Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 12:37:18 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ  (Đọc 43791 lần)
0 Thành viên và 3 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #30 vào lúc: 12 Tháng Chín, 2016, 04:16:09 am »


        Nhưng, mặt khác, phải thừa nhận rằng Nguyễn Ánh đã có nhiều cố gắng để tìm ra một hình thức phòng thủ mới, trong một khu vực địa thế có lợi cho quân Nguyễn. Khu vực phòng thủ tuy rút hẹp lại, nhưng binh lực, thuyền chiến, công sự được tăng lên rất nhiều, có sử dựng phối hợp nhiều loại phương tiện chiến đấu, kể cả bè hỏa công và rồng cỏ, do đó sự vững chắc trong phòng thủ được tăng lên. Khác với năm trước, phòng thủ từ xa, có khúc sông rộng, lần này Nguyễn Ánh tổ chức phòng thủ ở gần thành Gia Định, có đoạn sông hẹp hơn, khiến cho thủy quân Tây Sơn khó cơ động, và không sử dụng được thật nhiều thuyền chiến trong đợt đột kích đầu tiên. Nguyễn Ánh lại tin cậy ở kỹ thuật hỏa công có thể áp đảo được quân đội Nguyễn Huệ.

        Tại khu vực phòng thủ, Nguyễn Ánh sử dụng thủy quân làm quân cơ động, và bộ binh đồn trú trong hai cứ điểm mạnh làm nhiệm vụ ngăn chặn cuộc tiến quân của thủy quân Tây Sơn .

        Khó khăn càng lớn, lại càng làm nổi bật tinh thần dũng cảm tiến công của quân đội Tây Sơn và nghệ thuật chỉ huy quân sự của Nguyễn Huệ. Chính lần này, Nguyễn Huệ đã thành công trong việc tổ chức đội hình chiến đấu của thủy quân và triệt để lợi dụng con nước, lợi dụng chiều gió trong thủy chiến để tiến công địch, đánh phá kế hoạch hỏa công của địch. Nguyễn Huệ đã chọn đúng lúc nước triều dâng lên, gió biển theo nước triều thổi mạnh vào mà tiến quân.

        Còn viên tướng Nguyễn chỉ huy đánh hỏa công thì hốt hoảng cực độ trước uy lực tiến công của quân đội Tây Sơn đã phóng hỏa đốt bừa, không còn khả năng phân biệt nước triều lên xuống và gió thuận hay ngược. Đòn đánh mãnh liệt của Nguyễn Huệ đã làm cho tổ chức phòng thủ vững chắc của quân Nguyễn bị chọc thủng hết sức nhanh chóng đến nỗi Nguyễn Ánh không dám, mà cũng không còn phương tiện để cố thủ thành Gia Định.

        Đòn đánh thứ hai của Nguyễn Huệ vào Đồng Tuyên lại gây thêm cho quân đội Nguyễn Ánh một bất ngờ mới, một khủng khiếp mới: sự xuất hiện của đội tượng binh lợi hại nổi tiếng của quân đội Tây Sơn đã làm cho Nguyễn Ánh không kịp trở tay. Trong lúc các đội tiền phong, trung quân tả chi, hữu chi của Nguyễn Ánh bị voi nghiền nát thì đội hậu quân chưa xuất trận đã bị bộ binh Tây Sơn bao vây bắt gọn không sót một tên. Quân đội Nguyễn Ánh đã từng nếm mùi thất bại trước đội tượng binh Tây Sơn, trong trận chiến đấu tại Bình Khang năm xưa, nhưng đây là lần đầu tiên, đội tượng binh đáng sợ đó đã xuất hiện tại chiến trường Gia Định, xa xôi với căn cứ Qui Nhơn của nghĩa quân. Đưa đội tượng binh vào chiến trường Gia Định, Nguyễn Huệ tỏ ra rất mạnh bạo trong việc sử dụng binh chủng đặc biệt này. Chiến trường Gia Định nhiều sông ngòi, đất lại xốp, có ảnh hưởng nhất định đến việc vận động của voi. Nguyễn Huệ không những đã mạnh dạn dùng thuyền vận tải chở voi, bí mật vận chuyển cả một đội tượng binh quan trọng, mà còn sử dụng nó một cách tập trung thành một lực lượng rất mạnh, hiệp đồng chặt chẽ với bộ binh để công kích.

        Qua hai đòn đánh mãnh liệt và giai đoạn đánh đuổi lùng sục tích cực, trận chiến đấu đã kết thúc thắng lợi. Thời gian tuy ngắn, chiến đấu tuy ít, nhưng trong trận chiến đấu này, Nguyễn Huệ đã hoàn thành việc đặt cơ sở vững chắc cho chiến thuật cận đại của quân đội Tây Sơn: chiến thuật hợp đồng của thủy quân, pháo binh đặt trên thuyền chiến và bộ binh; chiến thuật hợp đồng của bộ binh, tượng binh và pháo binh dã chiến.

        Đó cũng là bước phát triển mới về nghệ thuật tác chiến của quân đội Nguyễn Huệ và đó cũng là ý nghĩa quan trọng của trận chiến đấu này.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #31 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 12:57:35 am »

      
NGUYỄN HUỆ TIẾN QUÂN ĐÁNH TAN LIÊN QUÂN XIÊM – NGUYỄN GIẢI PHÓNG
GIA ĐỊNH LẦN THỨ TƯ (1785)

        Nguyễn Huệ đem đại quân rời khỏi Gia Định thì cũng như các lần trước, một số tướng của Nguyễn Ánh như Hồ Văn Lân, Tôn Thất Hội, Lê Văn Quân còn lẩn trốn ở Gia Định lại ra mặt hoạt động.

        Tháng Mười năm Quý Mão (1783), Hồ Văn Lân đem tàn quân đánh thắng một cánh quân Tây Sơn ở Tân Châu, rồi tiến lên Cần Thơ, đánh bại tướng Tây Sơn Nguyễn Hóa và bắt được 13 thuyền chiến lớn đi biển của quân Tây Sơn. Tôn Thất Hội cũng thu thập tướng sĩ cũ, tiến lên giữ đồn Tinh Phụ. Lê Văn Quân cũng mộ quân chiếm giữ song Tân Hòa.

        Nhưng, như chúng ta đã thấy ở trên, lần này Nguyễn Huệ đã bố trí phòng thủ chu đáo, không để cho bọn tướng Nguyễn có thể mở rộng hoạt động, giành giật lại đất Gia Định như các lần trước. Khi Tôn Thất Hội tiến giữ đồn Tinh Phụ thì lập tức tướng Tây Sơn Trương Văn Đa cho quân tới vây chặt lấy đồn Tinh Phụ.

        Tháng Giêng nhuận năm Giáp Thìn (l784), Hồ Văn Lân đem quân đến cứu đồn Tinh Phụ. Tôn Thất Hội ở trong đồn, cố đánh phá vòng vây vượt ra, cùng Hồ Văn Lân chạy về Tân Hòa, hợp quân với Lê Văn Quân. Trương Văn Đa cùng quân Tây Sơn tiến đánh Tân Hoà. Quân Nguyễn tan vỡ, các tướng Nguyễn bỏ chạy. Bọn Lê Văn Quân. Tôn Thất Hội, cùng đường, phải chạy sang Xiêm.

        Trong khi các tướng của Nguyễn Ánh còn ở lại Gia Định phải chạy trốn một cách tuyệt vọng như vậy thì Nguyễn Ánh và bọn tùy tùng cũng đang sống ở Thổ Châu một cách vất vưởng, tuyệt vọng không kém. Ngày 15  tháng 12 năm 1783, Nguyễn Ánh viết thư cầu cứu giáo sĩ Li-ô, nguyên là giám đốc trường đạo ở Mạc Bắc. Từ ngày 19 tháng 3 năm 1783 , Li-ô đã cùng Bá Đa Lộc chạy trốn trên các hải đảo ở vịnh Xiêm La. Khi biết tin Nguyễn Ánh bị thất bại lớn ở đảo Cổ Long và thấy không còn hy vọng trở về Gia Định, Li-ô và Bá Đa Lộc chạy tới Chan-ta-bun (thuộc Xiêm) ngày 21 tháng 8 năm 1783. Được biết Li-ô và Bá Đa Lộc ở Chan-ta-bun, Nguyễn Ánh cho cai đội Sùng Đức Hầu cầm thư và 10 nén vàng đi Chan-ta-bun gặp Li-ô, trình bày hoàn cảnh khốn quẫn, thiếu thốn, chỉ còn lương ăn trong 12 ngày. Nguyễn Ánh khẩn khoản yêu cầu Li-ô mua giúp lương thực và nhờ những người dân có đạo chuyên chở tới giúp1.

        Bá Da Lộc và Li-ô chưa kịp trả lời và mua giúp lương thực thì khoảng giữa tháng Giêng năm 1784, bọn Nguyễn Ánh đã chạy lang thang tới một hòn đảo cách Chan-ta-bun chừng hơn một dặm. Lúc ấy Nguyễn Ánh còn một tàu Tây và chừng 15 chiếc thuyền cùng với 600 - 700 quân. Nhưng đói lắm, mọi người phải đào củ, rễ, để ăn cho qua ngày. Bọn Bá Đa Lộc và Li-ô được tin, tới thăm bọn Nguyễn Ánh và nhường lại cho Nguyễn Ánh một phần lương thực. ở với Nguyễn Ánh chừng nửa tháng, bọn Bá Đa Lộc chạy ra đảo Thổ Châu rồi ra đảo Pu-Lô-Oay (Poulo - Way), và ở đây từ tháng 3 đến tháng 12 năm 17842.

        Về phía Nguyễn Ánh, với một số ít lương thực của bọn Bá Đa Lộc nhượng lại, không đủ sống lâu dài. Tháng Hai năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Ánh quyết định chạy theo bọn Chu Văn Tiếp sang Xiêm, để một lần nữa cầu cứu vua Xiêm. Muốn nhân dịp này gây ân huệ với Nguyễn Ánh để giành quyền khống chế Chân Lạp và xâm lấn một phần đất đai Gia Định, vua Xiêm nhận lời cho quân giúp Nguyễn Ánh về đánh nhau với nghĩa quân Tây Sơn.

        Đầu tháng Sáu năm Giáp Thìn, vua Xiêm cho hai cháu là chiêu Tăng là chiêu Sương3 đem 2 vạn thủy quân và 300 thuyền chiến theo Nguyễn Ánh tiến vào Gia Định. Nguyễn Ánh cũng tập hợp tàn quân và cử Chu Văn Tiếp làm Bình tây đại đô đốc, điều khiển các quân.

        Ngày 9 tháng Sáu năm Giáp Thìn4 tức 25 tháng 7 năm 1784, liên quân Xiêm - Nguyễn từ Vọng Các xuất phát.

        Quân đội Xiêm là một quân đội như thế nào, ra đi có khả năng chiến thắng quân Tây Sơn không? Âm mưu "cõng rắn cắn gà nhà" của Nguyễn Ánh có thực hiện được không? Thực tế chiến đấu sau này sẽ cho chúng ta biết rõ những điều đó. Nhưng quân đội Xiêm cũng là một lực lượng vũ trang đáng kể. Sự can thiệp của quân đội Xiêm không phải không là mối nguy cơ cho nền độc lập của nước nhà thời bấy giờ.

        Về tổ chức, quân đội Xiêm có lục quân và thủy quân. Trong lục quân, bộ binh và tượng binh là hai binh chủng chủ yếu. Qua những cuộc chiến đấu chống quân Miến Điện, bộ binh và tượng binh Xiêm tỏ ra khá thông thạo trong tác chiến ở rừng núi.


------------------
       1. L. Cadière, Les Francais au service de Gia Long, Bulletin des Amis du Vieux Huế, Janvier - Mars l9l26, n0 1, pp. 15 - 19

        2. Thư của Bá Đa Lộc ngày 20 tháng 3 năm 1785, trong Lettres édifiantes et curieuses. Paris, 1843, tome IV, pp. 621 – 622.

        3. Chiêu hay chiếu là một chức tước, không phải tên họ, có thể gọi là chao, châu như tiếng Lào, tiếng Thái. Chữ nho vốn viết là “chiếu”, vì kiêng húy vua chúa nhà Nguyễn, các sử thần nhà Nguyễn mới viết là “chiêu”.

        4. Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. q. 3, tờ 75.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Chín, 2016, 01:22:30 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #32 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:01:51 am »

       
        Nước Xiêm có nhiều sông ngòi, có biển, nên thủy quân Xiêm có điều kiện phát triển khá mạnh. Thủy quân Xiêm có đủ các loại thuyền chiến: thuyền chiến lớn đi biển, thuyền chiến vừa và thuyền chiến nhỏ đi sông.

        Về trang bị, quân đội Xiêm căn bản không khác gì các quân đội phong kiến Việt Nam, Trung Quốc và các nước phương Đông khác. Từ giữa thế kỷ XVIII, để đẩy mạnh âm mưu xâm lược Chân Lạp, phong kiến Xiêm liên lạc với tư bản phương Tây mua vũ khí trang bị cho quân đội của họ. Thuyền chiến đi biển của Xiêm được trang bị khá đầy đủ.

        Quân đội Xiêm đã nhiều lần tác chiến với quân đội Nguyễn trên các địa hình nhiều sông ngòi ở miền Nam nước ta và ở Chân Lạp, nhưng lần này mới là lần đầu tiên họ chạm trán với quân dội Tây Sơn hùng mạnh.

        Để phản công chiếm lại Gia Định lần này, Nguyễn Ánh dựa vào chủ lực là hai vạn thủy binh thiện chiến và 300 thuyền chiến của bọn can thiệp Xiêm. Ngoài ra, Nguyễn Ánh có một số quân đã chiêu mộ trên đất Xiêm và một bộ phận nhỏ quân Nguyễn còn lén lút tại một vài nơi miền Gia Định.

        Kế hoạch tiến công của các tướng Xiêm và Nguyễn Ánh là trước hết dùng ưu thế thủy quân nhanh chóng tiêu diệt các đội quân nhỏ của Tây Sơn đồn trú tại các nơi xa Gia Định, bảo đảm cho Nguyễn Ánh có căn cứ để xây dựng lực lượng, đồng thời kéo một bộ phận quân Tây Sơn ra khỏi Gia Định để tiêu diệt. Sau đó, do lực lượng được tăng cường, họ vẫn có ưu thế để đối phó với sự tăng viện của Tây Sơn từ Qui Nhơn đưa tới. Nếu quân tăng viện của Tây Sơn không tới kịp thì ưu thế tiến công của họ lại càng lớn, khi họ tiến lên Gia Định. Cho nên, phản công lần này, quân Xiêm - Nguyễn không vội vàng đánh thành Gia Định ngay, mà trước hết đánh chiếm các vùng từ vịnh Xiêm La đến Tiền Giang, đánh đến đâu củng cố đến đó. Phương châm tác chiến của họ là vừa đánh ăn chắc, vừa giải quyết nhanh.

        Tháng Bảy năm Giáp Thìn (l784) cuộc phản công của Nguyễn Ánh bắt đầu. Quân Xiêm - Nguyễn đổ bộ lên Rạch Giá, chiếm giữ khu vực này làm một đầu cầu chiến lược, vừa thuận tiện cho việc cung cấp, vừa thuận tiện cho việc phát triển hoặc rút lui. Tuy nhiên, quân Xiêm - Nguyễn tiến triển cũng rất chậm. Trong vòng hơn 3 tháng, từ tháng Bảy đến giữa tháng Mười âm lịch, quân Xiêm - Nguyễn mới tiến được lên Cần Thơ, chiếm giữ mấy đồn Ba Xác, Trà ôn, rồi tiến lên Sa Đéc.

        Chủ quan với những thắng lợi đạt được và tin tưởng lần này dựa vào hai vạn quân Xiêm, sẽ nhất định chiến thắng quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh vội vàng viết thư gọi bọn Bá Đa Lộc và Li-ô trở về Gia Định, Ngày l0 tháng 10 năm 1784, Nguyễn Ánh gửi thư cho Li-ô ở Cham-ta-bun 1.

        Nhưng nỗi vui của Nguyễn Ánh không được mấy ngày thì đã phải thất vọng về quân Xiêm. Với những thắng lợi đạt được, quân Xiêm sinh kiêu căng, khinh mạn, không nghĩ gì đến chiến đấu, chỉ chuyên đàn áp nhân dân, giết người cướp của vô cùng tàn bạo. Khắp nơi, nhân dân oán hờn cao độ. Thấy tình hình như vậy, Nguyễn Ánh rất hoảng sợ và hết sức lo lắng, lo cho số phận của mình, lo không chiến thắng được Tây Sơn, không lập lại được ngôi chúa. Cho nên, tuy sống bên cạnh quân Xiêm, dựa vào quân Xiêm, nhưng Nguyễn Ánh đã mất tin tưởng, đi cầu viện nơi khác. Khoảng tháng 11 năm 1784, Bá Đa Lộc trở về Gia Định tìm gặp Nguyễn Ánh.

        Nguyễn Ánh khẩn khoản nhờ Bá Đa Lộc đi cầu viện nước Pháp giúp quân và gửi Bá Đa Lộc đứa con đầu lòng của mình là Cảnh làm con tin. Trong quan hệ với Nguyễn Ánh từ trước tới bấy giờ, Bá Đa Lộc vẫn muốn tìm ở đó những tiền đề và tạo nên những yếu tố để thực hiện mưu đồ cướp nước Việt Nam cho tư bản Pháp. Bá Đa Lộc vẫn mong muốn có một cơ hội buộc Nguyễn Ánh phải cầu viện Pháp để Pháp có cớ mang quân can thiệp vào Việt Nam. Cơ hội ấy đã tới. Bá Đa Lộc không thể bỏ lỡ, mặc dầu hắn là kẻ khoác áo thầy tu. Bá Đa Lộc vội vã nhận lời và lập tức lên đường. Ngày 15 tháng Mười âm lịch, tức ngày 27 tháng 11 năm 1784 2, Bá Đa Lộc đưa Cảnh xuống thuyền, tìm đường sang Pháp. Cuối tháng 2 năm l785, Bá Đa Lộc và Cảnh tới Pông-đi-sê-ry (Pondichéry - thuộc Ấn Độ) 3.

--------------------
        1 Cadière. Les Francais au service de Gia Long. Bulletin des Amis du vieux Huế, Janvier - Mars 1926, n0 1.

        2. Thư Nguyễn Ánh viết cho Liot ngày 25 tháng 1 năm 1785.

        3. Thư của Bá Đa Lộc ngày 20 tháng 3 năm 1785, đã dẫn ở trên, Đại nam thực lục, Bản dịch của Viện Sử học, t. II, tr. 56.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #33 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:03:14 am »


        Trong khi Nguyễn Ánh đang một lần nữa mưu cầu ngoại viện như vậy thì tướng Tây Sơn Trương Văn Đa đem thủy quân từ Gia Định tiến xuống Long Hồ để chống nhau với quân Xiêm - Nguyên. Với một lực lượng hết sức chênh lệch, quân Tây Sơn ở Gia Định chỉ có khoảng mấy nghìn người mà quân Xiêm - Nguyễn có trên hai vạn, cuộc chiến đấu của quân Tây Sơn thật khó khăn. Ngày 18 tháng Mười năm Giáp Thìn 1 tức 30 tháng 11 năm t784. Nguyễn Ánh và Chu Văn Tiếp đem thủy quân tiến theo sông Măng Thít (thuộc địa phận Long Hồ, tức Vĩnh Long ngày nay) để đánh quân Tây sơn. Tướng Tây Sơn Trương Văn Đa đem quân chống cự. Tiền quân Tây Sơn do chưởng quân là Bao chỉ huy, chiến đấu rất mãnh liệt. Tiền quân Nguyễn bị quân Tâm Sơn vây chặt. Tướng chỉ huy quân Nguyễn là Chu Văn Tiếp nhảy sang thuyền Tây Sơn để đánh phá, bị quân Tây Sơn đâm chết. Nguyễn Ánh vội đem quân cứu viện. Tướng Tây Sơn Trương Văn Đa thu quân về Long Hồ2.

        Sau trận Măng Thít, Lê Văn Quân được cử làm tổng nhung thay Chu Văn Tiếp. Tháng Một âm lịch, Lê Văn Quân cho quân đi đánh úp đồn Ba Lai, ở ven sông Ba Lai (thuộc Bến Tre ngày nay) và đồn Trà Tân, ven sông Mỹ Tho, rồi lại rút về. Trong những trận đánh này, tướng Nguyễn là chưởng cơ Đặng Văn Lượng tử trận.

        Ngoài hai trận tập kích nói trên, quân Xiêm - Nguyễn, từ sau trận Măng Thít đến hết năm 1784, không tiến hơn nữa, vẫn giữ những vị trí cũ như trước trận Măng Thít. Việc không tiến quân thêm như thế cũng có nhiều lý do.

        Một là quân Xiêm là quân đi đánh thuê, nặng về mặt cướp bóc đàn áp nhân dân để kiếm lợi riêng hơn là đi chiến đấu với quân Tây Sơn vì lợi ích của Nguyễn Ánh. Hai là Nguyễn Ánh cũng muốn tranh thủ thời gian mộ thêm quân, xây dựng lực lượng của mình. Ba là vì quân Tây Sơn, tuy không đủ lực lượng tấn công quân Xiêm - Nguyễn, nhưng vẫn cố bám sát quân địch, hết sức cố thủ những vị trí của mình. Tướng chỉ huy quân Tây Sơn ở Gia Định là Trương Văn Đa vẫn đóng quân ở Long Hồ đối diện với đại bản doanh quân Xiêm - Nguyễn ở Sa Đéc và án ngữ đường tiến quân của Nguyễn Ánh và các tướng Xiêm.

        Liên quân Xiêm - Nguyễn càng đóng quân lâu tại chỗ, càng trì hoãn tiến quân thì mâu thuẫn giữa quân Xiêm, Nguyễn Ánh và nhân dân Gia Định ngày càng trở nên sâu sắc. Quân Xiêm cậy mình là kẻ cứu giúp Nguyễn Ánh nên đàn áp, cướp bóc nhân dân, khinh mạn Nguyễn Ánh và quân Nguyễn. Càng đóng quân lâu, quân Xiêm càng nhàn rỗi, càng tăng cường những hành động bạo ngược trên miền đất Hậu Giang. Với các lần phản công trước, Nguyễn Ánh còn có thề mau chóng khôi phục quân đội, nhưng lần này, từ khi Nguyễn Ánh tới Cần Thơ, Sa Déc cho tới hết năm 1784, lực lượng quân sự của Nguyễn Ánh chỉ có chừng ba, bốn nghìn, chủ lực vẫn là hai vạn thủy binh Xiêm và 300 thuyền chiến của họ.

        Thấy rõ chỗ yếu của liên quân Xiêm - Nguyễn, các lãnh tụ Tây Sơn tại Qui Nhơn quyết định tổ chức phản công, đập tan kế hoạch chiến lược của quân Xiêm và phá tan mưu đồ chiếm lại Gia Định của Nguyễn Ánh. Vị tướng trẻ nhiều mưu lược là Nguyễn Huệ lại đứng ra đưa thủy quân vào Nam đánh giặc.

        Nguyễn Huệ không đem quân vào thành Gia Định đón chờ địch, mà tiến thẳng xuống gần địa điểm tập kết của địch. Đầu tháng Chạp năm Giáp Thìn, thủy quân của Nguyễn Huệ tới Định Tường (Mỹ Tho).

        Nguyễn Huệ không tiến công thẳng vào đại bản doanh của quân Xiêm - Nguyễn ở Sa Đéc. Bởi vì liên quân Xiêm - Nguyễn không phân tán lực lượng vẫn sử dụng tập trung toàn bộ thủy quân tại Sa Đéc. Mà lực lượng ấy gồm hai vạn quân Xiêm, 300 thuyền chiến và mấy nghìn quân Nguyễn cũng là một lực lượng khá lớn, không thể đánh thắng dễ dàng. Mặt khác, địa điểm Sa Đéc có ưu thế về dòng sông (đầu đoạn sông Tiền Giang đổ ra biển) giúp cho tốc độ vận động, triển khai của thủy quân Xiêm được tăng cường. Đó là điều bất lợi, nếu Nguyễn Huệ đánh thẳng vào Sa Đéc.

        Cho nên, căn cứ vào tình hình ấy, Nguyễn Huệ quyết định kéo địch ra khỏi căn cứ đưa chúng đến khu vực sông và địa hình có lợi nhất cho mình, bất ngờ nhất cho địch, để tiến công tiêu diệt toàn bộ thủy quân địch.

        Thực hiện quyết tâm đó, Nguyễn Huệ chọn khúc song Mỹ Tho, từ Rạch Gầm đến Xoài Mút làm đoạn sông quyết chiến với địch.

--------------------
        1. Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. Bản chép tay của Viện Sử học, q. 3, tờ 75.

        2. Đại Nam chính liên liệt truyện. sơ tập q. 30, tờ, 11 nói rằng Nguyễn Ánh tiến đóng Long Hồ, như thế có nghĩa là Trương Văn Đa chạy khỏi Long Hồ, nhưng chạy đi đâu thì không thấy nói rõ. ở đây chúng tôi theo Đại Nam thực lục chính biên.

Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #34 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:06:33 am »


        Đoạn sông này, từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, dài chừng 6, 7 ki-lô-mét và cách đại bản doanh của Nguyễn Huệ ở Mỹ Tho 6 ki-lô-mét. Trong đoạn sông này, lòng sông mở rộng thuận tiện cho việc dồn mấy trăm chiếc thuyền địch tập trung vào đó để công kích. Tại đây, thủy quân và các thuyền chiến Tây Sơn được giấu kín trong các sông nhỏ: Rạch Gầm, rạch Xoài Mút và giấu sau cù lao Thới Sơn.

        Pháo binh Tây Sơn mai phục ở hai bờ sông và trên cù lao Thới Sơn. Khi toàn bộ thuỷ quân Xiêm -Nguyễn đã lọt vào khúc sông này, thì thủy quân Tây Sơn ở Rạch Gầm và rạch Xoài Mút sẽ tiến ra chặn đánh ở hai đầu.

        Thuyền chiến Tây Sơn ở phía sau cù lao Thới Sơn cũng tiến ra đánh vào ngang hông thủy quân Xiêm, chia cắt đội thuyền chiến Xiêm - Nguyễn ra làm nhiều mảnh để đánh phá. Đồng thời pháo binh của Tây Sơn ở hai bên bờ sông Mỹ Tho và trên cù lao Thới Sơn sẽ bắn sả vào thuyền chiến Xiêm - Nguyễn suốt dọc sông từ Rạch Gầm đến rạch Xoài Mút.

        Tại khúc sông này, toàn bộ thủy quân Xiêm - Nguyễn sẽ bị quân đội Tây Sơn bao vây chặt chẽ, không thể chạy thoát dễ dàng như ở khúc sông Sa Déc - Vĩnh Long, là khúc sông có nhiều ngách sông, rất khó thực hiện bao vây  tiêu diệt toàn bộ thủy quân địch.

        Sau khi đã bố trí xong, Nguyễn Huệ cho quân tới khiêu chiến địch tại căn cứ Sa Đéc, thực hiện ý định kéo địch ra khỏi căn cứ, đưa toàn bộ thuỷ quân Xiêm - Nguyễn đến đoạn sông quyết chiến để tiêu diệt.

        Các tướng Xiêm chủ quan, cậy có ưu thế, muốn nhân việc truy kích quân Tây Sơn mà tiến lên chiếm đóng Mỹ Tho. Ngày mùng 8 tháng Chạp năm Giáp Thìn, tức ngày 18 tháng 1 năm 1785, các tướng Xiêm và Nguyễn Anh1 đem toàn bộ thủy quân Xiêm - Nguyễn, tiến theo song Mỹ Tho, đánh đuổi quân Tây Sơn khiêu chiến và toàn bộ thuyền chiến Xiêm - Nguyên đã lọt vào đoạn sông Rạch Gầm - Xoài Mút.

        Khi quân địch đã dẫn thân vào đúng khu vực có bố trí, Nguyễn Huệ ra lệnh tiến công.

        Quân thủy, quân bộ của Tây Sơn cùng giáp công mãnh liệt. Đúng như kế hoạch đã định, trận chiến đấu đã kết thúc nhanh chóng và đem lại thắng lợi rực rỡ cho quân đội Tây Sơn. Toàn bộ thuyền chiến của liên quân Xiêm - Nguyễn đều bị phá hủy và đánh đắm. Hai vạn quân Xiêm chỉ còn lại vài nghìn, trốn lên bộ chạy thoát, lách rừng vượt núi qua Chân Lạp chạy về Xiêm.

        Quân của Nguyễn Ánh có chừng ba, bốn nghìn cũng hoàn toàn tan rã 2. Các tướng Nguyễn bỏ chạy thoát thân mỗi người một ngả, Lê Vãn Quân, chủ tướng của quân Nguyễn, đem tàn quân chừng 600 người 3 chạy trốn một nơi, tới giữa năm sau, mới lần đường sang Xiêm với Nguyễn Ánh.

        Một tướng Nguyễn khác là Nguyễn Văn Thành chỉ huy hơn 1.000 quân cũng bị quân đội Tây Sơn đánh tan. Nguyễn Văn Thành và 50 - 60 tàn quân cùng nhau chạy trốn. Các đội quân của Tôn Thất Hội, Tôn Thất Huy cũng đều tan vỡ 4.

        Nguyễn Ánh phải bỏ thuyền, trốn lên bộ, đi theo chỉ có 12 tên, vừa quân vừa tướng, cùng chạy đến Đồng Vân, rồi theo hướng Thi Giang chạy về Cần Thơ 5.

        Như thế là trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút ngày 18 tháng 1 năm 1785, trước sức tiến công của nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, liên quân Xiêm - Nguyễn gồm trên hai vạn người đã bị hoàn toàn tiêu diệt. Quân Nguyễn Ánh tan tác, tớ thầy lạc lõng. Quân Xiêm từ hai vạn người chỉ còn chừng hai nghìn người, cùng bọn bại tướng chiêu Tăng, chiêu Sương tìm đường chạy về nước.

-----------------
        1. Thư Nguyễn Ánh viết cho Liot ngày 25 tháng 1 năm 1785 trong Cadière, Les Francais au service de Gia Long, Bulletin des Amis du vieux Huế, Janvier - Mars 1921, n0 1. pp. 20 - 21.

        2. Chúng tôi phỏng đoán là 3 - 4 nghìn quân, vì riêng Nguyễn Văn Thành đã chỉ huy hơn 1 nghìn quân, Lê Văn Quân thua chạy cũng còn 6 trăm quân.

        3. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q. 27, tờ 2.

        4, 5. Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập q. 21, tờ 3.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #35 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:07:39 am »


        Từ sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút, "người Xiêm sợ quân Tây Sơn như cọp" 1.

        Còn bọn Nguyễn Ánh bỏ trốn khỏi mặt trận Rạch Gầm - Xoài Mút, nhưng vẫn không được yên thân. Nguyễn Huệ cho quân truy kích ráo riết. Từ Đồng Vân trở đi, Nguyễn Ánh không còn sức chạy bộ được nữa, một tùy tướng là Nguyễn Văn Trị phải cõng Nguyễn Ánh chạy ra Thi Giang 2. Tại đây, một số tướng lĩnh của Nguyễn Ánh là Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội, cũng chạy tới nơi, mỗi người còn được 50 - 60 tàn binh đi cùng. Nguyễn Ánh và cả bọn cùng chạy ra Hà Tiên và tạm trú ở Cồn Khơi 3.

        Một tuần lễ sau trận thất bại thảm hại này, ngày 25 tháng 1 năm 1785, từ Cồn Khơi, Nguyễn Snh viết thư cho giáo sĩ Li-ô ở Chan-ta-bun, báo tin bại trận và nhờ Li-ô giúp đỡ cho mấy người chân tay là Mạc Tử Sinh và cai cơ Trung đi sang Xiêm báo tin thất bại với vua Xiêm .

        Nguyễn Huệ vẫn cho quân đi lùng bắt Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh phải bỏ Cồn Khơi, chạy ra đảo Thổ Châu.

        Sống tại đây, Nguyên Ánh và bọn quân tướng đói quá, xoay ra làm nghề cướp biển. Có lần Nguyễn Văn Thành đi ăn cướp bị trọng thương vì bị thuyền buôn đánh trả lại 5.

        Quân Tây Sơn không ngừng truy kích Nguyễn Ánh. Tháng Ba năm ất Tỵ (1785), quân Tây Sơn tìm tới đảo Thổ Châu. Nguyễn Ánh phải chạy sang đảo Cổ Cốt, rồi chạy sang Xiêm, quân tướng cùng đi có khoảng hơn 200 người. Lần này, Nguyễn Ánh thấy rõ sức mạnh lớn lao của nghĩa quân Tây Sơn và biết không thể trở về Gia Định ngay được, nên Nguyên Ánh định trú ngụ lâu dài trên đất Xiêm. Nguyễn Ánh xin vua Xiêm cho ra ở khu Đồng Khoai, ngoại thành Vọng Các. Nguyễn Ánh tính kế cùng quân tướng quay ra làm ruộng, khẩn hoang, đốn củi để nuôi nhau.

        Biết Nguyễn Ánh đã chạy sang Xiêm và đương ở trong cảnh cùng đường, tuyệt vọng, tình hình Gia Định không có gì đáng lo ngại, tháng Tư năm ất Tỵ (1785) Nguyễn Huệ đem đại quân về Qui Nhơn; để đô úy Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định.

---------------------
        1 Đại Nam thực lực, bản dịch của Viện Sử học. t. II, tr. 65.

        2. Đại Nam chính biên liệt truyện. sơ tập, q. 1 5, tờ 26.

        3, 4. Thư của Nguyễn Ánh gửi cho Liot ngày 25 tháng 1 năm 1785.

        5. Đại Nam chính liên liệt truyện, sơ tập, q. 21 , tờ 3.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #36 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:08:56 am »

        
*

*       *

        Trải qua 14 năm, kể từ ngày phong trào bùng nổ tới đầu năm 1785, nghĩa quân Tây Sơn đã giành được nhiều chiến thắng lớn, nhưng chưa có chiến thắng nào nhanh gọn, to lớn, rực rỡ bằng chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút.

        Chỉ trong một thời gian rất ngắn, có thể là một ngày, hoặc chưa đến một ngày, quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ đã tiêu diệt gọn hơn 2 vạn quân Xiêm - Nguyễn. Chiến thắng vẻ vang này đã kết thúc giai đoạn chiến đấu đánh đổ thế lực nhà Nguyễn, đặt toàn bộ lãnh thổ Đàng trong dưới quyền kiểm soát của nghĩa quân Tây Sơn.

        Trong trận tiến công Gia Định lần trước, để phá tan toàn bộ thủy quân của Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ đã triệt để lợi dụng khí hậu, thời tiết để đánh thắng địch. Trong trận đánh lớn lần này, đặc điểm chiến thuật của Nguyễn Huệ là lợi dụng địa hình có lợi nhất để tiêu diệt địch. Sự vận dụng chiến thuật một cách linh hoạt chính là một trong những bí quyết thành công của Nguyễn Huệ trong cuộc đời chiến đấu của ông.

        Trong trận quyết chiến này, tính chủ động, tính linh hoạt, tính kế hoạch trong hành động tác chiến của Nguyễn Huệ và thủy quân Tây Sơn đã đạt tới một trình độ mà trước đó chưa từng có.


Chiến dịch Rạch Gầm - Xoài Mút tiêu diệt quân Xiêm - Nguyễn

        Nét đặc sắc trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút là Nguyễn Huệ đã đặt vấn đề đánh tiêu diệt lên hàng đầu, biểu hiện cụ thể trong việc lựa chọn phép đánh hay tìm đoạn sông quyết chiến tốt, bày thế trận giỏi, v.v.
« Sửa lần cuối: 20 Tháng Chín, 2016, 01:17:07 am gửi bởi Giangtvx » Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #37 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:17:39 am »


        Chúng ta biết rằng liên quân Nguyễn - Xiêm đang trên đà phản công chiến lược. Lực lượng mạnh của chúng hầu như còn toàn vẹn. Riêng quân đội Nguyễn Ánh thì bắt đầu khôi phục và tăng cường. Chính trong tình hình quân sự đó, Nguyễn Huệ nhận nhiệm vụ phản công chiến lược, tiêu diệt liên quân Nguyễn - Xiêm, thu hồi toàn bộ đất đai miền Gia Định. Để làm tròn nhiệm vụ ấy, Nguyễn Huệ có thể chọn một trong hai kiểu đánh như sau: một, là đưa hạm đội vào Gia Định, tổ chức phòng ngự kiên cố, tiêu hao địch, sau đó sẽ phản công; hai, là lập tức tiến công, chủ động đưa thủy quân đánh địch vào lúc và nơi thuận lợi nhất. Nguyễn Huệ đã quyết tâm tiến công. Song, không phải cứ chủ động tiến công là có thể tiêu diệt một cách triệt để. Hơn nữa, thủy quân Xiêm chưa bị sứt mẻ. Liên quân Nguyễn - Xiêm vẫn duy trì sức mạnh tiến công của họ. Thủy quân Xiêm đóng ở Sa Đéc có những ưu thế và ưu điểm của nó, như đã trình bày ở trên. Nếu đưa thủy quân tiến sâu vào nội địa, đánh địch trong căn cứ, thì thủy quân Xiêm vốn đã mạnh sẽ có điều kiện phát huy ưu thế và ưu điểm của chúng. Địch đóng trong căn cứ thì dung mưu trí kéo địch ra khỏi căn cứ, dử địch vận động tiến đoạn sông nào mà thủy quân ta có thể đánh một đòn thật bất ngờ, thật mãnh liệt, nơi mà ta có thể phát huy cao độ tinh thần chiến đấu, uy lực tiến công và sức cơ động, thì mới có thể đạt được mục đích đề ra cho tiến công, tức là tiêu diệt toàn bộ quân địch. Chúng ta thấy rằng Nguyễn Huệ đã thành công trong việc chọn hình thức tiến công địch đang vận động, kéo địch ra xa căn cứ để tiêu diệt chúng.

        Sáng tạo quan trọng nữa của Nguyễn Huệ là sự vận dụng thủ đoạn tác chiến. Lần đầu tiên, về thủy chiến, Nguyễn Huệ đã thực hiện hợp vây toàn bộ thủy quân Xiêm và cắt đứt dịch ra từng mảnh để tiêu diệt. Chúng ta học ở đây nghệ thuật hợp vây có tính chất chiến dịch và chia cắt về mặt chiến thuật của Nguyễn Huệ. Do hợp vây nên quân đội Tây Sơn đánh địch trên cả bốn mặt, nhưng Nguyễn Huệ đa đem chủ lực của mình đánh thật mạnh vào cạnh  sườn địch. Chính vì vậy mà toàn bộ thủy quân địch đã bị tiêu diệt, không một thuyền chiến nào lọt lưới.

        Một sáng tạo khác nữa, là sự bố trí lực lượng chính xác, phù hợp với ý định tiêu diệt toàn bộ và thủ đoạn tác chiến nói trên. Thế trận của thủy quân Tây Sơn rất chặt và kín, trong đó có bộ phận đánh dử địch, kéo địch đến đoạn song quyết chiến, có bộ phận đánh chặn đầu, có bộ phận đánh chặn đuôi; còn chủ lực, gồm thủy quân và bộ binh thì bố trí trên cạnh sườn của đội hình tiến quân của địch.

        Cuối cùng, sáng tạo của Nguyễn Huệ còn thể hiện ở việc chọn đoạn sông làm khu vực quyết chiếm. Cần chọn một đoạn sông tương đối rộng lớn, khiến cho đại bộ phận thủy quân địch phải lọt vào khu vực tác chiến. Ngược lại, cũng chỉ trên đoạn sông rộng lớn, thủy quân Tây Sơn mới có thể triển khai toàn bộ thuyền chiến nặng, nhẹ, phát huy tất cả sức mạnh của hỏa lực và sức vận động nhanh chóng của thuyền chiến. Song, vì dùng mưu mẹo để dử địch, cho nên, muốn tranh thủ xuất kích bất ngờ, còn cần phải giấu kín thủy quân của ta. Đoạn sông từ Rạch Gầm đến - Xoài Mút, với lòng sông mở rộng, với những nhánh sông nhỏ, với cù lao Thới Sơn, đã đáp ứng nhu cầu của tác chiến.

        Cuộc xâm lược vũ trang của phong kiến Xiêm đã bị đập tan tành. Xét về toàn cục cuộc tiến công chiến lược này có ý nghĩa chính trị, quân sự rất to lớn, có tác dụng quyết định đối với cục diện ở miền Nam. Quân đội Tây sơn không những tỏ ra hơn hẳn quân đội Nguyễn Ánh, mà còn hơn hẳn quân dội Xiêm, không những đủ sức tiêu diệt từng đoàn bộ binh lớn, mà còn đủ sức tiêu diệt từng đoàn thủy quân mạnh. Quân đội Tây Sơn giữ vững ưu thế quân sự, giành được ưu thế chính trị trên miền Gia Định. Toàn bộ lực lượng vũ trang của Nguyễn Ánh đã bị tiêu diệt.

        Qua mỗi cuộc tiến quân, Nguyễn Huệ đều đưa nghệ thuật quân sự của quân đội Tây Sơn lên một bước phát triển mới.

        Đặc biệt lần này ông đã đưa thủy quân lên một địa vị cao, đưa tác chiến hợp đồng thủy - bộ đến trình độ mới. Chiến thắng vô cùng oanh liệt của thủy quân trẻ tuổi nói riêng và quân đội Tây Sơn nói chung đã giữ vững và phát huy những truyền thống vẻ vang của thủy quân Việt Nam, mà Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn đã xây dựng nên. Nguyễn Huệ vừa là một tướng lục quân có tài, vừa là một tướng thủy quân rất giỏi.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #38 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:21:52 am »

        
Chương hai

NGUYỄN HUỆ TIÊU DIỆT CÁC TẬP ĐOÀN PHONG KIẾN TRỊNH-LÊ,
LẬP LẠI NỀN THỐNG NHẤT TRÊN TOÀN LÃNH THỔ VIỆT NAM Ở CUỐI THẾ KỶ XVIII

NGUYÊN HUỆ CHIẾN THẮNG PHÚ XUÂN
TÌNH HÌNH SUY YẾU CỦA CÁC TẬP ĐOÀN PHONG KIẾN BẮC HÀ

        Sau khi đánh chiếm Phú Xuân năm 1775, bọn chúa Trịnh đã giành được khỏi tay bọn chúa Nguyễn một vùng đất đai rộng lớn. Nhưng không phải vì thế mà tình hình Bắc Hà sáng sủa hơn trước. Trái lại, từ năm 1776 trở đi, nội bộ tập đoàn phong kiến Trịnh Lê ngày càng lục đục và suy yếu hơn, xã hội Bắc Hà ngày càng rối ren, nhân dân Bắc Hà ngày càng đói khổ.

        Về kinh tế, nạn đói diễn ra liên tiếp. Năm 1776, mất mùa, nạn đói rất nghiêm trọng. "Người sang trọng phải nhòm từng cửa để xin làm thuê hoặc vay mượn mà cũng không đắt, họ họp nhau ăn cắp ăn trộm ..."1.

        Năm sau, 1777, nạn đói lại diễn ra, và đặc biệt nghiêm trọng là ở vùng Nghệ An. Chúa Trịnh phải cho đem tiền, đem gạo vào phát chẩn và thi hành nhiều biện pháp cứu đói khác.

        Năm sau nữa, 1778, lại đói to: "Giá gạo cao vọt, một chén nhỏ gạo trị giá một tiền, đầy đường những thây chết đói"2.

        Tình hình đói kém như thế kéo dài.

        Về chính trị, tình hình lại càng thối nát. Từ sau khi đánh chiếm Phú Xuân, Trịnh Sâm càng thêm kiêu ngạo, lộng quyền. Vua Lê hoàn toàn là bù nhìn. Trịnh Sâm ngày càng hoang dâm, tửu sắc, ăn chơi xa hoa rất mực, ngày đêm miệt mài vào yến tiệc, vào các trò chơi vô cùng hoang phí. Bọn cung nhân, quyền thần, ỷ thế làm càn, phá rối triều chính, ức hiếp, bóc lột nhân dân thậm tệ. Năm 1782, Trịnh Sâm chết, các con là Trịnh Khai và Trịnh Cán âm mưu sát hại lẫn nhau để giành ngôi chúa. Thế lực của bọn thống trị họ Trịnh suy yếu đến cực độ.

        Năm 1782, quân lính ở kinh thành Thăng Long làm binh biến, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Khải làm chúa, giết bọn quyền thần Hoàng Đình Bảo và cung phi Đặng Thị Huệ, mẹ Trịnh Cán. Đầu năm 1784, quân lính ở kinh thành Thăng Long lại nổi dậy một lần nữa để chống bọn quyền thần, thân thích của Trịnh Khải là Nguyễn Lệ, Dương Khuông, Nguyễn Triêm. Nguyễn Lệ chạy trốn. Trịnh Khải phải đem tiền bạc ra chuộc mạng cho Dương Khuông, phải cách chức bọn Nguyễn Lệ, Dương Khuông và đưa Nguyễn Triêm ra cho quân lính đánh chết. Quyền bính ở triều đình và phủ chúa đều nằm trong tay quân lính. Mọi việc thay đổi, cắt đặt quan lại, tướng lĩnh, đều phải làm theo ý muốn của quân lính.

        Tại các địa phương, khởi nghĩa của nông dân luôn luôn bùng nổ. Năm 1778, Thục Toại lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa có tới hàng vạn người, đánh phá bọn quan quân nhà Trịnh ở khắp các vùng Yên Quảng, Sơn Nam, Hiến Nam (tức vùng Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay). Năm 1779, thổ ty Hoàng Văn Đồng nổi dậy ở vùng Tụ Long (thuộc Hà Giang), tiến đánh phố Tam Kỳ (thuộc huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang).

        Ngoài mấy cuộc khởi nghĩa tương đối lớn này, còn có nhiều cuộc nổi dậy khác nổ ra ở nhiều nơi. Tại Thái Bình có cuộc khởi nghĩa do thủ lĩnh Du lãnh đạo, nhằm mục đích "cướp của nhà giàu đem nuôi dân đói". Tại Kinh Bắc (Hà Bắc) Đinh Văn Trú lãnh dạo nông dân khởi nghĩa tiến đánh các vùng Bảo Lộc (thuộc Hà Bắc và Chi Lăng (thuộc Lạng Sơn). Tới năm 1785, vùng ven biển lại có cuộc khởi nghĩa lớn do hai thủ lĩnh Thiêm Liên và Sơn lãnh đạo hoạt động cho tới năm 1786, khi nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà.

        Ở Thuận Hóa, Phú Xuân, bọn quan, tướng nhà Trịnh, đứng đầu là Phạm Ngô Cầu lại là những kẻ nhu nhược, bất tài 3, nhưng hống hách, áp bức nhân dân rất tàn nhẫn4 khiến nhân dân hết sức căm hờn, oán giận.

        Tình hình trên đây đã cho thấy chính quyền phong kiến Lê Trịnh ở Bắc Hà và Thuận Hoá đã lung lay đến tận gốc, nhân dân đã hoàn toàn đối lập với bọn thống trị, chống lại chúng và mong chờ ngày đánh đổ chúng.

        Năm 1786, Nguyễn Huệ đem quân đánh ra Bắc Hà chính là năm nạn đói trầm trọng đang lan tràn khắp Bắc Hà. Sử cũ ghi rằng:  "Tháng 3, dân bị nạn đói, giá gạo cao vọt, dân trong kinh kỳ và tứ trấn bị đói to, thây chết nằm liền nhau. Trịnh Khải hạ lệnh chiêu mộ nhân dân, ai nộp của sẽ trao cho quan chức nhưng không ai hưởng ứng. Bèn dùng sắc lệnh bắt ức nhà giàu để lấy tiền chia ra phát chẩn"5.

        Một giáo sĩ Pháp là Le Roy, có mặt ở Bắc Hà năm đó, đã mô tả những tệ nạn và cảnh đói khổ lúc ấy như sau: "Bọn "các lái"6 đã làm giàu trong lúc đói kém, chúng thừa dịp mất mùa đã bán gạo rất đắt, Không một chút từ tâm mặc cho những người khốn cùng chết đói đầy đường đầy chợ"7.

        Tình hình đói khổ này càng khơi sâu thêm mâu thuẫn giữa quảng đại quần chúng với các tập đoàn phong kiến thống trị Bắc Hà, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghĩa quân Tây Sơn tiến ra lật đổ thế lực nhà Trịnh.

-------------------
       1. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch, t. XIX, tr. 51.

        2. Bản dịch đã dẫn, tr. 60.

        3. Ngô gia văn phái, Hoàn Lê nhất thống chí. Bản dịch. tr. 94.

        4. Thư của La Bartette ngày 23 tháng 6 năm 1786 trong L. Cadière, Documents relatifs à l' époque de Gia Long BEFEO. 1912. n0 7, p, 13.

        5. Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch của Viện Sử học. t. XX, tr. 12.

        6, 7. Thư của Le Roy, giáo sĩ ở Kẻ Vĩnh (Ninh Bình) viết gửi về Pháp ngày 6 tháng 2 năm 1786 trong Cadière, đã dẫn. tr 6. Hai chữ "các lái", Le Roy tự viết bằng tiếng Việt trong bức thư tiếng Pháp, để chỉ những lái buôn.
Logged

Giangtvx
Thượng tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #39 vào lúc: 20 Tháng Chín, 2016, 01:25:49 am »

        
KẾ HOẠCH TIẾN CÔNG QUÂN TRỊNH CỦA NGUYỄN HUỆ

        Năm 1785, sau khi đánh tan quân Xiêm và đuổi bọn Nguyễn Ánh cùng tàn quân của hắn chạy sang Xiêm, nghĩa quân Tây Sơn được rảnh tay ở phía Nam để đối phó với phía Bắc. Từ năm 1775 đến bấy giờ, trải qua 10 năm ròng rã, nghĩa quân Tây Sơn phải chịu để cho quân Trịnh làm chủ Thuận Hóa và chiếm đóng từ đèo Hải Vân trở ra, vì nghĩa quân ở cái thế không thể cùng một lúc đương đầu với cả hai tập đoàn phong kiến thống tri: bọn chúa Nguyễn ở miền Nam và bọn chúa Trịnh ở miền Bắc. Nhưng đến lúc này tình thế đã đổi khác, miền Nam đã tương đối ổn định, tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn đã tan rã mà ở miền Bắc thì tình hình rối ren đến cực độ, bọn chúa Trịnh hết sức suy yếu. Đó là thời cơ thuận lợi để nghĩa quân Tây Sơn tiến hành tiêu diệt tập đoàn phong kiến nhà Trịnh.

        Nhận định rõ thời cơ đó, đầu năm 1786, Nguyễn Huệ đề xuất việc tiến đánh Bắc Hà1, nhưng Nguyễn Nhạc ngần ngại. Tháng Tư năm Bính Ngọ (1786), tướng Trịnh Phạm Ngô Cầu ở Phú Xuân cho sứ giả Nguyễn Phu Như vào Qui Nhơn, mượn tiếng trao đổi về vấn đề biên giới, để dò xét tình hình nghĩa quân Tây Sơn. Tới Qui Nhơn, Nguyễn Phu Như lại khuyên các lãnh tự Tây Sơn nên tiến đánh Phú Xuân và vạch rõ rằng: "Hai xứ Thanh - Nghệ và cả bốn trấn hiện đang bị đói lớn, dân chúng đều ta oán kêu khổ, dân với lính chẳng ưa gì nhau, tình thế không thể lâu bền, nếu lấy được Thuận Hóa thì việc dẹp yên thiên hạ không khó gì nữa"2.

        Một tướng giỏi của Trịnh là Nguyễn Hữu Chỉnh theo về Tây Sơn từ năm 1782, cũng nhận định như Nguyễn Phu Như. Mà Nguyễn Phu Như có thái độ phản lại nhà Trịnh cũng chính vì Nguyễn Phu Như là bạn cũ của Nguyễn Hữu Chỉnh. Thấy mọi người đều nhất trí, Nguyễn Nhạc liền quyết định tiến đánh Phú Xuân và cử Nguyễn Huệ làm thống lĩnh các quân thủy bộ, Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc và Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân3.

        Việc đánh Phú Xuân thật ra không phải là đơn giản. Lực lượng quân đội Trịnh ở đây khá hùng hậu. Suốt từ sông Gianh tới đèo Hải Vân, không kể quân địa phương, riêng quân đội Trịnh từ Bắc Hà đưa vào cũng có trên ba vạn người, mà số quân đồn trú ở thành Phú Xuân cũng có tới vài vạn. Quân số đó của nhà Trịnh đông hơn hẳn quân số của Nguyễn Ánh ở năm phát triển nhất là năm 1781 và cũng đông hơn hẳn liên quân Xiêm - Nguyễn hồi đầu năm 1785.

        Cách bố trí phòng thủ tại đây cũng rất kín đáo. Từ sông Gianh tới đèo Hải Vân, trên một địa thế hẹp ngang và chạy dài, không chỗ nào là không có quân Trịnh đóng giữ. Khi có chiến tranh, các đồn quân Trịnh có thể nhanh chóng tiếp viện, ứng cứu cho nhau. Chiến trường Thuận Hóa rõ ràng không giống chiến trường Gia Định. Thuận Hóa còn hơn hẳn chiến trường Gia Định ở chỗ Thuận Hóa có cả miền Bắc Hà rộng lớn làm hậu phương an toàn.

        Quân Trịnh ở Bắc Hà lúc nào cũng có thể từ Nghệ An, Thanh Hóa, Thăng Long tiến vào cứu nguy cho Thuận Hóa.

        Về phía nghĩa quân Tây Sơn, quân số không phải là đông hơn hẳn quân Trịnh ở Thuận Hóa để có thể áp đảo địch một cách dễ dàng. Lực lượng nghĩa quân tiến đánh Phú Xuân lần này, cũng như các lần tiến đánh Gia Định, không phải là một lực lượng quan trọng, dùng quân số để thắng địch. Nhất là với lần tiến đánh Thuận Hóa, dù sử cũ không cho biết số liệu cụ thể, chúng ta cũng thấy rằng lực lượng quân sự của Tây Sơn không có được là bao4, bởi vì đại bộ phận quân đội Tây Sơn phải đóng rải suốt từ Quảng Nam, Quang Ngãi, Qui Nhơn, Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận vào cho tới Gia Định, Long Xuyên để làm nhiệm vụ bảo vệ, cũng tức là quân đội Tây Sơn phải có mặt trên nửa đất nước Việt Nam lúc bấy giờ. Như thế nghĩa quân Tây Sơn không thể dành được một lực lượng lớn để tiến đánh Thuận Hóa. Cho nên muốn chiến thắng Thuận Hóa, nghĩa quận Tây Sơn cần phải có một phương châm tác chiến và một kế hoạch tiến công hoàn toàn khác với những lần tiến đánh Gia Định trước đây và phải có một quyết tâm chiến đấu rất lớn của toàn quân. Tiến công Thuận Hóa, không thể đánh thẳng ngay vào Phú Xuân như những lần đánh Gia Định, vì quân Trịnh ở hai phía sông Gianh và Hải Vân có thể dồn về ứng cứu dễ dàng. Cũng không thể đánh dần từng bước từ đào Hải Vân đánh ra, vì như thế nhất định sẽ bị quân Trịnh ở Phú Xuân chặn đứng lại.

---------------------
       1. Đại Nam thực lục, Bản dịch của Viện Sử học, t. II, tr. 61.

        2. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch đã dẫn, tr. 92 - 93.

        3. Đại Nam chính biên 1iệt truyện, sơ tập q. 30, tờ 12.

        4. Legrand de la Liraye trong cuốn Notes historiques sur la nation annamite, xuất bản năm 1865. tr. 92 nói rằng quân Tây Sơn tiến đánh Phú Xuân có tất cả 1 vạn: tiền quân 5 nghìn, hậu quân 2 nghìn và thủy binh 3 nghìn. Nhưng không rõ tác giả căn cứ vào tài liệu nào.

Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM