nguyentrongluan
Cựu chiến binh
Bài viết: 1246
|
|
« Trả lời #460 vào lúc: 19 Tháng Ba, 2012, 10:38:24 pm » |
|
các bạn lính thân mến . Tôi thật sự cảm động , tôi rơi nước mắt khi đọc lời giới thiệu này của HTB - tralientay , molotj chiến sĩ trinh sát sư đoàn 325 những ngày tháng ác liệt nhất . tralientay đã bị thương ở Quảng trị không kịp đi tới sài gòn cùng chúng tôi . Tralientay lại đang ở rất xa . bạn đã viết những dòng này trên đường bay và gửi từ Mỹ về cho chúng tôi . Đây không phải một sự giới thiệu tập thơ , đây là lời của những người sống sót như tôi và HTB đang nhắc tới bạn mình . Dù bây giờ bạn là Giáo sư viện sĩ ở nước ngoài , chúng tôi vẫn sống và yêu nhau như ngày xưa là lính . Trong chúng tôi tralientay vẫn là người chiến sĩ trinh sát dũng cảm , tinh tế và rất rất lính . Các bạn đọc thì sẽ thấy Tralientay sâu sắc đến thế nào với những ngày đã chiến đấu .
Thơ của người lính trở về sau chiến tranh
Vậy là những bài thơ NguyễnTrọng Luân chia sẻ với bạn lính trên diễn đàn Quân Sử Dựng nước - Giữ nước đã được thu thập, biên tập và ra đời trong tập Mây trên trời Quảng Trị. Chuyên mục Một thời Máu và Hoa là phần có nhiều bài viết nhất của Quân Sử Dựng nước-Giữ nước, ở đó những bài thơ của Nguyễn Trọng Luân gần đây được lần lượt giới thiệu, nhận được sự tán thưởng, đồng cảm và làm ứa rất nhiều nước mắt của những người đã qua một thời trận mạc. Nguyễn Trọng Luân là một người lính của những năm cuối trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, giải phóng đất nước. Anh rời giảng đường trường Đại học Cơ điện Bắc Thái đi bộ đội ngày 9/72 khi học hết năm thứ ba đại học, vào lúc hàng ngàn sinh viên của các trường đại học được huy động tham gia quân đội. Anh là lính sư đoàn 320A chiến đấu ở Tây Nguyên, mặt trận B3. Thống nhất đất nước, Nguyễn Trọng Luân trở về học tiếp đại học, trở thành một kỹ sư cơ điện và rồi một giám đốc xí nghiệp, lăn lộn nhiều năm với cuộc mưu sinh của xí nghiệp mình. Nhưng gần bốn chục năm qua, Nguyễn Trọng Luân vẫn luôn ám ảnh bởi những ngày tháng chiến trường, những đồng đội đã ngã xuống và nằm lại trên những mảnh đất quê hương.
Có thể nói hầu hết những bài thơ của Nguyễn Trọng Luân như ùa về và bật ra trong một khoảnh khắc nào đó, nhưng là những khoảnh khắc của hôm nay có từ những khoảnh khắc chiến tranh bốn mươi năm trước còn hằn trong tâm khảm người lính, từ chiêm nghiệm của một đời người, từ khắc khoải khôn nguôi về chiến tranh, về những người đã hy sinh và người trở về. Được sự đồng cảm của nhiều đồng đội trên Quân Sử Dựng nước-Giữ nước, Nguyễn Trọng Luân đã viết những lời gan ruột của một thế hệ một thời đã dâng hiến tuổi trẻ sống và chiến đấu vì tổ quốc. Tập thơ Mây trên trời Quảng Trị gồm 32 bài, phần lớn viết trong những tháng ngày gần đây. Có thể nói cốt lõi của tập thơ là “lời của người sống sót” sau chiến tranh nói với những đồng đội đã chết và người đang sống. Quanh cái cốt lõi ấy, sự hoà quyện giữa tình cảm và nghệ thuật ở các bài thơ đã đạt đến mức cao, động đến nơi sâu thẳm của lòng người, làm bao người luôn ứa nước mắt khi đọc những lời của người lính cũ này. Cũng vì vậy, những bài thơ của Nguyễn Trọng Luân làm rất nhiều người đã từng yêu thơ, nhiều năm qua thờ ơ với thi đàn, bỗng chợt yêu quý lại thơ ca, thấy thơ ca có thể nói hộ lòng mình rất nhiều. Có thể chia những bài thơ của Mây trên trời Quảng Trị thành năm phần. Tập thơ bắt đầu bằng những bài thơ khi người lính năm xưa nhìn lại thời gian đã qua và nghĩ tới quãng thời gian còn lại của thế hệ mình, khi họ đã quanh tuổi sáu mươi và thoáng đấy đã bốn mươi mùa xuân từ những ngày trận mạc đầu tiên. Phần hai là những suy tư về các nghĩa trang chiến tranh, nơi đồng đội anh nằm lại dưới lòng Thạch Hãn, nằm lại ở Kon Tum, ở đường Chín, ở nơi biên cương, là suy tư về hành xử sai đâu đó về những nghĩa trang liệt sĩ, về những người mẹ liệt sĩ. Phần tiếp theo là các thơ về những không gian, những thời gian, những địa danh, là dòng Thạch Hãn và trời mây Quảng Trị, nơi những kỷ niệm người lính suốt đời mang theo. Phần bốn, phần nhiều nhất của tập thơ, là những bài thơ về các đồng đội lính sinh viên, về nỗi nhớ khôn nguôi những người bạn không được trở về với sách đèn, về ngày rời quân ngũ trở về trường cũ, về những người lính sống sót nay vẫn hằng tuần gặp nhau để cùng sống lại một thủa xa xưa. Tập thơ của người lính trẻ năm nào sẽ như không đầy đủ nếu không có bóng hình con gái. Phần cuối là những bài thơ này, về nỗi xót thương những cô gái dâng hiến tuổi trẻ cho đất nước, về nỗi nhớ nhung, thầm mong ước và tưởng tượng về tình yêu của những người lính trẻ.
***
Tập thơ bắt đầu bằng một bài thơ viết trong Tết Nhâm Thìn vừa qua, Thoáng mùa xuân đã bốn mươi năm. Các bài thơ Nguyễn Trọng Luân luôn có sự trộn lẫn quá khứ và hiện tại. Người giám đốc đã nén lòng mình lại bao năm dồn sức cho công việc, nay bỗng được tự do trở về quá khứ : Thoáng ngẩn ngơ xuân bay qua thềm Thoáng lơ mơ bạn về trong mưa Pháo hoa ngoài hồ gần mà như xa Pháo kích đêm xa mà như lại gần Và người lính chợt nhận ra cái ngày mình đi lính ấy nay thoắt đấy đã bốn chục năm, ý thức sâu hơn mình là người trở về và bạn mình nằm lại chiến trường : Năm nay là tròn bốn mươi năm Mình thì thoát bạn thì nằm máu loang trên cỏ Cả cỏ nữa cũng cháy bầm như máu đổ Mùa mưa về lũ liếm máu bạn tôi Việc đón nhận sự sống và cái chết ấy có nhận thức sâu sắc của người lính, có tình cảm ngậm ngùi nhưng không bi lụy của họ khi biết vào trận đánh mình có thể hy sinh Phút giao thừa ta bạn khóc ôm nhau Lau nước mắt rồi lao lên trận địa Biết mùa xuân ngan ngát ở trên đầu Cũng trong mùa Xuân, tập thơ nói về những người lính ấy chợt nhận ra và ý thức rõ hơn về dấu ấn thời gian với thế hệ mình. Người ngã xuống đã mãi mãi tuổi hai mươi, người sống sót trở về nay cũng sang tuổi 60. Nguyễn Trọng Luân hóm hỉnh nói về cái sự ngỡ ngàng vốn không dễ hòa nhập của người 60 tuổi vào đời thường, nhưng có Quân Sử là nơi chia sẻ tâm tình, nơi họ thấy mình luôn trẻ bên những bạn lính, nhưng vẫn có phần ngượng ngùng với người thân vì sự vô tư ấy Bần thần vào ra “Quân Sử“ Thế là thấy mình trẻ ra Ồn ã bác này bác nọ Mà vẫn… dấu vợ ra trò Họ biết mình đã không còn trẻ, nhưng khi nói về thuở đánh giặc xưa kia thì “mắt ai cũng sáng long lanh”. Chỉ có ở trong vòng tay bạn lính, họ mới mãi là những người trẻ, là những “bạn bè đen nhẻm rất trẻ trung”, là nơi đứa cháu trai vẫn hỏi ông đi với “hội mày tao” có vui không, vô tư và vô tư Cháu con rủ đi siêu thị Chẳng bằng đi gặp bạn già Mấy thằng lính cũ Bê Ba Cười rung quán bia hè phố
Phần hai của Mây trên trời Quảng Trị là những bài thơ đầy xúc động, dường như chỉ với tấm lòng người lính mới có những hình ảnh gan ruột và cách nhìn sáng tạo như vậy trong thơ. Đấy là khi thắp nến thả hoa trong một đêm tháng Bảy bừng bừng lửa trên dòng Thạch Hãn người lính đã nức nở Tháng Bảy này áp mặt xuống dòng sông Nghĩa trang dưới kia bia mộ xếp hàng dài ra bể Đấy là nỗi nhức nhối khi mười ngàn đồng đội mình đã chết trong cơn nóng và nghĩa trang giờ “nắng cứ nung ràn rạt”, để “chết rồi xương cốt còn đổ mồ hôi”, nên cả “Một sư đoàn trên đồi cao. Mấy chục năm không ngủ”. Không chỉ nhớ đồng đội hy sinh ở chiến trường chống Mỹ, Nguyễn Trọng Luân cũng hằn sâu trong ký ức những nấm mồ liệt sĩ nơi biên cương trong cuộc chiến tranh biên giới ngày 17.2.1979. Những vần thơ nhắc nhở mỗi chúng ta cảnh giác và về trách nhiệm với đất nước Các anh đứng làm dậu phên che tổ quốc Dẫu các anh không thể nào về được Mắt vẫn trừng ngược gió bấc trong đêm
Bài thơ Đêm cuối cùng mẹ ru con viết tặng mẹ liệt sĩ Phí Văn Măng ngày đưa hài cốt anh về quê là một trong những bài thơ cảm động nhất của tập thơ Mẹ bồng con à ơi Hài cốt quấn vuông vải mới Có tã lót nào đau xé lòng đến thế? Mẹ ru con quằn quại tiếng trống kèn
Liên tưởng độc đáo về vuông vải mới bọc hài cốt người con liệt sĩ như tã lót quấn quanh đứa con bé bỏng ngày xưa động đến nơi sâu thẳm của lòng người. Mẹ bồng hài cốt con, à ơi ru con như ru đứa con ngày nào. Cũng trong mạch thơ này, Cuộc hành quân về bên mẹ viết tặng đồng đội Hoà trên chiếc xe lăn đưa hài cốt đồng đội từ Nam về Bắc đã giải thích vì sao người lính thương tật lại có thể làm một điều tưởng không sao có thể làm nổi, dẫu “đi bằng đôi chân đồng đội” Mấy chục năm sau hành quân vẫn thế Đồng đội dìu nhau ngân ngấn mắt khi cười Thì thầm với người đã khuất Tôi đang trở về với tuổi trẻ đời tôi Tây Nguyên là mảnh đất đã gắn một phần tuổi trẻ của tác giả, nơi những ngày mưa rừng dầm dề, nơi muỗi bu thân sốt rét, nơi đói quay đói quắt… nên kỷ niệm về Tây Nguyên của Nguyễn Trọng Luân không bao nguôi ngoai. Đấy là khi uống cà phê trong một chiều mưa lạnh ở Ban Mê Thuột cũng “thấy bạn về môi tím đứng ngoài hiên”. Đấy là những đêm tháng Ba hành quân nồng nàn mùi hoa cà phê trắng. Đấy là nơi “chạm má mình nước mắt bạn sang tôi”. Đấy là nỗi nhói trong tim khi không có dịp quay lại con đường Trường Sơn xưa các anh đã hành quân đến Tây Nguyên, nơi “cột mốc là những nấm mồ chết trẻ”. Đấy là nơi bạn ngã xuống bên cánh Dã Quì vàng cháy dở trong miên man xanh. Quảng Trị là nơi tác giả thường trở về cùng những người lính sinh viên nhập ngũ ngày 6 tháng 9 năm 1971. Về với Quảng Trị là về với ký ức của dòng sông và bầu trời bom đạn năm xưa, với thành cổ bom đạn năm xưa và với những người dân đôn hậu và chịu đựng năm xưa. Và quay quắt nỗi nhớ đồng đội :
Mây chỉ là mây chứ nỏ có chi mô! Nhưng tôi thấy cứ ngàn ngàn nấm mộ Cứ mỗi lần tôi qua Quảng Trị Những bạn bè tôi giăng giăng ở trên đầu
Nhưng lòng người đã dịu lại khigặp “em gái tan trường, áo dài buông ngang dòng Thạch Hãn” và “tiếng hò ngọt con thuyền xuôi Cửa Việt”. Phần nhiều nhất của Mây trên trời Quảng Trị là những bài thơ về những đồng đội, trong đó có một phần đáng kể dành cho những người sinh viên đi lính. Trước hết vẫn là tâm tình những ngày tháng Bảy về thắp hương cho những người bạn lính đã hy sinh khi bảo vệ thành cổ. Đấy là người bạn sinh viên tiếng Nga Nguyễn Tiến Thường, là người bạn Cao Bằng chơi đàn tính trong đội văn công sư đoàn đã ngã xuống trước cửa ngõ Sài Gòn, là đôi dép xin lại khi người bạn hy sinh rồi nức nở lên đường. Nguyễn Trọng Luân đã có những tứ thơ đặc sắc khi nói về những người lính sinh viên
Tao hiểu vì sao hoa cỏ mãi ngát xanh Lòng thành cổ có một trường đại học (Có hàng ngàn sinh viên quân phục xanh tưng bừng vào lớp) Trong nồng nàn khói nhang hay Mặt trời rất đỏ Tiếng chim cu rất hiền Những trang sách dang dở mãi xanh. Người lính sống sót sau chiến tranh trở về trường cũ với bao nỗi niềm, bao khó khăn, học để “tìm lại mình ngày nào”, và học cả cho những người bạn không về. Và ở giữa lòng Hà Nội, có một quán bia nơi “những chiến binh một thuở rất hay ngồi”. Chính xác hơn họ đến với nhau chiều thứ Bảy hằng tuần, đến để tìm lại những phút yên tĩnh tâm hồn trong cái ồn ào đồng đội Ở đó không ai nói về mình Chỉ nói về những người đã hy sinh Ở đó không có câu chữ màu mè lung linh Sống với nhau ngày chiến tranh thế nào Bây giờ vẫn thế Khi nhập ngũ chàng lính trẻ Nguyễn Trọng Luân chưa có một “mối tình vắt vai” nhưng những bài thơ về những con gái gặp trong đời lính của anh rất ấn tượng. Cùng Về đèo Ngang đi anh nơi “đèo buông dằng dặc gió trời” và “quả cà nén quăn lưỡi bữa cơm chiều” của người con gái Hà Tĩnh là Nỗi nhớ hoa cỏ may về một người con gái Củ Chi. Đã nhiều người làm thơ về hoa cỏ may và thật không dễ để nói được điều gì mới về loài hoa cỏ này. Và Nguyễn Trọng Luân đã tìm được một hình ảnh đẹp Hoa găm ngược vào tiếng sóng Đêm Bến Đình em gỡ nhớ ngày xưa. Hai bài thơ của Luân về sự hy sinh của những người con gái cũng làm người đọc xao động tận đáy lòng. Đấy là Hang Tám Cô khi bao gương lược, bao kim chỉ những người lính để dành mang về nhưng các cô gái thanh niên xung phong đã bị bom lấp kín cửa hang. Đấy là Nước mắt tháng Ba làm người đọc có thể rơi nhiều nước mắt Ngã xuống rồi vẫn là thân con gái. Mộ chí của các em nhỏ nhắn gọn gàng. Dù ở giữa đại ngàn vẫn nhịn nhường đồng đội. Ngày qui tập anh chị em cùng tụ hội, để các anh đi trước em ở lại, về sau.
Bài thơ Luân muốn đưa vào cuối tập thơ Ngỡ là yêu chính là tiếng nói của bao chàng lính trẻ
Ngỡ như rồi có hy sinh Có người con gái khóc mình đêm đêm
Chính những tình cảm dẫu chỉ là mong ước đã đem lại sức mạnh cho bao chàng lính trẻ để vượt qua những tháng năm gian khó ở chiến trường.
Đặc trưng chính của thơ Nguyễn Trọng Luân là cấu tứ thơ, ngôn ngữ và hình ảnh luôn hoà quyện tự nhiên với tình cảm sâu đậm của người lính, và do vậy truyền tải được lời của người lính sống sót trở về sau chiến tranh. Cấu trúc thơ Nguyễn Trọng Luân giản dị, không gò bó, cấu trúc như không có cấu trúc, cho phép thể hiện tự nhiên những cung bậc của lòng người. Luân làm thơ như nói, tự nhiên nhưng cân nhắc, chọn lọc. Đọc thơ Luân dễ gợi lại thơ Chính Hữu với những lời chắt lọc chiêm nghiệm cả đời cầm súng.
Thơ Nguyễn Trọng Luân giàu hình ảnh và liên tưởng, và có nhiều liên tưởng độc đáo. Đấy là khi nhìn dòng Thạch Hãn như thấy một nghĩa trang dưới lòng sông với “bia mộ xếp hàng dài ra bể”, là liên tưởng vuông vải người mẹ liệt sĩ quấn hài cốt con như tã lót mẹ bồng con tuổi ấu thơ, là nhìn người lính bảo vệ biên thuỳ như “dậu phen che tổ quốc”, là nhìn mây trên trời Quảng Trị như “bạn bè tôi giăng giăng ở trên đầu”, là nhìn thấy trong lòng thành cổ một trường đại học nơi “hàng ngàn sinh viên quân phục xanh tưng bừng vào lớp”.
Nguyễn Trọng Luân luôn tạo được những câu thơ có nhạc, có nhịp điệu làm lòng người xốn xang. Đấy là “Chốn rừng xưa xao xác lá rừng rơi”, là “Nụ cười bạn tôi xa tít những chiều mưa”, là “Chạm má mình nước mắt bạn sang tôi”, là “Tóc thề nắng cũng buông nghiêng”, là “Quả cà nén quăn lưỡi bữa cơm chiều”, là “Hoa găm ngược vào tiếng sóng”.
Nhưng điều gì đã làm thơ Nguyễn Trọng Luân có được sự đánh giá cao, nhất là sự chia sẻ của những người lính trên Quân sử Dựng nước - Giữ nước. Đó chính là tiếng nói chân thành, da diết của người lính sống sót trở về một cách “rất lính”, một tiếng nói đại diện cho một thế hệ những người lính tham gia cuộc chiến tranh. Cùng với những tác phẩm của những người lính sinh viên như Nhật ký viết lại của Sáu-chín-bảy-mốt (Nguyễn Tiến Tài), truyện ngắn Nguyễn Như Thìn, Những chuyện cười ra nước mắt của Tích Tường Như Lệ (Lê Minh), Ký ức một thời hoa lửa của Lê Xuân Tường, phim Mùi cỏ cháy của Hoàng Nhuận Cầm... tập thơ Mây trên trời Quảng Trị góp thêm một tiếng nói, một gửi gắm, một giá trị cho hôm nay và con cháu mai sau. Xin trân trọng giới thiệu cũng người đọc tập thơ Mây trên trời Quảng Trị của Nguyễn Trọng Luân nhân dịp kỷ niệm 40 năm chiến dịch mùa hè 1972.
Hồ Tú Bảo - "tralientay" Lính đại đội trinh sát của sư đoàn 325. tháng 3/2012
|