Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:35:52 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Đất trời  (Đọc 45632 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #20 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2011, 08:27:29 pm »

Ðến trước, Hãn ngồi đợi trong một căn phòng do Xảo đã đặt sẵn. Bên cạnh, tiếng đàn thất huyền chậm rãi hòa vào tiếng tiêu đang vút cao rồi bỗng thình lình hạ xuống hẳn hai cung. Một giọng hát lảnh lót bất chợt cất lên, lời đong đưa :
   
Trời vần mây nổi sương giăng mắc
   
Tinh hà xoay nghìn cánh buồm say
   
Hồn ngỡ bàng hoàng về đất cũ
   
Thoáng bên tai
   
Ai đi về?
   
Về đâu đây ?
   
Chỉ biết đường xa chiều đã tà
   
Theo chẳng kịp chân vần thơ cổ
   
Gió lại chẳng dừng
   
Thuyền Bồng nào ghé bến mơ xa.

Tiếng hát kéo dài van vỉ tiếc nuối. Nó vẳng xa như một giấc mơ đọng lại ở phút cuối giấc ngủ, lềnh bềnh giữa hư thực, mỏng mảnh nối quá khứ vào hiện tại. Hãn chạnh lòng hồi tưởng lại quãng thời gian phiêu bạt.  Tháng tám năm Kỷ Sửu, Hãn đến Bình Than xung quân.  Trương Phụ nhà Minh vây hãm, Hãn theo Ðặng Dung lui về cửa Hàm Tử.  Quân ta  phải gặt lúa sớm, lính bữa đói bữa no, lâu tất phải thua vì lương thiếu. Trương Phụ đến đâu, thây chết thành non chỗ ấy.  Lính Minh cướp bóc và giết chóc như trò chơi. Chúng rán thịt lấy mỡ, móc ruột quấn cây đốt đuốc, mổ bụng moi thai mang nộp lấy thưởng, sự tàn bạo khiến đến cỏ cũng không dám mọc thẳng trên đất Giao Chỉ.  Thủy quân của Phụ phá được Hàm Tử, vua Trùng Quang lui về Nghệ An cầm cự được hơn một năm.  Ðến tháng tư năm Quí Tỵ, quân ta mười phần còn ba, phải lùi vào Hóa Châu. Vua sai sứ giả mang phương vật đến Nghệ An xin cầu phong. Trương Phụ chỉ cười, không thèm trả lời, mang chém sứ. Nghe tin, Trùng Quang Ðế khóc rồi lại tính gửi sứ giả khác đến gặp Phụ.  Ðặng Dung cản nhưng vua không nghe. Dung lẳng lặng chẳng nói gì, suốt đêm mài kiếm, tiếng đá xoèn xoẹt chói buốt khiến không một ai ngủ được.  Tảng sáng, Hãn đến.  Dung nói ngay ‘‘... ông đến cáo biệt, ta biết rồi  ’’.  Hãn ngậm ngùi  ‘‘ Nhà Trần tuyệt mất, tôi là tôn thất mà nay cũng chịu.  Tướng quân đi với tôi, ta lo kế khác  ’’. Ðặng Dung ngửa mặt cười một thôi dài rồi bảo ‘‘... ông đi đi.  Nhớ cầm theo cái này...’’.  Ðó là bài thơ Cảm Hoài, than rằng dưới trăng mài kiếm đã mấy chầy, sự thế lao đao khi tuổi tác, nợ nước chưa trả mà đầu đã bạc với tháng ngày.
   
Ðang còn ngẩn ngơ, Hãn nghe tiếng kẹt cửa. Xảo bước vào, tươi cười, giọng đùa cợt :
-   Ðể huynh đài một thân một mình chốn lầu hồng, đệ cứ áy náy. May có cố nhân đây bảo, ai chứ Hãn thì
có đâu câu nệ những chuyện vặt ấy…
 
Một người đứng sau bước lên.  Nhìn thoáng, Hãn reo nhỏ :
   
- Trãi đấy à ?  Ta không ngờ gặp chú ở đây đấy.  Chú em tên Viễn dặn ta cẩn thận.  Quả có thế, ta đến chỗ chú hai lần, chúng nó rình mò thật !  Chú trói gà không chặt mà sao chúng nó lại hãi chú thế hả ?

Trãi cười không đáp. Lấy tay vẫy, Xảo gọi đám ca nhi vào theo, rồi thì thầm :
   
-  Chuyện đại sự mà không có tiếng đàn tiếng sáo thì buồn lắm. Nhất là ở Hậu Ðình ...

Xảo quay người, tay kéo Hãn và Trãi vào một góc, miệng ngâm nho nhỏ hai câu  thơ nổi tiếng theo cách Thanh bình điệu: 
             
 ‘‘ Thương nữ bất tri vong quốc hận
             
Cách giang do xướng Hậu Ðình hoa ’’
than người con gái chẳng biết gì mối sầu mất nước nên bên sông vẫn  cứ còn  hát mãi khúc hát Hậu Ðình.
   
Ba người tụm lại, mặc cho đám ca nhi múa hát góc bên kia. Họ châu đầu nói thì thào, thỉnh thoảng lại với ống điếu, rít thuốc rồi nhả khói bay xanh một góc.  Tình hình sau khi Trùng Quang bị bắt ngày một thê thảm. ỞÛ Hoan, Ái   tinh thần nghĩa quân không còn, lực lượng tứ tán. Trương Phụ phái bọn Phương Chính và Thái Phúc vào giữ thành Nghệ An, làm thế ỷ dốc với Diễn và Hóa Châu, vây chặn.  Sự thể trước mắt thật khó, tiến chẳng được mà lui cũng không. Trên miệt Mường La và Phục Lễ, Cao Bằng, nhà Minh đặt đám Dao, Mán, Mường vào những chức vụ Tri Châu, biến họ thành một tầng lớp phiên thần khá đắc lực làm tay sai. Hơn nữa, ở miệt trên, hậu phương không có, đánh rút rất dễ mất chủ động nên phải bó tay. 

Nhìn Trãi, Hãn thở dài.  Xảo chán chường, ngả người ra với chiếc gối kê lưng. Nhìn hai kẻ kiệt hiệt vẻ chừng như  đã thấm mệt, Trãi ngẫm nghĩ một hồi lâu. Bấy giờ, chỉ còn tiếng hát lẫn trong tiếng đàn ai oán. Trãi bỗng thấy sợ. Nếu ngay những người này mà hoài nghi rồi buông thả,  giang sơn Ðại Việt sẽ còn gì ? Không, không thể thế được ! Nhưng làm sao đây ? Phải rồi, phải đổi cách nhìn. Trãi bóp trán,  giọng trầm tĩnh :

- Nói đến động binh trước mắt thì có thế thật. Nhưng nhìn dài hạn, đệ không bi quan như hai vị, ngược lại là đằng khác…
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #21 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2011, 08:28:23 pm »

Nuốt nước bọt, Trãi nhìn ánh mắt thôi thúc cũa Hãn,  nhẹ nhàng nói tiếp :
   
- Nay người Minh một mặt rêu rao nhân nghĩa, mặt khác thì bắt dân lên rừng tìm sừng tê, xuống biển mò ngọc trai, đòi hết voi trắng đến kỳ lân, thu mua đủ hàng hiếm quí với giá ăn cướp. Thuế cũng tăng, phu dịch thì ngày một nặng nề, dân sợ ngậm miệng nhưng ca thán trong lòng. Trương Phụ tàn bạo, động là giở trò chém giết.  Hoàng Phúc thâm độc, đốt sách vở Ðại Việt, lại chiêu dụ hiền tài mang về Yên Kinh.  Nhưng cái sách bắt đàn bà mặc quần cạo răng trắng, bắt đàn ông tết bím để đuôi sam thì không phải là khéo cho lắm.  Chẳng chóng thì chày cũng sẽ có chống kình.  Mà hễ có, là Trương Phụ lại sai Mộc Thạnh ra tay đàn áp.  Dĩ nhiên máu sẽ đổ.  Máu lại gọi máu, thù lại réo thù.  Cứ chồng chất lên thì lúc nào đấy, hô một tiếng là có lê dân, giặc dẫu mạnh cũng không thể nào cưỡng nổi.  Một khi có lòng dân,  sớm muộn rồi ta cũng thắng...

Hãn im lặng, tay laiï quơ điếu thuốc lào, châm đóm rồi rít sòng sọc. Xảo nhìn Trãi, ngờ vực hỏi :
   
- Sớm muộn là bao lâu ?

Trãi hiểu hy vọng nào cũng cần một cái mốc thời gian làm chuẩn. Oái oăm thay, tương lai lúc này đâm ra tùy thuộc vào một võ đoán. Nhưng không làm không được. Hít hơi vào đầy lồng ngực, Trãi nghiêm nghị :
   
- Nhà Hồ được sáu năm, dân bỏ.  Hậu Trần thì chưa đâu vào đâu, nhưng không gây tội nên có thua quân Minh cũng phải mất năm năm.  Từ nay, ai cũng rõ Ðại Việt thành ra phủ Giao Châu dưới đế quyền Vĩnh Lạc nhà Minh. Trương Phụ cứ vơ vét bạo ngược thế này, đệ nghĩ là chỉ năm, bảy năm cái chế độ thuộc Minh phơi bày đủ để lê dân biết đâu là quyền lợi của họ.  Từ đó, chiến thắng thì mất thêm năm đến mười năm.

Hãn chừng đã xuôi tai, ngắt :
   
-  Nhưng cần chính danh. Phò ai làm vua sau này ?
   
-  Tìm người nhân đức mà phò, dụng tâm công mang đạo nghĩa chống hung tàn ...

Mang đạo nghĩa chống hung tàn ? Trãi ngạc nhiên nghe chính mình có thể nói đơn giản đến thế vậy. Có lẽ từ một cõi tiềm thức thăm thẳm, chàng buột miệng, mặc cho trực giác dẫn trí tuệ đi một con đường thẳng tắp, không ngoằn ngoèo biện minh, không đôi co lý lẽ. Hãn bật cười, nhưng giọng dịu xuống :
   
- Ta thấy ít kẻ thật nhân đức mà lấy được thiên hạ.  Thường, họ trí trá, giỏi nói và giỏi giả nhân đức.  Cái kiểu Lưu Bị ném ấu chúa đi, mắng cho vui lòng Triệu Tử Long, vì mi mà ta suýt mất một  tướng tài ấy mà !
Khuya hôm ấy, ba người dặn dò nhau rồi chia tay.  Xảo và Trãi đợi cho đến khi Hãn khuất bóng mới ra cửa.  Trên trời, sao khuya dày đặc một giải óng ánh. Xảo ngần ngừ, giọng chân tình :

-  Bài thơ nôm huynh làm hôm tất niên hay lắm !

Bất giác, Trãi thở  dài, lúng túng quay đi. Xảo níu tay Trãi, nói nhỏ :

-  Này, tình thật nhé.  Cái chuyện chèo quơ nước ngược chuyến đò ngang ấy mà...  Việc gì phải khổ thế, hở huynh ?  Ở Ðông Quan chắc cũng còn lâu, huynh cần có người chăm nom cho.  Cứ nói một tiếng, em gái đệ sẽ theo về hầu.  Nó ở vậy chờ mãi, xem ra cũng tội nghiệp...

Ra khỏi quán Hậu Ðình, Trãi cắm đầu đi trong đêm hun hút, bỏ đằng sau tiếng xênh tiền và những lời ca thương nữ bên kia dòng sông lấp loáng ánh đèn.  Ðông Quan bây giờ im và lắng.  Thỉnh thoảng có tiếng chó ằng ặc sủa, ngắt quãng như bị bóp cổ, nhỏ dần rồi tan loãng vào màn đêm lạnh chớm hơi sương.  Ðâu đây, ai say rượu lè nhè hát, tiếng khô đục chạm vào mặt đất dội lại thành lúc ê a, lúc ậm ừ, lúc lại ừng ực như đang nuốt vào lòng những giọt nước mắt.  Mùi hoa sữa dọc con dốc thoang thoảng, gió lên là biến đâu mất, và khi gió ngừng thì lại quanh đây, ngọt ngào, bảo bọc.
   
Ðêm đen.  Tiền đồ ?  Trãi chỉ dự đoán và ước vọng.  Bao lâu ?  Câu hỏi của Xảo lại vang lên.  Sự xác quyết của Trãi ban nẫy nay không thuyết phục được chính Trãi. Nó chỉ nhằm động viên khi ý chí nhất thời xuống dốc. Con đường trước mặt thật vẫn gập gềnh.  Và bất cứ ở khúc quanh nào tình cờ cũng rình rập đe dọa. Lấy đạo nghĩa, chống hung tàn.  Nhưng mấy khi thắng được ?  Mà nếu không, Trãi chua xót nghĩ, thì hung tàn chính là qui luật tiến hóa ư ?
   
Lên đến đầu dốc, căn nhà Trãi sừng sững như một khối cô đơn khổng lồ.  Ði chậm lại, Trãi bỗng sợ phải một mình đối mặt với khoảng tịch mịch trong kia. Trãi ngừng chân, ngửng mặt nhìn lên bầu trời đen ngòm, cảm thấy mình ngụp lặn tận đáy sâu một vực thẳm. Ở đó, đúng là không còn chút dưỡng khí. Trong lòng, ngọn lửa vừa nhen lụi dần. Những tế bào não tê dại dập tắt khả năng vùng dậy để ước mơ. Với người, Trãi mới đây gầy tro than nhóm lên hy vọng. Một mình, Trãi lại chỉ thấy giá băng. Và một niềm tuyệt vọng  mang mang.  Hai con chó từ sân sau sủa khe khẽ, chạy lại quấn lấy chân Trãi, đuôi vẫy rối rít.  Mở cửa, Trãi lách vào.

Góc nhà, ngọn đèn dầu ai châm lóe sáng.  Trãi che mắt hỏi :
   
-  Ai ?
   
-  Em.  Em đây.
   
-  Ơ kìa, có thật là em ?  Trãi dụi mắt, tưởng mình mê ngủ.
   
-...
   
-  Sao em đến khuya thế ?
   
-  Thì còn sao nữa...Ðừng cứ hỏi tại sao.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #22 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2011, 08:28:57 pm »

Người con gái ngồi trên giường, tay xổ khăn, mớ tóc huyền bung ra đổ xuống bờ vai như thác chảy.  Nàng nhẹ nhàng kéo áo rồi lần lên cởi, những ngón tay thuôn mềm trên yếm đào nửa vội vàng, nửa chậm rãi. Nhắm mắt, hàng mi cong vành cong như một vết chì thỉnh thoảng chớp nhẹ. Nàng mỉm cười, hàm răng đen nhấp nháy dưới ánh đèn. Trãi sực đưa mắt lên xà nhà. Mơ hay là thực đây?  Không, không phải là người đàn bà áo xanh đêm nào. Trãi cúi mặt nhìn xuống.  Nàng chỉ còn chiếc váy che hạ thể, hai tay từ từ vuốt lên bụng, rồi lên ngực, rồi xòe ra che hai bầu vú cong nhọn run rẩy.  Trãi thều thào :

-  Thôi, em...
   
-  Không !  Nhất định...

Trãi ngần ngừ.  Chàng bước đến cạnh giường, tay để nhẹ lên vai nàng.  Bất chợt, chàng mơ màng :
   
-  Em có thật đây mà...

Trãi lênh đênh mặc cho thể xác phiêu bồng, kéo yếm rồi lần xuống cởi dần sợi dây quấn váy,  cảm thấy tay người con gái nắm tay mình lúc như cưỡng,  khi thì giục, trong tiếng rên rỉ nguyên sơ của nhục cảm diệu kỳ. Hai cánh tay mềm mại vòng lên cuốn lấy cổ Trãi rồi khẽ ghì xuống, lôi trời lôi đất vào mênh mang, kéo hạ thể theo chuyển động co thắt của giải ngân hà, tinh tú thình lình tán loạn, sao băng tứ phía, vũ trụ thành trận pháo hoa. Trãi hỏi trong mê hoảng, em, có thật không em, hay em là giấc mơ có giọt máu rắn đêm nọ và hình ảnh chập chờn một giải áo xanh oan nghiệt. Người con gái thình lình kéo đầu Trãi xuống úp vào ngực mình, miệng chữ còn chữ mất :
   
-  Còn ai nữa.  Em có thật...

Mùi hương thoảng vào mũi Trãi như thuở còn thơ chàng vẫn thường tìm hoa nhài kết vòng mang về ngâm vào nước pha trà cho cha.  Trãi giúi mặt vào lồng ngực phập phồng, nghe tiếng tim đập như khơi giục, ngột ngạt đến nghẹt thở.  Chàng ngửng lên, để mặc thác tóc huyền xô vào mùi  bồ kết cứ ban đêm là sực thơm, thơm huyền ảo mùi thơm thuở khai thiên, giữa sấm chớp xé vũ trụ thành những mảnh li ti, làm ra thiên hà, tạo ra cái trái đất bé bỏng nhưng đầy bí ẩn này.
   
Trãi lăn vào cuộc nồng nàn nhận sự dâng hiến đầu tiên của người con gái khi đau chỉ nghiến răng ứa nước mắt.
   
-  Sao em khóc ?
   
-  Không.  Em sung sướng.  Ðội ơn chàng !  Cái chuyến đò ngang đó...
   
Cứ thế, đêm qua đi.  Bao nhiêu sinh lực Trãi chẳng kìm đều cho ra hết. Người con gái ngỡ ngàng. Nàng dịu dàng bảo, em là của chàng mãi mãi. Có gì vội đâu, chàng ơi,  đời vẫn còn dài. Và đêm, đêm vẫn còn dài. Nhắm mắt, Trãi mê dần, thân thể choãi ra rồi tê dại, mùi máu tanh đêm gặp rắn lại bỗng thoang thoảng xông lên. Trãi hoảng hốt nhìn vào hạ thể người con gái, hai bên đùi lem vết máu trinh tiết ứa từ cửa mình. Trãi tiếc nuối như thể chính thân mình vừa mất mát rơi vỡ. Người con gái se sẽ ngồi dậy. Giọt máu trườn theo chiều thon bắp đùi chảy dài xuống giây vào bàn tay Trãi đang ve vuốt. Trong bóng đêm, mắt Trãi cay sè nhức bỏng. Chàng bỗng chơ vơ như lúc lạc đường thuở chập chững tập đi. Trãi thầm kêu, ơi hỡi, ta lại vừa đèo bồng đời một người con gái, lấy đi trinh tiết. Ðể cho lại, liệu ta có gì ngoài cái khoảng trống hun hút trong lòng.  Và bờ vực chập chùng cạnh bước chân, với những câu hỏi vò xé tâm can.  Trong cái thế người bị trị cổ kê dưới lưỡi đao đầu kiếm, cớ sao ta vẫn cứ một điều nhân nghĩa, hai điều tâm công?  Sách Bình Ngô trích dẫn những Thúc Di, Bá Tề, viện lời Khổng Khâu nói về Quản Trọng, kêu đuổi giặc cốt để giữ lấy văn hiến. Nhưng như thế,  ta bị chữ nghĩa cầm tù, ngôn từ vây bủa.  Cớ sao cứ phải lập lại những Luận Ngữ, Trung Dung ? Câu đáp tên Hoàng Phúc, rằng Ðạo Thánh là của chung thiên hạ nhưng làm theo Ðạo thì mỗi nơi một phách, chẳng qua đặng chẳng đừng ? Ði đến gốc đến rễ, phải chăng há miệng mắc quai ?
Lảm nhảm, Trãi nói như hóa dại. Người con gái ấp tay Trãi vào lòng, thỉnh thoảng gạt nước mắt cho Trãi. Nàng se sẽ ru, như thể lời ru mang cái nhiệm mầu cứu rỗi mọi nỗi oan khổ oán hờn.  Trãi  muốn xua tất cả đi để thực sự sống trọn vẹn một đêm. Nghĩa là sống trong hiện tại.  Với xác thân, thứ thuốc an thần êm ái dìu vào giấc ngủ. Chàng tận lực lật cho nàng nằm úp lên mình, mặc  cho đất trời vần vũ quay cuồng. Cuối cùng chàng chỉ nhớ tiếng nàng thì thào :

- Chàng ơi ! Hạnh phúc có trong từng những cái nhỏ nhoi !

Nằm vật xuống, Trãi thả mình vào một miền đắm đuối có tiếng nỉ non van nài :

- Sự sống có đâu chỉ ở chuyện đại sự!  Cứ như trẻ thơ.  Ðừng gồng mình! Hãy để mọi sự tự nhiên, như mây cao, như gió lộng.  Ðừng lo đời thiếu mình,  để kết cục chính mình thiếu tất cả.   Ðiều kỳ diệu của sự sống chỉ nắm bắt được khi ta biết yêu biết quí từng cái nhỏ nhoi...
   
Khi Trãi tỉnh giấc, nắng đã lẻn qua vách cửa hắt một giải vàng lung linh lên nền đất đen sẫm. Chỉ chút hương bồ kết còn thoang thoảng.  Mảnh hoa tiên có bài thơ chàng đề đâu đó lại hiện ra nhắc nhở thì thầm. Gần hai mươi năm sau, chàng vẫn ngâm nga  bài thơ khi cảm thấy trống rỗng hững hụt.  Nhưng đến khi người ta gom tất cả thơ nôm của Trãi làm thành Quốc Âm thi tập để lại cho đời, có ai ngờ họ chỉ giữ có câu đầu, góc thành nam, lều một gian.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #23 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2011, 10:14:56 am »

Chương 3
ÐÒ NGANG

Chinh di tướng quân Tân thành hầu Trương Phụ có tiếng là cọp. Nhưng con cọp đó đã một lần thấy thịt  mà không dám ăn. Chuyện xẩy ra năm Quí Tị, khi vận nhà Trần mạt đến độ chẳng ai còn muốn cứu vãn gì. Tháng sáu, Vua Trùng Quang sai Nguyễn Biểu vào Nghệ An mang sắc cầu phong đệ lên Minh Vĩnh Lạc. Ðặng Dung can ngăn, nhưng Vua rớm nước mắt không đáp. Nhìn Biểu, Vua bảo, nếu khanh được việc thì phong cho làm Tướng Quốc. Biểu cười, tay sờ lên cổ, đáp hạ thần chỉ xin làm con ma giữ được cái đầu là đủ.

Lính đi kèm Biểu đưa vào tướng phủ rồi vái chào lui ra. Không thèm mời ngồi, Phụ nhìn sứ giả, hất hàm :
   
- Cứ nói !

Vái Phụ, Biểu chậm rãi, râu tóc dựng đứng :

- Vua chúng tôi thể theo chiếu chỉ Hoàng Ðế xướng lệnh lập lại hậu duệ nhà Trần, sai đến trình ngài tờ sắc cầu phong, xin chuyển giúp về Yên Kinh dâng lên Thiên Triều  xét chuẩn.

Phụ hừ một tiếng, tay quơ ống nhổ, miệng phì phì, mắt ngó lơ. Biểu bậm môi, tay dâng tờ sắc mắt chòng chọc nhìn thẳng vào hai con mắt Phụ.
   
Hai con mắt đó xếch ngược, lồi ra, lừ lừ vô cảm. Gân máu chằng chịt kéo che gần hết  lòng trắng, mỗi khi nó giựt ngược lên như  động kinh, chắc chắn Phúc sẽ ra lệnh chém  ít nhất là một cái đầu.  Ðám quan võ nhà Minh từ đời Vua trước gọi Phụ là con cọp điên hóa tinh, nổi tiếng  tàn bạo, đã xuất quân mà không thắng thì không trở về. Và thắng đối với Phụ là tiêu diệt toàn bộ đối phương, quân cũng như dân, người cũng như gà bò chó lợn. Ðưa tay ra giật rồi quẳng tờ sắc xuống thư án, Phụ nhổ nước bọt, ồm ồm :

- Thua thì xin thua, có ai thua mà đòi làm Vua bao giờ ! Dối gạt lọc lừa làm sao được à...

Biểu cắn răng nhẫn nhục :

- Còn trời còn đất, chuyện thua được muốn bàn thì bàn đến bao lâu cho hết.

Phụ cười nhạt ngắt :

- Gớm thay,  gan thế cơ  à ?  Ðến giờ này mà còn dám  bàn được thua ư ?

Ðến bữa ăn, trên khay của Biểu chỉ có một đôi đũa và một cái đầu người ninh qua, mắt vẫn trừng trừng mở.  Phụ bảo :

- ... Thiên Triều đến đây khai hóa để con dân Giao Chỉ thôi ăn sống nuốt tươi, thôi trò dối gạt. Trùng Quang bây giờ thua nên mới xin cầu phong.  Dạ thế, gan thế mà cũng Vương mới Ðế !
Biểu không đáp, đẩy chiếc khay đầu người trước mặt Phụ, mời :

-... Ăn uống thế này là theo phong tục Thiên Triều, tôi có phúc phận nay mới được thử.  Tiền chủ hậu khách.  Nay xin mời Tướng quân nhúng đũa, tôi xin ăn sau cho đúng lễ...

Phụ tái mặt, râu tóc dựng lên, mắt giựt ngược.  Biểu lại mỉa mai :

- ... Gan thế đấy,  thì dạ thế nào ?

Thản nhiên lấy đũa khều con mắt, Biểu gắp chấm rồi bỏ vào miệng nhai rau ráu.  Phụ quát mang chém Biểu.  Biểu quát lại :

- Bên trong thì mưu kế đánh chiếm, bề ngoài thì rêu rao nhân nghĩa.  Miệng hứa lập con cháu họ Trần nhưng nước người ta thì băm vằm chia cắt đặt thành quận huyện, rồi cướp bóc của cải, tàn hại sinh dân.  Thực bay là lang sói !

Phụ sai mang đầu Biểu trả lại Trùng Quang, thây mang chôn ở Nghệ An, khiến Biểu quả là con ma không đầu. Nhưng tiếng con cọp  không dám ăn thịt với Biểu không biết làm sao lan đến  tận Yên Kinh khiến Sử quan nhà Minh sau này cũng mang ra chép lại.
   
Móng vuốt con cọp Trương Phụ thật ra không ghê gớm so với thủ đoạn thâm hiểm của bọn Hoàng Phúc, Mã Kỳ. Dùng bọn thổ quan bản địa, Phúc thăng Nguyễn Huân làm Tham Nghị, Lương Nhữ Hốt và Ðỗ Huy Trung làm Tham Chính.  Giả cách  chiêu dụ quan lại của triều trước để bổ đi các nha môn, Hoàng Phúc lừa bắt họ đưa về Trung Quốc khiến đất Giao Châu như rắn không đầu,  bọn nho gia, học sĩ muốn tránh cảnh đầy ải phải ẩn vào rừng sâu núi cao. Học hiệu Ðông Quan dùng người Minh giảng sách Ðại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử mang từ Yên Kinh qua.  Sách vở của ta, từ Tứ thư thuyết ước của Chu An đến Minh đạo lục của Hồ Quí Ly,  cũng như những trước tác bằng chữ Nôm như  Quốc Ngữ thi tập của Chu An, Phi sử tập của Hàn Thuyên... đều bị cướp sạch và đốt cho hết dấu vết.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #24 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2011, 10:15:40 am »

Năm Ðinh Dậu, Trương Phụ chọn lấy một đạo vệ sĩ làm Vi tử thủ, lắm việc cai trị không hỏi ý đến Mã Kỳ, Hoàng Phúc.  Phúc xui Kỳ tâu trình khiến vua nhà Minh ngờ Phụ định cát cứ một phương, xuống chiếu gọi về và sai Phong thành hầu Lý Bân sang thay. Những mâu thuẫn  nội bộ khiến guồng máy cai trị  bị nới lỏng. Ðám quan quân ai nấy lo phòng thân mình, không khí kình chống lẫn nhau trong phủ đường ở Ðông Quan thành câu chuyện đầu môi ở chợ. Nhân vật nắm quyền bính nay thành cọp, thành chồn,  thành cáo trong những mẩu chuyện thời sự.

Con cọp liệu có vồ rồi tát cho chết con cáo không ?

Không ?  Cáo khôn lắm, nó mượn cớ đi Tây đô nương vào Phương Chính.  Ngày nào họ Lý  chưa qua, nó đào đất rúc trong hang, vồ thế nào được !

Thế còn con chồn ?

Chồn thì không ưa cọp nhưng sợ.  Thà là ở với cáo còn hơn !

Dân ta thì sao ?

Là giun, là dế.  Cọp, chồn hay cáo thì cũng thế.  Nhưng nghe đâu người Trại có rục rịch ở  Mường Nanh, Mường Thôi.  Kẻ cầm đầu là Nguyễn Chích, miệt Thanh Hóa...
 
Chích là ai ?  Người thế nào ?

Là một người  như mọi người, nộp sưu thuế cao, đi cày nhưng không có cái để ăn.  Ðói, nên con giun cắt tóc đuôi sam mà thành rắn thành rết.

Rắn rết thì làm sao chống hổ beo ?

Rắn có nọc !.

Nọc có  thật độc không ?

Dân hàng chợ hỏi nhau, rồi mỗi người trả lời một cách.  Ðám làm ăn có đồng ra đồng vào lắc đầu.  Bọn cùng khổ gật.  Những người cẩn thận thường mũ ni che tai, lảng bằng cách không gật nhưng cũng chẳng lắc, chỉ cười.

Từ ngày có Học hiệu Ðông Quan dăm ba năm trở lại đây, học trò chẳng còn bao nhiêu nên  Trãi phải bốc thuốc Nam độ nhật. Thường khi có kẻ ốm người đau là Trãi đến tận nhà con bệnh. Nghề thuốc, Trãi học với Nguyễn-lão ngụ ở miệt Tây hồ. Người này tóc bạc trắng từ thuở đôi mươi, thi cùng khoa với Trãi nhưng không đỗ, nay sinh nhai bằng nghề trồng hoa và bốc thuốc. Thuốc thường là rễ cây, cỏ, lá và rong rêu. Bị quản thúc trong thành, Trãi không thể tự mình đi tìm, thuốc men tùy vào cung ứng của Nguyễn-lão. Chuyện độ nhật của Trãi ngày một khó khăn, phải nhờ tay Xuyến thu vén cho một phần. Cứ dăm bữa nửa tháng, Xuyến từ Bát Tràng vào. Biết chuyện Trãi từ chối chức Tham Nghị do Hoàng Phúc o ép, nàng cười tủm, nói đùa ‘‘cho ngọt cho bùi không ưng thì cho roi cho vọt nhé ! ’’. Trãi ngậm ngùi ‘‘ Roi vọt chẳng sao ! Nhưng hãm cho đóùi để rồi sẽ mất nhân phẩm thì nhục lắm…’’. Xuyến ôm chầm lấy Trãi tức tưởi. Gục mặt vào mái tóc nàng, Trãi găm tiếng thở dài vào bụng, khẽ cười gượng gạo. Không có Xuyếán, chàng biết là mình không có điểm tựa dựa vào đó chàng giữ được thăng bằng. Nhưng thăng bằng đó chông chênh theo thế cuộc cứ chao nghiêng theo cái đà tuột vào hố sâu vực thẳm. Chẳng những vây hãm sinh nhai, Phúc còn ra lệnh cho bọn quan binh đến tra hỏi nộ nạt những người có chút liên hệ với Trãi. Họ sợ, lảng xa. Góc thành Nam, căn lều một gian trở nên ngày một trơ trọi. Ngoài Xuyến, chỉ còn có gió. Những đêm Xuyến ngủ lại, Trãi dập dờ bám được vào một cái neo. Cố định. Thủy chung. Nghe Trãi bảo thế, Xuyến chỉ lên trời. Trời sao trên cao cũng vậy. Xuyến lại chỉ ra xa. Dưới kia, dòng sông Nhị óng ánh còn đó, cũng thủy chung như sao trời.

Tháng tám năm nay, lê dân xì xào bàn tán, thấp thỏm đợi một sự đổi thay quyền bính. Trưa hôm rằm, Trãi về đến nhà thì đã thấy Viễn ngồi đợi. Viễn đứng dậy, miệng nói :

- Có tin Trần Nguyên Hãn nhắn, bảo bây giờ bác đi là đúng lúc.  Hẹn ở Trường Yên, Hãn sẽ đón...
Trãi cũng biết thời điểm này là lúc phải xổ lồng.  Chỉ độ nhật hai ba tuần trăng tới là Lý Bân qua nhậm chức.  Hiện Trương Phụ không lo toan gì ngoài chuyện chở tài sản về nước.  Còn Hoàng Phúc, hắn đã cao bay xa chạy vào Tây đô, sợ Phụ ra tay trả hận trước khi về Yên Kinh.  Trầm ngâm, Trãi nhìn Viễn, mắt dọ hỏi.  Viễn tiếp :
   
- Chuyến này, em cũng đi.  Gia đình em đã tản hết vào Mường Thôi...  Còn mồ mả các cụ, em nhờ người coi sóc, cũng sắp đặt xong xuôi.  Hoàng Phúc kỳ trước về cho bứng gốc hết rặng đề trồng thành hàng mặt sau mộ cụ tổ.  Mấy ngày nay, nó lại lân la, đêm đêm đến xõa tóc cầu đảo, miệng cứ rú lên kêu ma gọi quỉ...
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #25 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2011, 10:16:40 am »

Trãi chạnh lòng, cười gượng. Từ thuở xa xưa chàng về với cha ở Nhị Khê   những tàn lá đề là bóng mát che nắng cho Trãi. Những ngày hè oi ả, Trãi hay lên mộ tổ một mình, lẳng lặng từ lưng đồi nhìn về phía núi Tản tít tắp thấp thoáng trùng trùng mây xa.  Mây bắt nắng chói, ánh bạc loé sáng trong trời xanh ngắt. Thỉnh thoảng ruộng lúa vàng non điểm trắng cánh cò thong thả bay ngang.  Gió động khua lá xào xạc. Con châu chấu tí tách nhảy, chú bọ ngựa  ngo nguẩy ngửng đầu dương cựa, đám chích chòe loạch xoạch đuổi nhau chí chóe.  Bây giờ cây đã trốc gốc. Mà nào phải chỉ có cây, Trãi chua xót nghĩ  ngợi. Ðến người cũng trốc gốc,  thì xá chi một rặng đề.

Hiểu cái nôn  nóng của tuổi thanh niên bị thế cuộc câu thúc, Trãi quay nhìn Viễn, nhỏ nhẹ :
-  Bao giờ ?  Bao giờ chú đi ?
   
-  Em định chỉ nay mai.  Lên báo để bác đi trước.  Khi Hoàng Phúc về Ðông Quan thì không dễ như thế được nữa.  Viễn đặt vào  tay Trãi một cái ruột tượng, ngập ngừng - Bác cầm theo...

Mở ra, Trãi thấy một ít bạc vụn và khoảng chục  đồng tiền.  Ngạc nhiên, Trãi hỏi :

-  Chú lấy đâu ra ?
   
-  Em chẳng ăn cướp của ai cả, bác đừng ngại... 

-  ...

Viễn bạnh hàm, mắt như đổ lửa, giọng nghiêm trọng:
   
- Hẹn bác hai ngày nữa lên đường. Bác đừng ghé Nhị Khê, cứ đi thẳng vào Hoa Lư trong Trường Yên. Khi đi,  bác đừng cho ai biết. Hai ngày nữa, bác nhớ nhé !
   
Chuyện trò sắp đặt với Trãi xong, Viễn lại hấp tấp xuống dốc.  Nhìn cho đến khi Viễn khuất bóng, Trãi lẳng lặng vào nhà ngồi trước thư án. Trãi bâng khuâng đếm quãng thời gian làm tù giam lỏng nơi này. Ðông Quan, căn nhà tù khổng lồ của chàng, là nơi tương đối yên bình cho dẫu rằng tạm bợ. Sắp xổ lồng, chàng bỗng cảm thấy một niềm bất an.  Tự do, có cái giá của nó.  Con đường trước mặt do chàng chọn lựa là con đường của bất trắc. Vạch cánh liếp chặn cửa, Trãi bước ra, vươn vai hít một hơi dài vào đầy lồng ngực.  Hai con chó ùa lại sủa, quấn quít vẫy đuôi, rồi gục đầu kêu hinh hích.  Hình như chúng tiên cảm thấy phút chia tay. Trãi thò tay vuốt ve chúng, lòng bỗng buồn buồn như thuở tấm bé phải rời Côn Sơn khi ông ngoại qua đời.

Nhưng việc trước mắt là phải đi báo ngay cho Xuyến. Tất tả đến cửa Ðại Hưng, Trãi bị đám lính gác thành chặn lại. Trãi tiếc không mang theo ít bạc vụn làm của lót đường. Nhìn giải nước sông Nhị óng ánh cách ngăn, Trãi thở nhẹ rồi quay bước. Hai ngày, chỉ đúng hai ngày nữa. Trãi nôn nao tính, khi xổ lồng thì bỏ thêm nửa buổi đến với Xuyến, rồi ngược theo sông  dọc vào Trường Yên. Nhìn cánh chim bằng liệng ngang đầu, Trãi thành bầu trời lồng lộng trên cao. Không còn gì có thể vướng víu kéo chàng ngược chốn  lao tù. Chàng thầm nhủ, giữa bất trắc và an bình, phải chăng tự do là cái gạch nối tương lai vào hiện tại. Lạy trời, chính thế mà nó mang cái hấp tính của một thứ mê lực không cưỡng lại được.

Cộng vào bản chất ác bạo và tham tàn của Trương Phụ, sự mềm mỏng nhưng quyết liệt của Hoàng Phúc khiến chính sách bình định  của nhà Minh vừa có roi vọt vừa có ngọt bùi. Phúc tự phụ, trong lòng không coi bọn võ biền ra gì. Một lần lỡ miệng, Phúc ví mình với Sĩ Nhiếp trước mặt Phụ. Lớn tiếng huyênh hoang khai hóa đám man di Giao Chỉ, hắn hể hả ‘‘…lần này là lần cuối, đất nhà Minh chạy cho tới châu Ái. Cứ ra đường thì biết. Ðàn ông tết bím. Ðàn bà răng trắng, mặc quần. Trẻ con đi học thì dồn cả vào Học hiệu Ðông Quan…’’. Thời gian đó, đám tôn thất nhà Trần đã yên phận với những mảnh điền trang xót lại và một bọn gia nhân có đông cũng chẳng quá được trăm  mạng. Bọn nhà nho, cả khoa bảng lẫn không đỗ đạt, phần đông đã chạy theo quyền lực làm sai nha. Nghĩa quân vùng Thanh-Nghệ có, nhưng ít và rặt tinh thần địa phương, hoạt động khoanh vùng, chủ yếu chỉ chống thuế và lao dịch nên chẳng có gì đáng lo ngại. Bảo với mọi người nay là thời bình, Phúc mang Lễ – Nhạc từ Yên Kinh  sang giáo hóa. Sau đó, phủ Giao Châu quen dần với tiếng đàn lục thập huyền Ðại Cấu, tiếng chập chỏa Tiểu Bạt, tiếng trống Phạn Cổ và tiếng kèn Tất Lật. Lương Nhữ Hốt tiến cử cháu ruột mình là Lương Ðăng, một kẻ mê đàn hát và có chút năng khiếu âm nhạc. Phúc tin dùng, sai lập một đoàn ca múa. Ðăng về Ðào xá, huyện Tiên Lữ tuyển dụng.
   
Từ đời Lý, làng Ðào xá nổi tiếng, có người con gái tên gọi Ðào thị hát hay đã được Lý Thái  Tổ ban thưởng. Lúc nàng mất, dân làng lập đền thờ, gọi thôn nàng ở là thôn Ả Ðào. Sau, con gái trong thôn đều đổi ra họ Ðào, tạo nên một truyền thống với lối hát gọi là hát  ả đào, kết hợp nhạc dân gian với kiểu hát nói rất đặc thù. Khi Ðăng đến, đám ca nhi bỏ chạy, chỉ bắt đâu được gần hai chục cô. Một cô chạc mười bốn, tên là Ðào Nhi, về đến Ðông Quan sợ quá hóa câm. Ðăng dùng Nhi vào việc giữ phách và đôi khi cho làm con múa.  Ðào Nhi suốt ngày lẳng lặng một mình, mài rồi vuốt ve cây trâm gài tóc dài một gang tay, ai cũng bảo là hóa dại. Sau vài tháng tập tành, những ả họ Ðào trình diễn cho bọn quan nha. Hoàng Phúc tươi cười dắt tay Trương Phụ vào ngồi chính điện, phất tay cho bọn ca nhi bắt đầu. Khi hát bài Cảm Hoài của Lý Bạch theo điệu Ức Tần Nga, Ðào Nhi giữ sai một nhịp phách. Phúc nhăn mặt, bắt đánh lại. Ðào Nhi lại sai, mặt ngẩn ra, dáng sợ hãi. Phúc cau có, đứng dậy bước lại gần. Bất chợt, Ðào Nhi vùng người, rút cây trâm cài tóc lao lại nhằm cổ Phúc đâm thẳng vào. Phúc hoảng hốt té nhoài ra sau. Cây trâm xướt qua da cổ, máu ứa, nhưng Phúc không mệnh hệ gì. Một tên vệ sĩ nhảy lại đấm vào mặt Ðào Nhi. Nó ngã văng xuống đất, mũi dập nát, mặt bê bết  máu, nhưng chồm dậy hét ‘‘…kéo cổ cha tao ra chặt, rồi xoạc cẳng mẹ tao để cưỡng dâm, bay thế mà bây giờ còn định giáo hóa làm thày tao à ! ’’. Phụ phá lên cười. Phúc hoàn hồn, nhìn Lương Ðăng chăm chăm, bắt Ðào Nhi bỏ ngục để tra xét. Ðêm hôm đó, Ðào Nhi cắn lưỡi chết. Chuyện Nhi giả câm đồn đãi ầm lên trong nội phủ. Ðăng sợ, sáng sau bỏ trốn. Lương Nhữ Hốt đập đầu xuống đất kêu oan, lạy Phúc rồi đem cha đem mẹ ra thề bồi nên Phúc chỉ giáng Hốt xuống một cấp quan. Gọi Hốt đến, Phúc bảo ‘‘ Mộ tổ nhà ta có xá tinh, chẳng chết thế được ! Nguy nan gì thì cũng qua, chuyện bất đắc kỳ tử ta không sợ ! ’’.  Ngay đêm sau, Phúc làm lễ tạ sao, bắt Hốt làm con bù nhìn để quật roi, tiếng nghe chan chát.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #26 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2011, 10:17:14 am »

Mấy hôm vừa qua, Phúc với bọn sai dịch mang đèn hương để cúng kiếng. Lần đến Nhị Khê này, Hoàng Phúc chọn ngày rồi cho đốn nốt rặng đề nằm phía trái ngôi mộ hướng về Chí Linh.  Rìu búa đốn cây đều bôi máu gà, và trước đó bọn vệ sĩ đã yểm những lá bùa dài lòng ngòng trấn bốn phương tám hướng. Bày ra trận hình bát quái, tay giữ quyết, tóc xõa, miệng ngậm bùa, Phúc trấn trung ương trận pháp đã hai đêm liền.  Ðêm nay là đêm tế sao lần cuối.  Trong số đám phục dịch, tự nhiên có người  lăn ra chết bất đắc kỳ tử.  Hoàng Phúc có vẻ lo ngại, đi ra đi vào, miệng lẩm bẩm một mình.  Phục dịch cho hai đêm tế sao của Thượng thư Hoàng Phúc gồm mười sáu tên vệ sĩ, thêm đám con hầu và cả Hà Trí Viễn, người quản gia của từ đường họ Nguyễn.  Dẫu gặp nhiều lần và có thử thách Viễn, Phúc vẫn đề phòng.  Lần thử thách cuối, Phúc bảo Viễn vào thư án lấy cho mình tập sách tựa đề Giao Chỉ phong thủy chí.  Viễn khệ nệ ôm cả chồng sách ra.  Phúc hỏi ‘‘... không biết chữ à ? ’’. Viễn lại rối rít lắc đầu như tạ lỗi, tay  đưa ra một quyển khác. ‘‘ Cũng không phải ! ’’, Phúc tai quái nhìn.  Viễn lôi một quyển nữa, nói ‘‘ Dạ, nó đây !’’.  Ðó lại là tập Liễu Tông Nguyên thi. Chắc mẩm là Viễn thực sự mù chữ như phần đông đám tráng niên nhà quê, Phúc tự tay lục đống sách. Ðằng sau, Viễn nhìn chằm chằm.  Ðó là một quyển gáy xanh, chữ viết nhỏ, giấy mỏng nhưng dai.  Liếc nhìn Hoàng Phúc ghi chép, Viễn giả tảng như không quan tâm. Ðến đêm Viễn rình biết là khi đi ngủ Phúc giấu nó dưới nệm giường.
   
Sẩm tối, Viễn lên chùa Thiên Pháp tìm đám bạn tập võ với sư bác.  Họ chụm đầu to nhỏ, mặt mũi khẩn trương.  Thì thào hai tiếng thoát ly với giọng thành khẩn, Viễn mưu tính việc Viễn gọi là đại sự, không thành công ắt cũng thành nhân.  Sư bác không nói gì, chỉ niệm a di đà Phập rồi vào tụng kinh sám hối.
   
Viễn quay về nhà khi đêm buông nhanh như chùm chăn.  Trời cao lồng lộng gió, sao chi chít nhấp nháy nhìn xuống mỏm đồi Nhị Khê mang hình thể một con rùa ngửng đầu hướng về núi Tản.  Chặt đi rặng đề, con rùa cụt đuôi, ì ạch trên lưng đèo bọn vệ sĩ cầm cờ ngũ sắc đứng theo bộ vị ngũ hành bao quanh Hoàng Phúc.  Choàng một tấm áo  trắng, tóc xõa bay ngược chiều gió thổi, Phúc cầm kiếm chỉ trỏ rồi hô hoán điều động đám vệ sĩ khi bước sang trái, khi tiến, khi lui, có lúc lại đứng tại chỗ dẫm chân thình thịch.  Ði vòng đám hình nhân làm bằng nan có bồi giấy vẽ đủ mặt mũi râu ria, cân đai mũ mãng, Phúc hả miệng quát tháo hàng tràng dài.  Ngọn lửa đốt ở giữa đàn tế bốc cao rồi chao đảo theo chiều gió tạt.  Tiếng củi nổ tí tách.  Tiếng Phúc phì phì thở.  Rồi lại tiếng hô, lại tiếng quát.  Ðám vệ sĩ xoay vòng quanh, chốc chốc lại đứng ngây ra như tượng rồi rống lên một thứ thanh âm nhọn sắc chọc vào tai như kiếm đâm dao khoét.  Mỗi lần như vậy, một chùm sao phương bắc lả tả rụng từng cái một, kéo những vệt sáng lờ mờ lịm dần đi trong màn đen thăm thẳm.
   
Viễn không chờ được nữa.  Ðâu đây, tiếng chó sủa lên gióng một.  Lẩn vào hàng hiên, Viễn đưa tay nắm con dao buộc lưng.  Lại tiếng chó sủa.  Rồi tiếng cú rúc.  Tên vệ sĩ ngồi canh cửa phòng Hoàng Phúc nhận ra Viễn, nhe răng cười, miệng kêu ‘‘ nỉ hảo ’’.  Viễn cũng cười đáp.  Bất thình lình, Viễn rút dao, lia một nhát vào cổ tên vệ sĩ.  Nó ngạc nhiên, tay ôm cổ, mắt trợn trừng, máu vọt ra thành vòi bắn tung tóe.  Há miệng, nó định kêu nhưng khí quản đứt chỉ phát ra tiếng ò ò.  Viễn nắm lấy tóc nó, tay đâm vào ngực rồi lách sang trái.  Tên vệ sĩ nhũn người quị xuống.  Ðúng lúc đó, có tiếng hò hét, tiếng đao kiếm, tiếng gậy gộc ngoài sân. Ðồ chừng đồng bọn đã ra tay tấn công bọn vệ sĩ, Viễn đạp cửa vào.  Hai đứa con gái theo hầu Hoàng Phúc ngơ ngác, kéo nhau ngồi dúm vào một góc, miệng kêu be be.  Viễn tiến lại, kéo tấm nệm trải giường tốc lên.  Quyển sách gáy xanh nằm đó. Viễn cầm, máu giây lên trang bìa. Ðúng là nó. Viễn giắt vào lưng, quay lại nhìn.  Có tiếng chân chạy rầm rập.  Viễn nắm cây đèn dầu ném thẳng vào đống chăn màn.  Lửa bốc lên.  Hai đứa gái hầu lại ré lên, luýnh quýnh chạy ra cửa.  Viễn thẳng tay rút cây côn giắt bên người quật xuống.  Những mảng óc vỡ  óng ánh sắc lân tinh  văng dính trên vách rồi  nhão nhoẹt chảy nhễu xuống.
   
Ðám bạn võ của Viễn chống không lại bọn vệ sĩ  vốn đã quen chiến trận.  Họ lăn xả vào tìm cách giết Hoàng Phúc, và cũng chính vì nóng lòng liều mạng, có dăm ba người chết uổng. Một thiếu niên mới mười sáu bị chém đứt bả vai, quị xuống nhưng còn cố ném thanh mã tấu vào người Phúc, miệng thét ‘‘ Thằng giặc Ngô, tao sẽ làm quỉ bắt mày ! ’’.  Thanh mã tấu chém xoẹt đi cánh tay tên thủ hạ đứng chắn. 
Phúc bị một phen kinh sợ, mửa ra mật xanh mật vàng, mặt cắt không còn hạt máu.  Sau lần chết hụt đó, hắn bớt khinh mạn đám man dân Giao Chỉ.  Bớt khinh, nhưng Phúc căm thù khi vào thấy mất quyển sách Giao Chỉ phong thủy chí Phúc đã bỏ ra bảy năm ghi chép tỉ mỉ.  Về phần Viễn, chàng bỏ đi ngay đêm hôm đó. Không đến Trường Yên như hẹn với Trãi, Viễn tính tìm đường về thẳng Kỳ Anh.  Ở đó, Viễn sẽ chôn cuốn sách cướp được của Phúc.  Chắc chắn đó là một quyển sách quí. Rạng sáng, Viễn đến ven sông Lô, rửa cho sạch máu dính trên tay trên mặt. Ngạc nhiên thấy có thể một đêm giết một lúc ba mạng người, Viễn soi mình trong bóng nước, nhìn chăm chăm như nhìn một kẻ lạ.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #27 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2011, 10:18:19 am »

Khoảng cuối năm Dậu, tức là ba tháng trước khi Trãi bỏ Ðông Quan ra đi , Nguyễn Phi Khanh qua đời.  Chôn cất cho cha xong, Phi Bảo mang vợ và hai đứa con từ Yên Kinh về đến Nhị Khê, nhưng khi đó Trãi đã vào Thanh Hóa với Trần Nguyên Hãn.  Cùng Nguyễn Chích, Hãn dấy quân tại Mường Nanh, Mường Một và Mường Thôi.  Ở vùng Lam Sơn, một đại đầu mục họ Lê cũng phất cờ khởi nghĩa. Trên mạn Mường Mộc trấn Gia Hưng ở phía bắc Ðông Quan, dân ba xứ  Sơn Tây, Tuyên Quang và Sơn La cũng theo Xa Khả Tham và Phạm Văn Xảo, binh tuy ít nhưng tinh, và có cái thế hiểm hóc núi rừng nên đám quân Minh không làm gì được.
 
Khi Phi Bảo về đến làng thì Nhị Khê gần như vườn không nhà trống.
 
Hỏi ra, Bảo mới biết việc Hoàng Phúc mới bị hãm hại suýt chết.  Phúc quây dân lại tra hỏi, và lúc đó mới hiểu rằng kẻ chủ mưu là Hà Trí Viễn.  Viễn đã cao bay xa chạy.  Phúc liền tìm bắt Trãi, nhưng Trãi cũng đã biệt tăm.  Tiếc cuốn sách ghi chép tỉ mỉ về phong thủy Giao Chỉ, Phúc uất hận nằm bệnh đâu cả tháng.  Khi khỏi, Phúc ra lệnh bắt đốt sạch ngôi nhà từ đường họ Nguyễn và đào đất lấp con lạch ngay dưới chân đồi có mồ mả tổ tiên.  Bảo biết không ở lâu được, lại dẫn vợ con vào châu Ái tìm mẹ và đàn em nhỏ. Gửi vợ và hai đứa con lại, Bảo ra Mường Một tìm anh.

Gặp mặt, hai anh em ôm nhau khóc. Chập chờn, hình ảnh Phi Khanh lại hiện ra.  Tai Trãi văng vẳng lời cha ‘‘ Làm trai thì về mà trả ơn nước, thế mới là báo hiếu. Nợ nước trước, thù nhà sau.  Nhớ lấy...’’. Rồi tiếng hát quan họ đám chị em ca kỹ trên bước đi đầy chênh vênh đầu ải. Tiếng quát của Liễu Thăng.  Tiếng dao kéo lách cách của tay hoạn lợn họ Ðỗ. Tiếng gió dập qua vách núi.  Tiếng mưa rào rào trên những tàn cây rừng. Tiếng chim quang quác hoảng loạn một đêm vang vọng mười ba tiếng hú của Hồ Quí Ly khi đám mười ba đứa cháu bị thiến. Trãi nhắm mắt. Hình ảnh họ Hồ cắn lưỡi bằng hai hàm chỉ còn lợi ập về, máu ứa ra đỏ loẹt râu hàm trắng phếch.  Râu tóc đó bồng bềnh trôi, như đám mây trắng nhuộm ánh dương buổi sớm.
Nắm tay Bảo, Trãi lắc đầu xua đi những ám ảnh quá khứ. Lát sau, nghẹn ngào Trãi hỏi :
   
- Trước khi  chết, cha có nói gì không ?

Giọng bùi ngùi, Bảo đáp :
 
- Cha nhắn anh rằng đừng câu nệ, kẻ nào đuổi được giặc Ngô thì đáng làm vua, không cứ là phải họ Trần hay họ Hồ...

Trãi gật đầu, nhìn Bảo, chờ đợi. Chép miệng, Bảo thì thào:
   
- Cha bảo, cái kế xưa đã bàn vẫn thế.  Lui về Thanh Nghệ chiếm lấy Tân Bình, Thuận Hóa làm thế lui.  Lấy hiền hòa để dựa vào Chiêm quốc và Lão Qua tìm sinh lộ lúc đường cùng.  Nay Lý Bân đã qua thay Trương Phụ.  Bân tính không quả quyết, ngại chuyện binh đao, dã man tàn bạo so với Trương Phụ thì một năm, một mười.  Cờ như vậy là đã đến tay rồi !
Trãi thở dài, hỏi Bảo :
- Bên Yên Kinh, còn mất những ai ?
   
- Sau khi cha mất, Phi Hùng buồn, bỏ đi lang bạt từ bốn năm nay chẳng tin tức gì. Quí Ly chết năm Thân.  Các quan nay tết bím, cạo răng.  Kẻ thì đi buôn thuốc Bắc, người thì đi làm thư lại cho bọn nhà giàu.  Hồ
Nguyên Trừng hiến cách đúc súng của ta, được Minh Thái Tổ phong làm Thị Lang...

Một cơn giận bùng lên tựa lửa bắt vào củi khô. Nhăn mặt, Trãi đập tay buột miệng:

- Khốn nạn thật ! Hiến cho giặc cách đúc súng là cướp đi một khả năng tự vệ của dân Ðại Việt bao lâu nay  đã phải đương đầu với xâm lăng phương Bắc.

Bảo nhìn anh, buồn bã :

- Còn lắm chuyện khốn nạn không kém. Bọn có ăn học mang liệt kê mỏ vàng, mỏ sắt, gỗ quí,thổ sản từng vùng cho quan quân nhà Minh biết mà lùng…

Thở dài, Trãi bần thần nhìn em. Phi Bảo nay cao hơn Trãi dễ đến nửa cái  đầu, hai bàn tay to gấp hai bàn tay người thường. Khi nói, miệng Bảo nhếch lên cười, nửa như để làm thân, nửa như định trêu chọc. Bảo kể, em lại sắp có thêm cháu nữa, mong sao lần này là con trai cho có kẻ nối giõi. Hiện nay, Bảo đã mang cả đại gia đình về làm rẫy ở cuối ngạn sông Lam. Khoe là tìm được một vùng đất núi có thể trồng trà, Bảo định khi về sẽ bắt tay vào việc gieo cây đã có ngọn, cách thức Bảo học được khi còn lưu lạc ở Giang Châu bên Trung Quốc.  Bảo lạc quan :

- …chỉ cuối năm nay là thu được mẻ đầu, sinh nhai đủ
thì khỏi lo. Anh nghĩ thế nào ?
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #28 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2011, 10:20:58 am »

Còn nghĩ thế nào nữa, Trãi thầm nhủ. Thân mình lo còn không nổi thì lo  gì được cho ai ! Tủi giọng, Trãi nắm tay Bảo, gượng nói :
   
- Chú lo cho cả nhà như thế là chú lo hộ cho anh. Còn anh, thời thế này anh chẳng tích sự gì, có dăm mớ chữ  bây giờ nào có dùng được vào việc gì cho đáng đâu !

Bảo lắc đầu, nhìn xa xăm, môi mím lại. Thình lình, Bảo xiết chặt tay Trãi :

- Chuyện sinh nhai cứ để em lo, anh đừng bận lòng. Còn chữ hiếu anh báo cho cha như cha dặn dò là anh báo được cho em, cho cả nhà !

Lời Phi Khanh dặn dò trên ải Phá Lũy lại đâu đó văng vẳng. Chàng nhớ lại, Hồ Quí Ly ở Phá Lũy thổ máu ra mà vẫn hỏi, tại sao sửa soạn sáu năm, quân đông tướng giỏi nhưng chưa đầy sáu tháng đã tan tành trước một đội quân viễn chinh đến từ xa, lạ nước lạ cái, lại phần nào ô hợp, gồm đủ loại tân binh bắt từ các châu quận biên giới. Tại sao ư ? Hồ Quí Ly là một kẻ thượng thế anh hùng, nhưng vừa tham vừa vội, lại trọng pháp khinh luân.  Biết là phải có một bộ máy chính quyền tập trung để đối phó với nhà Minh, Quí Ly chỉ dùng uy để áp chế, dùng mưu để khuất phục.  Hơn ba mươi năm nắm quyền bính, họ Hồ trước đây nào có làm gì. Ðến khi cướp ngôi nhà Trần xong, sợ loạn nên mới hô hào cải cách. Thu kim khí thì bắt chước  đời Tống in tiền giấy rồi dùng pháp lệnh ức thương. Thất nhân tâm, Quí Ly sai hạ cả chuông nhà chùa xuống nấu chảy ra để rèn gươm giáo.  Lại e đám hậu duệ tôn thất nhà Trần gia nô có hàng nghìn trong những điền trang cỡ lớn, Quí Ly ra chính sách hạn điền hạn nô, sau đó nâng thuế điền, thuế thổ lên thật cao nhằm để bức bách trưng thu đất đai làm ruộng công.  Thế là tài tụ, nhưng nhân tán. Sưu cao thuế nặng, lòng dạ hàng dân hoang tán. Như vậy, lúc biến thì dựa vào ai ?  Quân chưa đánh đã chạy.  Nhưng vì sao lại chạy ? 

Nhắc lại chuyến đi tiễn cha với Bảo, Trãi hồi tưởng đám dân đi sang Yên Kinh.  Gọi là đi đầy nhưng Trãi ngạc nhiên thấy sao họ lại có vẻ phấn chấn, rủ nhau buôn hàng chuyến, nào tơ lụa, nào sừng tê, lộc nai, vảy kỳ đà... Họ tỉnh khô kháo với nhau về giá cả, lời lỗ, chẳng thấy có gì là nhục mất nước, hận lưu vong.  Lạ chưa!  Thế mà mới ngót ngét trăm năm trước, chính ông bà họ đã trấn áp được giặc Nguyên quân hùng tướng mạnh!  Trãi chợt hiểu. Người dân mang đổi mạng sống đâu phải là chỉ bảo vệ mấy chữ non sông gấm vóc.  Họ đổi mạng là để bảo vệ những gì họ sẵn có trong tay, hoăëc những gì họ tin sẽ có được trong tương lai.

Trãi nhìn về phía bản Tà Khương nơi Hãn đóng quân. Hai năm ròng, tụ chưa được một nghìn nghĩa sĩ. Có đánh,cũng chỉ mới đánh đám thổ binh và bọn Phiên quan đi thu thuế. Nợ nước chưa trả được một phân lời, nói chi đến vốn. Còn thù nhà vẫn đấy. Theo năm tháng chồng chất thêm lãi, mối thù ngày một nặng trên vai. Cúi đầu, Trãi nghiến răng, nói mạnh :

-  Cứ tin anh, rồi thù nhà sẽ trả !

Khi chia tay, Bảo nhìn thật lâu vào mắt anh, dặn dò :

- Anh cẩn trọng giữ mình…Một khi chuyện sinh nhai yên ổn, em sẽ đến xung quân.

   
Mậu Tuất, 1418, Minh Vĩnh Lạc năm thứ 6. 

Ít lâu sau khi Trương Phụ về Yên Kinh, hàng dân Thanh Hóa đồn đãi về việc khởi binh của mười tám người hội thề ở Lũng Nhai. Thế nghĩa quân Lam Sơn rầm rộ đến độ bọn Thổ quan hạ lệnh cho lính trấn thủ án binh bất động, báo hỏa tốc về cho Lý Bân và Hoàng Phúc nguy cơ một cuộc bạo loạn tầm cỡ có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Nhân lúc quân Minh hoang mang, Trần Nguyên Hãn bàn với Nguyễn Chích rồi đưa binh chiếm Mường Thôi. Lúc ấy, Trãi đã vào với Hãn, tính kế thôn tính Nghệ An, nhưng Hãn vẫn ngại lực lượng mình còn quá mỏng. 
   
Hãn cho người thăm dò, biết rõ Lê Lợi ở Lam Sơn nắm được một địa thế rất thuận lợi về việc quân binh.  Khi đó, Lý Bân vẫn chùng chình không chịu xuất quân chi viện mặc dầu bọn Phiên quan và  Thổ quan ở Tây đô kêu cứu.  Một sáng, Hãn bất ngờ đến nơi Trãi ở.  Cười hềnh hệch, Hãn oang oang :
   
-  Này, đêm qua ta nằm mơ.
   
- ...
   
-  Ta với chú đi vào sơn lâm.  Ði mãi.  Rồi chú chỉ, đền kia kìa.  Giữa rừng già, ngôi đền mái đỏ hiện ra. Chú lại bảo, đền bà Chúa Tiên Dung đây, vào vái một vái.  Vào thì vào.  Vừa qua ngưỡng cửa, chú chỉ tấm vách có nắng chiếu lên.  Nắng nhảy múa, vạch những làn chỉ sáng ngoằn ngoèo.  Chú đọc ‘‘ Lam Sơn dấy nghĩa, xã tắc tất thu...’’.  Có phải chú đọc thế không ?

Trãi đoán ra ý Hãn, dí dỏm :

- Không !  Chữ viết ‘‘ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần ’’.
   
- Thế còn ta  thì sao?
   
-  Huynh thì bà Chúa đền chỉ nói miệng thôi.
   
-  Nói  gì ?
   
- Nguyên Hãn đệ nhất khai quốc công thần, huynh không chịu thì thôi, không mặc cả gì nữa !

Ha hả cười, Hãn vỗ vai Trãi :

- Anh em mình phải đích thân đi một chuyến vào Lam Sơn.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #29 vào lúc: 22 Tháng Năm, 2011, 10:27:25 am »

Trãi hỏi, vẻ mặt ưu tư :
   
-  Ðã bàn với Chích chưa ?
   
-  Bàn rồi.  Chích đồng lòng nhưng bước đầu  chỉ đề nghị liên minh.  Ai đâu giữ đấy, nếu động thì cứu viện trợ chiến cho nhau...

Trãi thở ra, chậm rãi :
   
-  Sau  phải tập trung để phối hợp, trên dưới một lòng, không thể để mỗi nơi một phách được.  Giặc mạnh mà ta yếu, lại chia thành năm bè bảy mảng thì hỏng...

Hôm sau, hai người lên đường.
   
Từ huyện Thọ Xuân đi về hướng Tây dọc bờ sông Chu, dân cư thưa thớt dần. Men chân núi Pù Rinh, hai người dẫu không thấy một ai nhưng có cảm tưởng bị rình rập. Vòng vèo đi thêm quãng nửa ngày, Hãn và Trãi đến Lư Sơn, một vùng đất dốc nhưng bằng phẳng.  Ðằng xa, cỏ mọc xanh rì chạy đến chân núi Lam sừng sững chắn ngang mắt.  Theo lối cỏ đạp, hai người men tới.  Lát sau, thấp thoáng xa xa có bóng người đội nón mê vai vác bừa, đang ruổi một con bò vàng.  Hãn nhanh bước đến gần, miệng gọi ‘‘... nhà bác ơi, cho hỏi thăm ! ’’.  Người đó ngừng chân, ngoảnh lại ngơ ngác, tay đưa lên má vân vê túm lông mọc trên một cái nốt ruồi to bằng đồng chinh bên má.  Trãi thở hồng hộc đuổi theo.  Ðến chỗ hai người, Trãi vấp vào một mô đất, ngã chúi xuống.  Hãn vội đỡ, miệng lại đùa ‘‘ Chú em tôi là loại văn nhược, quen chốn kinh kỳ ! ’’.  Miệng suỵt bò, người kia cộc lốc ‘‘ Hỏi gì ? ’’.  Hãn đáp ‘‘ Nhà bác có biết đại đầu mục họ Lê ở Lam Sơn đâu không ? ’’.  Lại vân vê nốt ruồi, người đó lạnh lùng ‘‘ ...vào trong kia mà hỏi ! ’’.  Tay chỉ về Tây, hắn quay ngoắt người, miệng suỵt bò, đi thẳng về phía Ðông.
   
Khi bóng dương loạng choạng ngã xuống cánh rừng chồi, một dãy nhà sàn hiện ra trong tầm mắt.  Vắt vẻo trên những dãy cột  cắm vào lòng đất, nhà thấp cao khác nhau, nương vào triền đồi vạt ngang thành ruộng mạ đang độ mọc xanh non.  Một đám tráng đinh đã đợi sẵn Trãi và Hãn.  Họ quấn khăn trên đầu, mặc áo cụt, chân trần, tay lăm le đinh ba, mã tấu.  Ðưa hai người đến căn nhà bề thế nằm cuối dãy, họ vào thông báo.  Lát sau, ba người trong nhà bước xuống thang, một trong bọn xông lên, miệng cười hớn hở:
   
- Thế là hai bác.  Em đây...

Trước mặt Hãn và Trãi là Hà Trí Viễn.  Trãi reo :
   
-  Ối giời đất, chú đấy à !  Mất  tăm mất tích cả hai năm ròng, giờ thì hóa chú ở đây...
   
- Em đến mới bốn tháng nay, từ ngày đại đầu mục đánh chiếm Mường Yên.  Nhìn Trãi, Viễn ngần ngừ - Sau khi rời Nhị Khê, em vào Nghệ An rồi về Hà Tĩnh.  Hỏi biết bác đã gặp bác Hãn, em yên tâm.
Chưa kịp hàn huyên, đã có tiếng giật gọi.  Viễn đẩy Trãi và Hãn lên thang, miệng thì thào ‘‘ Hai bác cứ lên đi…’’.
   
Lên đến tầng trên, hai người trung niên bước ra vái chào rồi đưa khách vào phòng bên.  Cửa mở, một tráng niên xấp xỉ bốn mươi tuổi, người tầm thước nhưng to ngang, đứng lên.  Tay vê nốt ruồi có túm lông má phía trái, người đó cất tiếng, thanh âm trọ trẹ :
   
- Xin chào hai vị.  Lẽ ra là phải nghênh tiếp hai vị trưa nay, nhưng lúc đó lại bận chăn bò.  Giọng dí dỏm, người đó nhìn vào mắt Hãn, tiếp - Vả lại, bui có xưng là Lê Lợi lúc đó thì quí vị hẳn chẳng tin.  Kẻ nghịch ngạo vừa phá Mường Yên mà gặp ai cũng xưng tên xưng tuổi như thế thì chẳng khác nào là tự mình đưa cổ vào tròng cho giặc Ngô à...
Hãn nghiêng người, tươi cười :
   
- Cẩn trọng là yếu tố thành đại sự.  Cho theo giám sát chúng tôi từ lúc vào địa phận Ngọc Sơn và Lư Sơn, quả đại đầu mục đã không xem thường ngay cả chuyện nhỏ. Lại có Hà Trí Viễn, chắc hẳn đầu mục biết rõ tông tích  chúng tôi rồi.

Cười xòa, Lê Lợi mời hai người vào.  Trong phòng lúc đó chỉ rặt bọn võ  tướng, trừ Lê văn Linh là một kẻ có bõ bẽ học hành.  Ngoài bọn Lê Sát, Lê Ngân, Lê Nễ còn có Lưu Nhân Chú, Ðinh Lễ... trong đám hội thề Lũng Nhai.  Lợi lên tiếng :
   
- Chúng ta bàn việc ngay, để đến tối sẽ cùng nhau uống dăm chén rượu.
   
Việc bàn bạc khá chậm, phần vì Lợi thận trọng, từng bước thăm dò lực lượng nghĩa quân Mường Thôi.  Buổi tối, cỗ dọn ra.  Quây quanh những chiếc mâm đồng la liệt chén đĩa và từng tảng thịt lợn, đám võ biền tự tay lấy dao xẻ, bốc chấm nước mắm, nhai rau ráu.  Nhìn Lợi cắt miếng tai lợn cắn sồn sột, Trãi nói nhỏ vào tai Hãn :

- Bà Chúa Tiên Dung lỡm ta mất rồi !

Hãn nhìn Trãi giễu cợt,  thì thào :
 
- Cứ  để xem !

Quay về phía Lợi, Hãn đưa bát rượu lên ngang trán chúc mừng đại đầu mục cùng chư vị nghĩa sĩ Lam Sơn, cười lớn rồi uống ừng ực một hơi cả bát.
   
Sau hai ngày bàn bạc, Lê Lợi thỏa thuận đưa một cánh quân xuống trợ giúp nghĩa quân Mường Một khi
Lý Bân động binh xuống đánh.  Nếu thắng, không nói làm gì.  Trong trường hợp thua, nghĩa quân có thể lui đến sách Lư Sơn thuộc địa phận Lợi kiểm soát.  Hãn hiểu mình là ở vòng ngoài, Lợi sẽ có thêm lực lượng bảo vệ Lam Sơn, nhưng không nói gì thêm.  Trong đầu, Hãn tính phải đóng thuyền và xây dựng một đội thủy  binh.  Khi cần, dùng đường biển mà chạy.  Và xét cho kỹ, thủy binh sẽ tạo sức ép vào Tân Bình và Thuận Hóa.  Lúc thời cơ tới, đó  là lực lượng đánh từ ranh giới Chiêm xuống.  Phối hợp với quân bộ từ Thanh Hóa tiến vào Nghệ An thì cái khả năng chiếm được phần cực Nam của Ðại Việt làm bàn đạp là có.
Hãn lân la tìm Viễn nhưng lúc nào cũng có người đi theo giám sát, không hỏi được gì thêm.  Bề ngoài nhìn, rất khó đánh giá lực lượng thực sự của Lợi.  Hãn hỏi thẳng :
   
-  Ðầu mục giúp được bao nhiêu quân ?
   
-  Năm trăm, thêm voi hai thớt và một trăm dũng sĩ đội Thiết Ðột !
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM