Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 05:38:21 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chân trần, chí thép  (Đọc 69220 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #50 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2011, 11:29:39 am »


***


Để hiểu được vị trí trang trọng của nghệ thuật, cần phải nhìn nhận một thực tế rằng. Trong chiến tranh, đối với Hà Nội, các nghệ sĩ biểu diễn có vai trò quan trọng không kém những người lính chiến đấu ngoài mặt trận.

“Đối với người chiến sĩ trên mặt trận thông tin, lời bài hát hay chủ đề một vở kịch chính là vũ khí chiến đấu”, ông Nguyễn Thế Linh, người chỉ huy một đoàn văn công biểu diễn dọc Đường mòn giai đoạn 1964-1975, nhấn mạnh. “Không trực tiếp chiến đấu nhưng chúng tôi chăm sóc tinh thần cho chiến sĩ. Đơn vị của chúng tôi tuy nhỏ nhưng hoạt động hiệu quả và có đóng góp rất quan trọng. Tất cả những bài hát, bài thơ, vở kịch đều hướng tới khích lệ tinh thần chiến sĩ. Mỗi một tiết mục đều nhằm mục đích giải thích rõ tại sao chúng tôi lại chiến đấu – và quan trọng hơn, tại sao chúng tôi phải chiến thắng”.

Khó mà hiểu một cách cặn kẽ về nỗ lực đưa nghệ thuật tham gia vào các nỗ lực chiến đấu bên phía Bắc Việt. Trong khi người lính Mỹ nghe các ca khúc về quê nhà, người thân mà họ để lại sau lưng, cũng như bi kịch của chiến cuộc (chẳng hạn bài “Đâu rồi những bông hoa?” 1, người lính Bắc Việt lại nghe những bài ca ái quốc, những khúc hát giành chiến thắng cho Tổ quốc, niềm vinh quang được cầm súng và được chết cho đất nước. Các bài hát mà người lính Bắc Việt được nghe hiếm khi nói về nỗi đau hoặc mất mát của cá nhân – vì điều đó chỉ khiến người lính bị phân tâm trong sứ mệnh giành chiến thắng.

Thông điệp gửi cho người lính ngoài chiến trường hay gia đình họ ở quê hương đều có chung nội dung. Nó giải thích cho người lính “lý do tồn tại” – rằng anh ta có mặt ở đây để hy sinh cho Tổ quốc. Và dù cho có chung cội nguồn, nhưng những bài ca của miền Nam rất khác so với miền Bắc. Trong khi binh lính Sài Gòn luôn nghĩ về tình cảm lãng mạn, lính Bắc Việt chỉ tập trung vào chiến trường.

Nghệ thuật khích lệ động cơ chính trị của lính miền Bắc, đồng thời cũng là một hình thức giải trí. “Nghệ thuật là một bộ phận quan trọng trong nền văn hóa”, ông Linh giải thích. “Quân đội nhân dân của chúng tôi luôn tập trung cao độ cho nhiệm vụ chiến đấu nên rất cần nghệ thuật để thư giãn. Chúng tôi không thể thờ ơ với món ăn tinh thần này. Trong chiến tranh, vũ khí và khí tài hiện đại là rất quan trọng – nhưng yếu tố con người lại càng quan trọng hơn”.

Ông Linh nói rằng nước Mỹ thất bại trong cuộc chiến vì đã không hiểu con người và lãnh đạo Việt Nam. “Người Mỹ đã không hiểu được yếu tố con người trước khi tham chiến”, ông chia sẻ. “Họ không hiểu nghệ thuật của chúng tôi. Nghệ thuật khích lệ tinh thần bộ đội và truyền cho họ nguồn động lực để vượt qua khó khăn gian khổ. Thời khắc khó khăn nhất của cuộc chiến là những lúc thiếu thực phẩm. Chúng tôi có thể sống nhiều ngày với chỉ một nhúm thức ăn. Tình hình tồi tệ đến mức chúng tôi đã tính đến phương án cho phụ nữ trở ra Bắc, nhưng âm nhạc đã khích lệ họ ở lại. Đó là lý do tại sao chúng tôi có thể chiến đấu suốt mười một năm. Thời đó thật gian khó. Nhưng chúng tôi vẫn vượt qua bao khó khăn, trong đó có phần nhờ vào nguồn cảm hứng từ âm nhạc, từ những bài hát, bài thơ. Lời ca là một đội quân vô hình nhưng rất hùng mạnh. Vai trò của văn nghệ quan trọng tới mức nhiều người lính chiến, trong giai đoạn khan hiếm thực phẩm, vẫn sẵn sàng nhường phần ăn cho nghệ sĩ để đảm bảo họ đủ sức khỏe biểu diễn”.

Vị Tư lệnh trưởng lực lượng Đường mòn Hồ Chí Minh, Tướng Đồng Sĩ Nguyên, thừa nhận tầm quan trọng của nghệ thuật như là một công cụ truyền động lực. Sau một trận đánh đẫm máu trong trung đoàn dưới quyền chỉ huy của ông gần như tổn thất hoàn toàn, ông đã triệu tập nhà thơ Phạm Tiến Duật, người đang làm việc ở sở chỉ huy. Đã gần nửa đêm khi thi sĩ gặp vị tư lệnh. Sau khi thông báo cho ông Duật về tổn thất vừa qua, Tướng Nguyên chỉ đạo nhà thơ viết một bài về sự hy sinh của trung đoàn. Ông Duật hiểu rõ mục đích của việc làm ấy – thông qua hình thức nêu gương hy sinh của các chiến sĩ trung đoàn, vị tư lệnh muốn thổi lên tinh thần chiến đấu cho những người lính sống sót qua trận đánh cũng như cho chính bản thân ông. “Tướng Đồng Sĩ Nguyên hiểu rất rõ tác dụng quan trọng của văn chương”, ông Duật nhận xét.



***


Là một nghệ sĩ biểu diễn, Lượng rất hiểu tầm quan trọng của việc thích ứng với hoàn cảnh. Thời gian biểu luôn phải linh động bởi một khi có thông báo máy bay sắp ném bom thì buổi diễn phải tạm ngưng.

“Rất nhiều lần các vụ ném bom đã làm gián đoạn buổi diễn”, cô cho biết. “Nhưng một khi bom ngưng, chúng tôi lại tiếp tục”. Ban đầu Lượng rất sợ bom nhưng cô nhanh chóng học cách thích nghi. “Trong trận ném bom đầu tiên, tôi cực kỳ hoảng sợ. Sau một thời gian, tôi nhận ra rằng nếu có chuyện gì xảy ra với bản thân thì những anh chàng trẻ tuổi tốt bụng kia sẽ chăm sóc cho tôi – vì thế tôi bắt đầu phấn đấu để biểu diễn thật tốt và coi chuyện bom đạn là bình thường”.

Lượng kể rằng một chàng trai đã có cảm tình với cô và cô cũng có cảm tình với anh. Tên anh là Trương Chí Thành – Chính ủy Trung đoàn 6. Anh đã xem một số buổi diễn của cô. Họ gặp nhau vào tháng 10 năm 1967 sau khi Thành chủ động bắt chuyện.

Tuổi Thành hơn gấp đôi tuổi cô nhưng Lượng vẫn yêu mãnh liệt. “Anh ấy cao và rắn rỏi”, cô nhớ lại. “Anh cao hơn những người trung bình và rất đẹp trai với mái tóc húi cua. Đơn vị của anh được tặng thưởng huân chương cao quý vì có thành tích chiến đấu tốt”.

Chuyện yêu đương trong rừng rậm giữa muôn ngàn quân không hề đơn giản. Và tình hình càng trở nên khó khăn hơn khi đơn vị của Thành chuyển đến đóng quân ở một địa điểm cách xa hàng chục cây số. Khoảng cách xa đến nỗi phải mất một ngày một đêm thì Thành mới đến được binh trạm của Lượng. Tuy nhiên, khoảng cách không hề ngăn cản tình yêu – nó đơn thuần chỉ là một khó khăn mà họ phải vượt qua.

“Chúng tôi rất yêu nhau”, Lượng giải thích. “Anh ấy thường viết thư tình cho tôi. Đêm nào cũng có giao liên mang thư tới cho tôi”. Nhưng rồi định mệnh đen tối lại tìm đến với Lượng lần nữa. Tháng 12 năm 1967, cô và Thành ôm nhau lần cuối. “Tôi đang bị sốt rét; sốt rất nặng. Anh đến thăm, mang theo ít đường và đồ ăn. Chúng tôi nói với nhau về những ước mơ. Anh bảo rằng đến lúc hết chiến tranh sẽ sắm một chiếc xe để có thể chở tôi đi biểu diễn khắp đất nước. Chúng tôi bịn rịn chia tay”.

Những lá thư tình tiếp tục được giao liên mang tới, cho đến ngày đơn vị Thành rời khu vực. Lá thư cuối cùng Thành gửi kèm theo một gói quà. Gói quà gồm một hũ dưa muối – do lính tráng tự làm, một chiếc khăn tay và một đôi bít tất. Lượng cho biết có một lá thư xin lỗi. Thư viết: “Trong thời kỳ chiến tranh khắc nghiệt này, anh không có gì khác để tặng em ngoài những món quà nhỏ này. Anh gửi tới cô văn công của anh một chút quà cho ngày Tết”.

Đơn vị Thành rời đi, sau đó cùng với các đơn vị khác thực hiện cuộc tấn công Tết Mậu Thân vào ngày 31 tháng 1 năm 1968. Ngày hôm đó, hàng loạt cuộc tấn công đã được phát động nhằm vào quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tại Sài Gòn và các khu vực lân cận. Khi lực lượng của Thành đang rút lui thì thảm họa giáng xuống. Anh và đồng đội di chuyển dọc bờ sông mà không biết rằng họ đã bị lộ. Chỉ sau vài phút, một đơn vị pháo của kẻ thù đóng cách đấy vài cây số nhận được tin báo. Khi Thành nghe tiếng pháo xé gió thì đã quá muộn. Anh và nhiều đồng đội bị trọng thương. Mười ngày sau khi Lượng nhận được lá thư cuối cùng của Thành, anh qua đời.

Các thành viên trong đội văn công biết tin Thành chết ngay sau đó nhưng họ tìm cách giấu Lượng. Khi cô liên tục hỏi tin tức về Thành, người ở sở chỉ huy nói rằng đơn vị của anh đã tiến sâu vào Nam. Nhiều tháng trôi qua, đến một ngày nọ, trong một lần nói chuyện với bạn cùng diễn, sự thật đã lộ diện. Lượng choáng váng. Trong sự khắc nghiệt của số phận, cuộc chiến đã mang tình yêu lớn lao nhất đến cho Lượng rồi cũng tước đi của cô mối tình ấy. Một câu chuyện tình thật đẹp đã kết thúc trong bi kịch.

Tám năm sau, khi cuộc chiến đã kết thúc, Lượng cưới người giao liên thường mang thư của Thành tới cho cô.
_________________________________
1. “Where Have All The Flowers Gone?” là một bài hát rất thịnh hành vào thập niên 1960, do Pete Seeger và Joe Hickerson viết lời, theo giai điệu một bài dân ca Mỹ.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #51 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2011, 11:30:52 am »


***


Cuộc sống trong rừng rất khó khăn với phụ nữ. “Với đàn ông cuộc sống vốn đã khó khăn, với phụ nữ thì càng khó khăn gấp bội”, Lượng tâm sự. “Chúng tôi phải giải quyết các khó khăn của phụ nữ mà không có bất kỳ tiện nghi cơ bản nào… Đối với phụ nữ thì cuộc sống khó khăn gấp năm lần đàn ông”.

Môi trường chinh chiến trong rừng đã gây ra tổn hại nặng nề cho phụ nữ cả về thể xác lần tinh thần. Đối với những người quen với cuộc sống đô thị, tác động càng lớn hơn. Không còn được hưởng những tiện nghi thành thị, da họ trở nên chai sạn đi do phải lao động nặng nhọc cộng với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Đối với nhiều người, thời kỳ cơ cực kéo dài tới chín năm. Nhiều người vào rừng khi còn nhỏ tuổi, đến lúc kết thúc chiến tranh, chợt nhận ra rằng cơ thể của họ đã bị rút cạn sức thanh xuân.

Hầu hết phụ nữ phục vụ trên Đường mòn giữ nguyên tắc đạo đức rất nghiêm ngặt. Quan hệ tình dục trước hôn nhân là điều tuyệt đối cấm kỵ. Nhiều phụ nữ tuân thủ nghiêm ngặt đạo lý này đã phải sống đơn chiếc suốt cuộc đời sau khi trở về từ chiến trường. Cuộc sống khắc nghiệt trong rừng đã bào mòn cơ thể họ, khiến họ không còn hấp dẫn được cánh đàn ông xuất ngũ vốn có xu hướng tìm kiếm những phụ nữ trẻ hơn và mảnh mai hơn. Có một chuyện kể về 40 phụ nữ trên Đường mòn luôn cố gắng giữ gìn sự trong trắng và hai mươi năm sau khi Sài Gòn sụp đổ, họ vẫn còn độc thân, không được các nam đồng đội ngày ấy có tình cảm yêu đương.



***


Tuy nhiên, nữ văn công lại khác. Do nhiệm vụ thường xuyên tiếp xúc với binh sĩ nam nên rất nhiều nữ nghệ sĩ đã lấy chồng khi đang công tác trên Đường mòn. Chị Phạm Thị Thu Hồng kể về một cuộc gặp gỡ dẫn đến hôn nhân như thế. Là một ca sĩ, ở tuối hai mươi hai, năm 1963 chị được điều vào Nam biểu diễn cho bộ đội trên tuyến đường mòn cách không xa thành phố Huế. Hồng công tác ở đây cho đến khi những cơn sốt rét rừng đẩy chị ra Hà Nội vào năm 1972.

“Tôi gặp người chồng tương lai trên chiến trường miền Nam năm 1963. Tôi là ca sĩ còn anh là nhà quay phim đang làm phim tài liệu. Anh tên là Nguyễn Hồng Sáu. Dù đã xem nhiều buổi diễn của tôi nhưng anh Sáu không bao giờ bắt chuyện. Thế rồi vào một buổi chiều khoảng hai năm sau lần đầu tiên gặp nhau, anh vào rừng kiếm rau. Anh chỉ mang theo lưỡi lê và trong lúc mải mê kiếm rau thì bị rắn độc mổ vào cổ. Anh chạy tới trại chúng tôi. Tôi và một diễn viên khác cùng nhau trị thương. Chúng tôi cho anh uống thuốc để ức chế chất độc. Còn một viên chúng tôi bẻ làm đôi rồi tán bột, sau đó xoa vào vết cắn để ngăn chất độc lan ra. Trong lúc chữa bệnh, tôi mới biết rằng hai chúng tôi ở cùng làng. Khi chữa xong, anh hỏi liệu tôi có thể ghé đến trại của anh vào tối hôm đó hay không”.

Chị Hồng đã tới thăm người bệnh bất đắc dĩ của mình vào tối hôm ấy. Sau đó thì anh thừa nhận là đã thương thầm nhớ trộm chị trong một thời gian dài. Anh không biết làm cách nào để ngỏ lời cho đến khi tai nạn rắn cắn xảy ra anh mới có cơ hội bày tỏ.

Tuy nhiên, về phía Hồng thì tình yêu không đến nhanh chóng. Dù trở thành bạn thân, mãi ba năm sau Hồng mới xiêu lòng trước bệnh nhân cũ. Họ cưới nhau sau khi chị được điều về Hà Nội vào năm 1972 vì lý do sức khỏe.



***



Nữ văn công ở trong trại riêng, tách biệt với nam đồng đội. Đôi lúc vì lý do an ninh hoặc đơn giản là để giúp đỡ phụ nữ vượt qua khó khăn của cuộc sống lán trại, một ít thành viên nam được điều sang ở chung. Dù vậy cũng không bao giờ có vấn đề gì xảy ra liên quan tới giới tính. Nam giới tôn trọng sự riêng tư của phụ nữ và ngược lại.

Đôi khi phụ nữ mời đàn ông tới lán mình cùng ăn cơm. Cô Lượng kể về một sự cố xảy ra liên quan tới một trong những lần mời như thế. Sau khi giặt đồ lót và đem phơi, các nữ văn công nấu chè – một món tráng miệng chế biến từ đậu. Buổi tối hôm đó, các vị khách nam tới. Họ ngồi quanh bếp lửa, chè trong chảo lớn đã sôi và bắt đầu được múc ra các bát nhỏ. Khi múc đến những bát cuối cùng, cái vá chạm phải một vật gì lổn nhổn dưới đáy nồi. Nhìn kỹ, các đầu bếp phát hiện ra đó là một món đồ lót phụ nữ. Rõ ràng là khi không ai để ý thì có một món đồ lót đã tuột khỏi dây phơi gần bếp và rơi tõm vào nồi! Phát hiện ra nguyên liệu đặc biệt của nồi chè, cánh đàn ông vẫn cứ ăn ngon lành.



***


Bất cứ ai từng xuôi ngược Đường mòn đều có một câu chuyện kể về tình trạng thiếu lương thực. Dù văn công thường xuyên ở binh trạm, nơi lương thực khá phong phú, thì đôi lúc vẫn thiếu ăn như thường. Cô Lượng kể: “Có lần thiếu lương thực, chúng tôi phải vào rừng kiếm cái gì đó để ăn. Tìm được một ít nấm, chúng tôi liền nấu ăn mà không hề biết rằng đó là nấm độc. Cả nhóm đã bị ngộ độc và phải nhập viện… Sau Tết Mậu Thân 1968, lương thực càng khan hiếm. Chúng tôi đói liên miên. Không có muối, thuốc men, không có thức ăn. Mọi người phải thường xuyên vào rừng kiếm ăn. Chúng tôi săn thú rừng, có khi giết cả voi. Vơi cho nhiều thịt nhưng thịt dở tệ”.



***


Chị Phạm Thị Thu Hồng kể về một tình huống trớ trêu mà chị và đồng đội phải đối mặt giữa lúc đang đói quặn ruột vì không được cấp đủ lương thực:

“Mỗi người chúng tôi được mang theo một khẩu phần ăn khẩn cấp trong ba lô. Khẩu phần này gồm một chiếc bánh quy cứng mà phải có lệnh của thủ trưởng mới được ăn. Để biết chắc rằng không ai vi phạm quy định, người chỉ huy thường kiểm tra ba lô của mọi người.

Lần đó chúng tôi đi dọc Đường mòn xuôi vào Nam. Trong nhiều ngày qua, ai nấy đều được ăn rất ít nên đói cồn cào. Thế là nhóm chúng tôi bàn cách lén lôi bánh ra ăn. Khi cả đoàn nghỉ chân, tôi quyết định bốn chúng tôi sẽ cùng ăn chung một chiếc bánh của một người và nếu bị phát hiện thì tôi sẽ đứng ra nhận trách nhiệm. Thế là chúng tôi lấy một chiếc bánh ra. Mọi người nói chuyện ồn ào trong khi bẻ bánh làm bốn để người chỉ huy khỏi phát hiện. Sau đó mọi người ăn vội vã rồi độn lá khô vào bao bánh để người chỉ huy tưởng rằng bánh vẫn còn”.


Sự việc không bị phát hiện trong nhiều ngày. Nhưng rồi một hôm người chỉ huy kiểm tra. Bốn đồng phạm nhìn nhau lo lắng khi chiếc ba lô thứ nhất được mở ra. Đến lúc người chỉ huy kiểm tra ba lô thứ hai, bốn cô gái đã tìm cách  tráo cái ba lô thứ nhất. Không ngờ người chỉ huy phát hiện ra sự đánh tráo. Khi được hỏi ai đã ăn mất khẩu phần khẩn cấp, chị Hồng đứng ra nhận trách nhiệm. Giữa lúc chị đang cố gắng phân bua về cơn đói của mọi người thì người chỉ huy liên tục khiển trách. Thông thường Hồng không phải là người hay cãi lệnh cấp trên nhưng trong trường hợp này chị đã có phản ứng khác thường. Chị quyết định đi một nước cờ mạo hiểm; chị yêu cầu người chỉ huy cũng mở ba lô ra cho mọi người kiểm tra trước khi tiếp tục quở trách. Cô nàng chỉ huy im lặng; chị Hồng bèn tiến đến và mở ba lô cô này ra. Cái mẹo mực của Hồng đã thu được kết quả - túi xách người chỉ huy cũng không còn bánh. Thấy rằng Hồng cùng những người khác chỉ mới ăn chung một chiếc bánh còn riêng mình thì ăn nguyên một chiếc, cô nàng chỉ huy mới bỏ qua vụ việc.



***


Cuộc sống của văn công trên Đường mòn không đơn thuần là diễn xong rồi ngồi đợi đến buổi diễn kế tiếp. Thông thường họ phải làm nhiều việc mỗi ngày. Đôi khi họ phải tải hàng quân nhu từ nơi này đến nơi kia. Có một hôm, cô Lượng tham gia tải vũ khí từ một căn cứ trên núi về binh trạm. Khi đang cõng hàng xuống núi, nhóm của cô gặp một nhóm khác đi ngược lên. Nhóm này có một vài tù binh Mỹ đang được chuyển ra Hà Nội. Lượng và các đồng đội bèn dừng chân biểu diễn cho những người kia xem, trong đó có cả tù binh Mỹ. Đây là lần đầu tiên chạm mặt người Mỹ. Cô nhớ lại rằng hồi đó gặp họ cô hầu như chẳng có cảm xúc gì – không thù oán cũng chẳng thương cảm.

Hầu hết các lần Lượng tham gia tải hàng quân nhu dọc Đường mòn đều không gặp sự cố lớn nhưng một vài thành viên khác lại không có may mắn ấy. Trong khi đang tham gia tải lương thực, hai nghệ sĩ đã thiệt mạng trong một đợt ném bom.



***


Đối với hàng triệu người lính xuôi ngược dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, họ biết rằng ở một nơi nào đó giữa chốn gian khổ và hiểm nguy này, có những niềm cảm hứng – trong hình hài của các nghệ sĩ biểu diễn – đang chờ đợi họ. Họ biết những nghệ sĩ như Lê Thu Lượng, Phạm Thị Thu Hồng hay Nguyễn Thế Linh vẫn tiếp tục đi lại dọc Đường mòn, chờ đợi để biểu diễn văn nghệ nhằm truyền cảm hứng cho họ tiến tới ngày thắng lợi. Những người sống sót không bao giờ lãng quên vai trò quan trọng của văn công trong toàn cuộc kháng chiến.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #52 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2011, 03:30:51 pm »


PHẦN 8
ĐIỀU KHÔNG MONG ĐỢI


Trong quá trình thu thập dữ liệu cho cuốn CHÂN TRẦN, CHÍ THÉP, đôi khi tôi bất ngờ bắt gặp một câu chuyện đăc biệt. Trong bốn câu chuyện sau đây, Người Ám Sát thu hút tôi nhất khi một mảng riêng tư được phơi bày.




NGƯỜI ÁM SÁT


Đôi khi số phận đẩy chúng ta vào một con đường không hề định trước – tương tự như chuyến trở lại Việt Nam đã làm thay đổi thái độ của tôi trước kẻ thù cũ. Sự kỳ lạ của số phận cũng đã dẫn tôi tới cuộc gặp gỡ với Thiếu tướng Trần Hải Phụng. Trong cuộc phỏng vấn với ba người này, tôi rất kinh ngạc khi biết được rằng một phần tư thế kỷ về trước, ông suýt chút nữa đã giáng thảm họa lên gia đình chúng tôi.

Vì muốn tìm hiểu về địa đạo Củ Chi – hệ thống hầm ngầm ở mạn Tây Bắc Sài Gòn được người Việt Nam sử dụng suốt chiến tranh – tôi lên kế hoạch phỏng vấn người đóng vai trò quan trọng trong hoạt động  của địa đạo ấy. Ông lag vị tư lệnh quân địa đạo Củ Chi, Tướng Phụng.

Từng chiến đấu dưới địa đạo thời chống Pháp từ thập niên 1940 nên ông Phụng biết rất rõ hệ thống này. Ông đã kể tỉ mỉ về lịch sử địa đạo, cách thức thiết kế, xây dựng, việc chuyển đổi tính năng từ một căn cứ phòng thủ sang bàn đạp tấn công, v.v. – Tất cả đều được đề cập trong cuốn sách này.

Ông Phụng giải thích cho tôi biết rằng nhiệm vụ của ông trong chiến tranh bao gồm tổ chức và chỉ huy các cuộc đột kích vào nhiều loại mục tiêu tạo Sài Gòn và vùng kế cận – những cuộc tấn công chỉ được tiến hành theo sau một kế hoạch cặn kẽ và có sự phối hợp nhịp nhàng. Tôi chăm chú nghe ông liệt kê ra một loạt mục tiêu mà ông từng tấn công: “… Dinh Tổng thống, đài phát thành, Đại sứ quán Mỹ, tổng hành dinh hải quân…”. Khi ông Phụng nói đến mục tiêu cuối cùng ở trên, tôi đã cắt ngang với một loạt câu hỏi:

“Ý ông là Tổng hành dinh của Hải quân Mỹ?”, tôi chất vấn.

“Đúng vậy”, ông đáp. Khi ông đáp lại bằng một nụ cười, tôi thấy con người này dường như biết rõ những câu hỏi mà tôi sắp đưa ra.

“Đó là Tổng hành dinh Hải quân Mỹ ở Sài Gòn?”, tôi hỏi tiếp.

“Đúng thế”, ông lại đáp.

“Đó là năm 1969?”, tôi lại hỏi.

“Đúng rồi”, ông lại cười. (Tôi thấy mình giống như một chuyên gia chất vấn trong chương trình truyền hình “Nghề của tôi là gì?” nổi tiếng thời thập niên 1950/1960, trong đó người hỏi sẽ tiếp tục đặt câu hỏi chừng nào người trả lời còn đưa ra những câu khẳng định).

“Mục đích của cuộc tấn công đó là gì?”, tôi chất vấn và nín thở chờ câu trả lời.

“Để giết vị đô đốc chỉ huy Hải quân Mỹ ở Việt Nam”, ông đáp.

Tôi cần một câu trả lời cuối cùng để xua đi cái hoàn cảnh trớ trêu này. Tôi không chắc lúc đó mình thực sự muốn biết câu trả lời ấy.

“Ông có biết người đó là ai không?”, tôi hỏi.

“Có chứ, ông ấy là cha của ông”.

Không thể tin được. Tôi nhớ lại lần đầu tiên nhận được tin về vụ tấn công hồi mùa xuân năm 1969. Vụ việc diễn ra vào ngày 11 tháng 5 năm 1969. Khi đó tôi đang nghe đài phát thanh, đến phần điểm tin chiến sự. Dù nhiều năm đã trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ rõ lời phát thanh viên hôm ấy: “Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự cho Việt Nam vừa cho biết có một nỗ lực ám sát nhằm vào tư lệnh Hải quân Mỹ ngay tại tổng hành dinh ở Sài Gòn. Không có báo cáo về thương vong”.

Tôi không thể nghe phần tiếp theo của bản tin – sau khi bị sốc vì phần mở đầu này. Phải mất nhiều tiếng đồng hồ tôi mới gọi điện được đến trụ sở của cha tôi và biết ông vẫn bình an.

Nhiều năm sau, tôi đã có dịp nói chuyện trực tiếp với người chịu trách nhiệm mưu sát cha tôi và qua đó có thể sắp xếp lại những tình tiết của câu chuyện mà tôi chỉ biết rất mơ hồ vào thời đó.

Ông Phụng đã dành nhiều tuần để lên kế hoạch sau khi người của ông thoe dõi hoạt động tại trụ sở của cha tôi. Tổng hành dinh COMNAVFORV ở trung tâm Sài Gòn có tường bê tông rất dày, cao hơn hai mét bao quanh. Bốn mặt giáp với các con phố đông đúc. Tường che có tác dụng bảo vệ an ninh tương đối tốt, không những ngăn sự xâm nhập của Việt Cộng từ bên ngoài mà còn che đậy cho hoạt động bên trong. Nhưng điều mà người Mỹ không hề biết, đó là quân của ông Phụng đã theo dõi cơ sở này khá kỹ từ các vị trí thuận lợi cả từ bên trong và ngoài khu nhà – trinh sát bên ngoài được một điệp viên bên trong hỗ trợ. Sau nhiều lần quan sát kỹ, ông Phụng phát hiện ra một kiểu hoạt động đặc thù của những con người bên trong khu trụ sở.

Là Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Việt Nam, cha tôi làm việc theo một lịch trình khá cố định. Ông thường bắt đầu một ngày bằng việc chạy bộ bên trong khuôn viên trụ sở vào lúc sáng sớm, tiếp đó là họp với nhân viên. Tùy vào nội dung bản báo cáo về chiến sự diễn ra vào đêm hôm trước mà ông có thể ở lại trụ sở hoặc bay trực thăng ra gặp những người đang chiến đấu ngoài mặt trận.

Như đã nói ở Phần mở đầu, ngay sau khi tới nhận nhiệm vụ, cha tôi đã triển khai một chiến lược chiến tranh mới trên hệ thống sông nước Việt Nam. Chiến lược này đã mang lại hiệu quả lớn cho Hải quân trong việc ngăn chặn sự tiếp vận của Việt Cộng vào miền Nam. Quân nhu bị cắt đứt, hoạt động của Việt Cộng ở vùng đồng bằng giảm xuống, thương vong của Lục quân Mỹ cũng giảm. Ông Phụng biết rõ thành công của cha tôi.

Cha tôi thường tới căn cứ ở trong rừng để thăm các thủy thủ vừa chiến đấu đêm hôn trước và các chuyến thăm kết thúc vào cuối buổi sáng. Sau đó, cha tôi trở về trụ sở, triệu tập thêm một cuộc họp nữa để rút kinh nghiệm. Buổi họp kết thúc vào giờ ăn trưa. Tuy nhiên, cha tôi cùng một vài nhân viên thường tập thể dục chứ không ăn trưa. Khuôn viên trụ sở có một sân bóng chuyền nằm sát vách tường ngăn cách với một đường phố tấp nập. Những pha bóng sôi nổi hằng ngày giúp các nhân viên tạm thời quên đi không khí chiến tranh xung quanh.

Điều đáng tiếc là bên trong khuôn viên, nhiều người tỏ ra chủ quan. Trong thời chiến, chủ quan sẽ dẫn đến thảm họa. Cha tôi luôn hối thúc hạ cấp không được chủ quan – ông lệnh cho họ phải thường xuyên thay đổi chiến thuật và lịch trình làm việc để khiến kẻ thù khó đoán định được để mà lợi dụng. Nhưng có vài lần hiếm hoi cha tôi không thực hiện được điều mà ông chủ trương.

Khi nhận được thông tin tình báo về hoạt động của cha tôi, Tướng Phụng liền lên kế hoạch hành động. Ông biết rằng để cho cú đấm thành công, cần phải hội đủ một số yếu tố quan trọng.

Trước hết là yếu tố bất ngờ. Cần phải tiếp cận mục tiêu ở cự ly rất gần trước khi tung ra cú đánh. Ông Phụng cho rằng phải sử dụng một lực lượng gọn nhẹ.

Tiếp theo, ông Phụng cũng hiểu rõ dùng một lực lượng nhỏ để đột kích khu trụ sở chẳng khác gì tự sát. Dù đoán vành đai an ninh khá lỏng lẻo, ông vẫn nghĩ rằng cần phải sử dụng một lực lượng lớn hơn để tấn công trực tiếp, nhưng phương cách này lại làm giảm yếu tố bất ngờ.

Cuối cùng, cần có kế hoạch rút lui cho nhóm hoạt động. Phương tiện hỗ trợ rút lui cần phải gọn nhẹ để các tay súng có thể tiếp cận dễ dàng và rút đi trong chớp mắt.

Kế hoạch cuối cùng của ông Phụng có cả ba yếu tố trên. Ông lập một nhóm tấn công gồm hai người, yêu cầu phải thực hiện tất cả những công đoạn đã được vạch ra.

Hóa trang cẩn thận, hai sát thủ đi trên một chiếc xe gắn máy. Một người cầm lái, người kia ngồi phía sau ôm theo một bọc trước bụng. Xế trưa một ngày rất nóng vào tháng 5, chiếc xe gắn máy hòa vào dòng người tấp nập trên đường phố áp với trụ sở COMNAVFORV, phía bức tường che chắn sân bóng chuyền.

Hai người biết rõ cần đi bao xa dọc con phố này sẽ đến được vị trí tương ứng với sân bóng chuyền phía bên trong bức tường. Nội gián bên trong khu trụ sở là một đầu bếp, người này đã lén đánh dấu trên bức tường bên ngoài chỗ sân bóng chuyền. Tới được nơi này, những kẻ tấn công chỉ còn cách mục tiêu một bức tường bê tông cao hơn hai mét.

Người ngồi phía sau xe liếc nhanh qua đám lính gác. Một người lính đứng ở góc đường tỏ ra mất tập trung. Khi lái xe giảm tốc độ, ngay lập tức, người ngồi sau quẳng cái bọc ôm trước bụng – là một bọc thuốc nổ - qua bức tường, nhằm vào sân bóng chuyền bên trong khuôn viên.

Người này định vị và ném rất chính xác, khối thuốc nổ rơi ngay giữa sân. Chiếc xe máy lập tức rồ ga, lách qua dòng người đang chạy chầm chậm trên đường để thoát khỏi sự truy đuổi.

Vài giây sau, một tiếng nổ chấn động khu dinh thự. Đất và mảnh vỡ bay tứ tung ra cả con phố bên cạnh khiến mọi người nháo nhào tìm nơi ẩn nấp.

Cuộc tấn công mà ông Phụng chỉ đạo là kết quả của hàng tháng trời thu nhập tin tức và lên kế hoạch cẩn thận. Vụ tấn công đã diễn ra trót lọt – nhưng thất bại. Cha tôi vẫn tuân theo các hoạt động thường nhật nhưng ông Phụng lại mắc sai sót. Vị tướng này chỉ phạm một sai lầm đơn giản nhưng rất hệ trọng – ông đã không thể xác định được vị trí của mục tiêu trước khi phát động tấn công.

Ngay trước khi các nhân viên chuẩn bị chơi bóng chuyền, cha tôi được triệu tập tham dự cuộc họp tại trụ sở Bộ Chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam. Vì thế, trận bóng thường lệ bị hủy vào phút chót. May mắn cho cha tôi nhưng không may cho ông Phụng là khối thuốc đã nổ trên mặt sàn trống trơn.

Lúc tôi phỏng vấn xong, Tướng Phụng đứng dậy bắt tay: “Khi nào gặp lại cha anh, cho tôi gửi lời xin lỗi”, vị tướng nói. “Nhưng cũng hãy nói cho ông ấy rằng tôi chỉ thực hiện nhiệm vụ của một người lính”. Là một quân nhân, tôi hiểu rõ điều ông Phụng nói. Tôi cảm ơn về lời xin lỗi và nói thêm: “Thật may là ông đã đánh hụt mục tiêu!”.

Tôi muốn nói về sự trớ trêu và những cảm xúc trong thời khắc ấy. Tôi đang đứng đối diện với người từng tìm cách giết cha tôi hai mươi bảy năm về trước. Nhưng, tôi đang bắt tay ông trong tình ái hữu. Khi Tướng Phụng đã đi, tôi trải qua một cảm xúc nữa. Trong tôi trỗi dậy lòng trắc ẩn và sự tha thứ cho kẻ thù cũ bởi tôi biết rõ rằng ông ấy chỉ làm nhiệm vụ của một người lính.

Cuộc phỏng vấn Tướng Phụng diễn ra trước khi cha tôi qua đời; đêm hôm đó, tôi đã gọi điện từ Sài Gòn để thuật lại câu chuyện cho ông. Sau cùng, tôi nói: “Nhưng mà cha ơi, con đã cho ông ấy địa chỉ mới của cha rồi!”. Tôi nghe vọng lại từ đầu dây bên kia giọng cười nồng ấm.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #53 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2011, 03:32:10 pm »


VỀ MỘT LẦN BẮT PHI CÔNG


Nhiều năm sau chiến tranh, Trung sĩ Nguyễn Ngọc Huân đọc được bài viết về một cựu tù binh Mỹ trên báo chí Việt Nam. Bài báo nói về phi công Hải quân John S. McCain ở bang Arizona mới vừa đắc cử thượng nghị sĩ liên bang. Theo bài viết, máy bay của McCain bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội vào ngày 26 tháng 10 năm 1967. Ông Huân nhớ rất rõ: số phận đã mang ông tới Hà Nội một tháng trước đó, cho phép ông tham gia vụ bắt giữ một phi công Mỹ vào ngày hôm ấy.

Trong lúc đọc báo, Huân nhớ lại cái ngày 26 tháng 10 năm 1967 và kể về xảm giác khi, trong một khoảnh khắc, đã nắm trong tay tính mạng của con người sau này sẽ trở thành một thượng nghị sĩ khả kính của nước Mỹ. Ngày hôm ấy, khi chiếc máy bay bị bắn cháy và viên phi công bung dù giữa bầu trời Hà Nội, ông Huân, với tất cả sự giận dữ, đã chuẩn bị tinh thần để giết người Mỹ này ngay lập tức.

Ông nhớ cảnh lửa phụt ra từ máy bay, viên phi công nhảy ra phía trên một hồ nước nhỏ ở trung tâm Hà Nội. Ông lao tôi hồ nước, giương súng lên trong khi viên phi công vẫn còn lơ lửng ở độ cao vài trăm mét. Hướng nòng súng về phía người phi công đang bất lực, ông khẽ đặt ngón tay lên cò.

“Nếu hôm đó tôi bóp cò thì ông người Mỹ này đã không bao giờ có một sự nghiệp chính trị như hôm nay”, ông Huân nghĩ bụng khi đọc bài báo về cuộc tranh cử của ông McCain. Ý nghĩ ấy luôn hiện lên trong đầu Huân kể từ khi McCain đắc cử nghị sĩ và tên tuổi ông được báo chí Việt Nam nhắc đến thường xuyên, trở thành một trong những cựu tù binh nổi tiếng nhất.

Sau đây là những hồi tưởng của Huân về việc ông có mặt tại Hà Nội trong thời khắc đặc biệt đó và đã tham gia vụ bắt giữ một viên phi công trẻ tuổi người Mỹ đang bị thương vào một ngày tháng 10.

Những ai từng biết đến vụ phi công John McCain bị bắt sẽ sớm nhận ra rằng câu chuyện mà ông Huân kể có nhiều điểm khác biệt. Và trong một sự tiết lộ đáng kinh ngạc, có thể thấy rằng cả hai câu chuyện đều là thật, dù có một ngoại lệ lớn.



***


Cuộc đời binh nghiệp của Huân bắt đầu vào tháng 4 năm 1963, khi ông được biên chế vào một trong những sư đoàn nổi tiếng nhất của quân lực Bắc Việt – Sư 308. (Người Pháp đã đầu hàng Sư đoàn 308 tại Điện Biên Phủ vào năm 1954). Tháng 5 năm 1964, ông được biên chế vào Đoàn 959, hoạt động tại căn cứ ở Sầm Nưa, Lào. Đơn vị này có hai nhiệm vụ cơ bản: hướng dẫn xe quân sự đi qua vùng này và bảo vệ an ninh cho sĩ quan cấp cao. Ông Huân làm rất tốt nhiệm vụ, chưa bao giờ để mất một chiếc xe hay một sĩ quan cấp cao nào.

Công tác bảo vệ sĩ quan cấp cao đến thăm được giao cho các nhóm đặc trách gồm ba người. Đội bảo vệ chỉ giới hạn ba thành viên bởi nếu có quy mô lớn hơn, họ rất dễ gây chú ý. Mỗi thành viên của đội được huấn luyện sử dụng nhiều loại vũ khí nhỏ.

Thông thuộc địa hình cũng như được cung cấp thông tin tình báo mới nhất về hoạt động của địch trong khu vực, Huân và đồng sự luôn đảm bảo an toàn cho người và xe trên đường ra chiến trường. Nhưng trong khi luôn thành công trong việc tránh chạm trán với lực lượng mặt đất với kẻ thù, ông cũng không thể tránh được không kích.

“Hồi ở Lào, chúng tôi bị ném bom thường xuyên”, ông Huân kể. “Địch liên tục thả bom cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi thậm chí không ngủ được”.

Bản thân ông Huân may mắn sống sót qua các trận ném bom nhưng nhiều đồng đội của ông không có may mắn ấy. Ông không thể quên những đợt ném bom và những người bạn đã mất. Những ký ức đó lại trỗi dậy mạnh mẽ vào một ngày tháng 10 năm 1967, khi ông đứng giương súng sẵn sàng kết liễu viên phi công mất khả năng kháng cự đang hạ xuống mặt đất.

Đầu tháng 10 năm 1967, nhóm cận vệ của ông Huân tháp tùng một sĩ quan cấp tướng, cùng với thư ký riêng, đầu bếp và bác sĩ của ông này từ Lào sang Hà Nội dự họp. Họ khởi hành vào tuần đầu tiên của tháng 10, lúc đi bộ lúc đi xe dọc Đường mòn Hồ Chí Minh.

Ông Huân phát hiện ra rằng tháp tùng cho một vị tướng có nhiều thuận lợi, chẳng hạn như được ưu tiên xe cộ, đường sá. Các ưu tiên này cho phép nhóm hoàn tất hành trình chỉ trong một tuần. Khi tới Hà Nội, ông Huân được nghỉ ngơi tương đối thoải mái tại một doanh trại quân đội trong thời gian vị tướng dự họp.

Sáng 26 tháng 10, Hà Nội khá thưa người, ông Huân nhớ lại. Có nhiều thông tin dự báo máy bay Mỹ sẽ oanh tạc trong tuần nên nhiều cư dân đã rời khỏi thành phố. Bản thân Huân thì chẳng thấy lo lắng gì bởi ông đã vượt qua vô số vụ ném bom khi còn ở trong rừng. Thêm nữa, ông cũng muốn tập trung hưởng thụ một tiện nghi mà ông chưa bao giờ có được – tắm vòi hoa sen nước nóng.

“Hồi đó chúng tôi trẻ và hăng đánh nhau lắm”, ông Huân thừa nhận. “Chúng tôi luôn tận dụng cơ hội để chiến đấu, sẵn sàng lao về phía hiểm nguy”.

Lúc 10 giờ sáng, Huân đi tắm, không thèm quan tâm tới còi báo động máy bay đang rúc lên. Tiếp nối còi báo động là âm thanh súng phòng không liên hồi. Bực mình vì chuyện tắm táp bị gián đoạn, Huân chạy ra ngoài xem sự tình. Nhìm lên trời, ông thấy một chiếc máy bay vừa trúng đạn.

“Nhìn về hướng đông, tôi thấy một chiếc bốc cháy và phi công đã bung dù trên hồ Trúc Bạch”, Huân nhớ lại. Ông liền chạy vào doanh trại xách khẩu AK-47 nạp đầy đạn. Súng trong tay, ông lao về phía chiếc dù đang sà xuống.

“Giống như cái lò xo bị nén vừa được buông ra, tôi lao theo đường tắt, chạy hết tốc lực tới đền Quán Thánh trên đường Thanh Niên. Khi tôi tới bờ hồ, chiếc dù vẫn còn lơ lửng ở độ cao cả trăm mét. Tôi thấy nét mặt viên phi công có vẻ đau đớn”.

Giữa lúc viên phi công từ từ hạ xuống, ông Huân giương súng lên.

“Lúc bấy giờ tôi chỉ nghĩ đến các đồng chí đã chết trong rừng ở Lào khi những phi công Mỹ như thế này ném bom. Họ gây ra cho chúng tôi rất nhiều tổn thất. Cơn giận trong người tôi cứ thế dâng lên”.

Với một sự bộc trực đáng kinh ngạc, ông Huân kể: “Lúc ấy tôi chỉ nghĩ đến việc bắn chết viên phi công. Thậm chí tôi còn muốn khiến anh ta chịu nhiều đau đớn trước khi chết. Tôi đặt tay lên cò súng và tìm vị trí thuận lợi để nổ súng. Tôi chỉ nghĩ tới việc giết viên phi công… tất cả những gì cần làm là siết cò và tay kia sẽ chết”.

Tuy nhiên, khi viên phi công hạ thấp xuống nữa, có một điều gì đó ngăn cản Huân trong vai trò một kẻ hành quyết – ông thấy mình không thể kết liễu người Mỹ kia. Súng vẫn chĩa thẳng nhưng ông Huân cố nén giận và lặng lẽ nhìn viên phi công đáp xuống.

“Khi bước những bước cuối cùng đến vị trí có thể xả súng, tôi nhớ tới mệnh lệnh của sĩ quan chỉ huy – rằng tất cả tù binh đều phải được đối xử nhân đạo”, ông Huân nhớ lại. “Sự lưỡng lự trong chốc lát đó đã cứu sống viên phi công”.

“Có một ít cây cối quanh hồ và chiếc dù vướng vào cành cây kêu sột soạt”, ông kể. “Anh ta rơi xuống bên bờ hồ, ngã ngửa ra, một chân duỗi thẳng còn đầu gối chân kia nhô lên… Tôi nhìn thẳng vào mắt anh ta. Nét hoảng hốt hiện rõ. Ban đầu tôi cho rằng anh ta sợ tôi nổ súng nhưng nhìn kỹ thì có vẻ như không phải thế. Tôi vẫn chĩa súng vì sợ rằng anh ta có thể mang vũ khí. Khi tôi thấy anh ta có vẻ nhợt nhạt, tôi biết rằng người này đã bị thương”, cơn giận của Huân chùng xuống, thay vào đó là một niềm trắc ẩn.

Điều gì khiến ông quyết định, vào phút chót, không bắn? Huân cho rằng có hai nhân tố tác động một cách không điều kiện vào quyết định ấy – sự chuyên nghiệp của một người lính và sự thấu hiểu hoàn cảnh của người phi công kia. “Tôi chỉ hành xử như một người lính chuyên nghiệp”, ông giải thích, “trong đó có việc phải cảm thông với con người”.

Nhận thấy rằng người tù binh không thể kháng cự, ông Huân liền cởi bộ đồ bay của anh ta ra. Ông nhận thấy viên phi công bị thương nặng ở chân.

“Tôi thấy bắp chân anh ta bị thủng. Lỗ thủng to tới mức tôi có thể thấy mạch máu bên trong. Sau khi tôi cởi bộ đồ bay, anh ta chỉ còn lại đồ lót. Tôi thét gọi một cô gái trẻ gần đấy mang băng tới. Cô ấy chạy đi tìm băng và một cô gái khác băng bó cho anh ta. Giữa lúc đó thì tôi lục soát tư trang và tịch thu một khẩu súng ngắn chứa một viên đạn. Tôi còn tìm thấy chìa khóa, ảnh, một con dao nhỏ, một số tiền Mỹ (21 USD) và một tấm kim loại khắc tên. Vài phút sau, một chiếc xe chạy tới, mọi người cáng anh ta lên xe và đưa đi”.

Đó là lần cuối cùng ông Huân nhìn thấy người phi công ấy. Mãi đến nhiều năm sau, khi đọc tin một cựu tù binh Mỹ bị bắn rơi máy bay trên bầu trời Hà Nội vào ngày 26 tháng 10 năm 1967 vừa đắc cử thượng nghị sĩ, ông mới kể với bạn bè rằng đấy chính là John McCain mà ông đã tham gia bắt giữ thuở xưa. Ông tiếp tục kể về vụ bắt giữ phi công McCain và báo chí Việt Nam đã đăng tải câu chuyện này.

“Lần đầu tiên tôi nhận thấy rằng mình không chỉ bắt giữ mà còn suýt bắn chết ngài nghị sĩ tương lai của nước Mỹ”, ông Huân bày tỏ. Từ khi ông McCain đắc cử thượng nghị sĩ, nhiều binh sĩ ở Hà Nội đã đua nhau khẳng định rằng chính mình đã bắt ông này thời chiến tranh.

Ông Huân tỏ ra chân thực nhưng có thể thấy rằng câu chuyện của ông rất khác so với những gì chúng ta biết về vụ bắt phi công McCain. Đúng là McCain bị thương nặng vào ngày đó – nhưng xương đầu gối phải bị vỡ và gãy hai tay – chứ không phải bị thương ở bắp chân. Ông ấy nhảy dù phía trên một cái hồ ở Hà Nội và rơi xuống nước chứ không phải trên bờ. Một nhóm binh sĩ, chứ không phải một người duy nhất, đã bơi ra bắt ông và sau khi bị bắt ông đã bị đám đông cuồng nộ đâm lưỡi lê và đánh vào vai, không hề có một cô gái trẻ băng bó vết thương.

Dù có quá nhiều điểm khác biệt như thế, Huân vẫn khẳng định những gì ông kể là chính xác – vụ bắt giữ đã xảy ra đúng như lời ông miêu tả.

Nếu là thực, thì chỉ có duy nhất một cách giải thích cho câu chuyện của ông Huân.

Sáng 26 tháng 10 năm 1967, hai mươi máy bay Mỹ đã tấn công một loạt mục tiêu ở Hà Nội. Chiếc A-4E Skyhawk của McCain không phải là chiếc duy nhất bị bắn rơi hôm ấy – còn hai chiếc nữa cũng bị bắn rơi, một F-8 Crusader và một A-4E Skyhawk khác. Phi công hai chiếc máy bay kia cũng nhảy dù và bị bắt. Một trong hai người phi công kia khi được hỏi đã nói rằng ông không phải là nhân vật trong câu chuyện của Huân, phi công còn lại thì không muốn tiết lộ. Vì thế, không thể xác định được rằng liệu người này có phải là phi công mà ông Huân bắt hôm đó hay không.

Bản thân ông Huân không hề biết rằng vào ngày 26 tháng 10 năm 1967 có tới ba phi công Mỹ bị rơi máy bay và bị bắt sống. Ông luôn nghĩ hôm đó chỉ có một phi công bị bắt mà thôi. Và do báo chí khi đề cập đến Thượng nghị sĩ John McCain thường nhắc tới ngày máy bay bị bắn và ông bị bắt nên Huân luôn khẳng định rằng McCain từng là tù nhân của mình.

Tới hôm nay, ông Huân đã biết rằng người phi công mà ông cho rằng là McCain hóa ra không phải. Nhưng cho dù không còn khẳng định rằng mình từng bắt giữ ông McCain, ông Huân cũng cảm thấy thanh thản khi nghĩ về ngày ấy, ngày mà ông đã quyết định không kéo cò, để cho một người phi công Mỹ tiếp tục cuộc sống.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #54 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2011, 03:35:42 pm »


CÁI NHÌN MỚI VỀ CUỘC CHIẾN


NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, cuốn tiểu thuyết của một cựu chiến binh miền Bắc – Bảo Ninh, là tác phẩm văn chương đầu tiên viết về cuộc xung đột tại Việt Nam từ góc nhìn của đối phương. Nhân vật chính tên Kiên trở về sau chiến tranh, luôn “trăn trở với những cảnh bạo tàn mà anh từng chứng kiến, để từ đó nói lên ý nghĩa của cái chết, tình yêu và mất mát – cũng như chính sự sống sót của anh”.

Sau khi cuốn sách xuất hiện tại Mỹ, một nhà phê bình văn học bình luận: “Cơn chấn động đầy bạo lực của chiến tranh đã tạo ra những cơ hội đau đớn cho nhiều tiểu thuyết vĩ đại chào đời. Cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất nói về trải nghiệm trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất – mà nhiều người cho rằng về bất cứ cuộc chiến nào – đó là MẶT TRẬN PHÍA TÂY YÊN TĨNH1, do một người Đức viết. Cuốn sách không chỉ là thông điệp đối với những người đồng hương của tác giả mà còn đối với bất cứ ai tham chiến. NỖI BUỐN CHIẾN TRANH của Bảo Ninh có thể không phải là cuốn tiểu thuyết vĩ đại nhất về Chiến tranh Việt Nam, nhưng câu chuyện đầy sức mạnh về những cuộc đời bị chiến tranh hủy hoại đã nhận được nhiều sự khen ngợi quốc tế và dường như là một thông điệp có sức thuyết phục cả đối với người Mỹ lẫn những người đồng bào của tác giả”.

Nhà phê bình này chưa gặp Bảo Ninh bao giờ. Chính vì thế, ông cũng không biết rằng nhận xét của mình chính xác đến nhường nào. Sau khi đọc NỖI BUỒN CHIẾN TRANH, tôi đã gặp Bảo Ninh để trao đổi về, giữa nhiều vấn đề, động cơ thôi thúc ông viết cuốn sách ấy. Khi phỏng vấn Ninh, tôi nhanh chóng nhận ra từ đâu mà ông đã vẽ nên nhân vật chính của mình – bởi Kiên có rất nhiều điểm chung với người sáng tạo ra nhân vật ấy.

“Chúng tôi đều lớn lên ở Hà Nội và đều chiến đấu ở Tây Nguyên. Nhưng Kiên dũng cảm chứ không như tôi”, ông nói một cách khiêm tốn. Đó là Ninh khiêm tốn; bởi đã xung phong nhập ngũ trước tuổi, nên ông – tương tự nhân vật hư cấu Kiên – thực sự là một người dũng cảm.

Sinh trưởng tại Hà Nội, thuở nhỏ, Ninh đã chứng kiến trận ném bom đầu tiên. Trải nghiệm đó nung nấu trong con người ông ước nguyện phụng sự đất nước. Vì thế năm 1969, ở tuổi 17, ông tình nguyện nhập ngũ. Vì ưới tuổi nên ông cần sự cam kết của cha mẹ. Cha ông đồng ý còn mẹ thì không. Thế rồi ông cũng tìm được cách để gia nhập quân đội.

Ông so sánh mình với người cựu chiến binh trẻ tuổi Ron Kovic trong bộ phim “Sinh ngày 4 tháng 7”.

“Còn rất trẻ nhưng tôi luôn khát khao chiến đấu”, ông nhớ lại. “Tôi thấy mình có nghĩa vụ cầm súng dù mới mười bảy tuổi. Đất nước đang bị chia cắt – tinh thần dân tộc tổn thương nghiêm trọng. Chúng tôi phải chiến đấu cho sự thống nhất đất nước – thanh niên tập hợp dưới ngọn cờ dân tộc”.

Ninh nhận ra rằng thanh niên Mỹ cũng có động cơ chiến đấu nhưng đó là một động cơ hoàn toàn khác, và rốt cuộc ông thấy rằng động cơ đó hoàn toàn sai. “Người Mỹ được cổ vũ đánh cộng sản… nhưng chúng tôi không phải cộng sản”, Ninh nói. “Tôi không thấy mình cộng sản chút nào. Người Mỹ đang chiến đấu chống lại những người dân tộc chủ nghĩa tại Việt Nam – không phải cộng sản. Nhưng thân phận người lính thì nước nào cũng giống nhau”, ông kết luận. “Dù về mặt cá nhân có dị biệt, nhưng rốt cuộc, khi đối mặt với cái chết, chúng tôi cũng tương tự nhau”. (Phát biểu của Ninh tương đồng với lời của đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ thời Chiến tranh Thế giới thứ hai, ông Abbot Low Moffat, chủ nhiệm Ban Đông Nam Á. Ông nhận xét về vị lãnh tụ của Việt Nam: “Tôi chưa bao giờ gặp một người Mỹ, dù là quân nhân, nhân viên của OSS, nhà ngoại giao hay nhà báo nào không có niềm tin rằng: Hồ Chí Minh là nhân vật dân tộc chủ nghĩa đầu tiên và lỗi lạc nhất của Việt Nam”).

Nhớ về những ngày huấn luyện, ông Ninh kể: “Tân binh của bất kỳ quân đội nào cũng phải được huấn luyện. Họ được rèn luyện để quên đi cuộc sống và gia đình ở hậu phương, được dạy kỹ năng bắn súng, tinh thần chấp hành mệnh lệnh, chịu đựng gian khổ… chúng tôi chỉ biết bắn nhau”.

Sau ba tháng huấn luyện, Bảo Ninh được điều vào Nam. Ông và đồng đội đã trải qua cuộc thử lửa đầu tiên rất sớm trước khi đến đích. “Dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, chúng tôi thường xuyên bị ném bom”, ông kể.

Khi đến Tây Nguyên, Bảo Ninh được phân công ở trong một tổ ba người – trực thuộc một đội chiến đấu mười hai người. Đôi khi đơn vị của ông chiến đấu ở quy mô đại đội, nhưng thường thì hoạt động theo tiểu đội mười hai người.

Bảo Ninh có cảm nhận khác nhau về khả năng chiến đấu của các đơn vị quân Mỹ mà ông đối mặt. Ông rất nể phục một số đơn vị Lục quân, chẳng hạn Sư đoàn Kỵ binh bay số 1, đơn vị mà “chúng tôi luôn muốn tránh”; các đơn vị khác thì không thiện chiến bằng hoặc có hoạt động dễ dự đoán. Đề cập tới trường hợp thứ hai, ông Ninh nói: “Dù là tân binh nhưng chúng tôi cũng nhanh chóng nhận ra rằng hoạt động của một số đơn vị Mỹ là rất dễ dự đoán”. Ông đưa ra một ví dụ về cách thức Lục quân Mỹ đặt pháo trên chiến trường: “Lính Mỹ không mấy linh hoạt. Họ tới bằng trực thăng, đáp xuống một ngọn đồi, phát quang mọi thứ, đặt trận địa pháo và sau đó bắn bừa bãi”.

Ninh kể về trải nghiệm chiến đấu đầu tiên: “Đó là một trận đánh nhỏ mà qua đó tôi nhận ra rằng đánh đấm thật khác xa trong phim – chúng tôi cứ bắn nhau và chạy”.

Tiểu đội của Ninh được chia thành bốn tổ ba người, trong đó mỗi tổ chịu trách nhiệm một số mục tiêu nhất định. Là lính trẻ, ông được phân công về chung tổ với người chỉ huy tiểu đội. Ngay sau khi nhập ngũ, tiểu đội hoạt động ở khu vực Plei Me, nơi có khoảng 200 quân Mỹ đang chốt trên một vùng đất cao. Vành đai phòng ngự của Mỹ được đánh dấu bằng các hố cá nhân. Ban ngày, tiểu đội của ông định vị chính xác các hố cá nhân. Khi màn đêm buông xuống, bốn tổ vào vị trí chiến đấu. Tiểu đội trưởng sử dụng một khẩu phóng lựu M-79 thu được, sẽ ra hiệu tấn công.

Khi bắt đầu quen với bóng đêm, các binh sĩ định vị lại mục tiêu tấn công của tổ mình. Bài học chiến đấu đầu tiên của Ninh là “lính Mỹ rất dễ mất cảnh giác”. Một người lính Mỹ bất cẩn đã tạo sơ hở để tiểu đội dễ dàng tiếp cận mục tiêu. Nấp trong hố cá nhân, anh này vô tình tiết lộ vị trí của mình khi châm thuốc hút. Ninh còn rút ra bài học chiến đấu thứ hai, rằng “trong chiến đấu, ai hút thuốc ban đêm là tự sát”.

Viên chỉ huy chĩa khẩu M-79 về phía điếu thuốc đang cháy rực trên môi người lính khinh suất – và khai hỏa. Khi quả đạn nổ ngay mục tiêu, các thành viên khác của tiểu đội đồng loạt xả súng vào mục tiêu của mình. Dù không thấy rõ mục tiêu nhưng Ninh vẫn bắn. Khi bên kia bắn trả, tiểu đội của Ninh lập tức rút lui. Quân Mỹ bắn pháo sáng soi rõ một vùng rộng lớn. Nhưng ánh sáng đó chỉ cho thấy các vị trí chiến đấu trống không của đơn vị vì cả tiểu đội đã rút vào rừng. Sáng hôm sau, bốn tổ chiến đấu gặp nhau tại địa điểm hẹn trước. Không có tổn thất nào.

Đây không phải là lần đầu tiên tiểu đội của Ninh lợi dụng sự mất cảnh giác của lính Mỹ. Một sớm nọ, tiểu đội ngạc nhiên phát hiện lính Mỹ tụ họp ngoài trời, quỳ gối trước một người đang đứng giảng giải điều gì đó. Nhóm của Ninh hiếm khi bắt được một mục tiêu “tập thể” như vậy. Họ xả súng ngay lập tức. Về sau, ông mới biết rằng nhóm lính kia đang hành lễ ngày Chủ nhật. Ông thấy thật là trớ trêu khi người ta bị giết chết trong lúc đang cầu Thượng Đế che chở. Sự kiện này ban đầu khiến Ninh trăn trở nhưng rồi ông đã chấp nhận nó – bởi vì đó là tất cả những gì ông có thể làm. “Chiến tranh là tàn bạo và bất hợp lý”, ông kết luận.

Là một người đọc nhiều sách, khi được hỏi rằng cuốn nào có ảnh hưởng lớn đối với tác phẩm của mình, Ninh đã kể về một cuốn sách có ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đối với ông. Ông đọc cuốn sách ấy thời chiến tranh, sau một cuộc kỳ ngộ. Năm 1973, đơn vị của ông đọ súng với quân Việt Nam Cộng hòa. Khi trận đánh kết thúc, Ninh và đồng đội lục soát trên chiến trường. Ninh lục ba lô một người lính Việt Nam Cộng hòa tử trận để tìm thức ăn. Trong số những vật dụng mà ông tìm thấy, có một cuốn sách. Ông nhét sách vào túi nhưng chẳng có thời gian để đọc. Đến lúc có cơ hội đọc, Ninh thấy thật là trớ trêu khi cuốn sách mà ông có được sau một trận đánh đẫm máu lại truyền tải thông điệp phản chiến mạnh mẽ. Cuốn sách gây cho ông cảm xúc mãnh liệt, để về sau ông viết NỖI BUỒN CHIẾN TRANH.

Khi được hỏi nhan đề cuốn sách, Ninh nói rằng đó là MẶT TRẬN PHÍA TÂY YÊN TĨNH – chính là cuốn mà nhà phê bình người Mỹ nọ đã liên hệ tới khi bình luận về NỖI BUỒN CHIẾN TRANH!

Cuộc chiến kết thúc, Ninh được tiếp xúc với nhiều tác phẩm, cả phim ảnh lẫn văn chương, đề cập tới chiến tranh Việt Nam và người lính chiến ở cả hai phía. Ông nhận thấy bộ phim “Trung đội” của Mỹ khá hay nhưng không công bằng khi miêu tả lính miền Bắc Việt Nam là những người tàn bạo. Ninh tin rằng cả hai phía đều có những cá nhân độc ác, nhưng tập thể thì không. Tương tự như lòng can đảm, ông nói, tàn bạo là một tính cách cá nhân.

Ở trang bìa cuốn NỖI BUỒN CHIẾN TRANH có đoạn giới thiệu về Bảo Ninh: “Thời chiến tranh Việt Nam, ông phục vụ tại Lữ đoàn thanh niên 27 anh hùng. Trong năm trăm người lên đường ra mặt trận cùng đơn vị năm 1969, ông là một trong mười người sống sót”.

Bảo Ninh nói rằng lời giới thiệu có thể là một sự cường điệu xuất phát từ óc tưởng tượng của nhà xuất bản. Ninh xác nhận khoảng ba tới bốn trăm thanh niên trong vùng nhập ngũ cùng lúc nhưng ông không rõ bao nhiêu người sống sót qua cuộc chiến.

Ở cả Kiên và Bảo Ninh, người ta có thể nhận thấy những tác động mạnh mẽ của chiến tranh lên cuộc đời của họ. Sau quãng tuổi trẻ hồn nhiên bị tước đoạt, họ trở về nhà để nhặt nhạnh và chắp ghép lại từng mảng cuộc sống. Câu chuyện này không quá dị biệt đối với phần đông người Mỹ trở về từ cuộc chiến ấy. Trở lại đời thường sau chiến tranh, cựu chiến binh cả hai phía đều có những ước nguyện và nỗi niềm tương đồng – đó là nhiệm vụ chu toàn cuộc sống cho bản thân và gia đình; đó là được sống trong hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc. “Chiến tranh luôn tàn bạo và bất hợp lý, nhưng có lẽ ‘nỗi buồn chiến tranh’ lớn nhất mà chúng ta nhận thấy sau cuộc chiến, đó chính là giữa ta và kẻ thù tương đồng nhau tới nhường nào”, Ninh đúc kết.
_______________________________
1. Mặt trận phía Tây yên tĩnh hay Phía Tây không có gì lạ (tiếng Đức: Im Westen nichts Neues) là cuốn tiểu thuyết phản chiến của Erich Maria Remarque (1898-1970), một cựu chiến binh Đức từng tham gia Thế chiến thứ nhất. Tác phẩm ra mắt lần đầu vào năm 1928.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #55 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2011, 03:36:29 pm »


CỬA VIỆT CÁT BAY


Tống Huy Tịnh nhập ngũ năm 1971 ở tuổi 18. Anh từng tham gia dân quân nên chỉ cần được huấn luyện thêm một thời gian ngắn trước khi xuôi Đường mòn Hồ Chí Minh vào Nam.

Tịnh may mắn hơn nhiều người khác vì hành trình của anh chỉ mất chưa đầy một tháng. Anh đi tàu từ Hà Nội vào Vinh, rồi từ đó đi xe tải vào sông Gianh. Mọi người cùng đợi trời tối để qua phà Long Đại.

Sau khi qua sông, đơn vị của Tịnh – Sư đoàn 320 – đi bộ trong chặng cuối vào Nam. Theo nguyên tắc chung – được thiết kế nhằm hạn chế tổn thất trong các trận ném bom dọc Đường mòn – sư đoàn được chia ra thành nhiều đơn vị nhỏ, cấp đại đội.

“Tôi nhớ rõ nhất là thời điểm đơn vị chia nhỏ ra trong chặng hành quân cuối cùng”, Tịnh kể. “Chúng tôi tạm biệt nhau và không biết bao giờ mới có thể gặp lại. Nói lời tạm biệt còn nặng nề hơn cả việc di chuyển dọc đường Trường Sơn”.

Mang theo ba lô nặng tới 50 cân là một thách thức thể lực thực sự. “Khi leo lên con dốc dựng đứng, chúng tôi phải dùng dây thừng”, Tịnh kể. Sau hành trình mệt nhọc, họ tới Lào.

Với kinh nghiệm tham gia dân quân, chàng trai trẻ Huy Tịnh được cử làm tiểu đội trưởng. Sư đoàn ngay lập tức tham gia những trận đánh lớn nên chàng tiểu đội trưởng trẻ tuổi nhanh chóng trở thành một chiến binh dày dạn kinh nghiệm. Nhưng một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất đối với Tịnh đó là việc đón tân binh. Anh biết rằng phần lớn họ đến đây là để thay thế số vừa chết hoặc bị thương, những người mà anh cũng mới tiếp nhận vài ngày trước.

Suốt hai năm sau đó, sư đoàn của Tịnh thường di chuyển từ Lào qua Quảng Bình, rồi Vĩnh Linh và cuối cùng là Quảng Trị. Tháng 1 năm 1973, đơn vị đến Cửa Việt. Chính tại nơi này, sư đoàn được giao một nhiệm vụ đặc biệt – tấn công tàu của Hạm đội 7 Hải quân Mỹ.

Cửa Việt nằm ngay bờ biển. Quân Việt Nam Cộng hòa thường hoạt động dọc bờ biển này với sự hỗ trợ của tàu Hải quân Mỹ ở cận bờ, vốn luôn bị sư đoàn của Tịnh theo dõi chặt chẽ. Sư đoàn được lệnh dồn hỏa lực vào những chiếc tàu này.

Đó là một nhiệm vụ khó khăn. Tịnh nhớ rằng tàu Mỹ thường ngang nhiên chạy tới chạy lui song song với đường bờ biển, đôi khi chạy theo từng hàng hai chiếc một. Do lo ngại rằng quân Việt Nam Cộng hòa có thể dùng tàu để đổ bộ nên sư đoàn thường xuyên bắn quấy rối. Nhiệm vụ của Tịnh là gửi thông điệp cho Hải quân Mỹ rằng bất kỳ cuộc đổ bộ nào cũng sẽ phải đối đầu với một hỏa lực rất mạnh.

Trung đoàn của Tịnh, được chia thành nhiều đơn vị chiến đấu cấp trung đội, có nhiệm vụ bắn quấy rối. Lợi dụng bóng đêm, các tổ chiến đấu tiến tới vị trí cách mép nước biển chừng một cây số. Suốt đêm, họ tìm cách thọc sâu ra bờ biển. Để phòng thủ trước bất kỳ cuộc tấn công đổ bộ nào từ biển, đơn vị của Tịnh được trang bị sáu xe tăng. Xe tăng được chôn xuống cát, ngập tới tận tháp pháo và được ngụy trang bằng lá cây.

Sáng hôm sau, Tịnh ngạc nhiên khi thấy rằng đơn vị của anh chỉ cách vị trí của quân Việt Nam Cộng hòa có một cây số. Thông thường, sau khi phát hiện như vậy thì đơn vị sẽ lập tức chủ động khai hỏa. Tuy nhiên, Tịnh được lệnh là không để lộ quy mô của đơn vị mình. Chỉ khi quân Việt Nam Cộng hòa khai hỏa trước thì mới nổ súng đáp trả.

Phía Việt Nam Cộng hòa cũng đã phát hiện ra đơn vị Tịnh vào buổi sáng hôm đó nhưng không phát động tấn công. Tịnh không hiểu nguyên do. Anh cho rằng có lẽ quân bên kia cũng được lệnh không nổ súng để tránh bị lộ quy mô đơn vị.

“Thật kỳ lạ”, Tịnh nhớ lại. “Tình hình lúc đó cứ như thể hai bên đã có thỏa thuận ngừng bắn vậy. Đôi lúc chúng tôi nổ súng vào ban đêm nhưng tới 3 giờ sáng thì tất cả ngưng chiến đấu”.

Vũ khí duy nhất có thể quấy rối tàu của Hải quân Mỹ là DKZ 82, một loại súng cối tầm xa thường được sử dụng để chống tăng. Mỗi tổ chiến đấu trong trung đoàn được trang bị một khẩu. Một buổi tối nọ, các tổ vào vị trí dọc bờ biển để có thể tấn công tàu. Họ chờ đợi mục tiêu tiến vào tầm bắn.

Khi mắt đã bắt đầu quen với bóng tối, các thành viên nhìn ra phía đường chân trời để tìm tàu Hải quân Mỹ đi qua. Tàu chiến Mỹ luôn tuân thủ nguyên tắc không bật đèn nên chỉ có thể thấy được hình ảnh mờ mờ mà thôi. Việc dùng DKZ 82 để bắn xe tăng vốn đã khó, nhưng sau đó Tịnh nhanh chóng nhận ra rằng dùng loại súng này để bắn vào những chiếc tàu mờ xa trên biển còn khó gấp bội.

Các tổ chiến đấu được phép khai hỏa bất kỳ lúc nào. Tổ của Tịnh nhanh chóng phát hiện ra một mục tiêu. Tuy nhiên trước khi nổ súng họ đã nghe tiếng nổ của DKZ 82  ở các vị trí khác dọc bờ biển. Tịnh biết rằng giờ đây vấn đề thời gian là cực kỳ quan trọng. Tổ của Tịnh phải nổ súng và nhanh chóng chuyển tới vị trí chiến đấu khác – bởi vì con mồi ngay sau đó sẽ trở thành kẻ săn mồi, khi mà chiếc tàu chiến mục tiêu sẽ sớm phản công. Thế là khẩu DKZ 82 của họ gầm lên, sau đó họ lập tức chuyển tới vị trí mới đã được chọn sẵn.

Nhưng những phát đạn trả đũa đã không xuất hiện như dự đoán. Tịnh nhận thấy rằng vị trí của đơn vị khá gần với nơi đóng quân của lính Việt Nam Cộng hòa vô hình trung lại là một lợi thế. Chiếc tàu chiến kia sợ bắn nhầm vào quân Việt Nam Cộng hòa gần đó nên đã chọn giải pháp im lặng.

Trong hai tuần kế tiếp, đơn vị của anh tiếp tục hoạt động theo cách thức này, chỉ thay đổi thời gian tấn công sau mỗi đêm. Tịnh thấy tình cảnh thật lạ lùng: “Ban đêm, chúng tôi nhả đạn vào những chiếc tàu Mỹ không dám bắn trả; ban ngày, chúng tôi nghỉ ngơi ngay trong tầm mắt của các binh sĩ miền Nam”.

Trong sáu chiếc tăng của đơn vị Tịnh, năm chiếc đã bị quân Việt Nam Cộng hòa bắn hủy sau vài cuộc đọ súng chừng mực vào ban đêm. Về sau, đụng độ gia tăng. Bấy giờ, với hai năm kinh nghiệm chiến đấu, Tịnh đã trở thành một chiến binh dày dạn trận mạc, được chuẩn bị kỹ càng – ít nhất là trong suy nghĩ của anh – để đối phó với bất kỳ tai ương nào. Nhưng rồi anh nhanh chóng nhận ra rằng, cuộc chiến trên bãi biển Cửa Việt có một khía cạnh mà anh chưa hề được chuẩn bị.

Khi giao tranh tạm ngưng trong chốc lát, cả hai phía tranh thủ thực hiện một nhiệm vụ khó khăn, nhưng rất cần thiết, đó là chôn người chết. Một khu vực ở trên bãi biển được sư đoàn của Tịnh chọn làm nghĩa trang. Các nhóm mai táng thường được điều đi để chôn cất người tử trận. Có một lần Tịnh đi theo đoàn mai táng. Việc chôn cất đồng đội ngã xuống chẳng phải là điều gì mới lạ đối với Tịnh, nhưng khi thực hiện công việc này tại Cửa Việt, anh nhanh chóng nhận ra một thực tế ghê người.

Thông thường, chỉ vài ngày sau khi được chôn, các thi thể lại lộ ra trên mặt đất. Nhìn xác người đang trong quá trình phân hủy là một điều thật ghê khiếp. Không phải con người mà chính là thiên nhiên đã quật mộ. Gió lớn thường xuyên ở Cửa Việt đã tàn phá bãi biển, thổi bay lớp cát dày trên bề mặt và làm lộ thiên các thi thể vừa được chôn. Bằng cách ấy, thiên nhiên tại Cửa Việt đã phơi trần sự khủng khiếp của chiến tranh mà con người muốn chôn giấu. Một khi gió làm lộ thiên thi thể nào thì các nhóm mai táng tìm cách chôn cất lại.

“Tôi thực hiện việc này rất nhiều lần”, Tịnh kể. “Đôi khi chúng tôi chôn rất sâu nhưng gió vẫn quật lên. Có khi phải chôn đi chôn lại tới lần thứ ba, thứ tư và thật là khủng khiếp khi nhìn thấy thi thể của một người bạn đang phân hủy”.

Nhiều năm sau khi cuộc chiến đi qua, hình ảnh thi thể bị phân hủy của bạn bè dưới những ngôi mộ cát vẫn còn in đậm trong tâm trí Tịnh.

“Nhiều lần tôi vẫn còn nhìn thấy gương mặt của họ”, Tịnh nói.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #56 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2011, 05:43:44 pm »


PHẦN 9
HIỆN THÂN CỦA “CHÍ THÉP” –
Đường mòn Hồ Chí Minh và Địa đạo Củ Chi




Một vài ý kiến tại Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam một cách hợp lý, không có áp lực chính trị, thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước khi trở lại Việt Nam vào năm 1994, tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi nghĩ khác. Chuyển biến trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có một ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất nước mới thôi.

Không nơi nào mà quyết tâm được thể hiện rõ như thái độ những người sống và chiến đấu dọc Đường mòn Hồ Chí Minh và Địa đạo Củ Chi. Hiểu được quyết tâm duy trì Đường mòn cũng như bám trụ tại Địa đạo Củ Chi chính là hiểu được “chí thép” của họ.

Sau đây là câu chuyện lịch sử về quá trình hình thành và phát triển của Địa đạo Củ Chi và Đường mòn, trước hết là thông qua trải nghiệm của những người từng sống và chiến đấu ở đấy – những trải nghiệm đó là câu chuyện về lòng quyết tâm, tính kiên trì, sự khéo léo, những khó khăn, chịu đựng và sự hy sinh bản thân. Đó chính là ý chí thép đặc trưng và rất đặc biệt của người Việt Nam, vốn đã thôi thúc họ tiến lên để giành chiến thắng trong cuộc chiến trước người Mỹ - cuộc chiến mà nước Mỹ thiếu một quyết tâm tương xứng.





ĐƯỜNG MÒN VÔ ĐỊCH
(VÀ VÔ HÌNH)


Giới thiệu

Một điều không thể chối cãi đó là Đường mòn Hồ Chí Minh là chìa khóa thành công của Hà Nội trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Trên thực tế, sau chiến tranh, khi được hỏi rằng nếu người Mỹ làm điều gì trong cuộc chiến thì đã có thể thu được một kết quả khác, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời rằng một khi cắt đứt được Đường mòn thì có thể đạt được thành công lớn hơn.

Đường mòn Hồ Chí Minh là một mạng lưới đường sá, điện thoại và ống dẫn dầu dài hàng ngàn cây số, xuyên qua rừng núi, nhiều khi vượt ra khỏi biên giới Việt Nam, sang Lào và Campuchia trước khi trở lại Việt Nam; thông qua tuyến đường này, Hà Nội đã lưu chuyển người, trang thiết bị chi viện cho chiến trường miền Nam.

Giai đoạn đầu cuộc xung đột, trước khi người Mỹ tham chiến, sự tồn tại của Đường mòn được giữ bí mật rất tốt.

Nhưng sau một thời gian, khi người và hàng hóa tiếp tục chảy vào miền Nam – mà không được vận chuyển bằng con đường Bắc – Nam dọc bờ biển rất dễ đi – chính quyền Sài Gòn bắt đầu nhận ra rằng Hà Nội rõ ràng đang sử dụng một lộ trình khác. Nhận biết lộ trình chính xác của Đường mòn là một trò chơi “trốn tìm” rất khó, không chỉ đối với quân miền Nam mà cả với người Mỹ. Hà Nội đã thành công lớn trong công tác giữ bí mật con đường này suốt thời chiến tranh bằng việc sử dụng các kỹ thuật đánh lừa đầy sáng tạo (nhiều lúc biến một số đoạn Đường mòn trở nên “vô hình”) cũng như tránh phổ biến thông tin về mạng lưới đường ngay trong chính lực lượng của mình.

Sau khi Sài Gòn sụp đổ vào tháng 4 năm 1975, thành tựu của Hà Nội trong việc bảo vệ bí mật về Đường mòn đã được biết đến rộng rãi. Vị tư lệnh Đường mòn, Tướng Đồng Sĩ Nguyên, khi trông thấy một bản đồ về hệ thống đường này tại tổng hành dinh quân đội Sài Gòn đã cười một cách hài lòng. Dù chính phủ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã biết đến sự tồn tại của Đường mòn hơn một thập niên trước ngày Sài Gòn sụp đổ, tấm bản đồ trên cho Tướng Nguyên thấy rằng kẻ thù của ông không hề biết tới một bộ phận lớn mạng lưới đường bộ này.

Khi phát hiện ra một số phần của Đường mòn Hồ Chí Minh, người Mỹ chợt nhận thấy họ đang bị kéo vào một cuộc đua ý chí với Hà Nội. Đây là cuộc đọ sức giữa một bên là quyết tâm của Hà Nội trong việc duy trì Đường mòn với bên kia là nỗ lực của Washington về phá hủy hoặc giảm lượng lưu thông trên hệ thống đường này. Để đạt được mục đích, Mỹ đã quyết định triển khai chiến dịch ném bom lớn nhất trong lịch sử - một chiến dịch được thiết kế để phá hủy Đường mòn, để ngăn chặn lưu thông và đánh tan nhuệ khí đối phương. Tuy nhiên, dù không biết bao nhiêu bom đạn đã được ném xuống đây thì rất nhiều phần của con đường vẫn không hề hấn gì – tương tự như ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng của Hà Nội.

Lập Đường mòn Hồ Chí Minh không phải là một ý tưởng mới. Gần hai thế kỷ trước, Hoàng đế Huệ(Vua Quang Trung – Nguyễn Huệ) đã hình dung về một con đường như thế trong cuộc chiến chống quân Thanh. Hệ thống đường này là một phương tiện hữu hiệu để đối phó với kẻ thù mạnh hơn vốn đang chiếm cứ các vùng đất dễ đi lại của Việt Nam, chẳng hạn miền duyên hải. Trước đó chừng bốn trăm năm, danh nhân Nguyễn Trãi đã đúc kết: “Để có thể lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, phải buộc đối phương đánh theo cách mà chúng ta muốn”.

Đúc kết này luôn được các lãnh đạo Việt Nam, vốn đã thấm nhuần các bài học của Nguyễn Trãi, tương tự Hoàng đế Huệ, quán triệt. Là những người thông làu lịch sử, họ nhận thấy – bằng sự hiệu quả của Đường mòn – một cơ hội để buộc quân thù phải chiến đấu theo cách mà người Việt Nam muốn. Trong khi đó, những người Mỹ kém may mắn đã không biết rút ra bài học này từ lịch sử Việt Nam.

Lẽ ra người Mỹ cần phải nghiên cứu lịch sử Việt Nam để từ đó có thể cảnh báo cho giới lãnh đạo thời thập niên 1960 về hệ quả mà lực lượng mặt đất của Mỹ phải lãnh lấy khi tham chiến. Nếu không thay đổi được các quyết định, việc làm này cũng có thể giúp người Mỹ chuẩn bị kỹ càng hơn để đối phó với những gì ở phía trước, giúp họ hiểu hơn về tinh thần dân tộc và chí khí của người Việt Nam.

Những con người sống và chiến đấu dọc Đường mòn Hồ Chí Minh là bằng chứng rõ nhất về tinh thần đó. Vượt qua bao gian nguy của cuộc sống trong rừng, nỗi buồn khổ vì xa cách gia đình mà đối với nhiều người kéo dài suốt cuộc chiến; vượt qua vô số trận ném bom dữ dội, nhiều người lính này đã giúp giữ được con đường huyết mạch ra tiền tuyến trong suốt cuộc chiến tranh.

Phát triển Đường mòn là một thành tựu đáng kinh ngạc. Công việc này thể hiện tinh thần xả thân vì đại nghiệp và là minh chứng rõ nhất cho tinh thần dân tộc – hay còn gọi là “chí thép” – của người Việt Nam. Sự tồn tại của con đường là một thách thức đối với khả năng của Mỹ trong việc làm gián đoạn – nhưng không thể ngăn chặn – cuộc hành quân của Hà Nội tới thắng lợi.



***


Trong nhiều thế kỷ, các quân đội xâm lăng Việt Nam đã phải hứng chịu một bài học đắt giá – địa hình đất nước này có vẻ như tạo thuận lợi cho lực lượng xâm lược nhưng thực ra quân phòng thủ mới nắm giữ lợi thế. Nhìn qua bản đồ sẽ biết điều đó. Việt Nam là một đất nước trải dài 1.609 km. Về chiều ngang thì nơi hẹp nhất vào khoảng 50-70 km và nơi rộng nhất là 200 km. Địa hình hẹp và bằng phẳng, trải dài chủ yếu trên miền duyên hải phía đông giúp quân xâm lược có được một tuyến đường lý tưởng để từ phương Bắc thọc sâu xuống phương Nam dễ dàng.

Nước xâm lược Việt Nam thường xuyên nhất chính là Trung Quốc, vốn có quân đội đông đảo hơn những người Việt Nam bảo vệ Tổ quốc rất nhiều. Với nguồn tài nguyên có giới hạn, Việt Nam buộc phải phát triển chiến lược phòng thủ để đánh quân xâm lược theo cách của mình. Chiến lược này bao gồm việc lợi dụng rừng núi ở phía Tây. Bằng cách đó, người Việt Nam có thể che giấu các cuộc hành quân, chủ động chọn thời điểm và địa điểm đột kích kẻ thù. Vì thế, việc mở một con đường bí mật để chuyển người và trang thiết bị từ phía Bắc và phương Nam là một bước đi tất yếu.

Được dân miền Bắc gọi là Đường Trường Sơn – đặt theo tên dãy núi mà nó đi qua – mạng lưới đường này sau đó được người Mỹ biết đến với tên gọi Đường mòn Hồ Chí Minh. (Cách gọi “đường” hay “đường mòn” không mấy chính xác, bởi vì hình thức “đường mòn” chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn ban đầu, sau đó người ta đã nhanh chóng phát triển thành một hệ thống đường rộng lớn).

Có thể thấy rõ là kết cục của cuộc chiến tranh tại Việt Nam đã được quyết định không phải bởi những gì diễn ra trên chiến trường miền Nam, cũng không phải ở những đợt ném bom xuống Hà Nội ở miền Bắc – mà bằng những gì diễn ra dọc Đường mòn Hồ Chí Minh. Sự tồn tại của con đường này là một minh chứng về sự khéo léo, tinh thần chiến đấu ngoan cường và quyết tâm không bao giờ tắt của một dân tộc sẵn sàng chịu mọi hy sinh để giành thắng lợi cuối cùng.

Trong giai đoạn đầu tìm hiểu để viết cuốn sách này, tôi đã có cơ hội đầu tiên nhìn từ bên trong – cũng như tiếp cận được một manh mối đầy thách đố - về sự khéo léo của những nhà thiết kế Đường mòn. Tôi đã gặp một quý ông Hoa kiều cao tuổi ở Thành phố Hồ Chí Minh (ngày trước là Sài Gòn), người đã sống phần lớn cuộc đời mình ở Việt Nam. Trong câu chuyện, tôi bày tỏ dự định viết về cuộc chiến tranh từ góc nhìn của người Việt Nam. Khi nghe điều này, mắt ông sáng lên. Ông gợi ý rằng khi gặp cựu quân nhân Việt Nam, tôi nên hỏi họ về những chiếc cầu và những con đường “vô hình” trên Đường mòn Hồ Chí Minh. Không cho biết thêm nhiều chi tiết nữa nhưng rõ ràng ông đã khơi gợi sự quan tâm của tôi.

Sau này tôi mới nhận ra rằng rất ít cựu chiến binh Việt Nam biết tường tận về những chiếc cầu “vô hình” và số người biết rõ về những con đường “vô hình” thậm chí còn ít hơn. Tôi đã phải thực hiện hàng chục cuộc phỏng vấn trước khi có thể hiểu được ngụ ý của quý ông Hoa kiều kia. Chi tiết về sự vô hình của Đường mòn sẽ được đề cập ở cuối chương này. Đó là những tiết lộ đáng kinh ngạc về cách thiết kế tài tình nhưng đơn giản được áp dụng đối với Đường mòn. Tôi được biết thêm rằng sự tài tình đó là nguyên tắc chứ không phải là ngoại lệ đối với những người chịu trách nhiệm duy trì Đường mòn Hồ Chí Minh.

Nếu hiểu rõ khối lượng to lớn công việc cần thực hiện để duy trì chức năng của Đường mòn, chúng ta sẽ có sự tôn trọng đúng mực đối với những người làm nhiệm vụ ở đây. Việc duy trì khả năng hoàn thành nhiệm vụ thường xuyên trong suốt cuộc chiến, dưới điều kiện khắc nghiệt mà họ phải đối mặt, với tai họa khủng khiếp mà con người lẫn thiên nhiên gieo lên đầu họ, là một bằng chứng xác thực về sức mạnh tinh thần.

Ý chí thép ở đây chính là hình ảnh những người lính – trong giai đoạn đầu tiên – đi bộ dọc Đường mòn, với hàng hóa trên vai, băng qua hàng ngàn cây số đủ mọi địa hình mà không hề nề hà khó khăn gian khổ, chỉ tâm niệm một điều là làm sao đến được chiến trường miền Nam nhanh nhất. Âm thầm, cẩn trọng, họ đi dọc Đường mòn. Mỗi bước chân của họ đều bị bủa vây bởi hiểm nguy rình rập; đó là những trận ném bom của quân thù, những căn bệnh nguy hiểm, móng vuốt của thú dữ hay sự khan hiếm lương thực. Nhiều người trong số họ không bao giờ trở về.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #57 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2011, 06:50:45 pm »


Khai sinh tuyến đường bộ bí mật vào miền Nam.

Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève đánh dấu cuộc chiến chống Pháp kết thúc sau trận đánh Điện Biên Phủ. Đất nước Việt Nam bị chia cắt và ngay sau đó, Hà Nội muốn thông qua hiệp thương để thống nhất Bắc – Nam. Khi chính quyền ở cả miền Bắc lẫn miền Nam đều có các hoạt động vũ lực; rồi chính quyền Sài Gòn mở chiến dịch khủng bố nhằm vào những người có cảm tình với miền Bắc, Hà Nội nhận định rằng một cuộc xung đột quân sự có thể là bước đi cần thiết cuối cùng để đạt được những gì mà đàm phán đã thất bại.

Tháng 1 năm 1959, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam triệu tập một cuộc họp để bàn về thống nhất đất nước. Cuộc họp dẫn tới quyết định cần phải lập một tuyến đường bí mật để vận chuyển người, vũ khí, lương thực, v.v., từ miền Bắc vào miền Nam.

Với việc thông qua Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường mòn Hồ Chí Minh đã trở thành hiện thực. Trần Công Tấn, một nhà văn, sử gia và là người đi lại thường xuyên trên Đường mòn thời chiến tranh, cho biết quyết định đã được đưa ra là “Hà Nội sẽ gửi quân chi viện cho miền Nam” bởi vì cuộc thanh trừng của chính quyền Sài Gòn được Mỹ hỗ trợ. (Washington bắt đầu huấn luyện cho quân đội miền Nam từ năm 1955). Nghị quyết đã phát quang lộ trình lập một tuyến đường bí mật từ miền Bắc (với điểm đầu nằm phía Nam Hà Nội) tới miền Nam, để thông qua đó có thể tiếp viện phục vụ cho việc giải phóng miền Nam.

Để xây dựng lộ trình ban đầu cho tuyến đường, chính quyền Hà Nội chọn một quân nhân xuất sắc trong chiến tranh chống Pháp, Đại tá Võ Bẩm. Bẩm được chọn vì ông quá thông thuộc khu vực này, từng không biết bao nhiêu lần đi lại ở đây khi tham gia chiến đấu trong lực lượng Việt Minh.

Đại tá Bẩm chỉ huy Đoàn 559 – đơn vị lấy tên theo tháng và năm thành lập: tháng 5 năm 1959. Đoàn 559 trở thành đội quân tiên phong mở Đường mòn, được giao nhiệm vụ lên kế hoạch, xây dựng và tổ chức vận hành tuyến đường này.

Đoàn 559 ban đầu chỉ có Tiểu đoàn 301. Đơn vị này được thành lập từ khoảng 500 người tình nguyện. Họ là những người không chỉ thông thuộc khu vực Đường mòn sẽ đi qua mà còn quen biết dân làng và các cơ sở kháng chiến trong vùng. Trước khi cuộc chiến chống Mỹ kết thúc, quân số của Đoàn 559 có lúc lên tới hơn 100.000 người.

Bước đầu tiên của ông Bẩm trong việc thiết lập Đường mòn là kết nối một loạt lối đi và đường nhỏ được hình thành theo bước chân của thú rừng, dân địa phương, lái buôn và dân buôn lậu. Trên thực tế, những đường mòn này chỉ là một số “điểm và vạch” trên bản đồ mà ông Bẩm giờ đây đang kết nối lại với nhau. Ông muốn tận dụng địa hình đặc thù xung quanh để bảo mật tuyến đường đồng thời giảm thời gian di chuyển. Nếu không thể đạt được cả hai yêu cầu trên, ông sẽ chọn ưu tiên cái trước.

Một vài người tham gia đã ghi nhật ký về giai đoạn xây dựng những tuyến Đường mòn đầu tiên. Những trang viết này cung cấp một bức tranh khá rõ nét về sự hoang vắng của khu vực này.

(Thái độ khẩn trương của chính quyền Hà Nội trong việc mở Đường mòn có thể thấy được qua việc giao thêm nhiệm vụ thứ hai cho nhóm tiên phong. Họ đến đây không chỉ mở những con đường đầu tiên mà còn tranh thủ chuyển hàng tiếp tế và vũ khí vào Nam. Có thể thấy rằng họ muốn tận dụng từng giây phút để thực hiện công việc tiếp vận).



***


“Mùa xuân năm ấy (1959), một nhóm khảo sát gồm hai sĩ quan và ba người nữa khởi hành tại rừng Khe Hó dưới chân dãy Trường Sơn, ngay phía Bắc vĩ tuyến 17. Dẫn đường cho họ là một thanh niên Vân Kiều mang theo rựa và nỏ tre có tên tẩm thuốc độc.

Sáu người chia thành hai nhóm nhỏ, băng rừng hướng về phía Nam. Vào chập tối, họ dừng chân bên một nương ngô. Một cụ già Vân Kiều xuất hiện giữa nương ngô, dẫn họ đi về căn chòi nhỏ của mình.

Sáng sớm hôm sau, người dẫn đường ở bờ Bắc sông Bến Hải
(con sông ngăn chia miền Bắc và miền Nam ở vĩ tuyến 17) trở về, còn cụ già mới gặp hôm trước dẫn mọi người tiến về phía Nam.

Ngày này qua ngày khác, đoàn người tiếp tục cuộc hành trình với sự dẫn đường của những người Vân Kiều, có khi là một người đàn ông trung niên lầm lì, có khi là một chàng trai hoạt bát khoác áo vải thô, lúc khác lại là một cụ già phì phèo tẩu thuốc lá với chiếc nỏ trên vai và bó tên sau lưng. Đôi khi người dẫn đường là một cô gái quần áo rực rỡ… Những người Vân Kiều ấy – đã sống từ ngàn xưa trên rừng Trường Sơn; họ luôn biết cách liên lạc với nhau ở cả hai bờ sông Bến Hải bất chấp gần đây chính quyền Sài Gòn đã tăng cường hoạt động chia cắt. Từ năm 1954 đến 1958, họ làm giao liên chuyển tin tức về cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam ra miền Bắc và chuyển những lời cổ vũ động viên của đồng bào miền Bắc vào miền Nam.

Đoàn tiền trạm lập một cơ sở bí mật ở miền Tây Thừa Thiên. Sau khi nghỉ một đêm, họ hối hả quay trở lại, lần này không có người dẫn đường nên họ sử dụng bản đồ, đuốc và trí nhớ để từ tìm đường đi.

Khi họ về đến Khe Hó, một đoàn người thồ gánh đã tập trung ở đấy, sẵn sàng lên đường.

Đội thồ hàng xuất phát vào một buổi sáng tháng 5 năm 1959.

Đoàn người cẩn trọng đi xuyên qua vùng rừng ở sườn Đông dãy Trường Sơn, tiến xa về phương Nam. Sau mỗi đoạn đường, người ta thường tách một nhóm nhỏ ra để lập chốt. Phương pháp này là để tạo ra những kíp người chịu trách nhiệm một khu vực nhất định. Các chốt tiếp vận nằm dưới tán cây rừng, thường bao gồm không quá ba chòi nhỏ, tương tự loại chòi mà bà con dựng lên để canh nương rẫy. Ban đêm, trong mõi căn chòi, chừng năm người ngủ trên sàn, một số người khác ngủ trên võng, số còn lại nằm dưới đất.

Ngày này qua ngày khác, trên các tuyến đường, những đoàn người miệt mài đi, mang theo trên lưng đạn dược, súng ống và hàng hóa được gói trong những tấm vải không thấm nước… Thông thường, mỗi người cõng chừng 50 cân. Có người cõng tới 80 cân trèo đèo vượt suối trên một chặng đường dài.

Để đảm bảo bí mật, họ phải thường xuyên thực hiện các biện pháp cảnh giác, không lưu lại bất cứ dấu vết nào… Mỗi khi thoáng thấy người đốn củi, họ sẽ đi đường vòng để tránh chạm mặt…

Con đường này có một điểm về sau được gọi là “nơi thử thách thần kinh”. Đó là điểm giao với phòng tuyến Đường 9 chạy từ Khe Sanh xuống Hạ Lào. Con đường chiến lược này len lỏi qua các căn cứ địch và thường xuyên được bảo vệ nghiêm ngặt. Các đoàn xe tải thường băng qua Đường 9 vào lúc chạng vạng hoặc sau nửa đêm đến trước khi trời sáng. Dẫn đường cho xe là những giao liên thông thuộc địa hình với sự hỗ trợ của đường dây điện thoại bí mật. Điểm giao nhau này nằm giữa hai căn cứ địch, gần đến mức có thể nghe được tiếng nói cười của binh lính ở đấy.

Nhằm tránh để lại dấu vết trên đường nhựa, tài xế xe tải sử dụng một suối nước rộng nằm bên xa lộ, xuất phát từ đầu nguồn sông Thạch Hãn. Thuyền tam bản nấp sẵn dưới suối sẽ chở hàng sang bờ Nam để trạm tiếp vận gần đấy tiếp sức đưa hàng ra mặt trận.

Tháng 8 năm 1959, trong một cánh rừng già ở dãy Trường Sơn nằm phía Tây Thừa Thiên, đại diện Mặt trận Cách mạng miền Nam đã nhận lô vũ khí đầu tiên từ miền Bắc chuyển vào. Khối lượng không lớn, chỉ 280 kg, nhưng các chiến sĩ miền Nam vô cùng xúc động khi cầm trên tay những vũ khí đã được vận chuyển trong điều kiện hết sức gian khó và nguy hiểm”.




***


Trong giai đoạn đầu tiên, người ta đã hoàn tất việc nối các tuyến ở miền Bắc Việt Nam với tỉnh Quảng Ngãi ở phía Nam – quê hương Đại tá Bẩm. Sau đó, Tiểu đoàn 301 xẻ một con đường xuyên qua Quảng Ngãi, đồng thời thiết lập thêm nhiều chốt công tác dọc đường, biến lối đi bộ ban đầu thành đường có thể cho xe chạy. Khi hoàn tất vào năm 1964, với những chuyến xe đầu tiên, con đường này giúp tăng đáng kể lượng tiếp vận cho miền Nam.

Chỉ trong ba tháng cuối năm 1959, Tiểu đoàn đã chứng minh được giá trị chiến lược của Đường mòn với việc vận chuyển hơn 21.000 vũ khí loại nhỏ từ Hà Nội vào Quảng Ngãi.

Năm 1959, dòng người và hàng chảy vào Nam theo Đường mòn bắt đầu. Dòng chảy đó tiếp diễn liên tục trong suốt mười sáu năm cho tới ngày Việt Nam thống nhất.

Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #58 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2011, 06:52:57 pm »


Bí mật bị khám phá – chiến dịch ném bom bắt đầu

Hàng chục ngàn người đã lưu thông qua Đường mòn Hồ Chí Minh ở giai đoạn đầu nhưng sự tồn tại của con đường này vẫn nằm trong vòng bí mật. Chính quyền Sài Gòn nghi ngờ có một con đường bí mật nào đó bởi có hai hiện tượng rõ ràng: (1) du kích quân ở miền Nam đại hội trang bị súng ống và đồ quân dụng rất tốt; (2) những loại vũ khí và đồ quân dụng này không được chuyển theo tuyến đường Nam – Bắc dọc bờ biển. Chính quyền miền Nam đã tăng cường chiến dịch truy tìm Đường mòn trong các vùng rừng rậm và núi cao. Khi được cảnh báo về các chiến dịch này (thời chiến tranh, quân miền Nam và người Mỹ thường có thông báo trước khi mở chiến dịch), Hà Nội tạm ngưng vận chuyển để tìm kiếm một lộ trình mới hẻo lánh và xa hơn về phía Tây. Điều trớ trêu là nỗ lực của Sài Gòn – khiến bên kia phải dịch chuyển Đường mòn sang phía Tây – đã giúp Hà Nội tận dụng lợi thế địa hình cũng như rừng rậm để thiết lập một tuyến đường an toàn và bền hơn, từ đó có thể tăng cường chi viện cho miền Nam.

Ngay cả khi người ta biết đến sự tồn tại của Đường mòn, phần lớn hoạt động tại đây vẫn nằm trong bí ẩn. Tuyến đường được tổ chức như thế nào? Hoạt động vận tải được thực hiện ra làm sao? Các đoàn xe nhập vào và rời khỏi Đường mòn tại đâu? Lượng lưu thông cho phép của con đường là bao nhiêu, v.v. Ngay cả các thiết bị chụp không ảnh tinh vi của Mỹ cũng không tìm thấy câu trả lời.

Tới năm 1965, người Việt Nam nhận thấy rằng phía Mỹ đã biết được sự tồn tại của Đường mòn khi máy bay gia tăng ném bom ở một vài tuyến. Một trong những người từng chứng kiến các trận ném bom kiểu này là Đại tá Hồ Minh Trí – chỉ huy Sư đoàn 473, đơn vị chịu trách nhiệm duy trì và bảo vệ một trong những tuyến dài nhất của Đường mòn.

“Năm 1965, Đường mòn bị máy bay Mỹ phá khá nặng”, ông Trí nhớ lại. “Máy bay thường xuyên bắn phá… Có lúc chúng tôi tốn thất nhiều nhân mạng”.

Khi xe cộ gia tăng hoạt động trên tuyến đường này, cũng là lúc máy bay Mỹ tăng cường ném bom.

“Người Mỹ ném tất cả các loại bom mà họ có nhưng chúng tôi vẫn tin rằng con đường vẫn sẽ tồn tại”, Đại tá Trí nói đầy tự hào. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng hoạt động vận tải trên Đường mòn thường phải trả giá đắt. “Trong giai đoạn 1965-1966, chỉ có bốn mươi phần trăm lượng xe về tới đích”, ông ước lượng. Tới năm 1967, con số này chỉ còn hai mươi phần trăm. Việc tìm hiểu chiến thuật của Mỹ cũng như thực hiện một loạt biện pháp khác giúp gia tăng khả năng phòng thủ; ông Trí cho biết tình hình đã thay đổi đáng kinh ngạc khi tỉ lệ lưu thông suôn sẻ lên tới tám mươi phần trăm từ sau năm 1968.

Ông Trí nói rằng bom đạn không giết được quyết tâm của người Việt Nam. Đường mòn vẫn tiếp tục vươn xa – nếu một phần bị bom phá hủy thì người ta sẽ làm một con đường khác thay thế ngay trong đêm.

Nghe ông Trí nói chuyện, ta có thể hình dung rằng sự phát triển của con đường này không khác gì dòng nước chảy từ trên đồi cao xuống: nếu gặp vật cản trước mặt, dòng nước sẽ bị gián đoạn trong chốc lát – nhưng không bao giờ ngừng chảy – rồi tiếp tục vượt qua chướng ngại vật để chảy xuống.



Những ngày đầu – Cõng hàng ra mặt trận

Phan Lương Trực là một người lính tiên phong trên Đường mòn. Năm 1964, ông Trực, lúc bấy giờ là trung tá, đã mất năm tháng để đi bộ hết Đường mòn trong một chuyến công tác. Nhiều năm sau, khi đã là thiếu tướng, ông nói rằng “đấy là một trong những chuyến đi khó khăn nhất đời tôi”.

Bên cạnh thách thức về thể chất là những vấn đề về tinh thần. Máy bay ném bom thường xuyên là một thử thách lớn cho thần kinh con người. Nhiều khi bom đạn đã đẩy người lính tới bờ vực suy sụp. Ông Từ Sơn, người có chuyến đi đầu tiên trên Đường mòn vào năm 1964, còn lưu giữ cuốn nhật ký viết về những trải nghiệm ở đấy. Trong cuốn nhật ký, ông đã ghi lại cuộc trao đổi với một người thuộc đơn vị khác bị lạc sau trận ném bom.

“ ‘Chúc may mắn’, mình nói thế với anh ấy.

‘Em mong là sẽ gặp may’, anh đáp một cách chân thật. ‘Kinh nghiệm cho em thấy một người có thể có hai mươi bốn tâm trạng khác nhau trong hai mươi bốn giờ của một ngày. B-52 thì ngày nào mà chả rải bom. Nhưng hình ảnh người bạn thân chết ngay trước mặt khiến em kinh hãi vô cùng, thậm chí em còn nghĩ tới đào ngũ. Nhưng vài giờ sau đó em đã quyết định sẽ đi tìm đơn vị. Và em cũng không biết sau vài giờ nữa thì mình nghĩ gì. Hiện tại thì em phải đi kiếm đơn vị thôi’ ”.


Tướng Trực kể lại một thách thức khác. “Khi đi dọc Đường mòn, tôi phải tự mang theo thức ăn vì thực phẩm luôn khan hiếm”, ông nói. Các binh trạm không thường xuyên có thực phẩm để cung cấp nên phần lớn người đi dọc Đường mòn phải tự dự trữ thức ăn cho mình. Mỗi người lính được khuyên phải mang theo ít nhất mười cân gạo. Khi đến binh trạm, người nào không còn đủ mười cân gạo sẽ được nhận thêm – nhưng chỉ trong trường hợp ở đấy có gạo để bổ sung. Thường thì mọi người phải chuẩn bị tâm lý không được tiếp tế trong một thời gian dài.

“Chúng tôi mang theo bột nước mắm để trong một cái hộp đặc biệt, khi dùng thì cho vào cơm và trộn với nước”, ông Trực kể tiếp. “Chúng tôi còn ăn rau rừng và đôi khi bắt được thú rừng dọc đường…, có voi, nai, trăn, chồn và hổ, dù thịt hổ rất dở. Có khi chúng tôi mang theo gạo cho một chuyến đi rất dài. Nhiều lúc đồng bào dân tộc cung cấp cho chúng tôi các loại thực phẩm như bắp và sắn”.

Binh lính thường ghé vào bản làng để đổi thức ăn. Ông Trực kể về lần ngã giá với hai đứa trẻ dân tộc miền núi.

“Trước chuyến đi, tôi được phát một lọ vitamin. Nhưng nếu mang nguyên cả cái lọ đi theo thì sẽ rất nặng. Vì thế tôi dùng bao cao su đựng vitamin rồi bỏ vào ba lô.

Hôm nọ, tôi tới một làng miền núi định đem áo quần, thuốc lá hoặc bất cứ thứ gì đổi lấy trái cây. Nhưng tôi và anh bạn thân chẳng thấy thứ gì để đổi cả, đành phải rời làng. Lúc nghỉ chân dưới gốc cây, tôi lôi bao cao su chỉ còn hai viên vitamin ra để nhai. Ngay lúc ấy, có hai đứa trẻ làng vừa hái trái cây rừng đi về ngang qua chỗ chúng tôi, mang theo hai nải chuối.

Tôi đem một chiếc áo ra đổi nhưng chúng từ chối. Sau đó tôi đem ra một chiếc quần đùi, chúng vẫn lắc đầu. Vì quá thích hai nải chuối, tôi mới nảy ra ý định lấy chiếc bao cao su ra thổi lên để trao đổi với bọn trẻ. Chúng đồng ý ngay lập tức. Thế là chuyện đổi chác diễn ra êm đẹp; chúng tôi đem chuối ra ăn còn hai đứa trẻ đem đồ chơi ra thổi, rồi cho xì hơi, rồi lại thổi.

Sau khi ăn chuối xong, tôi cảm thấy như mình vừa đánh lừa bọn trẻ. Thế là tôi gọi hai đứa lại. Nhưng chúng lại tưởng chúng tôi muốn đòi lại chiếc “bóng bay” nên chạy mất. Chúng tôi phải vào tận làng để đưa áo quần cho cha mẹ chúng. Họ cảm ơn rối rít. Lúc chúng tôi chia tay, hai đứa trẻ vẫn còn vui thú với món đồ chơi mới”.


Có lần, ông Trực tới một con suối. Ở góc suối, ông thấy dấu vết có người vừa vo gạo xong. Người kia vô ý để rơi vãi ít gạo trên bờ suối. Trong thời buổi thiếu lương thực trầm trọng, ông Trực liền nhặt nhanh hết số gạo rơi vãi, rồi cho những hạt vàng này vào phần gạo dự trữ của mình.

“Chúng tôi luôn quý trọng từng hạt gạo”, ông Trực nói.

Trong những ngày đầu của cuộc chiến, bộ đội thường di chuyển theo từng đoàn lớn. Năm 1964, đội hành quân của ông Trực có tới ba trăm người. Đoàn được tách ra thành ba nhóm nhỏ, mỗi nhóm một trăm người. Các nhóm đi cách nhau vài cây số.

Khi máy bay gia tăng ném bom dọc Đường mòn, gây ra nhiều tổn thất về sinh mạng, các nhóm hành quân thường được chia nhỏ hơn nữa – có khi chỉ gồm ba người. Khái niệm “càng đông càng an toàn” không tồn tại dọc Đường mòn – bởi vì đông người có thể khiến máy bay dễ phát hiện – tức là dễ dẫn tới chết chóc.
Logged
chuongxedap
Đại tá
*
Bài viết: 13138



« Trả lời #59 vào lúc: 25 Tháng Chín, 2011, 06:54:20 pm »


***


Tuổi tác và giới tính không ngăn cản người ta hoạt động trên Đường mòn. Có thể thấy phụ nữ và nam giới cùng hành quân bên nhau. Đôi khi trẻ em cũng đi dọc tuyến đường này, phần lớn là những đứa trẻ có cha mẹ hoạt động ở miền Nam được gửi ra miền Bắc để có môi trường sinh sống an toàn hơn – cách xa khu vực chiến sự. Dương Thị Xuân Quý, một nữ nhà báo rời Hà Nội vào Nam năm 1968, đã viết nhật ký trong đó có kể về các lần gặp gỡ trẻ em:

“Ngày 29 tháng 5

Gặp một toán 13 đứa trẻ đến từ Gia Lai, chúng đã đi bộ một tháng rưỡi, nhìn thấy chúng với cái ba lô tí hon, mình xúc động quá. Đứa nhỏ nhất là một thằng con trai 11 tuổi, tóc xoăn, chân tay gầy gò, đứa nhiều tuổi nhất mới 14 tuổi. Chúng đi ra Bắc để tiếp tục học tập, mang theo gạo và tự nấu lấy ăn. Thật may là ba lô của chúng khá nhẹ do được làm bằng ni lông. Những đứa trẻ luôn là những người đi bộ rất cừ, chúng có thể dễ dàng vượt xa tụi mình. Chúng làm mình nhớ đến Ly. Ôi, con của mẹ! Một ngày nào đó mẹ sẽ kể cho con nghe về những người bạn nhỏ mà mẹ gặp hôm nay.

Mọi người đi theo đường Trường Sơn: chiến sĩ, dân sự đàn ông và đàn bà, nhưng lần đầu tiên mình trông thấy trẻ con”
1.

Quý không bao giờ hoàn thành được lời hứa sẽ kể cho con gái nghe về lần gặp những đứa trẻ trong một buổi sáng tháng 5 năm 1968 ấy. Vào năm sau, bà ngã xuống tại Quảng Nam khi đơn vị bị lính Hàn Quốc tấn công.



***


Kẻ thù không phải là mối nguy hiểm và khó chịu duy nhất. Những người chiến đấu trên Đường mòn còn đối mặt với “tất cả các sinh vật lớn nhỏ” – kiến, đỉa, rắn độc, thú hoang, v.v. Tất cả đều phải luôn cảnh giác, không bao giờ đặt chân tới những nơi không nên tới. Hầu hết những người hành quân – khác với quân miền Nam và lính Mỹ được trang bị giày ủng – chỉ mang dép nên chẳng thể bảo vệ bàn chân trước các mối nguy hiểm này.

Tướng Trực giải thích rằng trong lúc hành quân, người ta chỉ tập trung vào việc hoàn tất hành trình mỗi ngày nên đôi khi chẳng quan tâm tới các cơn đau hoặc điều bực mình. Bản thân ông Trực trong khi quá mải mê hành quân cũng đã không hề chú ý tới một sinh vật hút máu nằm trong người mình tự bao giờ.

Lúc đang nghỉ ngơi sau một ngày đi bộ vất vả, ông Trực lấy khăn tay xịt mũi thì phát hiện máu phun ra. Sau một hồi kiểm tra, ông thấy có cái gì đó nằm trong mũi. Thì ra là một con bét đã chui vào hốc mũi và bám riết trong đó. Khi ông xịt mũi, áp lực lớn đã khiến cơ thể con bét bay ra nhưng đầu của nó vẫn cắm vào trong thành mũi. Phải mất nhiều ngày ông mới lấy được đầu của nó ra. Kể từ đó, ông Trực luôn kiểm tra cơ thể cẩn thận để tìm xem có kẻ quá giang ngoài ý muốn nào không.



***


Nhiều đoạn của Đường mòn tưởng chừng như không thể vượt qua được. Một ghi chép trong nhật ký cho biết “rừng rậm không lối đi… vách núi dựng đứng… bệnh tật hoành hành” là những thách thức lớn đối với bất cứ ai đi trên Đường mòn. Người ta ước lượng rằng bệnh tật đã giết chết tới mười phần trăm số người đi bộ dọc Đường mòn, những người đã cõng hàng tấn vũ khí, đạn dược và hàng hóa vào Nam. Nhiều người quyết tâm hoàn tất hành trình nhanh chóng đã mải miết đi cho tới khi gục xuống vì đuối sức. Về sau, họ đã biết cách phân phối sức lực cho chặng đường dài.

Trong suốt những năm đầu của cuộc chiến chống Mỹ, ngày cả sau khi Đường mòn được mở rộng để xe chạy được thì lính tráng vẫn ít khi được đi bằng xe tải. Số lượng xe tải hạn chế được ưu tiên vào việc chuyển các mặt hàng và phương tiện tối cần cho chiến trường ở phía Nam. Vì thế lính tráng phải đi bộ. Xe tải là phương tiện vô giá để duy trì nguồn tiếp tế dồi dào cho chiến trường; trong khi binh sĩ, cũng là một nhân tố cực kỳ quan trọng cho cuộc chiến, được ưu tiên thứ nhì.



***


Trần Công Tấn là người có mặt thường xuyên trên Đường mòn. Tính tới khi chiến tranh kết thúc, ông đã đi hết chiều dài tuyến đường này tới mười bốn lần – trong đó có sáu lần thời chống Pháp (khi mà con đường chỉ mới là một chuỗi các lối mòn rời rạc) và tám lần thời chống Mỹ. “Hồi kháng Pháp, tôi đi bộ và cưỡi voi; thời chống Mỹ, có lúc tôi đi bộ, có lúc đi xe”, Tấn cho biết.

Ông kể rằng hồi đó Đường mòn “bắt đầu từ Thanh Hóa; vươn tới rặng Trường Sơn rồi băng qua Lào và Campuchia trước khi kết thúc tại Lộc Ninh ở miền Nam. Tuyến đường chính dài hàng ngàn cây số nhưng do có nhiều đường nhánh nên cả hệ thống đường (về sau) có tổng chiều dài tới 18.000 cây số”.

Ông Tấn nói rằng đối với những người đi bộ hết tuyến đường này thì có thể “ca khúc khải hoàn một khi tới đích”. Điều đó cũng dễ hiểu.
__________________________________
1. Đoạn trích này được dịch lại từ bản tiếng Anh của tác giả James Zumwalt, vì thế có thể không đúng với lời văn gốc của nhà văn – nhà báo Dương Thị Xuân Quý.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM