở Nam Bộ, thực dân Pháp núp sau quân Đồng minh, khởi hấn đánh chiếm Sài Gòn (ngày 23 tháng 9 năm 1945) buộc nhân dân Sài Gòn - Gia Định phải đứng lên chiến đấu bảo vệ nền độc lập.

Ở Bắc Bộ (đến vĩ tuyến 16) quân Tưởng Giới Thạch cũng với danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp phát xít Nhật, đem theo bọn phản động là Việt quốc, Việt cách về quấy rối hòng lật đổ Chính phủ ta.


Trong tình hình khẩn trương đó, cùng với phong trào Nam tiến của các đơn vị (chi đội Nam Long, Vi Dân, Bắc Bắc...), Chính phủ chọn 72 học sinh tốt nghiệp khóa 4 Trường quân chính Trung ương Nam tiến. Cuộc tiễn đưa được tổ chức long trọng tại thủ đô Hà Nội do đồng chí Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến thành phố chủ trì.


Sau khóa 4, Trường quân chính Trung ương tiếp tục mở khóa 5. Do tình hình phức tạp (quân Tưởng gây sức ép không cho ta mở trường quân sự), nên ta lấy tên công khai là Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam.


Khóa 5 mở ở khu Việt Nam Học xá (Bạch Mai, Hà Nội). Thời gian học một tháng từ 15 tháng 10 đến 15 tháng 11 năm 1945. Số lượng học sinh khoảng 400, lựa chọn trong những thanh niên ưu tú, cốt cán của Mặt trận Việt Minh, đã được thử thách, rèn luyện trong Cách mạng tháng Tám và tiền khởi nghĩa. Từ Huế trở ra do Mặt trận Việt Minh tỉnh giới thiệu.

Trong ngày khai giảng và bế giảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự và dặn dò học sinh.

Sau ngày bế giảng, đồng chí Trần Văn Giàu, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Bộ và đồng chí Huỳnh Tấn Phát, ủy viên thông tin tuyên truyền Ủy ban hành chính kháng chiến Nam Bộ đã đến thăm và nói chuyện với học sinh về tình hình chiến sự ở Sài Gòn về đất nước con người Nam Bộ và động viên anh em Nam tiến. Tất cả 400 học sinh đều xung phong lên đường.


Theo chỉ thị của trên, nhà trường chọn 64 đồng chí gửi vào Nam Bộ giao cho đồng chí Huỳnh Tấn Phát làm trưởng đoàn dẫn đi.

Sáng sớm ngày 20 tháng 11 năm 1945, đồng chí Trần Tử Bình, ủy viên chính trị nhà trường bí mật tiễn đưa 64 anh em tại ga Vọng (Hà Nội). Cuối tháng 11, vào đến thị trấn Ninh Hòa (Khánh Hòa) đoàn phải nghỉ lại vì địch đã chiếm thành phố Nha Trang. Đồng chí Huỳnh Tấn Phát xin ý kiến của Ủy ban kháng chiến miền Nam cho đi đường 21, đến thị xã Buôn Ma Thuột, đi tiếp theo đường 14 đến ngã ba biên giới rồi vào miền Đông Nam Bộ. Vì là đường mới nên chỉ chọn 25 đồng chí đi trước mở đường. Đến thị xã Buôn Ma Thuột, đoàn cán bộ phải chiến đấu với tàn quân Pháp có sự giúp đỡ của tàn quân Nhật. Trận này, ta hy sinh 9 học sinh. Đồng chí Phát lại chọn một học sinh (đồng chí Trần Đình Cửu) quay trở lại Ninh Hòa, đi bộ vào Bình Thuận đến Mũi Né (Phan Thiết) theo đường biển (nhờ ghe nước mắm của dân) vào Phước Hải (Bà Rịa). Sau đó, đi bộ qua Long Thành (Biên Hòa) đến Gia Định (Dĩ An, Thủ Đức, An Phú Đông).


Đồng chí Cửu được giao nhiệm vụ làm công tác vận động quần chúng, tuyên truyền cho tổng tuyển cử Quốc hội ở xã Thạnh Lộc (Hóc Môn). Trung tuần tháng 1 năm 1946, đồng chí Phát đưa đồng chí Cửu lên Khu bộ Khu 7 đóng ở Tân Uyên (Biên Hòa) gặp Khu trưởng Nguyễn Bình nhận công tác.


Số học sinh trong đoàn Nam tiến còn lại ở Ninh Hòa và Buôn Ma Thuột gặp nhiều khó khăn trên đường hành quân vào Nam Bộ, không có người dẫn đường vì địch đã mở rộng phạm vi chiếm đóng. Theo chỉ thị của trên và kết hợp với nguyện vọng của anh em, đoàn chia thành ba nhóm: một nhóm ở lại chiến đấu ở mặt trận Buôn Ma Thuột và các tỉnh miền Trung, một nhóm trở ra Bắc nhận nhiệm vụ mới, một nhóm gồm 5 đồng chí (Đặng Văn Quế, Nguyễn Công Minh, Hoàng Đức Bình, Cao Huy Thúc, Nguyễn Văn Nhự) kiên quyết xin tiếp tục vào Nam Bộ chiến đấu. Năm đồng chí này được đồng chí Kiều Đắc Thẳng (cán bộ quân giới) đưa đi đường bộ, băng rừng Phan Thiết vào đến Dầu Giây, Long Thành đến Tân Uyên (Biên Hòa) gặp Khu trưởng Nguyễn Bình nhận nhiệm vụ. Đồng chí Đặng Văn Quế được cử làm chỉ huy phó mặt trận B Tân Uyên cùng với đồng chí Hồng An làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Minh Thi làm chính trị viên...


25 đồng chí học sinh khóa 4 (trong số 72 đồng chí Nam tiến) đã vào đến Nam Bộ từ cuối tháng 10 năm 1945, được phân công nhiệm vụ ở các mặt trận và các tỉnh miền Đông Nam Bộ (Trảng Bom, Xuân Lộc (Biên Hòa); Bà Rịa, Thuận Lợi, Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một); Gia Định, Tây Ninh); có đồng chí đi Khu 9.


Các học sinh khóa 4 đã chiến đấu ở nhiều mặt trận miền Đông, mở các lớp huấn luyện và trường bồi dưỡng cán bộ cho các chi đội và tỉnh đội, làm chính trị viên đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, phòng chính trị Khu 7, chính trị viên tỉnh đội trong những ngày đầu kháng chiến.


Cuối năm 1945, đầu năm 1946, học sinh khóa 5 có 6 người vào đến Nam Bộ (trong số 64 người) sau chặng đường hành quân chiến đấu vất vả (9 đồng chí hy sinh ở mặt trận Buôn Ma Thuột), các đồng chí này đã nhận nhiệm vụ chiến đấu ở mặt trận Tân Uyên (Biên Hòa), chiến khu Đ, mở lớp huấn luyện cán bộ ở khu, tham gia lãnh đạo và huấn luyện ở Trường quân chính Khu 7 (do đồng chí Nguyễn Xuân Diệu phụ trách), mở Trường quân chính khóa 1 và 2 ở Khu 8 rồi làm chính trị viên đại đội, tiểu đoàn bộ đội chủ lực ở các khu 7, 8, 9.


Học sinh khóa 4, khóa 5 vào đến Nam Bộ đều gắn bó với đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, có đồng chí sau này trong kháng chiến chống Mỹ, Nam tiến lần thứ hai. Nhiều đồng chí đã hy sinh, nay chỉ còn lại 9 đồng chí còn sống, gần đây đã liên lạc được với nhau (4 đồng chí ở Nam Bộ)...


Đánh giá các hoạt động của số cán bộ Trường quân chính Trung ương khóa (4 và 5), không thể tách rời phong trào Nam tiến trong cả nước.


Đây là một vấn đề lớn, phạm vi rộng, cần phải có ý kiến của các đồng chí lãnh đạo Nam Bộ, các Bộ tư lệnh khu 7, 8, 9 trong thời kỳ đó, phải có nhiều ý kiến của các nhân chứng lịch sử đã Nam tiến.


Là một nhân chứng lịch sử (học sinh khóa 5), tôi xin phát biểu vài suy nghĩ của mình đóng góp vào kho tàng kinh nghiệm quý báu của lịch sử quân đội.

1- Phong trào Nam tiến của các chi đội, các cán bộ Trung ương tăng cường cho Nam Bộ lúc đầu kháng chiến chỉ là một lực lượng nhỏ (cả về số lượng và trang bị vũ khí) so với lực lượng rất to lớn của quân và dân Nam Bộ lúc đó.

Về quân sự, lực lượng Nam tiến không làm chuyển biến được tình hình về chiến lược, chiến dịch mà chỉ góp phần làm chậm bước tiến của địch, tạo điều kiện cho quân dân Nam Bộ tổ chức lại lực lượng chuẩn bị kháng chiến lâu dài.


Nhưng về mặt trận chính trị - tinh thần, phong trào Nam tiến có ý nghĩa lịch sử rất to lớn. Nó góp phần cổ vũ nhân dân Nam Bộ nói chung, nhân dân Sài Gòn - Gia Định nói riêng anh dũng chiến đấu trong những ngày đầu kháng chiến rất khó khăn, vững lòng tin vào Chính phủ Trung ương do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, tạo niềm tin sâu sắc, tăng cường sự đoàn kết của cả nước chống quân xâm lược, xây dựng tình đoàn kết Bắc - Trung - Nam, củng cố niềm tin vào thắng lợi cuối cùng. Trong hoàn cảnh lúc đó, điều này rất quan trọng, thậm chí là cơ bản nhất để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Không có niềm tin làm cơ sở, không thể chiến thắng được.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:18:02 pm »

2- Lực lượng cán bộ Nam tiến đã góp phần tích cực vào việc Xây dựng lực lượng vũ trang ở Nam Bộ.

Những ngày đầu kháng chiến, lực lượng vũ trang ở Nam Bộ có lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm chiến đấu, nhưng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cơ sở (trung đội, đại đội, tiểu đoàn) chưa có đủ hiểu biết về quân sự và chính trị, chưa biết các nguyên tắc và phương pháp của công tác chính trị tư tưởng trong quân đội, chưa nắm được đường lối, tư tưởng quân sự cách mạng, chiến thuật du kích... (ta mới chỉ tranh thủ đươc một số sĩ quan, hạ sĩ quan, binh lính có lòng yêu nước trong quân đội Pháp cũ và một số hạ sĩ quan, binh lính Nhật theo cách mạng), vì vậy trước lực lượng mạnh về tổ chức và trang bị của địch, ta mau bị vỡ mặt trận.


Đó là chưa kể đến một số lượng quân sự vô chính trị (như đệ tam sư đoàn...) xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, làm giảm lòng tin của dân đối với quân đội.

Trong tình hình đó, bên cạnh các chi đội Nam tiến còn có một số cán bộ được Trung ương tăng cường cho Nam Bộ. Cấp khu có đồng chí Hoàng Đình Giong, Trung ương ủy viên (tức đồng chí Vũ Đức), đồng chí Nguyễn Bình, ở cơ sở có một số cán bộ Trường quân chính Trung ương (khóa 4, 5). Lực lượng này đã có tác dụng nhất định đối với việc tăng cường chất lượng lực lượng vũ trang ở Nam Bộ trong những ngày đầu kháng chiến.


Về mặt chỉ đạo, các đồng chí có cương vị (Vũ Đức, Nguyễn Bình) đã góp phần cùng lãnh đạo Nam Bộ, các khu thống nhất lực lượng, thống nhất tổ chức, thống nhất chỉ huy.

Đối với các đơn vị từ trung đoàn, tỉnh đội, tiểu đoàn, đại đội, trung đội, các cán bộ Trường quân chính Trung ương bên cạnh việc chỉ huy chiến đấu trên một số mặt trận, đóng góp chủ yếu là huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, mở nhiều trường lớp quân sự ở cả 3 khu (7, 8, 9); truyền đạt tư tưởng quân sự, đường lối quân sự của Đảng như chiến tranh nhân dân, quân đội nhân dân, cách đánh du kích, công tác chính trị trong quân đội, xây dựng chất lượng chính trị, mục tiêu chiến đấu cho người chiến sĩ...


Có thể nói, việc xây dựng về chính trị vừa có ý nghĩa góp phần củng cố lực lượng vũ trang ở Nam Bộ những năm đầu kháng chiến, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với việc nâng cao sức chiến đấu của các lực lượng vũ trang ở Nam Bộ trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhiều cán bộ được huấn luyện từ các lớp đầu tiên, sau này trở thành cán bộ cao cấp trong quân đội.


Còn phải kể đến tác dụng của một số cán bộ Trường quân chính Trung ương trên các lĩnh vực khác, như có đồng chí được phân công ngay từ đầu làm công tác vận động quần chúng, được Đảng giao nhiệm vụ làm trưởng ban Hoa vận Trung ương Cục, phụ trách Hoa kiều vụ Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp...


Từ vai trò, ý nghĩa lịch sử của các lực lượng và phong trào Nam tiến có thể rút ra một số bài học thực tiễn:

Một là: Phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi".

Dân tộc Việt Nam ta có truyền thống đoàn kết chiến đấu. Dưới thời Pháp thuộc, trước Cách mạng tháng Tám biết bao đảng viên cộng sản quê ở miền Bắc, miền Trung đã sát cánh cùng đồng bào, đồng chí miền Nam hoạt động chính trị, chiến đấu kiên cường (như Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh...).


Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, địch trở lại chiếm Sài Gòn và Nam Bộ. Mặc dù miền Bắc cũng đang gặp nhiều khó khăn phức tạp (nạn đói, nạn quân Tưởng, nạn dốt...), nhưng luôn nghĩ tới miền Nam, tới phong trào Nam tiến, gửi nhân tài vật lực vào miền Nam. Số lượng tuy chưa nhiều, nhưng vào thời kỳ lịch sử đó, khi cách mạng còn đang trong thời kỳ trứng nước, cả nước chỉ có năm ngàn đảng viên cộng sản thì số cán bộ này thật đáng quý. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Trung ương lại tiếp tục tăng cường cán bộ, cử nhiều đoàn cán bộ vào miền Nam.


Đến cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này thì ý chí Nước Việt Nam là một lại càng mạnh. Miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn. Hàng chục vạn thanh niên miền Bác "xẻ dọc Trường Sơn" vào chiến đấu cùng đồng bào đồng chí ở miền Nam. Cuối cùng, các quân đoàn chủ lực thần tốc cùng đồng bào miền Nam tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Truyền thống đoàn kết Bắc - Nam thật quý báu. Không phải chỉ có Nam tiến. Khi chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979, miền Nam cũng hướng ra miền Bắc, cử những người con yêu quý của mình cùng đồng bào miền Bắc chiến đấu (Quân khu 7 cử sư đoàn 303 ra Quân khu 3 để lên chiến đấu ở biên giới).


Bài học đó có ý nghĩa thực tiễn đối với việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong tình hình hiện nay và bước vào thế kỷ XXI, đoàn kết trong nước và Việt kiều ở ngoài nước, nhất định chúng ta sẽ xây dựng được đất nước Việt Nam công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.


Hai là: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, bất cứ việc gi nếu có cán bộ tốt thì thành công".

Ngay từ những năm hai mươi đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã coi trọng việc đào tạo những thanh niên ưu tú cho cách mạng. Từ khi về nước năm 1941, Bác Hồ càng chăm lo bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ. Cách mạng tháng Tám thành công, dù đất nước gặp muôn vàn khó khăn phức tạp, dù bận trăm công nghìn việc, Bác Hồ và Chính phủ vẫn chăm lo huấn luyện đào tạo cán bộ, chủ trương mở Trường quân chính Trung ương ở Hà Nội để đào tạo những thanh niên ưu tú được thử thách rèn luyện trong phong trào quần chúng. Đây là một chủ trương rất đúng đắn, sáng suốt, có tầm nhìn chiến lược lâu dài. Bác Hồ đích thân đến khai giảng, bế giảng lớp học, dặn hò thắm thiết như tình cha con. Các đồng chí lãnh đạo Đảng cũng dành thời gian đến giảng dạy. Thời gian học tuy ngắn nhưng phù hợp với tình hình nhiệm vụ lúc ấy. Nội dung học rất thiết thực, cần thiết cho trước mắt và hướng cho cán bộ tiếp tục học tập phục vụ lâu dài cho cách mạng. Sự quan tâm của Bác và Trung ương đã để lại ấn tượng sâu sắc trong học sinh và có tác dụng rất lớn về sau này. Nhiều học sinh Trường quân chính Trung ương khóa 4, 5 đã trở thành những cán bộ cao cấp, những tướng lĩnh trong quân đội ta và những cán bộ cấp cao trên các lĩnh vực khác của cơ quan nhà nước.


Ngày nay trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa bài học "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc..." vẫn có ý nghĩa thực tiễn nóng hổi. Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) đã có nghị quyết chuyên đề về chiến lược cán bộ đến năm 2020.


Thực tiễn đòi hỏi ta phải khẩn trương đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tài năng cao rộng để kế tục đội ngủ cán bộ hiện nay. Nếu không có đội ngũ cán bộ kế tiếp thì sự nghiệp cách mạng có thể sẽ gặp khó khăn, hoặc chuẩn bị không kỹ thì có thể có nguy cơ chệch hướng vì âm mưu "diễn biến hòa bình" của địch đang nhằm vào thế hệ con cháu chúng ta.


Bác Hồ đã dặn dò học sinh khóa 5: "Muốn đi vào Sài Gòn, phải đi theo hướng nam qua các tỉnh Thanh Hóa, Vinh, Huế, Nha Trang,... Đã có phương hướng sẵn anh em cứ theo đó mà đi, đến tỉnh nào, phải qua các con sông, hòn núi gì, anh em sẽ tìm hỏi sau. Miễn là biết theo phương nam mà tiến chứ đừng lầm đường đi ngược lên bắc là được". Đó là lời dặn dò rất sâu sắc cho chúng ta ngày nay đang xây dựng nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là: Một trong những nguyên tắc cơ bản xây dựng quân đội chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại là phải xây dựng về chính trị làm cơ sở.

Những nội dung quân sự, chính trị của Trường quân chinh Trung ương được truyền đạt cho cán bộ và chiến sĩ ta ở Nam Bộ đã góp phần xây dựng chính trị tư tưởng, tăng cường công tác đảng - công tác chính trị cho các lực lượng vũ trang ở Nam Bộ trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.


Trên đây là một số vấn đề thực tiễn rút ra từ phong trào Nam tiến của các cán bộ Trường quân chính Trung ương; những vấn đề cho đến nay vẫn rất cơ bản trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:21:22 pm »

TỪ KHÓA 5 TRƯỜNG QUÂN CHÍNH VIỆT NAM
ĐẾN CÁC KHÓA ĐÀO TẠO CÁN BỘ QUÂN SỰ Ở NAM BỘ


ĐẶNG VĂN QUẾ


Tôi xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước. Cha tôi thi đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1900), nhưng không chịu ra làm quan cho chế độ đương thời mà tham gia hoạt động chống Pháp trong tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội. Năm 1908, ông bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 9 năm. Năm 1916, ông được ra tù về quê bí mật hoạt động. Năm 1931 ông lâm bệnh rồi mất. Mẹ tôi là con gái đầu của cụ Phan Trọng Mưu, một thân sĩ Cần vương hoạt động chống Pháp cùng cụ Phan Đình Phùng. Khi cha tôi bị Pháp đày đi Côn Đảo, bà thoát ly gia đình (danh nghĩa đi buôn chuyến) cùng bà Nguyễn Thị Thanh (chị ruột Bác Hồ) hoạt động giao liên cho Hội văn thân Nghệ Tĩnh. Năm 1918, sau khi sinh tôi được 8 tháng bà chẳng may bị bệnh mất. Sau khi cha tôi qua đời, tôi phải đến trông con và chăn trâu cho người chị gái. Năm 1934, cụ Phan Bội Châu (bạn đồng khoa và là người cùng hoạt động chống Pháp với cha tôi) cho người đón tôi vào Huế nuôi, dạy cho học chữ Hán. Năm 1937, do không muốn tôi trở thành gánh nặng cho cụ Phan, anh ruột tôi đã điện cho tôi về quê và giữ luôn ở nhà. Ba năm sống với cụ Phan được cụ dạy dỗ và được tiếp xúc với những người yêu nước như các ông Phan Đăng Lưu, Huỳnh Thúc Kháng, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp... tôi đã có nhiều hiểu biết mới.


Năm 1942, tôi ra Thanh Hóa nhờ cậu ruột (Phan Quốc Lương) tìm việc làm thì gặp ông Hoàng Văn Khải (bạn tù Côn Đảo với cha tôi và đã gặp tôi lúc tôi ở với cụ Phan). Ông Khải nhân danh người của "tổ chức yêu nước", khuyên tôi học chữ Nhật để làm việc cho "tổ chức". Tôi tin tưởng và vui vẻ nhận lời. Sau hơn một năm theo học, với những điều tai nghe mắt thấy, lại được ông Đặng Thai Mai và Hoàng Đạo Thuý cho biết tình hình thời cuộc, tôi nhận ra sai lầm, lấy cớ đi tránh máy bay Mỹ để bỏ học trở về Thanh Hóa (cuối năm 1943). Tháng 4 năm 1945, tôi ra Hà Nội được ông Trần Phụng giới thiệu với tổ chức Việt Minh tại xưởng đúc Ăngtimoan (Phà Đen, Hà Nội) và được gặp các ông: Trần Vĩnh Phúc, Hoàng Tiêu Diêu (tức Hoàng Xuân Tùy nguyên Thứ trưởng Bộ đại học), Lê Thành Châu (tức Lê Bá Hoan, nguyên giám đốc Nhà xuất bản Khoa học). Từ đó tôi được tổ chức đưa lên chiến khu Yên Dũng (ấp Trường An) tỉnh Bắc Giang để huấn luyện tự vệ và in tài liệu Việt Minh.


Tháng 9 năm 1945, tôi cùng một số đồng chí trong tổ được lệnh lên trung tâm tỉnh lỵ Bắc Giang tham dự cuộc mít tinh chào mừng ngày độc lập. Sau khi dự mít tinh về, tất cả anh chị em trong tổ nhất trí kéo nhau lên tỉnh xin gia nhập giải phóng quân và được ban chỉ huy quân sự tỉnh (đồng chí Lộc Giang là chỉ huy trưởng, đồng chí Hà Thị Quế là chính trị viên, đồng chí Nguyễn Văn Hoạt (tức Lê Quang Đạo, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (là chính trị viên phó) chấp nhận). Thế là từ đấy cả tổ công tác của tôi đều trở thành đội viên giải phóng quân của Ủy ban quân sự tỉnh Bắc Giang. Sau đó tôi được chuvển vào một đại đội làm nhiệm vụ án ngữ đường Sơn Tây đi Hòa Bình. Tại đây, qua một kỳ sát hạch tôi được điều về Hà Nội học ở Trường cán bộ Việt Nam khóa 5 (cũng gọi là Trường quân chính Trung ương), tiền thân là Trường quân chính kháng Nhật ở Việt Bắc. Từ khi trường chuyển về Hà Nội đã mở được 1 khóa (khóa 4) học ở trường phổ thông trung học Cửa Bắc. Khóa 5 học ở Việt Nam Học xá (Bạch Mai). Giám đốc nhà trường lúc này là đồng chí đại tá Nguyễn Khắc An, ủy viên chính trị trường là đồng chí Trần Tử Bình, ủy viên quân sự trường là đồng chí Trương Công Quyền. Khóa học khai giảng ngày 15 tháng 10 kết thúc ngày 15 tháng 11 năm 1945. Thời gian học 1 tháng, số lượng học viên khoảng 400 người. Nội dung chương trình gồm:

- Chính trị:
+ Tình hình trong nước và thế giới, nhiệm vụ cách mạng.
+ Chương trình Việt Minh, 5 bước công tác cách mạng.
+ Đạo đức cách mạng, phương pháp làm việc.
+ Công tác chính trị trong quân đội.
+ 10 lời thề danh dự - 12 điều kỷ luật.

- Quân sự:
+ Động tác cơ bản.
+ Đội hình chiến đấu (tiểu đội, trung đội và biết đến đội hình đại đội).
+ Chiến thuật du kích.
+ Đi dã ngoại (bắn súng trường và ném lựu đạn).

- Giáo viên:
+ Ngày khai giảng được Hồ Chủ tịch đến dự.
+ Ngoài các đồng chí giáo viên của trường có các đồng chi lãnh đạo (Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Hữu Nam) lần lượt đến giảng về thời sự trong nước và quốc tế, đạo đức cách mạng, phương pháp làm việc.


Ngày bế giảng (15 tháng 11), Hồ Chủ tịch đến dự, nói chuyện căn dặn học viên. Sau ngày bế giảng đồng chí Trần Văn Giàu (Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng Nam Bộ) và đồng chí Huỳnh Tấn Phát (Ủy viên tuyên truyền Ủy ban nhân dân cách mạng, đại biểu thanh niên Nam Bộ) đến thăm và nói chuyện với học sinh của trường về tình hình Nam Bộ và kêu gọi Nam tiến. Cuộc nói chuyện của đồng chí Trần Văn Giàu hấp dẫn và khơi động rất lớn đối với tinh thần Nam tiến của học sinh.


Sau khi kết thúc khóa học (khóa 5), học viên của các tỉnh Trung Bộ cử đi, đều được trở về tỉnh nhà nhận nhiệm vụ. Bộ Quốc phòng chỉ chọn trong số học viên của các tỉnh Bắc Bộ được 64 đồng chí để gửi vào Nam do đồng chí Huỳnh Tấn Phát làm trưởng đoàn dẫn đường. Tình hình chính trị ở Hà Nội lúc này rất căng thẳng (bọn Việt quốc, Việt cách cố tình gây rối phá hoại, tổ chức bắt cóc, ám sát cán bộ ta) nên các học sinh luôn phải cảnh giác sẵn sàng chiến đấu và triệt để chấp hành mệnh lệnh của Chính phủ.


Sáng 20 tháng 11 năm 1945, đồng chí Trần Tử Bình thay mặt lãnh đạo nhà trường bí mật tiễn đưa 64 anh em học viên chúng tôi lên tàu hỏa, hành quân vào Nam1 (Trong số học viên khóa 5 cùng đi Nam tiến, tôi còn nhớ một số đồng chí: Trần Đình Cửu, Cao Huy Thúc, Nguyễn Công Minh, Nguyễn Văn Nhự, Vũ Liên, Nguyễn Văn Hiếu, Hoàng Đức Bình...). Tất cả anh em đều mặc thường phục, mỗi người được cấp 1 giấy giới thiệu và 1 chứng nhận kết quả học tập ở trường.


Đoàn bí mật rời Hà Nội. Nhưng suốt chặng đường từ ga Vinh vào đến Ninh Hòa, không khí cuộc hành quân rất hào hùng phấn khởi. Khi tàu dừng ở các ga lớn, đồng bào ra rất đông đón chào, tặng quà, động viên rất nhiệt tình. Nhiều người vẫy cờ, hô khẩu hiệu, giơ nắm tay chào theo kiểu Việt Minh. Khoảng cuối tháng 11 năm 1945, đoàn vào tới Ninh Hòa, phải nghỉ lại đây nhiều ngày vì địch đã đánh chiếm thành phố Nha Trang.


Sau khi đến Ninh Hòa được mấy hôm, đồng chí Huỳnh Tấn Phát dẫn 25 người đi đường Buôn Ma Thuột; số còn lại nằm tại Ninh Hòa cùng đồng chí Trương Công Nhân (tức bác sĩ Trương Công Cán) chờ kế hoạch tìm đường vào Nam Bộ. Số anh em đi đường Buôn Ma Thuột bị địch phục kích, 9 đồng chí hy sinh. Căn cứ vào nguyện vọng của anh em trong đoàn và qua trao đổi, xin chỉ thị cấp trên, số anh em còn lại của đoàn hình thành 3 nhóm: một số xin nhận công tác tại các tỉnh miền Trung, một số xin trở ra Bắc, số còn lại được tiếp tục vào Nam Bộ chiến đấu (gồm 6 người: Cửu, Thúc, Nhự, Minh, Bình và tôi). Đồng chí Cửu đi cùng đồng chí Huỳnh Tấn Phát dò đường, còn lại 5 anh em được anh Kiều Đắc Thắng (cán bộ quân giới) dẫn đường xuyên rừng Phan Thiết qua Dầu Giây, Long Thành vào Tân Uyên (nơi đóng cơ quan đầu não kháng chiến của Nam Bộ lúc bấy giờ).


Tháng 1 năm 1946 vào đến Tân Uyên, sau khi xuất trình giấy giới thiệu, chúng tôi được Khu bố trí về công tác ở các đơn vị. Tôi được đồng chí Phan Đình Công (bạn quen biết nhau từ ngày học tiếng Nhật ở Hà Nội đang làm thư ký cho Khu trưởng Nguyễn Bình) dẫn vào gặp đồng chí Nguyễn Bình và được giao nhiệm vụ chỉ huy phó mặt trận B của mặt trận Tân Uyên (Biên Hòa). Ban chỉ huy mặt trận B gồm: Hồng An (người Tày, là du kích Việt Bắc) chỉ huy trưởng, Hoàng Minh Thi (du kích Ba Tơ Quảng Ngãi) chính trị viên và tôi, chỉ huy phó. Chúng tôi vừa nhận nhiệm vụ được một tuần thì quân Pháp mở cuộc tấn công ồ ạt vào căn cứ Tân Uyên bằng đường bộ, tàu bay, tàu thủy. Đường bộ gồm lính Âu Phi, Anh Ấn và ngụy quân bao vây ta từ đêm. Sáng sớm máy bay địch đã bắn phá, dưới sông Đồng Nai tàu địch bắn lên. Quân ta vừa nổ súng chặn địch, vừa rút về căn cứ dự bị (suối Cá, Lạc An). Trận đánh diễn ra từ sáng sớm đến 4 giờ chiều mới chấm dứt. Địch chiếm được thị trấn Tân Uyên, ta rút sâu vào rừng. Khoảng 5 giờ chiều, tại Bưng Kè (suối Cá), Khu trưởng Nguyễn Bình tập hợp lực lượng bố trí phòng thủ. Đơn vị tôi còn một trung đội (gồm 3 phân đội). Sau khi Tân Uyên thất thủ, ban chỉ huy mặt trận B chỉ còn lại mình tôi nên Khu bộ rút tôi về giao nhiệm vu tổ trưởng huấn luyện (thuộc phòng quân huấn). Tôi cùng một số cán bộ (Trần Đình Cửu, Nguyễn Trọng Nghĩa, Đinh Ngọc Ngộ....) tổ chức ở Bưng Kè được hai khóa huấn luyện, mỗi khóa 15 ngày. Học viên hai khóa này là cán bộ phân đội, trung đội ở các chi đội gửi về như chi đội 1 (Thủ Dầu Một), chi đội 6 (Gia Định), chi đội 10 (Biên Hòa)...
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 03 Tháng Sáu, 2021, 09:21:58 pm »

Sau khi huấn luyện xong hai khóa, do địch tấn công, càn quét ráo riết không thể tiếp tục mở lớp, cán bộ, giáo viên được tổ chức thành một đơn vị cơ động chiến đấu. Trong trận Quới Xuân (vùng Lái Thiêu), đơn vị phục kích diệt gọn 1 tiểu đội địch đi càn. Sau đó, do tình hình khó khăn chưa thể tiếp tục mở lớp, quân khu điều một số cán bộ nhà trường đi các đơn vị trong quân khu. Tôi và đồng chí Trần Đình Cửu được điều về Trường quân chính Khu 7 (do đồng chí Xuân Diệu phụ trách) cùng 2 đồng chí Nguyễn Mạnh Liên, Nguyễn Quang Phục (học viên khóa 4 Trường cán bộ Việt Nam). Sau khi sáp nhập, trường tổ chức lớp huấn luyện lấy tên là "lớp Võ Nguyên Giáp" tại một ngôi chùa thuộc xã Khánh Vân (tỉnh Thủ Dầu Một) huấn luyện khoảng 50 học viên là cán bộ tiểu đội, trung đội của các đơn vị và một số thanh niên ưu tú do các tỉnh trong khu giới thiệu về. Sau 15 ngày huấn luyện, khóa học vừa kết thúc cũng là lúc địch càn quét đốt phá chùa. Cán bộ và học viên phải rút vào rừng, tổ chức bế giảng.


Sau đó, chúng tôi chuẩn bị mở tiếp một lớp nữa ở ấp 4 xã Vĩnh Lộc thuộc Chợ Lớn (nay là quận Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh) thì gặp địch càn lớn vào ấp. Cán bộ và học viên phải phân tán ra bưng chống càn. Từ đây, Trường quân chính Khu 7 trong tình trạng "vô địa khả thi" nên một số cán bộ trở về Sài Gòn hoạt động bí mật, một số đi tăng cường cho các đơn vị. Lúc này Quân khu 8 mới thành lập, đồng chí Trần Văn Trà giao nhiệm vụ cho hai chúng tôi vừa đi tuyên truyền huấn luyện dân quân du kích, vừa mở lớp bồi dưỡng cán bộ Việt Minh cho huyện Mộc Hóa (tại kinh Năm Ngàn xã Tân Ninh) rồi điều xuống Mỹ Tho mở một lớp huấn luyện cho chi đội 17 và một lớp huấn luyện cán bộ Việt Minh cho tỉnh Mỹ Tho ở Ấp Bắc (huyện Cai Lậy). Tôi còn nhớ, trong số anh em học viên của lớp học mở cho chi đội 17 có đồng chí Nguyễn Hoài Pho là học viên xuất sắc nhất, sau là cán bộ cao cấp của quân đội và đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp.


Cuối 1946, Quân khu lại điều hai chúng tôi về khu giao cho thành lập Trường quân chính Khu 8. Ban giám đốc nhà trường gồm Nguyễn Văn Quạn (tham mưu trưởng quân khu) làm giám đốc, đồng chí Trần Đình Cửu làm chính trị viên kiêm giáo viên chính trị, tôi làm phó giám đốc, kiêm giáo viên chính trị. Trường tổ chức huấn luyện khóa đầu tiên thời gian một tháng cho cán bộ phân đội, trung đội tuyển chọn từ các chi đội, tỉnh đội trong quân khu tại trung tâm Đồng Tháp Mười. Đây là lớp thí điểm nên học viên chỉ có khoảng 50 người, tổ chức thành một trung đội. Hai học viên xuất sắc của lớp là Nguyễn Văn Tiến, Đặng Văn Sơ.


Cuối khóa học, Bộ tư lệnh khu chủ trương đưa học viên đi thực hành chiến đấu. Đúng ngày mồng một Tết âm lịch (22 tháng 1 năm 1947), trung đội học sinh do đồng chí Cửu làm chính trị viên phối hợp với chi đội 17 và 18 đánh trận Cổ Cò (thuộc huyện Cái Bè, Tiền Giang). Trận đánh thắng lợi, ta diệt một số xe, thu vũ khí và quân dụng. Sau trận này đồng chí Cửu và tôi được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương.


Sau khóa 1, Bộ tư lệnh khu quyết định mở tiếp khóa 2 và thành lập đại đội chủ lực đầu tiên của khu (đại đội xung phong) do đồng chí Nguyễn Doãn Bảy (quê Thanh Chương, Nghệ An, nguyên là học viên phân hiệu lục quân Nam Trung Bộ) làm đại đội trưởng; đồng chí Nguyễn Văn Hải (quê Thạch Hà, Hà Tĩnh) làm đại đội phó và tôi làm chính trị viên. Kết thúc khóa 2, Khu chủ trương cho đại đội xung phong và đại đội học viên phối hợp với các chi đội 17, 18 và dân quân du kích địa phương đánh trận giao thông chiến Giồng Dứa (thuộc huyện Châu Thành, Mỹ Tho) cách ngã ba Trung Lương khoảng 10km (cuối tháng 4 năm 1947). Trận đánh do Khu trưởng Trần Văn Trà chỉ huy. Sau một giờ chiến đấu, ta diệt gọn đại đội Âu Phi cùng tên chỉ huy là đại tá Ro Ka (người Pháp), đốt cháy 13 trong số 42 xe, thu nhiều chiến lợi phẩm khác, bắt một số tên trong chính phủ bù nhìn (đốc phủ Tâm, trạng sư Rùn...) gây tiếng vang và tác động lớn. Bên ta hy sinh đồng chí Nguyễn Doãn Bảy và một liên lạc.


Sau chiến thắng Giồng Dứa, đồng chí Cửu và tôi được công nhận là đảng viên chính thức và được đi học lớp bổ túc huyện ủy viên của Xứ ủy Nam Bộ mở (khóa Lý Tử Trọng) do đồng chí Hà Huy Giáp phụ trách giám đốc. Khóa học kết thúc đồng chí Nguyễn Bình điều tôi về Trường quân chính Khu 7 và tiếp tục mở khóa Huỳnh Thúc Kháng tại Giồng Lớn (Đức Huệ, Tân An).


Sau khóa Huỳnh Thúc Kháng, do địa điểm mở lớp và việc tiếp tế gặp khó khăn, chúng tôi đề nghị Bộ tư lệnh khu cho trường được mở lớp tiếp theo tại Khu 8 để được giúp đỡ lương thực thực phẩm và bảo đảm an toàn. Thành phần chiêu sinh là cán bộ tiểu đội, trung đội của chi đội, mỗi nơi cử một tiểu đội có trang bị súng trường, súng máy để có thể vừa học, vừa hành quân chiến đấu từ Khu 7 xuống Khu 8. Khóa này (kể cả số của Khu 8 gửi) khoảng 200 người, địa điểm được chọn là xã Đại Giang, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Khóa học mang tên "khóa Hoàng Hữu Nam”, thời gian hai tháng. Giám đốc là đồng chí Nguyễn Xuân Diệu, ủy viên quân sự là đồng chí Võ Trịnh Quân, ủy viên chính trị bí thư hiệu ủy nhà trường là Đặng Văn Quế, đồng chí Trần Đình Cửu là giáo viên chính trị.


Hiệu ủy chủ trương, trong thời gian khóa học (2 tháng), trường sẽ kết hợp với đơn vị cũ điều tra, tuyên truyền giáo dục và kết nạp số học viên ưu tú vào Đảng để khi trở về đơn vị sẽ là những cốt cán chỉ huy.


Sau khóa Hoàng Hữu Nam, Bộ tư lệnh khu cho trường được mở một lớp tương đối quy mô (tại xã Phù Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Bà Rịa) khoảng 200 học viên gồm các cán bộ trung đội và một số cán bộ tiểu đoàn từ các đơn vị trong toàn khu, một số do trung đoàn 82 của Bình Thuận gửi vào. Khóa học lấy tên là "khóa Phan Chu Trinh”, thời gian học 2 tháng. Khóa học có tác dụng tốt, góp phần nâng cao tính thống nhất trong lực lượng vũ trang của toàn khu. Số đảng viên mới kết nạp trong khóa học góp phần củng cố, phát triển đảng trong Đảng bộ Quân khu, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng chính trị cho lực lượng vũ trang ở Nam Bộ.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:13:08 pm »

CÁC CHI ĐỘI GIẢI PHÓNG QUÂN NAM TlẾN
Ở NHA TRANG - KHÁNH HÒA


Thiếu tướng HÀ VI TÙNG


Tôi quê ở Tuyên Quang, trước năm 1945 học ở Hà Nội tại trường Văn Lang. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3 năm 1945), tôi bỏ học về nhà ở Tuyên Quang và theo lời khuyên của bạn bè, đi làm viên chức ăn lương công nhật ở ty Địa chính Tuyên Quang. Trong thời gian đó được tổ chức vào Mặt trận Việt Minh trong Đoàn Thanh niên cứu quốc ở thị xã Tuyên Quang. Tháng 5 năm 1945 tôi được đoàn thể giao nhiệm vụ lấy một số bản đồ tỉnh Tuyên Quang ở kho bản đồ ở ty Địa chính giao lên cấp trên, đồng thời tổ chức một tiểu đội tự vệ chiến đấu trong số các anh em thanh niên ở thị xã và viên chức của các ty Địa chính, Bưu điện, Thú y... hoạt động tuyên truyền gây cơ sở cách mạng ở thị xã. Đến giữa tháng 8 năm 1945, phân đội tự vệ của tôi được sáp nhập vào một đại đội giải phóng quân ở chiến khu về, chuẩn bị đánh quân Nhật đóng ở thành Tuyên Quang. Song, lực lượng quân địch đông hơn ta nhiều, hỏa lực mạnh và bố trí trong thành có công sự kiên cố nên chưa được lệnh tiến công. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, đồng chí Hoàng Văn Thái ở Lục An Châu về tìm tôi để cùng đi quan sát cách bố phòng của địch ở thành Tuyên Quang. Đồng chí cũng nhận thấy không đánh được nên đã chỉ thị cho tôi chuyển sang công tác tuyên truyền quần chúng tiếp tục vận động chính trị gây cơ sở trong thị xã chuẩn bị khởi nghĩa cướp chính quyền ở Tuyên Quang.


Sau khi khởi nghĩa thắng lợi được ít lâu, tôi được cấp trên cử về Hà Nội theo học khóa huấn luyện của Trường cán bộ Việt Nam, đào tạo cấp tốc về chính trị, quân sự. Khóa học được tổ chức tại khu Việt Nam Học xá và một phần ở trường trung học phổ thông Cửa Bắc lúc bấỵ giờ. Hạ tuần tháng 8 âm lịch năm đó, sau khi được Ủy ban kháng chiến Hà Nội cho dự ngày hội rằm tháng 8 với các em thiếu niên nhi đồng Thủ đô, chúng tôi nhận lệnh lên đường Nam tiến bằng xe lửa. Đến Huế dừng lại một buổi nghe anh Phan Tử Lăng nói chuyện về tình hình mặt trận miền Nam. Gần một tuần lễ sau, anh em chúng tôi được trên phân công ở lại một số địa bàn thuộc miền Trung và Nam Trung Bộ (7 đồng chí được phân công ở lại Đà Nẵng và Bình Định, 3 đồng chí được phân công ở Phú Yên, 4 đồng chí được phân công ở Khánh Hòa). Lúc này, quân Nhật vẫn còn nhiều đơn vị đóng ở Đà Nẵng, Nha Trang. Nha Trang còn là nơi đóng quân của cơ quan đại diện lực lượng Đồng minh ở Nam Việt Nam. Tại Nha Trang, Nhật có một sư đoàn bộ binh thiếu, gồm hơn 6.000 lính trong đó nhiều tên ốm, đau vì bại trận ở Miến Điện mới rút về, cùng với 1200 người Pháp gồm dân thường và viên chức trong các cơ quan của Pháp bị Nhật bắt giam từ cuộc đảo chính 9 tháng 3 năm 1945. Số này được quân Anh cho ra khỏi trại giam và trang bị vũ khí, tổ chức thành đơn vị chiến đấu. Các đơn vị quân Nhật được chỉ huy Anh bố trí ở các khu: nhà ga, kho bạc, kho đạn, bến tàu, Grand Hotel; quân Pháp thì đóng ở khu sân bay Nha Trang, là lực lượng trực tiếp bảo vệ cơ quan chỉ huy Đồng minh ở Nha Trang.


Tôi cùng mấy anh em được phân công về Khánh Hòa, đến gặp chủ nhiệm Việt Minh tỉnh. Sau khi nghe phổ biến tình hình, chúng tôi được giao nhiệm vụ mở ngay lớp đào tạo cấp tốc cán bộ chính trị quân sự cho Khánh Hòa. Lực lượng tại chỗ của Khánh Hòa lúc này có khoảng một đại đội tập trung, tuyển mộ từ những thanh niên nòng cốt trong các đoàn thể Việt Minh tỉnh. Cán bộ chỉ huy trung đội đều là cựu binh sĩ yêu nước. Nội dung huấn luyện của lớp học gồm: về chính trị học chương trình Việt Minh; về quân sự học chiến thuật du kích và kinh nghiệm đánh Nhật của cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ở khu giải phóng Việt Bắc. Ngoài ra còn học công tác chính trị trong bộ đội cách mạng. Tôi được phân công giảng chương trình Việt Minh. Học viên rất phấn khởi nghe những bài giảng về dân chủ mới, về quyền tự do bầu cử, về tổ chức quốc hội của nước nhà mới giành được độc lập, về nam nữ bình quyền (nhất là đối với các học viên nữ). Đó là những bài học tôi đã được nghe giảng ở Trường cán bộ Việt Nam do các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng giảng dạy. Một đồng chí khác được phân công giảng về cách đánh du kích và kinh nghiệm đánh du kích ở chiến trường Việt Bắc dựa vào những bài giảng của đồng chí Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trần Tử Bình trong lớp học của Trường cán bộ Việt Nam ở Hà Nội. Sau khi mở được 2 lớp đào tạo cấp tốc, tôi được giao nhiệm vụ làm chính trị viên đại đội Khánh Hòa bố trí tại bắc sông Cái. Công tác chính trị ở đại đội lúc đó chủ yếu là giáo dục cho chiến sĩ tinh thần đoàn kết quân dân để xây dựng đất nước và chiến đấu chống quân xâm lược; đồng thời mở lớp bình dân học vụ dạy cho chiến sĩ đọc và viết; dạy và hướng dẫn cho anh em hát các bài ca cách mạng.


Trên mặt trận Nha Trang lúc đó, ngoài dân quân du kích đã bắt đầu được tổ chức ở các xã, lực lượng võ trang tập trung của Khánh Hòa chỉ có một đại đội. Còn lại đều là những đơn vị Nam tiến từ các tỉnh, các chiến khu ở miền Bắc và miền Trung Trung Bộ được Bác Hồ và Trung ương phái vào, ngày đêm đang hành quân gấp để kịp chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ đánh chặn bước tiến của giặc Pháp. Nghệ An có 1 đại đội, Quảng Trị có 1 trung đội do anh Lê Hữu Sở là trung đội trưởng, Thuận Hóa có 1 tiểu đoàn do anh Thế Lâm là tiểu đoàn trưởng; Quảng Ngãi có 1 tiểu đoàn được mang tên tiểu đoàn Lê Trung Đình do anh Lê Kích là tiểu đoàn trưởng... Từ miền Đông Nam Bộ rút ra sau khi Phan Thiết và Phan Rang đã bị địch chiếm, có đại đội do Nguyễn Văn Vĩnh là đại đội trưởng và Nam Hồ là đại đội phó. Chi đội Nam Long đã đánh địch ở Phan Thiết, Phan Rang ra... Chi đội đã dừng lại ở mặt trận Nha Trang một thời gian ngắn, hiệp đồng với lực lượng tại chỗ đánh trận tập kích thắng lợi giòn giã ở ga Phú Vinh. Sau đó, theo kế hoạch tiến lên mặt trận Tây Nguyên. Một bộ phận lực lượng của chi đội Thu Sơn cũng đã tới mặt trận Nha Trang đầu tháng 11 năm 1945. Trung tuần tháng giêng 1946, chi đội Bắc Bắc vào đến Khánh Hòa. Đây là đơn vị Nam tiến tập trung, trang bị đầy đủ, quần áo và vũ khí thống nhất, mang phong độ một đơn vị chính quy thực sự, gây lòng tin tưởng mạnh mẽ cho quân dân ở mặt trận. Như vậy có khoảng 10 đơn vị đã được Bác Hồ và Trung ương Đảng giao nhiệm vụ cấp tốc vào Nam Trung Bộ chiến đấu. Những chỉ thị mà chúng tôi được phổ biến hồi đó, đều nói rõ Bác Hồ và Trung ương Đảng nhận định địch đang tập trưng binh lực mạnh phối hợp nhiều binh quân chủng hiện đại ở nhiều hướng để chiếm đóng lại kỳ được Nha Trang hòng cắt đường tiếp tế liên lạc của cả nước với Nam Bộ. Quân dân Nam Trung Bộ và cả nước phải giữ vững được đường liên lạc giao thông từ Bắc và Trung Bộ vào qua Nam Trung Bộ để chi viện Nam Bộ đánh bại âm mưu xâm lược của giặc Pháp. Lúc đầu, anh em chúng tôi chỉ nhận thấy hình thức tác chiến và cách đánh hiệu quả nhất là tổ chức trận địa phòng ngự với các tuyến chiến hào, giao thông hào kết hợp công sự chiến đấu chắc chán chống lại pháo và bom địch, giữ Nha Trang càng lâu càng tốt và đánh cho địch phải tổn thất nặng ở mặt trận này. Tuyến phòng thủ đầu tiên đặt ở hướng từ Xóm Bóng qua Bretelle đến phía nam cầu Dứa chiều sâu phòng thủ đến 100 mét, có 18 ki-lô-mét chiến hào, nhiều công sự kiên cố cho bộ binh chiến đấu và các trận địa hỏa lực. Nhưng với lối đánh của địch hồi đó là tiến công mạnh ở chính diện phối hợp với vu hồi lớn, đánh vào đằng sau lưng và cạnh sườn của ta, nhờ phương tiện cơ động và hỏa lực ở ngoài biển, ở mặt đất, ở trên không mạnh hơn ta hàng trăm lần... những phòng tuyến đó thực sự không thể giữ được thời gian lâu. Đầu tháng 1 năm 1946, đồng chí Võ Nguyên Giáp vào thị sát mặt trận Nha Trang đã phân tích tình hình, đề ra những ý kiến chỉ đạo hết sức quý giá giúp cho toàn mặt trận giữ được thế chủ động chiến đấu với địch, thực hiện được kế hoạch bao vây tiêu hao quân địch và giam chân chúng trong 101 ngày tại mặt trận Nha Trang, bảo đảm cho việc tiếp tế, chi viện lực lượng cho Nam Bộ thời gian đó thành công; đồng thời bảo đảm cho các địa bàn ở hậu phương từ Nha Trang trở ra có thêm thời gian chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến lâu dài với quân xâm lược.


Sau khi mặt trận Nha Trang chuyển hình thái chiến đấu, đơn vị chúng tôi còn lại gần 2 trung đội (khoảng 50 đồng chí). Tôi lại đi tìm gặp anh Minh Vỹ (lúc đó là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến Khánh Hòa) xin chỉ thị cho đơn vị tiếp tục hoạt động ở địa bàn Khánh Hòa. Anh Minh Vỹ rất mừng và phân công cho đại đội tôi trụ giữ địa bàn. Chúng tôi còn tích cực tìm bắt liên lạc với anh Lư Giang (lực lượng còn hơn 1 đại đội) và anh Nguyễn Văn Vĩnh, anh Nam Hồ (lực lượng cũng còn khoảng 1 đại đội) đang đóng quân ở các vùng Tứ Thôn, Đại Điền. Chúng tôi cùng nhau bàn bạc phối hợp để trụ lại ở trong vùng địch đang kiểm soát và giữ liên lạc với vùng tự do ở phía bắc và tây thành phố Nha Trang, tiếp tục đánh địch.


Chúng tôi trụ lại được ở Khánh Hòa là nhờ học được kinh nghiệm đánh du kích của giải phóng quân ở Việt Bắc và vận dụng được những bài học về xây dựng quan hệ quân dân như cá với nước, đoàn kết chiến đấu ở các khóa học Trường cán bộ Việt Nam. Hòa với dân để xây dựng cơ sở, giữ địa bàn và chiến đấu lâu dài với quân giặc. Đó là điều tâm niệm, ghi nhớ sâu sắc.


Nhìn lại, mặt trận Khánh Hòa, Nha Trang thời gian ấy, mặc dù quân địch tập trung lực lượng rất mạnh và phối hợp nhiều hướng tấn công, nhưng hậu phương ta vẫn vững vàng, lòng dân tin tưởng vào chính quyền, vào bộ đội cách mạng. Có được như vậy là nhờ sự tập trung chỉ đạo của Trung ương Đảng và Bác Hồ, luôn theo sát tình hình mặt trận, không ngừng tăng cường lực lượng vào mặt trận, liên tục tạo thế mạnh cho quân và dân Nam Bộ, Cực Nam Trung Bộ đánh địch về quân sự, về chính trị. Ngay sau Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945, tại mặt trận Nam Trung Bộ, thanh thể của du kích Ba Tơ, lực lượng nòng cốt trong tiểu đoàn Nam tiến Lê Trung Đình (Quảng Ngãi) đã vang dội. Tiếp đó, nhiều đợt quân Nam tiến từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung nườm nượp vào chiến đấu bên cạnh lực lượng vũ trang tại chỗ. Khi tình hình khó khăn, chi đội Bắc Bắc lại vào tiếp, tổ chức chặt chẽ, trang bị đầy đủ khiến cho không khí phấn khởi lại nổi lên, giúp địa phương khắc phục những khó khăn trước mắt.


Ở Nha Trang, Khánh Hòa, lực lượng vũ trang địa phương trong mấy tháng trời ròng rã đã kiên cường chiến đấu; các tầng lớp nhân dân quên mình, quên nhà ủng hộ chiến đấu nên đã đánh chặn được quân địch. Có lực lượng Nam tiến vào tiếp sức, quân và dân Khánh Hòa giữ được mặt trận trong hơn 100 ngày, bảo đảm được cuộc tổng tuyển cử ngày 6 tháng 1 năm 1946 thắng lợi, tổ chức được "Tuần lễ vàng" thành công và các địa bàn hậu phương mới có thêm thời gian chuẩn bị đầy đủ để đi vào cuộc kháng chiến lâu dài một cách vững vàng.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:14:04 pm »

NHỮNG ĐOÀN QUÂN TỪ CÁCH MẠNG MÙA THU


THÁI VŨ


Ga Huế... Đã nghe từ xa, ngoài An Hòa tiếng còi xe lửa từ ngoài Bắc vào, báo hiệu tàu đang vào địa phận thành phố kinh đô. Nghe rõ dần tiếng chuyển động của cả đoàn tàu. Cả ga Huế đã rộn lên kể từ lúc đó.


Các cửa ga đều rộng mở, từ cửa chính đến cửa hông và các cửa phụ vốn chỉ để chuyển hàng hóa. Nhà ga không bán vé, mọi người vô ra tự do, thoải mái, và ai nấy đều hối hả náo nức, hồi hộp. Chỉ toàn là người đón, không có kẻ đi buôn, người đi bán. Không có va ly, túi xách, hàng hóa.


Mà không phải chỉ riêng ga Huế mới có đông người đón tàu Hà Nội, Vinh vào. Cả xứ Huế rộn ràng như có ngày hội lớn, kể từ sau ngày vua Bảo Đại thoái vị mong làm dân một nước tự do. Người ta đón tàu từ phía cầu Bạch Hổ, đông nghịt những người là người, các cụ ông, cụ bà, các cô gái, nhất là các mẹ, các chị buôn bán ở chợ Đông Ba, chợ An Cựu, Bến Ngự với những gánh bún bò, cơm hến, đủ các loại bánh bột đặc sản của xứ Huế bên cạnh mấy chiếc bàn bày sẵn mọi thứ thức ăn với nhứng nồi cơm được ủ kín nóng hổi.


Nhưng rực rỡ nhất là những lá cờ đỏ sao vàng và những biểu ngữ màu đỏ chứ vàng "Nước Việt Nam là một", "Nam Bắc một nhà", "Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam". Cờ và biểu ngữ nối dài từ phía trong cầu Bạch Hổ, qua cầu Lòn vào ngợp cả sân ga Huế, ngoài ga Huế...


Nhưng rộn ràng nhất là những chàng trai, cô gái Huế, đa số là học sinh của các trường Quốc học (lúc đó còn gọi là trường Khải Định), trường nữ Đồng Khánh (nay là trường Trưng Vương), cả trường Việt Anh, Thuận Hóa...


Nữ sinh và các chị tiểu thương thì bận áo dài, đám con trai thì nhiều cậu vận áo dài đen, quần trắng, đi guốc như những buổi đến trường khi giã từ dịp hè. Khởi nghĩa 23 tháng 8 thành công. Chính quyền Trần Trọng Kim sụp đổ. Hầu hết các trường đều đã đóng cửa, nay đầu tháng 9 rải rác vài trường đã mở, nhưng lại vắng trò vì thiếu thầy. Trường Quốc học và Đồng Khánh đã trở thành trụ sở của đơn vị Thanh niên tiền tuyến thời Phan Anh, nay chuyển thành nơi giao tế lo việc nuôi quân của chi đội Trần Cao Vân đóng chính ở đồn Phan Đình Phùng vốn là trại lĩnh Tây thời Pháp mang tên đồn Decourcy, tên tướng đánh chiếm kinh đô triều đình Nguyễn ngày 7 tháng 5 năm 1885 (chi đội Trần Cao Vân sau chuyển xuống Mang Cá).


Kể từ ngoài Bắc vào miền Trung lúc đó, trung đoàn gọi là chi đội (như Nghệ An có chi đội Đội Cung, Quảng Bình có chi đội Cô Tám, Thừa Thiên - Huế có chi đội Trần Cao Vân).

Tin thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn, Nam Bộ lan rất nhanh khắp nước. Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước dốc sức ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào miền Nam. Hầu hết các tỉnh miền Bắc và miền Trung đều lập "phòng Nam Bộ", ghi tên những người tình nguyện vào Nam giết giặc.


Danh nghĩa là tình nguyện, nhưng các đơn vị Nam tiến được tổ chức hết sức chặt chẽ, hầu hết là thanh niên khỏe mạnh, hăng hái, đã được huấn luyện quân sự và ít nhiều có kinh nghiệm chiến đấu (những ngày đầu với những chuyến tàu Nam tiến đầu tiên thì tiêu chuẩn đúng là như thế, nhưng các chuyến sau thì tiêu chuẩn "đã được huấn luyện quân sự và chiến đấu" nhường cho tiêu chuẩn yêu nước, căm thù giặc, nhiệt tình cách mạng, bảo vệ phần đất ruột thịt của Tổ quốc).


Mỗi tỉnh đều tự lo cho đơn vị Nam tiến của mình, nhất là về vũ khí phải là loại tốt nhất; còn quần áo cũng tùy địa phương, tỉnh, nhưng hồi ấy đa số học sinh, sinh viên và viên chức trẻ của thành thị nên Nam tiến đánh giặc mà... rất diện: quần áo ka-ki, đi ghệt bó ống quần dưới vào trong. Giày thì là giày da tự đóng hay giày săn - đá của lính Tây, của hàng binh Nhật, gọi là brodequin, đế đóng đinh. Súng ống thì do đơn vị lo, nhưng nhiều "cậu" sắm súng lục riêng, đeo xệ bên hông, có cậu còn xoay được cả kiếm Nhật. Dường như khó phân biệt chỉ huy với đội viên. Đặc biệt có đại đội thuộc chi đội Đội Cung ở Vinh, lại đi xe chở lính của Nhật trước đây, các "cậu" đều đội mũ vải theo kiểu lính Nhật, phía sau mũ có hai mảnh vải bay phấp phới, khi xe vô Huế, qua cầu Tràng Tiền thanh niên nam nữ nhiệt liệt chào mừng.


Có thể nói đoàn tàu hỏa Hà Nội khởi hành đêm 26 tháng 9 năm 1945 là đoàn tàu lịch sử mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp toàn quốc. Ghé ga Nam Định nhận thêm đơn vị Ninh Bình - Nam Định, vào ga Thanh Hóa, Vinh hay Đồng Hới, Huế, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, ga nào cũng có đơn vị Nam tiến địa phương đón sẵn.


Nam tiến là hình ảnh toàn dân, cả nước ra trận. Đủ các thành phần, các giới nhập quân tự nguyện, cả đám thiếu niên 13, 14, 15 tuổi "nhập chui" vì không ai tuyển, nài nỉ xin làm liên lạc. Lại có cả các cô gái vốn là nữ sinh trường Đồng Khánh thắng áo sơ-mi trắng, váy ngắn dưới đầu gối màu xanh dương, các cô Đà Nẵng thì quần dài và sơ-mi trâng, có cô bận cả quần soọc trắng với cái mủ ca-lô trắng.


Chuyến tàu đầu tiên đó vào đến ga Huế trưa 29 tháng 9 năm 1945, chi đội Trần Cao Vân đặc cử chi đội trưởng dẫn một đại đội theo đoàn Nam tiến, do anh Cao Văn Khánh phụ trách, người sau này là đại đoàn trưởng đại đoàn 27... Hồi đó, xe lửa còn vào tới Biên Hòa và liên tiếp ngày đêm các chuyến tàu Bắc - Nam đưa các đoàn quân Nam tiến ra trận, với các chi đội giải phóng quân của hầu hết các tỉnh phía Bắc, miền Trung vào đến Quảng Ngãi, Bình Định. Hẳn anh em Nam tiến hồi đó nay đã cao tuổi khó ai quên được các chỉ huy trẻ tuổi của Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân như Thu Sơn, Hoàng Đình Giong (Vũ Đức), Hoàng Thơ, Nam Long, Đàm Quang Trung, nhất là Vi Dân (đã hy sinh vào tháng 3 năm 1947 trong trận Tú Thủy)...


Chi đội Nam tiến đầu tiên của chuyến tàu đêm 26 tháng 9 năm 1945 xuất phát từ Hà Nội cũng là đơn vị đầu tiên vào miền Đông Nam Bộ, chiến đấu ở cầu Bình Lợi và Xuân Lộc, sau này chuyển ra Phan Thiết, chiến đấu ở Nha Trang và đường 21, Buôn Ma Thuột gồm các đại đội của Hà Nội, Bắc Sơn và Bắc Cạn.

Các chuyến sau thuộc các chi đội Quảng Ngãi và Bình Định thì chiến đấu ở bắc Sài Gòn, Dầu Tiếng và Nam Tây Nguyên.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6599



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 04 Tháng Sáu, 2021, 07:15:07 pm »

NHỮNG ĐOÀN TÀU NGHĨA TÌNH


Thiếu tướng PHÙNG ĐÌNH ẤM


Ngày 23 tháng 9 năm 1945, núp sau quân Anh, tiếng súng của thực dân Pháp đã nổ ở Sài Gòn mở đầu cho âm mưu xâm lược nước ta lần nữa của chúng. Nhân dân Sài Gòn, nhân dân Nam Bộ đã đứng lên anh dũng kháng chiến chống quân thù. Để chia lửa và tăng cường sức chiến đấu cho quân và dân Nam Bộ, Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Trung Bộ đã mở hội nghị quân chính quyết định các chủ trương:

- Bảo đảm thông suốt giao thông để chi viện cho Nam Bộ, kháng chiến.

- Huy động nhân dân chống thực dân Pháp.

- Điều động lực lượng từ Bắc và Trung Trung Bộ vào tăng cường cho các tỉnh Cực Nam Trung Bộ.

- Lập Ủy ban quân chính Nam phần để chỉ huy chiến đấu của các tỉnh Cực Nam Trung Bộ1 (Theo Nam Trung Bộ kháng chiến 1945-1975, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995).


Thực hiện quyết định trên, đầu tháng 10 năm 1945 vệ quốc quân các tỉnh Nam Trung Bộ rầm rập lên đường vào Nam Bộ. Cùng với các đoàn quân Nam tiến của Trung ương, một đại đội du kích Ba Tơ của Quảng Ngãi, hai đại đội và hai trung đội của Quảng Nam - Đà Nẵng, một phân đội của Bình Thuận đã sớm có mặt ở mặt trận cầu Bình Lợi, ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa... tăng cường sức chiến đấu cho nhân dân Nam Bộ1 (Theo Nam Trung Bộ kháng chiến 1945-1975, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995). Nhân dân các tỉnh Cực Nam Trung Bộ sẵn sàng chiến đấu, các phòng tuyến chống địch được thiết lập trên các đường giao thông chiến lược, ở quốc lộ 1, quốc lộ 20, ở mặt trận Ba biên giới. Quân dân Bình Thuận đã bao vây bức rút 400 quân địch chạy về Sài Gòn bằng tàu biển ở Phan Thiết và đánh lui 60 xe chở đầy giặc Pháp từ Xuân Lộc theo quốc lộ 1 ra Bình Thuận (19-11-1945). Quân dân Đồng Nai Thượng và Lâm Viên đã chặn đánh đoàn xe 40 chiếc của quân Pháp từ Sài Gòn theo quốc lộ 20 tiến chiếm Blao, Di Linh và Đà Lạt. Trận đánh ác liệt diễn ra ở đèo Chuối (cách Blao 20 km về phía nam), giết chết và làm bị thương 30 tên2 (Theo Nam Trung Bộ kháng chiến 1945-1975, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995). Đây là trận bị thất bại nặng nề đầu tiên của thực dân Pháp ở vùng rừng núi này.


Riêng ở mặt trận Khánh Hòa, ngày 19 tháng 10 năm 1945, quân Pháp (có quân Nhật tham gia) được sự giúp đỡ của quân Anh đã đổ bộ lên Nha Trang, đánh chiếm nhiều vị trí trọng yếu trong thị xã và một số điểm ven biển. Nhân dân Nha Trang đã tiến hành cuộc đấu tranh ngay từ đầu bằng mọi cách: biểu tình thị uy, đình công bãi thị, bất hợp tác, không tiếp tế lương thực cho địch, cùng với cơ quan chính quyền tản cư ra ngoại ô và về nông thôn tham gia chiến đấu và đêm 23 tháng 10 năm 1945 quân dân ta tiến hành cuộc tấn công mãnh liệt vào giặc Pháp, bao vây chúng trong thị xã. Mặt trận Nha Trang thực sự bùng nổ, mở đầu cho cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Trung Bộ. Suốt tháng trời quân ta tấn công bao vây quân địch trong thị xã, đánh lui nhiều cuộc phản kích không cho chúng nống ra lấn chiếm vùng nông thôn và giữ vững đường giao thông Nam - Bắc để đảm bảo liên tục vận chuyển lực lượng và vật chất tăng viện cho quân dân Nam Bộ. Do thị xã đang bị quân địch chiếm đóng nên hằng đêm bộ đội, du kích và nhân dân Nha Trang đã dùng sức người để đẩy các toa tàu chở đầy vũ khí đạn dược, thuốc men và lương thực từ đèo Rù Rì (phía bắc thị xã) vào đến suối Dầu (nam thị xã), để từ đó đầu máy xe lửa móc các toa thành đoàn tàu kéo chạy về Nam Bộ, chi viện cho chiến trường "tiền tuyến" của cả nước1 (Theo Nam Trung Bộ kháng chiến 1945-1975, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995).


Những đoàn tàu ấy mãi mãi đi vào ký ức của nhân dân Nha Trang, nhân dân các tỉnh Cực Nam Trung Bộ, đã góp phần với nhân dân Nam Bộ trong những ngày đầu kháng chiến chống xâm lược Pháp với nghĩa tình máu chảy ruột mềm, như lời Bác Hồ dạy: Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, thịt của thịt Việt Nam. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thế mòn. Song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM