Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:47:55 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Phong trào Nam tiến 1945-1946  (Đọc 4379 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #20 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:11:41 pm »

CHI ĐỘI 3 GIẢI PHÓNG QUÂN NAM TIẾN


NGUYỄN TIỆP


Từ địa đầu cực bắc của núi rừng Việt Bắc, căn cứ địa cách mạng của cả nước, theo chỉ thị của Bác Hồ, sau khi thành lập đội vũ trang tập trung đầu tiên, các đội xung phong Nam tiến mở "4 con đường quần chúng cách mạng" từ Cao Bằng về miền xuôi.


Sau khi thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Việt Nam giải phóng quân, ngày 13 tháng 8 năm 1945 tại Thịnh Đán, Thái Nguyên chi đội 3 giải phóng quân được thành lập gồm 3 đại đội (đại đội Đàm Quang Trung, đại đội Đàm Quốc Chủng, đại đội Đào Mạnh Vy) và trung đội hỏa lực Hồng An do đồng chí Lâm Kính làm chi đội trưởng và đồng chí Phương Cương làm chi đội phó.


Chi đội 3 giải phóng quân là một trong những chi đội mạnh đầu tiên của Việt Nam giải phóng quân, là lực lượng xung kích cùng nhân dân địa phương giải phóng thị xã Thái Nguyên. Ngày 23 tháng 8 năm 1945, chi đội 3 và chi đội 4 giải phóng quân được lệnh về Hà Nội làm nhiệm vụ phối hợp cùng địa phương bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ lâm thời và Hồ Chủ tịch.


Chi đội 3 lúc này chỉ còn một đại đội do đồng chí Mông Phúc Thơ làm đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Rạng làm chính trị viên. Đại đội gồm 3 trung đội (Hồng An, Hiền Quân, Thanh Cao).


Đầu tháng 9 năm 1945, chi đội 3 được bổ sung một trung đội gồm 32 người tuyển chọn từ các đơn vị giải phóng quân Hà Nội với đầy đủ trang bị do đồng chí Mông Phúc Thơ làm chi đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Rạng làm chính trị viên. Chi đội 3 là chi đội đầu tiên sẵn sàng nhận nhiệm vụ Nam tiến.
Chi đội là một đội vũ trang đã được rèn luyện, thử thách trong Cách mạng tháng Tám. Hầu hết cán bộ, chiến sĩ là con em các dân tộc Việt Bắc đã trải qua chiến đấu, quen với chiến trường rừng núi. Số đội viên mới bổ sung ở Hà Nội vào được biên chế thành một trung đội thường gọi là trung đội học sinh Hà Nội bởi phần lớn là học sinh, sinh viên trẻ, một số là công nhân, tất cả đều đã tham gia nhiều cuộc đấu tranh chính trị, tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội, là tự vệ chiến đấu thành Hoàng Diệu nay tình nguyện gia nhập giải phóng quân sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì và đi bất cứ nơi nào mà cấp trên giao.


Đêm 9 rạng 10 tháng 9 năm 1945, chi đội lặng lẽ ra ga Hàng Cỏ Hà Nội lên tàu hỏa hướng về phía Nam làm nhiệm vụ "tuần hành vũ trang". Đến Thanh Hóa, chi đội được bổ sung lực lượng, tranh thủ thời gian huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị và được tổ chức thành 2 đại đội: Hồng An, Hiền Quân.


Ngày 23 tháng 9 năm 1945, giặc Pháp gây hấn ở Sài Gòn. Thường vụ Trung ương Đảng và Chính phủ hạ quyết tâm Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập của dân tộc, kêu gọi cả nước chi viện sức người, sức của cho Nam Bộ và quyết định tổ chức các đơn vị Nam tiến cấp tốc hành quân vào phối hợp với quân dân miền Nam chiến đấu.


Ngày 26 tháng 9, chi đội 3 làm lễ xuất phát tại thị xã Thanh Hóa và lên tàu hỏa vào Nam. Ngày 27 tháng 9, được bổ sung thêm một trung đội, chi đội thành lập đại đội Thắng Lợi gồm 3 trung đội: trung đội học sinh Hà Nội, trung đội Thanh Hóa, trung đội Vinh. Ngày 28 tháng 9 đến Huế, 29 tháng 9 đến Quảng Ngãi. Ủy ban kháng chiến Trung Bộ quyết định tổ chức một đại đội gồm hai trung đội 1 và 3 giải phóng quân Huế, sáp nhập vào chi đội 3. Chi đội do đồng chí Mông Phúc Thơ làm chi đội trưởng, đồng chí Nam Long làm chính trị viên. Toàn chi đội tiếp tục đi tàu hỏa đến Diêu Trì rồi đi ô tô đến Quy Nhơn. Ngày 1 tháng 10, chi đội đến Lương Sơn (Nha Trang). Tại đây, theo yêu cầu của đồng chí Hoàng Đình Giong, người được Trung ương cử vào chỉ huy quân sự ở Nam Bộ, đồng chí Nam Long điều đại đội Hồng An (thiếu 1 trung đội) bảo vệ đồng chí Giong đi trước vào miền Tây Nam Bộ.


Khi chi đội đến Phan Thiết, Ủy ban kháng chiến miền Đông Nam Bộ đã huy động ô tô ra đón. Ngày 5 tháng 10, chi đội chia làm hai bộ phận:

- Bộ phận do đồng chí Mông Phúc Thơ phụ trách đi tàu hỏa vào Thủ Đức.

- Bộ phận do đồng chí Nam Long phụ trách hành quân bằng ô tô vào Biên Hòa.


Vào đến Biên Hòa, đồng chí Nam Long cùng các đồng chí Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Đào Duy Kỳ, Phạm Văn Bạch, Bùi Công Trừng, Thanh Sơn họp ban và thống nhất chủ trương nhanh chóng bao vây, đánh chặn không cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng, nhất là ra hướng đông Sài Gòn.


Ngày 6 tháng 10, toàn chi đội đến Thủ Đức. Từ Hà Nội vào Thủ Đức, qua các địa phương, chi đội đều được đảng bộ, chính quyền và đông đảo nhân dân đón tiếp rất nồng nhiệt, được bổ sung thêm những người con ưu tú và những vũ khí tốt. Các địa phương còn tạo mọi điều kiện thuận lợi về ăn, ở, nhất là phương tiện cơ động để chi đội nhanh chóng vào Nam Bộ chiến đấu.


Có thể nói, ngay từ những ngày đầu, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự điều động của trên, chi đội 3 giải phóng quân đã tổ chức hành quân bằng nhiều phương tiện trên chặng đường dài từ Hà Nội vào Thủ Đức. Trong khoảng gần một tháng, vừa hành quân, vừa củng cố lực lượng, vừa tổ chức chiến đấu chi đội đã vào sớm nhất, vào sâu nhất, kịp thời cùng quân và dân Nam Bộ chiến đấu ngăn chặn, làm chậm bước tiến của thực dân Pháp xâm lược, góp phần tạo điều kiện cho cả nước có thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.


Tại Thủ Đức, các đồng chí Hà Huy Giáp, Nam Long, Mông Phúc Thơ, Phan Đình Công đã bàn và thống nhất kế hoạch chiến đấu cụ thể:

- Trước tiên đánh chiếm và phá cầu Bình Lợi để chặn không cho địch sang bờ bắc sông Sài Gòn. Đêm 10 tháng 10 dùng tàu hỏa chở 2 đại đội, mỗi toa chở 1 tiểu đội, xung quanh đặt bao cát. Một đại đội diệt trung đội lính khố xanh gác đầu cầu phía nam, một đại đội diệt trung đội gác đầu cầu phía bác. Kỹ sư cầu cống chỉ huy phá cầu.

- Nghiên cứu đánh một số mục tiêu trong nội thành Sài Gòn. Sáng 10 tháng 10, các đồng chí Nam Long, Mông Phúc Thơ, Phan Đình Công cùng đồng chí kỹ sư và một tổ trinh sát đi nghiên cứu thực địa cầu Bình Lợi, liên lạc được với du kích Gia Định thống nhất kế hoạch khi phá cầu Bình Lợi thì du kích cũng phá cầu Ban Ky. Nhưng khi quay về thì quân Anh, Ấn, Nhật đã chiếm cầu Bình Lợi và ở Thủ Đức bọn Nhật đang đào công sự chiến đấu.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #21 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:12:35 pm »

Chỉ huy chi đội 3 nhanh chóng triển khai 2 đại đội cùng với lực lượng địa phương chặn đánh địch ở cầu Bình Lợi.

Tin trinh sát cho biết ở đầu cầu phía bắc có 4 lính Nhật gác (thay cho trung đội lính khố xanh), đồng chí Thắng Lợi phái một tổ 6 người, có 1 đồng chí biết tiếng Nhật, bí mật tiếp cận, bất ngờ xông vào bốt gác chĩa súng vào bọn Nhật và hô "bỏ súng xuống, ra phía sau. Chúng tôi đã chiếm bốt, các anh được an toàn". Bọn Nhật không phản ứng, lặng lẽ rút qua cầu về bờ nam.


Ngày hôm sau (11 tháng 10), quân Anh tổ chức tiến công hòng chiếm lại bờ bắc, song bị ta đánh mạnh, truy kích sang bờ nam và đốt bốt nên buộc phải rút về. Những ngày 12, 13, 14, 15 tháng 10, địch liên tục tấn công, dùng nhiều súng cối, phóng lựu kết hợp cả ca-nô đánh sang bờ bắc nhưng đều bị quân ta chặn đứng, bị tiêu hao lực lượng.


Thời gian này, Ủy ban kháng chiến miền Đông Nam Bộ được thành lập, đồng chí Mông Phúc Thơ đươc cử làm ủy viên quân sự. Chi đội 3 giải phóng quần do đồng chí Nam Long chỉ huy và từ đây gọi là chi đội Nam Long.


Tại Thủ Đức, một sĩ quan Nhật đến gặp đồng chí Hà Huy Giáp báo tin chúng đã nhận được lệnh phải đánh vào đằng sau quân ta và để tránh đánh nhau không có lợi cho ta thì ta nên rút, khi rút hai bên chỉ bắn chỉ thiên.
   

Đồng chí Hà Huy Giáp bàn với đồng chí Nam Long, so sánh lực lượng giữa ta và Nhật quá chênh lệch không có lợi cho ta. Ta lại chưa chuẩn bị đề phòng phía sau nên ra lệnh rút về Long Thành, Tân Mai, Biên Hòa. Ngày 23 tháng 10, đồng chí Nam Long nhận được lệnh chuyển quân về giữ Xuân Lộc. Quân địch ở Xuân Lộc rất đông, chúng đóng nhiều đồn bốt rải ra trên toàn huyện, tập trung nhiều ở khu Suối Tre và thị trấn. Các lực lượng vũ trang của ta tập trung về đây cũng đông và phức tạp, gồm du kích, tự vệ của nhiều địa phương như chi đội Vĩnh, chi đội Vy, chi đội Nam Long, bộ đội Bình Xuyên, đệ nhất sư đoàn... không có sự chỉ huy thống nhất. Quân ta tổ chức phòng ngự trận địa rải mỏng lực lượng, chặn địch trên đường số 1 là chính. Từ 0 giờ 30 phút ngày 30 tháng 10, quân Nhật tập kích quân ta, chúng bò đến gần dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh gần, nhưng bị quân ta dũng cảm chặn đánh trên từng chặng, bị một số thiệt hại. Đến 16 giờ, đồng chí Mông Phúc Thơ ra lệnh rút về Phan Thiết. Một bộ phận lẻ vẫn tiếp tục đánh địch cho đến mấy ngày sau mới rút.


Đầu tháng 11 năm 1945, ở Phan Thiết tập trung rất đông quân từ miền Bắc mới vào chi viện cho Nam Bộ. Quân của nhiều đơn vị, nhiều địa phương từ Nam Bộ rút ra cũng tập trung ở đây. Cũng trong thời gian này, Ủy ban kháng chiến miền Đông Nam Bộ đổi thành Ủy ban kháng chiến đặc khu Phan Thiết do đồng chí Đào Duy Kỳ làm chủ tịch, đồng chí Mông Phúc Thơ và đồng chí Nam Long làm ủy viên quân sự, chủ trương: "Lấy Phan Thiết, Bình Thuận làm bàn đạp, phản công lấy lại các vùng bị chiếm, từ miền Đông Nam Bộ tiến vào giải phóng Sài Gòn".


Chi đội Nam Long được củng cố, nhanh chóng triển khai sẵn sàng chiến đấu:

- Đại đội Thắng Lợi bố trí ở khu vực ga.

- Đại đội Phan Hạo bố trí ở Lạc Đạo, Phú Tải.


Quân Nhật ở Phan Thiết chỉ có 1 đại đội nên không hoạt động gì. Ngày 9 tháng 11 chúng được tăng cường 1 tiểu đoàn. 6 giờ sáng ngày 11 tháng 11, quân Nhật tấn công đánh chiếm các công sở trong thị xã. Quân ta trên 3 mặt trận: nhà ga, ngã ba Nhà thương và rừng Cây Dương ngoan cường chặn đánh giành giật từng mục tiêu trong thị xã. 17 giờ 13 tháng 11, ta mở đợt phản công đồng loạt trong toàn thị xã, chiếm lại được nhà ga, nhà hàng Xê-ra-nô (trụ sở Ủy ban nhân dân lâm thời), thu được một số vũ khí. Nhưng vì lực lượng ta có hạn nên phải chuyển sang bao vây địch trong những ngày sau. Ủy ban kháng chiến đặc khu họp tại Bình An (huyện Hàm Thuận) có các đồng chí Đào Duy Kỳ, Hà Huy Giáp, Cao Thanh Trà, Nguyễn Sắc Kim, Nam Long, Mông Phúc Thơ tham dự đã quyết định thành lập:

- Chi đội 1 do các đồng chí Mông Phúc Thơ, chi đội trưởng, Đào Mạnh Vy chi đội phó, Nguyễn Sắc Kim chính trị viên, hoạt động ở tỉnh Bình Thuận.

- Chi đội 2 do các đồng chí Cao Thanh Trà chi đội trưởng, Lê Tự Nhiên chính trị viên hoạt động ở tỉnh Ninh Thuận.

- Chi đội 3 (trừ đại đội Phan Hạo) do đồng chí Nam Long chi đội trưởng được bổ sung 2 trung đội rút ra tăng viện cho Phan Rang.


Ngày 14 tháng 11, chi đội 3 tập kết ở Ma Lâm. Ngày 15 tháng 11 đi tàu hỏa và ô tô ra Phan Rang.

Tại Phan Rang, quân Nhật có 1 đại đội gồm 4 trung đội rất ngoan cố, không chịu thương lượng với ta, buộc ta phải nộp vũ khí. Đêm 10 tháng 11 lực lượng ta gồm 6 trung đội địa phương và nhiều du kích, tự vệ chiến đấu bao vây địch. Sáng 11 tháng 11 ta tấn công, nhưng địch phản công mạnh, đánh bật quân ta ra ngoài thị xã gây cho ta một số thiệt hại, riêng trung đội cảm tử Dư Khánh bị thiệt hại nặng. Đêm 11 tháng 11, địch rút về cố thủ ở 4 nơi: dinh Công sứ, trường tiểu học, nhà thương Phan Rang và khu chợ Lò lợn. Sau khi đi trinh sát; về, đồng chí Nam Long đã cùng các đồng chí lãnh đạo địa phương chủ trương tiếp tục bao vây toàn bộ quân địch và tập trung lực lượng lấy chi đội 3 là lực lượng chính tiêu diệt từng điểm một.


Sáng 17 tháng 11, ta bắt đầu tiến công. Địch chống cự rất mạnh, có mục tiêu ta và địch phải giành đi giật lại từ 2 đến 3 lần. Ta có dùng một khẩu pháo 25 ly nhưng chỉ bắn được 3 phát thì bị hóc đạn. Ta cũng dùng một số đông du kích, tự vệ đánh chiêng, trống... gây tiếng nổ to để uy hiếp tinh thần quân địch. Ta tấn công liên tục, dồn địch dần dần phải co về cố thủ ở dinh Công sứ. 3 giờ ngày 24 thảng 11, một số địch bí mật vượt sông Dinh rút lên hướng Vườn Xoài, Đá Trắng bị bộ phận chặn bên sông Dinh và du kích các buôn đánh diệt một số.


Được tin địch rút chạy, các hướng bao vây của chi đội Nam Long và của địa phương đều ồ ạt tấn công vào dinh Công sứ, tiêu diệt một số địch còn lại hòng ngăn chặn ta truy kích. Quân ta diệt, bắt sống toàn bộ quân địch, thu nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Chi đội Nam Long cũng bị thương vong một số, đồng chí Thắng Lợi đại đội trưởng anh dũng hy sinh.


Trận Phan Rang là trận đánh tiêu diệt đầu tiên và giải phóng hoàn toàn một thị xã. Giải phóng Phan Rang góp phần buộc quân Nhật phải rút khỏi Phan Thiết (12 tháng 12 năm 1S45), góp phần làm thất bại âm mưu dùng quân Nhật thay quân Pháp chiếm đóng trở lại các tỉnh Nam Trung Bộ, bước đầu cùng nhân dân các tỉnh miền Nam đánh bại âm mưu chiến lược "đánh nhanh, giải quyết nhanh" của địch.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #22 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:13:32 pm »

Sau các trận cầu Bình Lợi, Xuân Lộc, Phan Thiết, Phan Rang chi đội Nam Long bị thương vong một số, riêng trung đội học sinh Hà Nội có tới 16 đồng chí bị thương vong, mất tích. Trong khi đó, trên điều gần 2 đại đội đi làm nhiệm vụ khác và chuyển sang xây dựng đơn vị mới. Quân số của chi đội chỉ còn khoảng 250 người nhưng được trang bị đầy đủ và mạnh bằng vũ khí mới thu được của địch. Đồng chí Nam Long được chỉ định làm khu phó Khu 6.


Ngày 27 tháng 11 năm 1945, chi đội Nam Long được lệnh hành quân bằng xe lửa vào mặt trận Nha Trang. Các đồng chí Trần Công Khanh, Cao Văn Khánh chỉ huy trưởng và chỉ huy phó mặt trận phân công chi đội Nam Long chiếm lĩnh khu vực Chợ Mới cùng các đơn vị bạn bao vây quân Pháp trong nội thị. Ngày 29 tháng 11, sau khi trinh sát kỹ thực địa và nắm chắc quy luật đi sục sạo, càn quét của địch, đồng chí Nam Long trực tiếp chỉ huy một trung đội phục kích ở gần ga Phú Vinh. Trung đội này gồm những đồng chí có kinh nghiệm chiến đấu (trong đó có 6 đồng chí đã bị Nhật bắt đi lính cho chúng) bố trí trận địa theo hình chữ U, đợi địch lọt vào gần chừng mười mét mới nổ súng và xung phong đánh thiệt hại nặng 1 trung đội lính Pháp đi càn quét, 8 tên bị chết tại trận. Ta thu 1 súng cối 60, 1 trung liên, 5 tiểu liên, súng trường và một số đạn, quân dụng.


Trận phục kích Phú Vinh là trận phục kích đầu tiên đạt hiệu suất cao, tiêu hao nặng 1 trung đội lính Pháp, làm cho lính Pháp hoang mang lo sợ, mọi hoạt động của chúng bị chững lại, binh lính không dám ra ngoài công sự sau hơn một tuần lễ mới dám mò đi sục sạo gần.


Đêm 30 tháng 11 năm 1945, chi đội Nam Long tham gia trận đồng loạt tiến công vào nội thành Nha Trang ở hướng ga Phú Vinh, ga Nha Trang. Quân ta đánh mạnh, nhưng không diệt được vị trí nào vì không có vũ khí đánh địch trong công sự.


Ngày 4 tháng 12 năm 1945, đồng chí Nam Long nhận lệnh rút chi đội khỏi Nha Trang về Ninh Hòa, tập kết ở Ma-đrắc. Đồng chí Phạm Kiệt, Tư lệnh Khu 6 truyền đạt chủ trương đánh chiếm lại Buôn Ma Thuột và phân công:

- Phía bắc đồng chí Lê Thanh chỉ huy.

- Phía đông đồng chí Nam Long chỉ huy, lực lượng có thêm đại đội của chi đội Bắc Sơn, đại đội của chi đội tỉnh, đại đội của Nha Trang và 1 khẩu đội sơn pháo 75 ly.


Vào lúc 2 giờ ngày (?) tháng 1 năm 1946, ta nổ súng tiến công Buôn Ma Thuột. Hai mũi của chi đội đều phát triển được, lần lượt chiếm lại sân bay, trụ sở Ủy ban kháng chiến tỉnh, trại bảo an... dồn địch phải lùi về cố thủ ở một số nhà phía tây thị xã. Nhưng đến gần sáng địch dùng cơ giới phản kích mạnh, ta không chặn được cơ giới nên phải rút dần ra ngoài. Quân ta tổ chức nhiều trận đánh chặn địch trên trục đường 21 và 14 từ ki-lô-mét số 3 đến ki-lô-mét số 47 và cuối cùng ở đèo Ma-đrắc. Đặc biệt ở ki-lô-mét số 13 có một con suối chảy qua đường tạo địa thế thuận lợi cho ta tổ chức chặn địch. Ta đã tổ chức trận đánh cầm được chân địch, ở khu vực ki-lô-mét số 47 và Ma-đrắc, lợi dụng rừng cao su và cây cà phê trồng sát đường, ta đã đánh nhiều trận nhỏ, lẻ ngăn chặn làm chậm bước tiến của địch.


Ngày 23 tháng 1 năm 1946, đồng chí Võ Nguyên Giáp Chủ tịch Quân ủy hội vào khảo sát tình hình măt trận đã đến Ninh Hòa. Do phải ra Hà Nội gấp, đồng chí gọi điện thoại cho Nam Long và dặn: "Cố gắng giữ trận địa càng lâu càng tốt. Mấy ngày nữa sẽ có tình hình quan trọng. Sẽ có thư gửi sau".


Ngày 31 tháng 1 năm 1946, sau nhiều ngày luồn rừng rứt lui, chi đội Nam Long tập kết ở Đồng Bò.

Tháng 2 năm 1946, đồng chí Nguyễn Sơn, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam đến Đồng Bò chỉ thị củng cố, tổ chức lại các chi đội thành trung đoàn. Chi đội 3 Nam Long chuyển dần ra đóng quân ở Tuy Hòa, Sông Cầu, Xuân Đài, Quy Nhơn, Bình Định. Đồng chí Nam Long được cử đi học lớp bổ túc trung cấp ở Quảng Ngãi, ngày 5 tháng 10 được điều ra nhận công tác ở Hà Nội. Thi hành sắc lệnh số 71/SL, tháng 6 năm 1946, chi đội 3 Nam Long chuyển thành trung đoàn 95 do đồng chí Trần Tất Thắng làm trung đoàn trưởng, Nguyễn Chính Cầu làm chính trị viên và Trương Văn Dương làm trung đoàn phó. Nhiều cán bộ và chiến sĩ của chi đội 3 được điều đi các đơn vị khác làm nòng cốt xây dựng các đơn vị mới. Trung đoàn 95 sau lại hợp cùng trung đoàn 96 thành trung đoàn 120. Trung đoàn 120 sau cũng lại hợp cùng trung đoàn 126 thành trung đoàn 120 mới.


Đến đây kết thúc mọi hoạt động của chi đội 3 giải phóng quân Nam tiến.

Chi đội 3 giải phóng quân hay thường gọi là chi đội Nam Long chỉ tồn tại và hoạt động không đầy một năm nhưng đã liên tục giữ vai trò lực lượng cơ động mạnh, chủ lực tại các mặt trận cầu Bình Lợi, Xuân Lộc, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang, Buôn Ma Thuột. Chi đội đã hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu do Ủy ban kháng chiến miền Đông Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến đặc khu Phan Thiết, Tư lệnh Khu 6, Bộ chỉ huy mặt trận Nha Trang... giao cho trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của thời kỳ đầu kháng chiến trên chiến trường miền Nam và nam phần Trung Bộ. Chi đội 3 tiêu biểu một phân rất nhỏ "sức người, sức của của cả nước chuyển về Sài Gòn, góp phần quan trọng trong cuộc chiến đấu bao vây quân địch những ngày đầu kháng chiến, cả nước đã góp sức kháng chiến tại thành phố Sài Gòn"1 (Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.68). Chi đội 3 cũng đã góp một phần nhỏ chiến công "cùng với chiến công ngăn chặn địch trên các trục đường 14 và 21 (Tây Nguyên) và trên đường 1 (Phan Thiết, Phan Rang, Quy Nhơn) của bộ đội Nam Trung Bộ, hoàn thành nhiệm vụ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến, bảo toàn và xây dựng được lực lượng, cùng quân và dân cả nước tạo thêm thế và lực ngày càng có lợi để bước vào cuộc chiến đấu mới"2 (Sách đã dẫn, tr.71-72).
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #23 vào lúc: 30 Tháng Năm, 2021, 04:14:11 pm »

Thời gian chi đội 3 giải phóng quân tồn tại ngắn, phạm vi hoạt động hẹp, nhưng ý nghĩa vô cùng sâu sắc:

1. Lòng yêu nước, truyền thống quật cường Việt Nam là nguồn gốc của mọi ý nghĩ và hành động cách mang của người dân Việt Nam. Một dân tộc có hàng nghìn năm lịch sử, có bề dày truyền thống chiến thắng quân xâm lược lại được lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh lãnh đao. Dân tộc Việt Nam là một, Nam Bắc là một nhà.


Ngày 8 tháng 2 năm 1941, khi trở về nước, đặt chân lên mảnh đất thân yêu của Tổ quốc, Bác Hồ đã chỉ thị: "... Từ Cao Bằng còn phải phát triển về Thái Nguyên và thông xuống nữa có thể tiếp xúc với toàn quốc được"1 (Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.33). Trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tháng 12 năm 1944), Bác Hồ đã chỉ rõ, "đó là đội quân đàn anh... có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr.378). Từ đó những "đội xung phong Nam tiến" được tổ chức và những "con đường quần chúng cách mạng" được mở ra liên tục cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 23 tháng 9, cuộc kháng chiến bùng nổ ở thành phố Sài Gòn. Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động cả nước: "Phải trút toàn lực vào đó. Hy sinh hết thảy vì kháng chiến, hy sinh hết thảy vì mặt trận miền Nam", cả nước đã hưởng ứng, các tỉnh, thành đều thành lập những đơn vị Nam tiến. Nam tiến là biểu tượng hào hùng của cả nước ra trận, là biểu hiện mới của tư tưởng "thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ", là kết tinh mới của sức mạnh đoàn kết, thống nhất của toàn dân. cả nước đã chi viện sức người, sức của cho cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.


Theo lời kêu gọi của Đảng và Chính phủ, cán bộ, chiến sĩ chi đội 3 đã bỏ hết mọi suy tính cá nhân, tự nguyện sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì, đi bất cứ nơi nào, chịu đựng mọi khó khăn, thiếu thốn, nguy hiểm có thể đến với tinh thần không yêu cầu một điều kiện gì, không đòi hỏi một thứ gì. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, sáng chói, họ đã chủ động khắc phục muôn vàn khó khăn, thiếu thốn vật chất, non kém về kỹ thuật... của thời kỳ đầu kháng chiến, đã dũng cảm chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Trong chi đội có anh chị em ở Cao Bằng, Thái Nguyên, Hà Nội, Thanh Hóa, Vinh, Huế... anh em Bình Xuyên, Cao Đài, Cộng hòa vệ binh... có anh chị em người Kinh, người dân tộc với đủ thành phần xã hội, nhưng từ cán bộ đến chiến sĩ hết lòng thương yêu nhau hơn anh em ruột thịt, bảo ban nhau, giúp đỡ nhau, tạo điều kiện cho nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ, nhất là những lúc khó khăn, nguy hiểm. Hai cuộc rút lui đường dài đầy khó khăn, hiểm nguy từ Xuân Lộc về Phan Thiết và từ Ma-đrẳc về Đồng Bò, chi đội 3 giữ nguyên được đội hình và sức chiến đấu là một thắng lợi.


Nhìn lại cả thời gian hoạt động, toàn chi đội đã nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, chỉ thị của cấp trên, từ phân đội nhỏ đến chi đội chỉ hành động theo mệnh lệnh, không hề có thoái thác nhiệm vụ, không có rút lui chạy dài, không có bỏ ngũ, rã ngũ, không có hành động vô kỷ luật nghiêm trọng.


Chính do lòng yêu nước và truyền thống quật cường Việt Nam, cán bộ chiến sĩ chi đội 3 đã có tinh thần chiến đấu cao, đoàn kết keo sơn, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm và đã giành được thắng lợi.


2. Chi đội 3 là một trong những chi đội mạnh đầu tiên của Việt Nam giải phóng quân được lệnh sớm nhất vào chi viện cho miền Nam. Việc Ủy ban kháng chiến miền Đông Nam Bộ, Ủy ban kháng chiến đặc khu Phan Thiết, Tư lệnh Khu 6 và Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam trực tiếp điều động, sử dụng chi đội 3 giải phóng quân là lực lượng cơ động mạnh của mặt trận Đông Nam Bộ và nam phần Trung Bộ vào các trọng điểm chiến đấu trong những thời điểm quyết định của thời kỳ đầu cuộc kháng chiến là rất đúng đắn, sáng tạo.


Những chiến công của chi đội 3 cùng đơn vị bạn và nhân dân địa phương ngăn chặn địch 4 ngày đêm không cho chúng vượt sông Sài Gòn sang bờ bắc, ngăn chặn địch từng bước trên đường 1 từ Thủ Đức, Biên Hòa, Xuân Lộc đến Phan Thiết; trên đường 14 và 21 từ Buôn Ma Thuột về Ninh Hòa, bao vây địch ở Phan Thiết, Nha Trang, tiêu diệt địch giải phóng Phan Rang... là thực tiễn chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, vừa phát huy được sức mạnh của chi đội trên các mặt trận nóng bỏng nhất của chiến trường, vừa bảo tồn được lực lượng chủ lực cơ động để đánh lâu dài.


3. Trong việc xây dựng lực lượng vũ trang phải coi trọng chất lượng, xây dựng đơn vị mạnh, có bề dày truyền thống làm nòng cốt. Chi đội 3 giải phóng quân được xâv dựng về chính trị, tổ chức, trang bị và được chỉ đạo, chỉ huy chặt chẽ nên đã hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.


Việc chấn chỉnh hay thay đổi tổ chức trong những điều kiện nhất định là cần thiết. Việc chuyển các chi đội tổ chức thành các trung đoàn thực hiện sắc lệnh 71/SL là đúng, song cũng cần nghiên cứu giữ phiên hiệu truyền thống của một số chi đội đã có bề dày thành tích chiến đấu trong phong trào Nam tiến.


Chi đội 3 giải phóng quân (chi đội Nam Long) là chi đội đầu tiên của miền Bắc chi viện miền Nam, là một chi đội mạnh, cơ động, chủ lực của mặt trận miền Đông Nam Bộ và nam phần Trung Bộ. Chi đội chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, nhưng đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp không thể phai mờ trong nhân dân, trong lực lượng vũ trang miền Đông Nam Bộ, nam phần Trung Bộ và trong cán bộ, chiến sĩ của chi đội.


Nhiều cán bộ, chiến sĩ của chi đội được tăng cường cho những đơn vị mới đã liên tục chiến đấu trên khắp các chiến trường cho đến ngày toàn thắng. Trong ngày vui đại thắng 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài Gòn nhiều đồng chí đã vui mừng gặp lại nhau, trong đó có các đồng chí Nam Long, Nguyễn Tiệp, Thái Vĩnh, Khiếu Anh Lân... một cuộc hội ngộ của các chiến sĩ từng tham gia phong trào Nam tiến. 
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #24 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2021, 05:02:06 pm »

NAM TIẾN
(Trích hồi ký do Đỗ Thân ghi)


Trung tướng NAM LONG


Nam Bộ, tôi được nghe nói đến lần đầu trong đời là từ lời một thầy đồ chữ nho ở Cao Bằng quê tôi. Tôi nhớ mãi cái giọng sang sảng của thầy đồ Khoa người Nam Định:

"Nam Kỳ nguyên tiền lục tỉnh. Kim phân vị nhị thập tứ tỉnh". Cụ vụt cây roi mây xuống sạp làm hiệu. Lũ chúng tôi gân cổ gào lên. "Nam Kỳ nguyên tiền"... Nam Kỳ trước đây gồm sáu tỉnh nay chia thành 24 tỉnh. Nam Kỳ ở đâu ai đặt ra sáu tỉnh trước, ai chia ra thành 24 tỉnh nào có biết vì học cốt để thuộc mặt chữ, không có bản đồ, cũng không được giải nghĩa. Cho tới khi học chữ quốc ngữ lần đầu, nhìn tấm bản đồ Đông Dương bằng chữ Pháp tôi cứ tưởng Cochinchine (Nam Bộ - tiếng Pháp) cũng như xứ Cambodge (Campuchia) hoặc Laos (Lào). Năm 1944 khi tham gia Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân tôi khao khát được đến một miền đất xa xôi như trong bài hát:

"... Tiến về Sài Gòn, bãi Cà Mau, dấn bước mau quân giải phóng, hướng phía nam ta tiến tới.
   Diệt cho tan quân phát xít Nhật, Pháp. Nguyện đem máu hồng, xây dựng non sông".

Tháng 8 năm 1945, đang ở giải phóng quân, tôi được anh Văn (Võ Nguyên Giáp) phân công đi bảo vệ rước Bác Hồ về Hà Nội. Thấy tôi nhận lệnh mà mặt buồn hiu, anh Văn hỏi:

- Nam Long có yêu Ông Cụ không?

Tôi suýt phát khóc vì câu hỏi đó. Ai mà không yêu Ông Cụ?

Về Hà Nội trong những ngày đầu Bác ở số nhà 48 phố Hàng Ngang. Đây là một cửa hàng lớn buôn vải của ông Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản yêu nước. Chúng tôi gác bí mật ở ngay nơi bán hàng, ăn trưa và ngủ ở lầu một, Bác ở tầng trên cùng. Lúc này quân Tưởng đã vào Hà Nội, miền Nam Pháp đang gây chiến, cả Hà Nội sục sôi trong không khí ghi tên vào Nam ở các phòng Nam Bộ. Hằng ngày tôi hay sang chơi bên trại giải phóng quân. Nhìn không khí hăng say luyện tập mà phát ham. Rồi tôi lại trở vế phố Hàng Ngang. Hằng ngày, các anh Nguyễn Lương Bẳng, Trần Đăng Ninh, Hoàng Quốc Việt, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp thường đến chỗ Bác làm việc. Một hôm không thấy các anh đến làm việc, tôi đánh liều lên chỗ Bác. Bác ngừng tay đánh máy hỏi tôi:

- Gì thế chú?

- Thưa Cụ, Pháp đã vào miền Nam, Cụ cho cháu vào Nam.

- Tổ chức phân công gì làm nấy. Còn gì nữa không?

- Dạ thưa không ạ!

- Vậy chú xuống cho Bác làm việc.

Một hôm, anh Văn đến làm việc, tôi theo anh lên gác. Bác hỏi:

- Chú Nam Long có việc gì?

Tôi hiểu ý Bác muốn phê bình nên lúng túng thưa:

- Thưa Cụ, cháu muốn đi đánh nhau quá.

Bác tủm tỉm cười vì tôi dùng từ sai, đáng lẽ nói xin ra trận lại nói xin đánh nhau. Cụ hỏi anh Văn:

- Ý chú Văn thế nào?

- Thưa, xin tùy Cụ. Nếu Cụ cho phép thì tôi cũng đồng ý.

- Được rồi, chiều chú lên gặp Bác.

Chiều hôm đó Bác dặn tôi quyết tâm đánh giặc là tốt nhưng lại phải biết đánh. Bác nói về cái mạnh, cái yếu của Pháp, về cách đánh khi nó đông, khi nó hành quân, khi tạm trú. Bác dùng những từ như "mai phục", "đánh úp". Rồi Bác dạy: phải dựa vào dân như ở Việt Bắc, có dân sẽ có tất cả, từ cơm ăn, thuốc men cho đến do thám địch, nắm tình hình đường sá. Cái này các chú thạo rồi.


Hôm sau, tôi đi nhờ một ô tô vận tải vào Vinh. Các anh ở đó rất cần cán bộ quân sự, thấy tôi người dân tộc, đã qua lớp học chính quy bên Trung Quốc, lại được ở gần Bác nên anh nào cũng coi như đứa em trai.


Một hôm, tôi đang làm việc với Lê Viết Lượng thì có người chạy xộc vào báo: anh Nam Long à! Bộ đội Việt Bắc Nam tiến đang ở ngoài ga Vinh đông lắm. Có người hỏi thăm anh đấy.

Tôi chạy ra ga. Có tiếng gọi Nam Long, Nam Long. Chao ôi toàn "cánh giải phóng quân". Thơ, người Võ Nhai nay là chi đội trưởng kiêm chính trị viên, Hồng An - đại đội trưởng. Thắng Lợi - đại đội trưởng. Người Hà Nội, người Thanh Hóa, Ninh Bình, lại có cả các cô tha thướt trong tà áo dài học sinh, anh em thợ Tràng Thi vạm vỡ trong bộ quần áo thợ. Ai cũng trẻ măng, quân phục chỉnh tề, đầu đội ca lô đính ngôi sao vàng thêu kim tuyến. Thơ bảo tôi: Mình vừa làm chi đội trưởng lại kiêm chính trị viên, làm không hết việc. Giá có thêm Nam Long thì hay quá. Trong cái hào khí tưng bừng ở ga Vinh hôm đó bỗng một giọng nam trung cất lên ngân nga:

"Tiếng súng vang sông núi miền Nam giục ta ra chiến đấu!... Hai ba này", cả toa tàu, cả sân ga cùng đồng thanh hát theo. Tôi run lên vì xúc động. Thấy một anh dắt cái xe đạp đang gân cổ hát, tôi nói: anh cho tôi mượn cái xe về chỗ ông Lê Viết Lượng rồi tôi trả ngay. Anh ta hình như biết tôi nên cho mượn ngay. Tôi đạp vội về chỗ anh Lê Viết Lượng xin phép cho tôi Nam tiến ngay sáng mai. Anh Lượng cười: Nam Long do Trung ương cử vào, tôi làm sao cho phép được. Tôi nói: Nếu Hà Nội đồng ý thì anh cho Nam Long đi chứ. Tôi vào buồng vơ vội mấy bộ quần áo nhét vào ba lô rồi đạp ra ga. Tôi lại chỗ anh thanh niên mượn xe, nhưng không thấy anh ta. Tôi vào nhà thấy một ông già, tôi nói: Thưa bác, cháu có mượn một chiếc xe đạp của một anh lúc nãy đứng trước nhà bác, xin bác nhận giùm cho, nói là Nam Long cám ơn. Nhưng ông cụ nói nhà mình không có cái xe đó. Rầy rà thế. Thôi thế cụ cho cháu gửi vậy, cứ nói là của Nam Long trả, ai có xe đến nhận. Ông cụ đành đồng ý. Tôi vào trạm bưu điện xin gọi ra Hà Nội.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #25 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2021, 05:02:58 pm »

- Hà Nội nghe đây! Một giọng nữ thánh thót. A lô ông cần gặp ai, thưa ông? - Cho tôi gặp anh Văn.

- Xin ông vui lòng cho biết số máy. Tôi ngớ người, làm sao mà biết được số máy anh Văn bây giờ. Có tiếng cúp máy. Tôi chờ một lát lại nói tiếp nhưng vẫn cái giọng lịch sự ban nãy cho xin số máy. Tôi ngồi một lúc rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Tôi giật mình vì tiếng còi tàu. Trời ba giờ sảng rồi. Đầu tàu đang lấy thêm nước. Tôi lại quay máy. Lần này là một giọng nam trầm:

- Hà Nội nghe đây.

- A lô, tôi là Nam Long đang ở Vinh đây, anh cho tôi số máy anh Văn.

- Anh Văn à, cái tên nghe quen quá, có phải anh Văn Cao không?   

- Trời ơi không phải, anh Văn là anh Võ Nguyên Giáp ở Bộ Nội vụ mà.

Có tiếng cười nhẹ trong máy. Lát sau anh ấy gọi lại:

- A lô Vinh đâu, có số máy Bộ Nội vụ, xin mời.

Tôi hét to:

- A lô anh Văn phải không?

- A lô tôi nghe đây. Ai đấy?

- Nam Long đây anh Văn à. Anh cho Nam Long Nam tiến nhé. Chỗ đội Nam tiến của Thơ đang thiếu chính trị viên, xin anh cho Nam Long đi nhé.

Dường như anh Văn có đắn đo, lát sau anh nói:

- Cái này phải hỏi các anh bên Quốc phòng. 

- Ấy dà! Thế thì lâu quá đấy anh Văn ơi. Một giờ nữa tàu chạy rồi. Anh Văn cử Nam Long vào Vinh thì anh cho đi được chứ!

- Ý kiến các anh bên Tỉnh ủy thế nào?

Anh Văn hỏi, tôi đáp bừa:

- Thưa anh, anh Lượng bảo nếu Hà Nội đồng ý thì các anh ấy cho đi?

- Vậy hả, để mình báo cáo với Ông Cụ và các anh trong Thường vụ.

Tôi lại vào nhà ông cụ gửi xe, mượn lại chiếc xe đạp vội về báo cáo với anh Lượng, anh siết chặt tay tôi chúc đánh thắng. Tôi đạp ra ga trao xe cho ông cụ rồi lên xe lửa, ngồi chưa ấm chỗ, con tàu đã rúc một hồi còi dài rùng mình chuyển bánh vào Nam.


Đoàn xe chúng tôi đi tới tỉnh nào cũng được cấp ủy, Mặt trận Việt Minh đón tiếp rất nồng nhiệt. Chúng tôi gần như không phải nấu cơm ăn, nước uống dọc đường. Lễ nghi, trang trọng là thế, bừng bừng khí thế có Quảng Ngãi. Nơi nào cũng có các đơn vị tình nguyện vào Nam. Và đến Thủ Đức thì thân thiết như đón những đứa con về gia đình. Các anh Trần Văn Giàu, Hà Huy Giáp, Dương Bạch Mai, Đào Duy Kỳ, Bùi Công Trừng, Phạm Văn Bạch anh nào củng chỉnh tề trong com-lê, nói chuyện đôi lúc xen từng tràng tiếng Pháp, khi cần tranh luận. Tôi nghĩ các anh là trí thức, con nhà khá giả mà bỏ gia đình và cuộc sống tiện nghi đi kháng chiến thế này thì nhất định ta thắng Pháp. Sau khi nghe anh Hà Huy Giáp phổ biến tình hình, tôi bàn với anh Thơ đi trinh sát, cùng đi có anh Công người Quảng Ngãi là cán bộ địa phương. Anh Công cho biết Pháp dựa vào thế Đồng minh đang nống ra nên chưa kip lập được tề điệp. Chúng tôi có thể cải trang đi lẫn vao dân để xem xét địa hình. Các anh cho mượn quần áo thợ đã cũ. Tôi cao to lại trắng trẻo nên phải lấy bùn xoa vào những mảng áo rách, tay cầm khúc mía vừa đi vừa nhai. Anh Công xách một đùm bánh tét. Anh Thơ cầm nải chuối đi giữa dòng người đến thẳng cầu Bình Lợi. Trên cầu có một bót gác của lính Nhật. Cầu Bình Lợi hồi đó bằng sắt, khoảng giữa có máy quay để khi có tàu ghe, tàu lớn thì khoang này quay theo dòng chảy cho tàu ghe đi qua vào một giờ nhất định. Chúng tôi vừa đi vừa bàn cách đánh ngay tại thực địa. Đến cầu Băng Ky, anh Công gặp một toán du kích, phân công du kích phá cầu Băng Ky, còn chúng tôi sẽ phá cầu Bình Lợi, không cho địch nống ra.


Bỗng có tiếng động cơ ô tô, chiếc xe giép đi đầu kéo cờ Anh, những xe tải đi sau đầy lính, đoàn xe vượt chúng tôi đến đầu cầu Bình Lợi, lính xuống xe tản ra hai bên đường. Sĩ quan đứng trên xe giép dùng ống nhòm sát bờ bắc. Thơ hỏi tôi: Làm sao đây, chúng nó vượt mình rồi. Tôi lạnh xương sống, chưa biết tính sao. Nhưng thấy bà con ta cứ đi, anh Công nói: Việc ai nấy làm, hồn ai nấy giữ cứ đi. Thế là chúng tôi đi giữa hàng lính. Sang bên kia cầu, gặp một chiếc xe thổ mộ chúng tôi bảo người đánh xe:

- Lính Đồng minh bên kia cầu, quay lại thôi. - Người đánh xe cười khà: Mấy chú ti tược tại sao ta không ti tược à. Nghe cách phát âm, biết ngay là người Hoa. Anh Công nói: Chúng tôi đi bộ đội, cái nị đánh xe ngựa cồng kềnh gặp xe Đồng minh tránh vô đâu? Quay lại Thủ Đức, cho chúng tôi đi nhờ. Thấy bác ta còn ngần ngừ, anh Công vỗ vai bác ta. - Nị đừng ngại, về trụ sở Ủy ban Thủ Đức bọn tôi sẽ trả tiền đàng hoàng. Về đến Thủ Đức, anh Đào Duy Kỳ cho biết trên điều anh Thơ lên Ủy ban quân sự miền Đông, tôi làm chi đội trưởng. Tôi và anh Công báo cáo tình hình với anh Hà Huy Giáp đề nghị ngăn chặn không cho địch nống ra. Muốn ra bờ bắc phải hành quân theo hướng tây chợ Bình Phước để bố trí dọc theo bờ sông Sài Gòn. Nhân dân Bình Phước thấy bộ đội hành quân qua bèn sai con cháu hái dừa cho. Một bà má đưa tôi trái dừa tơ nói: "Uống đi con. Uống lấy sức mà chạy". Tôi cầm trái dừa loay hoay không biết làm sao. Bà má dường như thông cảm với đứa con miền Bắc chưa quen uống nước dừa nên má bảo cô gái đứng cạnh: Con Hai vạt dừa cho anh con đi chớ, mắc chi mà cứ cười hoài. Cô gái đỏ bừng mặt đỡ trái dừa, bằng hai vạt dao rất lẹ cô đã hớt đi lớp vỏ xanh tơ, lấy mũi dao khứa một đường nhỏ hình chữ V rồi đưa tôi. Lần đầu tiên tôi được uống nước dừa, vì quê tôi Cao Bằng đâu có dừa.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #26 vào lúc: 01 Tháng Sáu, 2021, 05:51:50 pm »

CHI ĐỘI VI DÂN


HỒ NHƯ HẢI


Cũng như các địa phương khác trong cả nước, dưới hai tầng áp bức của Nhật - Pháp, đời sống nhân dân thủ đô Hà Nội vô cùng cực khổ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, trực tiếp là Thành ủy Hà Nội, Mặt trận Việt Minh thành Hoàng Diệu1 (Thành Hà Nội) đã vận động và tập hợp ngày càng đông đảo quần chúng trong các tổ chức Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, v.v...


Bốn anh em chúng tôi, người là viên chức sở Thủy lợi, công nhân Quân giới Pháp, giáo viên trường làng ngoại thành... được tuyên truyền giác ngộ cách mạng từ cuối năm 1943 đã tập hợp nhau cùng thuê một gian nhà ở chùa Bát Mẫu (Ngọc Hà), vừa đi làm, vừa tổ chức dạy nhau học thêm văn hóa, vừa tập dượt tham gia công tác cách mạng. Qua một thời gian thử thách, tháng 4 năm 1944, bốn anh em chính thức được kết nạp vào Hội công nhân cứu quốc thành Hoàng Diệu, với bí danh là Vì Nước, Vì Dân, Vì Giống, Vì Nòi. Đồng chí Trần Ngọc Minh phụ trách công vận Thành ủy chỉ đạo tổ hoạt động, chủ yếu trong nội thành như rải truyền đơn "ủng hộ Việt Minh", "Đả đảo Nhật - Pháp", tuyên truyền hoạt động của Việt Minh trong cả nước, nhất là ở chiến khu Việt Bắc. Trước yêu cầu đẩy mạnh tuyên truyền và vận động cách mạng trong hàng ngủ địch, tháng 8 năm 1944, đoàn thể yêu câu đồng chí Vì Nước xin thi vào cảnh sát để phát triển thêm lực lượng, tạo điều kiện thuận tiện cho hoạt động của tổ. Đồng chí Vì Dân bỏ nhiệm sở Thủy lợi về dạy tư cho một gia đình ở phố Hàng Trống để có thêm thời gian hoạt động.


Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Khí thế cách mạng sôi sục trong cả nước. Anh em trong tổ vận động lấy được 2 khẩu súng trường, một số lựu đạn. Trong cao trào cách mạng ở Thủ đô, tháng 5 năm 1945, tổ 4 người ban đầu đã phát triển được gần 20 người. Cùng với các tổ chức công nhân cứu quốc vùng Cầu Giấy và một số công nhân cứu quốc trong các xí nghiệp như AVIA, xe lửa Hà Nội..., đội công nhân xung phong thành Hoàng Diệu được thành lập. Lễ tuyên thệ thành lập đội được tổ chức tại đình Thanh Nhàn, trụ sở của đội tại cửa hàng phở Châu, phố Cầu Giấy, đồng chí vì Dân được cử làm đội trưởng, đồng chí Mai làm chính trị viên. Đội do đồng chí Trần Ngọc Minh trực tiếp chỉ đạo. Nhiệm vụ của đội là vũ trang tuyên truyền ở nội và ngoại thành, dán áp phích, treo cờ, trừ gian, tiếp tục phát triển lực lượng cách mạng. Đội đã phối hợp với tổ chức bán vũ trang, tuyên truyền và trừ gian ở chợ Cổ Loa, chợ Nhổn, chợ Bưởi...


Đến đầu tháng 8 năm 1945, lực lượng của đội phát triển lên 60 người. Ngày 16 và đêm 17 tháng 8, đội bảo vệ hội nghị Thành ủy Hoàng Diệu mở rộng ở Dịch Vong (Từ Liêm, Hà Nội) bàn về quyết định khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô. Ngày 17 tháng 8, đội được phân công cùng một số tổ chức quần chúng cách mạng phá cuộc mít tinh của địch, biến thành cuộc biểu tình biểu dương lực lượng của ta. Hàng chục vạn nhân dân Thủ đô, cả bảo an và cảnh sát mang theo súng tuần hành qua một số phố chính Hà Nội. cả thủ đô sôi sục khí thế cách mạng, các nhà may may cờ đỏ sao vàng để chuẩn bị cùng lực lượng vũ trang cách mạng khởi nghĩa cướp chính quyền.


Ngày 18 tháng 8, đội được phân công vũ trang tuyên truyền công khai ở nội thành, biểu dương thanh thế của cách mạng và hô hào quần chúng nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Trong khi đi vũ trang tuần hành, một số chiến sĩ bị quân Nhật tước vũ khí ở trước cửa ga Hàng Cỏ. Quần chúng kéo đến đứng đông nghịt trước cửa ga đấu tranh hàng giờ liền với quân Nhật. Cuối cùng chúng phải nhượng bộ, trả vũ khí cho đội.


Ngày 19 tháng 8, đội được phân công bảo vệ cụộc mít tinh lớn trước Nhà hát lớn thành phố. Sau đó đội được Thành ủy Hà Nội, trực tiếp là đồng chí Nguyễn Quyết phân công làm lực lượng nòng cốt cùng quần chúng cách mạng giành chính quyền ở Bắc Bộ phủ, tước vũ khí của lực lượng bảo an. Tiếp đó, đội cử một bộ phận sang tiếp quản sở Đốc lý (cơ quan hành chính của địch ở Hà Nội). Để tăng cường lực lượng bảo vệ thành quả cách mạng, đội được tổ chức thành một chi đội gồm 3 phân đội, dưới phân đội là các trung đội. Thành phần gồm lực lượng công nhân xung phong Thành, tự vệ chiến đấu, quần chúng cách mạng tự nguyện và một bộ phận bảo an binh tiến bộ.


Ngày 21 tháng 8, quân giải phóng từ Việt Bắc tiến về Thủ đô bị quân Nhật cản trở bên Gia Lâm. Thành ủy giao cho chi đội cử một bộ phận sang đấu tranh và ngày 22 tháng 8 đón quân giải phóng Việt Bắc do đồng chí Quang Trung chỉ huy về Bắc Bộ phủ. Đây là hai đơn vị vũ trang cùng bảo vệ các cơ quan đầu não và bảo vệ thủ đô Hà Nội trong những ngày tháng 8 năm 1945. Sau Lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9, đội được lệnh bàn giao cho đơn vị đồng chí Quang Trung, hành quân lên chiến khu Chợ Bến để luyện quân.


Đầu tháng 11 năm 1945, chi đội hành quân theo đường Chi Nê - Nho Quan, lên tàu hỏa ở ga Ghềnh. Đến chiến khu Quỳnh Lưu - Ninh Bình, do quân Tưởng ngăn cản, đơn vị phải đi người không, vũ khí đóng hòm, cử lại một bộ phận vận chuyển vào Nam cho đơn vị. Đồng chí Hồ Như Hải và Lê Thanh cùng một số anh em được giao nhiệm vụ này. Bộ Quốc phòng giới thiệu với Tổng cục Đường sát cử người đi theo giúp đỡ, làm việc với các địa phương đoàn đi qua. Được sự giúp đỡ của các địa phương trên suốt dọc đường đoàn hành quân và của Tổng cục Đường sắt, số anh em này đã chuyển kịp thời và an toàn vũ khí vào Nam cho đơn vị.


Vào đến Quảng Ngãi do yêu cầu của các mặt trận, chi đội Vi Dân chia thành ba bộ phận, một bộ phận do đồng chí Quang Bích và đồng chí Châu chỉ huy lên Công Tum; một bộ phận do anh Vi Dân phụ trách vào tỉnh Phú Yên cùng lực lượng địa phương tổ chức thành chi đội 4 Phú Yên do anh Vi Dân làm chi đội trưởng, chiến đấu ở mặt trận Đèo Cả, mặt trận Củng Sơn phía nam và phía tây của tỉnh.


Đầu năm 1946, anh em Vi Dân và một số cán bộ chi đội được điều về Ủy ban kháng chiến miền Nam ở Quảng Ngãi học các lớp bổ túc quân sự, chính trị, lục quân Quảng Ngãi, sau được điều bổ sung cho các đơn vị vũ trang Liên khu 5.


Chi đội Vi Dân, đơn vị vũ trang cách mạng đầu tiên của Thủ đô, một trong những đơn vị Nam tiến cuối năm 1945 đã góp phần cùng lực lượng vũ trang địa phương xây dựng và chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược ở các tỉnh Trung Bộ và Tây Nguyên. Anh Vi Dân đã hy sinh anh dũng trong trận Tú Thủy (1947). Nhiều anh em khác liên tục chiến đấu ở các đơn vị, các chiến trường trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Ở đâu, trong bất cứ nhiệm vụ gì anh em đều nêu cao và phát huy truyền thống bộ đội Nam tiến, chi đội Vi Dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #27 vào lúc: 01 Tháng Sáu, 2021, 05:53:13 pm »

TỪ ĐỘI CÔNG NHÂN XUNG PHONG THÀNH HOÀNG DIỆU
ĐẾN CHI ĐỘI VI DÂN NAM TIẾN


NGÔ THÔNG


Một buổi tối cuối xuân đầu hạ năm 1945, tiết trời còn mát mẻ, tại đình làng Thanh Nhàn, đội công nhân xung phong thành Hoàng Diệu (tên bí mật của thủ đô Hà Nội thời kỳ tiền khởi nghĩa) tổ chức lễ thành lập.


Thời gian này, Thành ủy Hoàng Diệu do đồng chí Nguyễn Quyết làm bí thư và đồng chí Vũ Oanh làm phó bí thư, quyết định tổ chức đội công nhân xung phong làm nòng cốt cho các hoạt động của các tổ chức cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh, đồng thời là một trong những lực lượng xung kích trong cuộc tổng khởi nghĩa ở Thủ đô. Đồng chí Trần Ngọc Minh, thành ủy viên phụ trách công vận được giao nhiệm vụ thực hiện.


Đội công nhân xung phong được tuyển chọn trong số hội viên tiên tiến của các tiểu tổ bí mật công nhân cứu quốc của Mặt trận Việt Minh thành Hoàng Diệu. Các tiểu tổ này cũng do đồng chí Trần Ngọc Minh tổ chức (khoảng tháng 3, tháng 4 năm 1944) và trực tiếp chỉ đạo hoạt động ở một số cơ sở có phong trào công nhân mạnh lúc đó như các hãng sửa chữa ô tô Stai, Ford Indoto... sở thủy lợi và lâm nghiệp, Trường kỹ nghệ thực hành, Xưởng quân trang quân dụng của quân đội Nhật ở Đồn Thủy, v.v...


Trong số các tiểu tổ, công nhân cứu quốc trên, có một tổ hoạt động rất tích cực, thành lập tháng 4 năm 1944, gồm bốn người. Cùng chung ý chí chiến đấu đến cùng vì sự nghiệp cách mạng, bốn người đồng lòng lấy chung một "bộ bí danh” để hoại động, là Vì Nước (Hồ Văn Tuất), Vì Dân (Nguyễn Văn Trợ), Vì Giống (Phạm Xuân Chúc), Vì Nòi (Quý).


Khi đội công nhân xung phong được thành lập, toàn tổ gia nhập đội, tổ trưởng Vi Dân được cử làm đội trưởng. Để tiện giao dịch khi xưng hô, Nguyễn Văn Trợ bỏ bớt dấu huyền, lấy tên mới là Vi Dân.

Đội công nhân xung phong thành Hoàng Diệu có 30 đội viên, tuổi đời từ 20 đến 30.

Ngay sau khi thành lập, đội bước ngay vào các hoạt động như: phát triển lực lượng cách mạng, rải truyền đơn, dán áp phích, treo cờ, võ trang tuyên truyền ở các nơi đông người, diệt những tên Việt gian tay sai giặc Nhật, bảo vệ cán bộ, bảo vệ hội họp, v.v... Các hoạt động của đội gây ảnh hưởng lớn trong nhân dân Hà Nội nhất là ở các khu vực từ Ngã Tư Sở lên Cầu Giấy, Yên Thái, chợ Bưởi, vườn Bách Thảo...


Ngày 15 tháng 8 năm 1945, được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, toàn đội tập trung về trụ sở ở Cầu Giấy, sau đó về làng Dịch Vọng bảo vệ cuộc họp Thành ủy mở rộng bàn việc tổng khởi nghĩa ở Thủ đô.

Ngày 18, đội được lệnh đi tuyên truyền xung phong ở nội và ngoại thành, vận động nhân dân chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 19, đội được giao nhiệm vụ bảo vệ cuộc mít tinh ở quảng trường Nhà hát lớn. Đồng chí Nguyễn Đắc Kiện (tức Võ Sĩ Nghĩa), đội viên đội công nhân xung phong, vinh dự được Ủy ban khởi nghĩa cử ra kéo lá cờ đỏ sao vàng lên cột cờ ở giữa quảng trường.


Tối hôm đó, tại Bắc Bộ phủ, đồng chí Vi Dân tập hợp toàn đội, phân phối súng đạn và phiên chế thành đội ngũ, tuyên bố thành lập chi đội Việt Nam giải phóng quân.

Sau ngày quốc kháng 2 tháng 9, chi đội tập trung nhận nhiệm vụ mới. Tối 3 tháng 9, đơn vị hành quân vào thị xã Hà Đông và từ đó tiến về chiến khu Tuyết Sơn - Bảo Đài thuộc khu vực Hương Sơn, bước vào tập luyện quân sự, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ.


Khoảng một tuần sau đó, chi đội Quang Trung cũng được lệnh rút về đóng tại đồn điền Chi Nê, gần Hòa Bình. Việc giữ gìn trật tự trị an ở Thủ đô và bảo vệ chính quyền cách mạng giao cho các lực lượng công an và tự vệ chiến đấu đảm nhiệm. Đây là chủ trương quan trọng của Trung ương Đảng và Chính phủ nhằm bảo tồn lực lượng vũ trang chủ lực của cách mạng, che mắt quân Tưởng đang kéo vào Việt Nam.

Một thời gian sau, chi đội di chuyển sang Chợ Bến, tiếp tục tập luyện quân sự và được bổ sung một trung đội thanh niên học sinh Hà Nội.

Khoảng hạ tuần tháng 10 năm 1945, chi đội lên đường Nam tiến. Để tránh sự cản trở của quân Tưởng, đơn vị hành quân bộ từ Chợ Bến về tới vùng Nho Quan - Ninh Bình, lên tàu hỏa ở giữa đường. Cùng lên tàu có chi đội Hữu Thành gồm toàn anh em người các dân tộc ít người ở Lạng Sơn - Cao Bằng. Để che mắt quân Tưởng, cả hai đơn vị chỉ đi người không, vũ khí đóng gói để chở bằng thuyền theo đường biển vào Khu 5. Hành quân bằng tàu hỏa, tới các ga lớn, nhân dân địa phương được tin đến họp mít tinh, ra tận tàu đón chào quân Nam tiến, tặng quà bánh, lương thực, quần áo tiền bạc...


Vào đến Quảng Ngãi, được lệnh của Ủy ban kháng chiến miền Nam, chi đội chia làm ba bộ phận đi ba hướng khác nhau: Plây Cu, Đắc Lắc và Phú Yên.

Trung đội do anh Quang Bích chỉ huy tiến lên Plây Cu rồi phát triển lên tận Bo Keo giáp giới Cam-pu-chia. Gặp giặc Pháp đã tràn tới đó, anh em chặn đánh chúng hai trận liền, sau rút dần về trấn giữ đèo An Khê chặn địch tiến xuống đồng bằng.


Trung đội thứ hai do anh Sơn Nam chỉ huy tiến lên Buôn Ma Thuột. Lúc này, giặc Pháp đã từ vùng ba biên giới đánh lên Tây Nguyên. Anh em cùng phối hợp với một số đơn vị vũ trang địa phương chặn đánh địch rất quyết liệt, có lần tập kích vào nơi đóng quân của chúng. Nhưng trung đội bị tổn thất nặng, trong đó có anh Sơn Nam.


Lực lượng còn lại của chi đội, cùng một bộ phận của chi đội Hữu Thành (khoảng 400 người) theo Vi Dân về Phú Yên, tỉnh tiếp giáp với Khánh Hòa, nơi chiến sự đang diễn ra căng thẳng ở mặt trận Nha Trang.

Về tới Phú Yên, lúc đầu Vi Dân làm chi đội phó, sau một thời gian ngắn được cử làm chi đội trưởng chi đội 4. Cùng với việc tập trung xây dựng lực lượng, chi đội cử nhiều cán bộ đi các huyện, xã cả ở miền xuôi và miền núi của tỉnh Phú Yên để tuyên truyền vận động thanh niên tòng quân, vận động nhân dân đóng góp nuôi quân. Vi Dân tổ chức nhiều cuộc họp với các ngành các giới, mời các già làng người dân tộc về tận Sông Cầu để bàn việc nước. Phát triển kinh nghiệm thời kỳ ở Chợ Bến, chi đội tổ chức tại thị xã Sông Cầu "đại hội toàn tỉnh quân dân đoàn kết xây dựng lực lượng kháng chiến, cứu nước". Tại đại hội, đã tổ chức bán đấu giá ảnh chân dung Hồ Chủ tịch (đặt làm từ ở Hà Nội đem vào). Nhờ đó tạo được không khí ủng hộ kháng chiến, xây dựng quân đội rất sôi nổi. Số tiền thu được nhiều gấp hai lần ở Chợ Bến, chi đội may đủ cho mỗi chiến sĩ hai bộ quần áo xi-ta và trang bị một số vật dụng cần thiết.


Với gần 500 thanh niên tòng quân, chỉ trong vòng 2 tháng, chi đội từ gần hai tiểu đoàn phát triển thành ba tiểu đoàn và một đại đội độc lập. Vũ khí phần lớn là súng bộ binh trong đó có một số ít súng đạn vận động được từ một đơn vị quân Nhật. Nhờ cách đối xử khéo léo và những kinh nghiệm tích lũy được trong những ngày tổng khởi nghĩa ở Thủ đô đối với quân đội Nhật đã đầu hàng, chi đội giữ được họ trong doanh trại, tiếp tế cho họ lương thực, thực phẩm đầy đủ, làm cho họ không can thiệp vào phong trào kháng chiến trong tỉnh. Trước khi xuống tàu theo lệnh giải giáp của quân đội Đồng minh; họ bí mật để lại cho ta một ít súng đạn cất giấu ở nơi đóng quân.


Trong thời gian ở Phú Yên, chi đội tranh thủ tổ chức huấn luyện quân sự, tiếp tục vận động nhân dân toàn tỉnh chuẩn bị ứng phó khi giặc đến, đồng thời bố trí các đơn vị xây dựng trận địa phòng ngự chiến đấu ở những nơi hiểm yếu như Đèo Cả, Đồng Bò, Củng Sơn vào sâu tới Buôn Hồ, giáp Đắc Lắc.


Tháng 2 năm 1946, sau tết âm lịch, giặc Pháp từ Phan Rang - Phan Thiết đánh ra, từ Buôn Ma Thuột đánh xuống và từ các tàu ngoài biển bắn vào. Mặt trận Nha Trang bị vỡ. Một số đơn vị phải rút lên phía bắc.


Tại sở chỉ huy của chi đội ở thị xã Tuy Hòa, Vi Dân huy động toàn đơn vị tiếp đón đồng bào vả chiến sĩ từ mặt trận Nha Trang rút về. Người ốm, người bị thương được chăm sóc thuốc men. Người khỏe mạnh có thể tiếp tục chiến đấu, công tác được phiên chế về các đơn vị.


Sau khi xem xét tình hình và tập hợp lực lượng, đồng chí Nguyễn Sơn, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến miền Nam chủ trương đẩy mạnh hoạt động để gây lại khí thế, niềm tin cho quân và dân địa phương, tổ chức một số trận đánh quấy rối điểm đóng quân của địch ở gần thành phố Nha Trang; tập kích doanh trại địch ở Tu Bàng - Vạn Giã, phía bắc tỉnh Khánh Hòa. Trận này ta tiêu diệt được một số tên rồi rút lui an toàn. Trận đánh gây tiếng vang ỉớn, giảm bớt sự hung hăng của quân giặc, gây lại khí thế niềm tin trong nhân dân. Chính quyền, đoàn thể địa phương huy động nhân dân ra đến cầu Trường Thịnh (cách thị xã 16 ki-lô-mét về phía nam) đón bộ đội chiến thắng trở về, sau đó mở hội khao quân.


Sau Hiệp định sơ bộ (6 tháng 3), các đơn vị vũ trang ở miền Nam Trung Bộ (từ Phú Yên đến Phan Thiết) được tổ chức lại. Vi Dân được cử làm trung đoàn trưởng trung đoàn 95. Các chiến sĩ chi đội Vi Dân hành quân Nam tiến từ Chợ Bến hòa vào các đơn vị vũ trang của Khu 5, Khu 6 và Tây Nguyên.


Cũng như các đơn vị Nam tiến từ các địa phương trong cả nước hành quân vào mặt trận phía Nam của Tổ quốc sát cánh cùng quân dân địa phương chiến đấu ngăn chặn quân xâm lược, chi đội Vi Dân hình thành từ đội công nhân xung phong Thủ đô đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #28 vào lúc: 01 Tháng Sáu, 2021, 05:54:32 pm »

CHI ĐỘI VI DÂN Ở MẶT TRẠN PHÚ YÊN


NGUYỄN HỮU THIỆU


Sau khi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô và bảo vệ ngày Lễ Độc lập 2 tháng 9, chi đội Vi Dân được lệnh bàn giao các khu vực bảo vệ cho chi đội Đàm Quang Trung, chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Từ các khu vực bảo vệ (trại bảo an binh (cũ), bệnh viện Phủ Doãn, Trường đại học Đông Dương, Bắc Bộ phủ...), các đội viên tập trung về sân Bắc Bộ phủ phiên chế thành tiểu đội, trung đội, đại đội. Từ Hà Nội, chi đội hành quân qua thị xã Hà Đông, Bình Đà..., đi thuyền vào Tuyết Sơn (chùa Bảo Đài, Hương Tích), ở đây núi non hiểm trở, dưới chân núi là đồng nước, lại xa dân nên đi lại, tập luyện, tiếp tế rất khó khăn. Chi đội phải chuyển về Chợ Bến (Mỹ Đức) và bước ngay vào tập luyện quân sự. Các đồng chí nguyên là công nhân xung phong thành Hoàng Diệu (anh Nguyễn Công Tâm, anh Lộc, anh Vi...) hướng dẫn cách tháo lắp, lau chùi, sử dụng súng, các tiểu đội trưởng (một số là cựu binh) hướng dẫn động tác chiến đấu cá nhân (tiến, lùi, nấp, bò, ném lựu đạn...). Anh Phạm Văn Thọ (Thọ lớn) nguyên là quan hai khố đỏ được phân công phụ trách huấn luyện quân sự cho toàn chi đội. Nhờ anh chỉ dẫn, tôi biết cách sử dụng bản đồ quân sự, sau này giúp được nhiều việc cho ban chỉ huy. Tôi thường đến nhà cụ thân sinh anh Nguyễn Tấn Quỳnh, đội viên của chi đội để xin bản đồ Đông Dương vì cụ công tác ở ngành mỏ - địa chất. Anh Vi Dân có một cuốn Binh pháp Tôn Tử. Chúng tôi chuyền tay nhau đọc rồi mạn đàm mưu lược chiến đấu. Anh Vi Dân có tài nhớ từng đoạn trong binh pháp, thường nói về cách đánh du kích thiên biến vạn hóa, yêu cầu mọi người phải nẳm vững động tác chiến đấu cá nhân, tiểu đội, tránh đỡ hòn đạn mũi lê của địch, giáng cho chúng đòn bất ngờ bằng thế, bằng mưu... Chúng tôi mạn đàm, tập luyện rất thích thú. Trên bãi tập vã mồ hôi, về nhà ăn uống kham khổ (chỉ có cơm với cá khô đã mục), nhưng không ai sờn chí. Đang mùa mưa, chỗ ở chật chội, các bao tải cá khô phải xếp ở hàng hiên, bị mưa hắt, cá mủn ra, bốc mùi rất khó chịu. Mỗi lần nấu ăn phải đãi rửa sạch sẽ, nhưng không ai kêu ca phàn nàn. Hàng ngày, anh Vi Dân viết thư, báo cáo đều đặn với anh Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng chiến Hà Nội về tình hình chi đội. Ngoài nhiệm vụ chính là tập luyện quân sự, chi đội phân công đồng chí Hồ Như Hải (Vì Nước) phụ trách một số anh em làm công tác tuyên truyền gây cơ sở ở các xã xung quanh (Phù Lưu Tế, Phùng Xá, Thượng Quật, Hạ Quật, Vân Đình...). Chính quyền địa phương ở các xã này phối hợp với chi đội tổ chức các cuộc mít tinh ủng hộ Việt Minh, động viên thanh niên vào vệ quốc đoàn. Ngoài một số thanh niên địa phương, trong thời gian tập luyện ở Chợ Bến, chi đội được bổ sung một trung đội (phân đội Sơn Nam) gồm phần lớn là thanh niên học sinh Hà Nội.


Tháng 11 năm 1945, toàn chi đội rời Chợ Bến, hành quân Nam tiến.

Vào đến Quảng Ngãi, do chiến sự đã lan rộng ra các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, chi đội Vi Dân đươc chia thành ba bộ phận, một bộ phận do Nguyễn Quang Bích chỉ huy hành quân lên Plây Cu; một bộ phận do anh Vi và anh Sơn Nam chỉ huy lên Buôn Ma Thuột (Đắc Lắc); bộ phận lớn còn lại do anh Vi Dân chỉ huy tiếp tục hành quân vào Phú Yên.


Đến Phú Yên, lực lượng của chi đội Vi Dân hợp với một bộ phận lực lượng vũ trang tỉnh, hình thành một chi đội mạnh, mang tên chi đội 4 Phú Yên. Chi đội trưởng là Lê Đức, chính trị viên là Nguyễn Nên. Vi Dân được cử làm chi đội phó, Phạm Văn Thọ là tham mưu trưởng. Sau khi nắm tình hình, Vi Dân bàn với ban chỉ huy chi đội tập trung vào ba việc chính:

Một là, tham gia tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, vận động thanh niên nhập ngũ, phát triển số lượng và tăng cường huấn luyện quân sự nâng cao trình độ chiến đấu của chi đội. Để làm việc này, chi đội đã cử nhiều đoàn công tác vào các buôn làng, đồng bào dân tộc ở Củng Sơn, Đồng Bò... mời già làng ra Sông Cầu, Tuy Hòa cùng đàm đạo, thuyết phục; tổ chức các cuộc mít tinh tuyên truyền chính sách của Chính phủ, mặt trận... Để thuyết phục những người sợ Pháp có súng to, Vi Dân điều khẩu súng cối lên Củng Sơn, tổ chức cho anh em bắn thử ngay trước mặt họ để chứng tỏ ta cũng có súng lớn. Anh đi ngựa đến nhiều bản làng vận động nhân dân tổ chức canh gác, kêu gọi thanh niên vào bộ đội đánh Pháp. Phối hợp với chính quyền và nhân dân các địa phương, chi đội tổ chức "Tuần lễ vệ quốc đoàn", tuyên truyền vận động đồng bào các dân tộc ủng hộ Việt Minh, thanh niên gia nhập bộ đội. Đồng chí Nguyễn Văn Đường được cử làm trưởng ban tổ chức cuộc vận động. Được lãnh đạo tỉnh chỉ đạo, chi đội phối hợp với các địa phương tổ chức các đội thông tin tuyên truyền, đội nhạc, dạy học sinh các bài ca cách mạng... Cuộc bán đấu giá ảnh Bác Hồ ở Sông Cầu do chi đội tổ chức được nhiều chủ ghe bầu hưởng ứng. Số tiền bán ảnh (gấp đôi cuộc bán đấu giá ở Chợ Bến) cùng với tiền và vật phẩm ủng hộ, đủ cho chi đội may cho mỗi đội viên hai bộ quần áo bằng vải si-ta và cải thiện bữa ăn hàng ngày. Những "ngày đồng tâm", toàn dân trong tỉnh nhịn ăn để dành gạo cho bộ đội. Thật không thể kể hết tình cảm mặn nồng của đồng bào. Vì vậy, dù bữa ăn hàng ngày chỉ có mắm ớt, bộ đội vẫn hăng hái tập luyện. Để khuếch trương kết quả, chi đội cử các đồng chí Đường, Phương, Trang, Ngữ... đi các huyện Tuy An, Đồng Xuân, Tuy Hòa tuyên truyền vận động quần chúng ủng hộ Việt Minh, tổ chức lực lượng kháng chiến chống Pháp xâm lược. Chi đội còn cử một đoàn gồm bốn người là Nguyễn Văn Đường, Vũ Đình Thân, Nguyễn Đắc Kiện và Nguyễn Văn Trình ra Trung ương báo cáo tình hình, xin chi viện vũ khí.


Sau khi đồng chí Lê Đức được điều lên Plây Cu, Ủy ban kháng chiến miền Nam cử Vi Dân làm chi đội trưởng chi đội 4 Phú Yên. Với quân số và vũ khí được bổ sung, chi đội tổ chức thêm một đại đội độc lập do đồng chí Trương Thiên Lý làm đại đội trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Đường làm chính trị viên. Đại đội bố trí lực lượng phòng thủ ven biển từ đèo Cù Mông đến Tuy Hòa. Với chi đội 4 làm nòng cốt, lực lượng vũ trang Phú Yên phát triển nhanh không chỉ ở vùng đồng bằng mà cả ở vùng núi Củng Sơn, Cheo Reo, Đồng Bò...


Việc thứ hai mà chi đội cố gắng thực hiện là tranh thủ các đơn vị quân phát xít Nhật còn đóng trên địa bàn tỉnh để có thêm súng đạn và để tập trung lực lượng chống Pháp. Nhằm khống chế quân Nhật đóng ở núi Nhạn, Vi Dân bố trí một bộ phận lực lượng có hỏa lực mạnh trên đỉnh núi gần Tháp Chàm, đồng chí cử người thương lượng với sĩ quan chỉ huy yêu cầu chúng giao lại vũ khí, ta sẽ bảo đảm an toàn cho chúng rút đi. Lúc đầu quân Nhật không chịu, nêu lý do phải nộp vũ khí cho quân Đồng minh. Phát hiện có tàu của Nhật ở ngoài khơi, ta tiếp tục thuyết phục, nói rõ cho sĩ quan binh lính Nhật biết sắp được đón xuống tàu về quê hương, tốt nhất là để lại vũ khí cho ta. Cuối cùng quân Nhật đồng ý. Ta vừa có thêm vũ khí, vừa có điều kiện tập trung sức chống Pháp.


Việc thứ ba rất cấp bách lúc này là tổ chức lực lượng ngăn chặn quân Pháp xâm lược, bảo vệ vùng đồng bằng ven biển Khu 5. Trước tình hình chiến sự diễn biến ngày càng phức tạp ở Nha Trang - Khánh Hòa, Bộ tư lệnh Khu 5 cử đồng chí Phan Tử Lăng vào Phú Yên, cùng Tỉnh ủy và lực lựợng vũ trang tỉnh tổ chức bố phòng ở khu vực Đại Lãnh - Hải Sơn. Đây là địa bàn rất quan trọng, nếu vượt qua được, địch sẽ đánh ra Tuy Hòa, Sông Cầu và vùng ven biển các tỉnh Khu 5. Để chặn địch, quân và dân ta đào nhiều hố to, nhiều đoạn hào ở ven biển, ngăn quân đổ bộ từ tàu lên và chống xe tăng. Trên tuyến đường sắt, ta tổ chức tháo ray, bố trí vật cản ở các đường hầm xuyên núi, xếp chéo ray nọ đè lên ray kia lên đến tận nóc hầm, đầu các thanh ray tua tủa ra phía trước. Chi đội còn cử đồng chí Thiệu "Kính" ra Bình Định gặp đồng chí Nguyễn Bá Phát xin bom, mìn. Đại đội độc lập của Trương Thiên Lý và Nguyễn Văn Đường bố trí ở Đèo Cả, sẵn sàng chặn địch nếu chúng tiến ra theo đường bộ và đường sắt. Đường số 1 bị cắt, đại đội chuyển sang phòng thủ hướng Mađrak, Ma Phu, Buôn Đùng, Buôn Đức, Buôn Hai sẵn sàng đánh quân địch từ Tây Nguyên xuống.


Chiến sự ngày càng lan rộng. Lực lượng vũ trang trên chiến trường Khu 5 được tổ chức lại thành các trung đoàn. Chi đội trưởng Vi Dân được điều ra Quảng Ngãi. Khi chia tay, anh dặn chúng tôi: "Kháng chiến chắc còn dài, gian khổ. Đánh nhau với địch bằng quân sự đã đành, điều cốt yếu là phải đoàn kết nội bộ, giữ được lòng dân, coi dân như bầu sữa mẹ!".


Hơn một năm sau, chứng tôi được tin trung đoàn trưởng Vi Dân đã anh dũng hy sinh trong trận Tú Thủy. Nhớ anh, chúng tôi càng thấm thìa lời dặn sâu sắc của anh, nguyện noi gương anh, chiến đấu cho đất nước hoàn toàn độc lập.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #29 vào lúc: 02 Tháng Sáu, 2021, 08:17:21 pm »

BỘ ĐỘI NAM TIẾN TRÊN CHIẾN TRƯỜNG BUÔN MA THUỘT
(tháng 12 năm 1945)


NGUYỄN CHÍ HƯỚNG


Cuối tháng 11 năm 1945, chi đội Vi Dân hành quân đến Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hòa). Theo lệnh của ban chỉ huy mặt trận, một số phân đội lên chiến đấu ở Tây Nguyên. Ngày 11 tháng 12 năm 1945, phân đội chúng tôi đến thị xã Buôn Ma Thuột, được lãnh đạo tỉnh Đắc Lắc và nhân dân niềm nở đón tiếp, đưa vào nghỉ ở đồn khố xanh cũ. Bữa cơm trưa hôm ấy, lần đầu tiên chúng tôi được thưởng thức cơm gạo lúa nương của đồng bào Tây Nguyên. Hạt gạo gấp đôi gạo thường, ăn rất dẻo lại bùi; món canh thịt bò nấu với bí đỏ đặc như chè bà cốt, thịt bò thái to, cách nấu đơn giản nhưng ăn đậm đà, ngon miệng; đặc biệt là anh chị em phục vụ (người Kinh cũng như người dân tộc) rất tận tình, thật thà, chất phác, chăm sóc chúng tôi như người thân đi xa về. Anh chị em chỉ vào những món ăn, nói bằng tiếng Ê Đê: "Đây là cơm gạo lúa nương của đồng bào Tây Nguyên...". 


Sau bữa ăn, chúng tôi được bố trí ở hai phòng (tầng hai), một phòng cho hai tiểu đội và một phòng dành cho ban chỉ huy và tiểu đội chúng tôi. Qua một đêm hành quân vất vả, được đón tiếp nồng hậu, bữa ăn ngon miệng cùng khí hậu Tây Nguyên mát lạnh (cuối tháng 12), nhiều anh em vừa ngả lưng đã ngủ ngon lành. Riêng tôi và hai ba anh em nằm bên cửa vừa chợp mắt thì một luồng gió lạnh thổi vào làm tỉnh giấc. Không ngủ được nữa, chúng tôi rủ nhau ra ngoài lan can, rồi xuống sân dạo quanh hàng rào phía cổng để ngắm phong cảnh yên tĩnh, mát mẻ của thị xã. Bỗng có tiếng súng nổ từ phía tây nam thị xã. Chúng tôi vào phòng trực ban hỏi thì được các đồng chí cán bộ địa phương cho biết đó là những tiếng nổ do anh em "Việt Nam mới"1 (Những lính Nhật tự nguyện ở lại Việt Nam) thử súng, lựu đạn sau khi sửa chữa.


Vào đến giữa sân, chúng tôi lại nghe nhiều tiếng nổ. Thấy hiện tượng không bình thường, chúng tôi lên báo cáo ban chỉ huy. Anh Đỗ Tín, phân đội trưởng, anh Giám, chính trị viên phán đoán tình hình, giao nhiệm vụ cho 2 tiểu đội nhanh chóng ra bố trí sát hàng rào phía trước, ban chỉ huy và tiểu đội chúng tôi bố trí trên hành lang trước nhà nghỉ.

Vừa bố trí lực lượng xong, đạn pháo cối của địch đã bắn tới tấp vào thị xã, một quả nổ ngoài bốt gác, một quả trúng giữa sân. Xe địch nổ máy ầm ầm, tràn vào thị xã.

Qua cổng đồn, nơi phân đội chúng tôi ở, địch đặt 2 khẩu đại liên bắn chéo vào sân. Hai tiểu đội bố trí sát hàng rào phía trước, trong các ụ công sự, chỉ cách địch 4-5 mét xả súng tới tấp vào đội hình địch, gây cho chúng nhiều tổn thất. Ban chỉ huy phân đội và tiểu đội chúng tôi bố trí trên hành lang nổ súng yểm trợ. Anh em chiến đấu rất dũng cảm, dù lực lượng ít hơn, mỗi người chỉ có một khẩu súng trường, vài ba chục viên đạn.


Khi pháo địch bắn mạnh hơn, ban chỉ huy phân đội di chuyển vị trí. Đồng chí Giám, chính trị viên vừa xuống sân thì trúng đạn trọng thương. Anh hô to: "Đả đảo thực dân Pháp xâm lược", kêu gọi anh em nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm để trả thù cho những đồng đội hy sinh, thà chết không đầu hàng giặc.


Anh Đỗ Tín, phân đội trưởng cũng bị trúng đạn. Anh ra lệnh cho số anh em còn lại trên hành lang nhanh chóng vòng ra cửa sau, tìm cách liên lạc với các đơn vị bạn để ứng cứu.

Nhận được lệnh của đồng chí Tín, tôi và hai ba anh em còn lại vòng qua hành lang phía sau, nhảy xuống đất, vượt qua hàng rào bê tông cao khoảng 1,5 mét. Sau khi vượt qua hàng rào, gặp phải bãi gai (cây xấu hổ) dày đặc, chúng tôi đành phải luồn vào sâu đến 3-4 mét để ẩn náu. Khoảng 5-6 giờ chiều, lợi dụng trời nhá nhem tối và ngớt tiếng súng nổ, chúng tôi tìm cách vượt qua bãi gai. Trời càng lúc càng tối, đường khó đi, phải lần mò từng bước để dò tìm. Nhớ lời căn dặn của đồng chí Đỗ Tín, phải nhanh chóng tìm cách lần mò lên đồi. Vừa qua khỏi lùm cây, tôi nhìn thấy một người cao, to, cởi trần, đóng khố đứng trên sườn đồi. Tôi vừa mừng vừa lo vì không biết ta hay địch. May mắn thay, người này nói tiếng dân tộc, làm điệu bộ chỉ vào mũi và khua tay ra hiệu để tôi biết không phải Tây mủi lõ, đừng sợ. Tôi rất mừng, nhưng đi được một quãng xa, gặp con đường to và rộng, tôi sợ gặp địch nên yêu cầu trở lại vị trí cũ. Quay lại khoảng vài trăm mét, tôi nghe có tiếng người trong bụi cây: "Anh Hướng ơi, Trọng bị thương, cứu Trọng với".


Tôi lần tới bụi cây dìu anh Trọng ra, rờ vào cánh tay, thấy máu chảy đầm đìa, thấm ướt hết vạt áo, cũng may không bị gãy xương. Tôi xé vạt áo buộc vết thương, rồi dìu anh Trọng đi theo người dẫn đường.

Về gần vị trí cũ thấy có ánh lửa trong ngôi nhà phía trước, người dẫn đường ra hiệu cho tôi biết trong nhà một số cán bộ và nhân viên thị xã đang bàn việc sơ tán. Vì anh Trọng bị thương, tôi quyết định ở lại, nấu nước rửa vết thương băng bó cho anh. Thấy chạn bếp có mấy buồng chuối, tôi bẻ ít quả đặt vào bếp nướng để cùng ăn với anh Trọng cho đỡ đói, sau đó chúng tôi nằm ngủ quanh bếp. Khoảng 3 giờ sáng, tôi tỉnh giấc. Nhìn thấy ánh lửa phía xa, tôi lần tới, gặp một bà người Bắc. Bà nói với tôi đây là nơi tập trung rau quả tiếp tế cho thị xã. Bà dẫn tôi đi xem những đống rau quả và bảo tôi ăn bao nhiêu thì cứ lấy. Bà nói tiếp: "Trong nhà còn lưng thùng gạo và ít hạt mè (vừng), sáng mai tôi sẽ nấu hết và rang muối mè để mỗi người ăn một bát và nắm một bát mang đi đường".


Tôi trở về đưa anh Trọng xuống ăn cơm với bà. Trời sáng rõ, mọi người cùng nhau lên đường.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM