T-64B
Bản vẽ của T-64B
Tuy nhiên mẫu T-64 hiện tại vẫn có trục trặc: cơ cấu của động cơ 5TDF tại nơi sản xuất nó khiến cho nó không được cung ứng đầy đủ cho các nhà máy sản xuất xe tăng chính của Liên Xô: Malyshev tại Kharkov, Kirov tại Leningrad và Uralvagonzavod
Ngay từ năm 1961, bên cạnh Obyekt 432, một mẫu tăng khác mang động cơ 12 V-xilanh V-45 mang tên Obyekt 436 cũng được nhóm của Morozov nghiên cứu. Ba mẫu thử nghiệm đã được kiểm tra ở nhà máy Chelyabinsk vào năm 1966. Sau đó mệnh lệnh được ban ra là phải phát triển một mẫu tăng mới từ Obiekt 434 và sử dụng động cơ V-45, lấy tên là Obiekt 439. Bốn chiếc 439 đã được sản xuất vào năm 1969, được đánh giá là có độ cơ động ngang với mẫu T-64 đang được sản xuất hàng loạt. Mặc dù 439 không được đưa vào chế tạo đại trà nhưng nó là cái sườn cho việc phát triển T-72.
Vào đầu thập niên 1970, nhóm thiết kế T-64 lại tiếp tục suy nghĩ phương cách cải tiến các mẫu tăng của mình xa hơn nữa. Mẫu T-64A-2M với động cơ mạnh hơn và tháp pháo được cải tiến, trở thành tiền đề cho hai mẫu tăng dưới đây:
- Obiekt 476 trang bị động cơ 6TD 1000 mã lực (735 kW) là tiền đề cho xe tăng T-80.
- Obiekt 447 với hệ thống điều khiển bắn mới, thiết bị đo xa dùng laser và có thêm khả năng bắn tên lửa ATGM qua nòng pháo.
Sau đó, mệnh lệnh ban xuống yêu cầu bắt đầu việc sản xuất đại trà obiekt 447 dưới cái tên T-64B. Đồng thời, obyekt 437 (mẫu mà 447 lấy làm nguyên mẫu với 95% chi tiết giống như 447 nhưng không có hệ thống dẫn hướng tên lửa để tiết kiệm chi phí) cũng được sản xuất với số lượng gấp đôi dưới cái tên T-64B1. Vào ngày 9 tháng 3 năm 1976, T-64B và T-64B1 sau khi được đánh giá tốt về chất lượng đã chính thức phục vụ trong quân đội Liên Xô, với trang bị mới là khẩu pháo D-81Tm (2A46-2) cùng thiết bị ổn định 2E26M, thiết bị nạp 6ETs40 và hệ thống điều khiển bắn 1A33, bao gồm:
- Thiết bị tính đường đạn 1V517.
- Thiết bị ngắm 1G21 với một máy đo khoảng cách dùng laser.
- Một cảm biến cross-wind 1B11.
T-64B có khả năng lội nước sâu tới 1,8 mét mà không cần các thiết bị hỗ trợ. Nó cũng có thể bắn tên lửa ATGM 9M112 Kobra (NATO gọi là AT-8 Songster). Dự trữ đạn dược của xe tăng là 28 viên đạn và 8 tên lửa. Hệ thống điều khiển tên lửa đặt phía trước xe tăng đã có nhiều thay đổi. Còn T-64B1 không có tên lửa mà chứa 37 viên đạn 125 ly cùng với băng đạn 2000 viên dành cho đại liên đồng trục 7,62 ly, trong khi đó T-62B mang băng đạn 1250 viên.
Năm 1981 T-64B được nâng cấp với khẩu pháo 2A46M1, thiết bị ổn định 2E42 và 2 cụm ống phóng lựu đạn khói 902A "Tucha-1" đặt hai bân tháp pháo. Hai phiên bản chỉ huy của T-64B cũng ra lò: T-64BK và T-64B1K, trông rất giống T-64AK.
T-64BV
Vào tháng 10 năm 1979 động cơ 6TD được đưa vào sản xuất hàng loạt và được trang bị cho các xe tăng T-64B, B1, A, AK, thế là ra đời các mẫu tăng mới: T-64AM, T-64AKM, T-64BM và T-64BAM.
Năm 1987, Liên Xô ngừng sản xuất tất cả các mẫu tăng T-64. Tổng số lương T-64 lúc này là gần 10700 chiếc.
Thông số chung của T-64
• Tên gọi: T-64
• Phân loại : xe tăng chủ lực
• Khối lượng chiến đấu: 42,4 tấn
• Kíp xe: 3 người
• Các kích thước :
+ chiều dài trước cùng pháo: 9225mm
+ chiều rộng: 3290mm
+ chiều cao: 500mm
• Khoảng sáng cách đất: 500mm
• Vũ khí:
+ pháo nòng trơn 125mm – thiết bị phóng 2A46-2
+ cơ số đạn: 36 phát bắn
+ súng máy đồng trục 7,62mm và súng phòng không 12,7mm (bổ sung từ nguồn khác)
• Động cơ công suất 700 sức ngựa
• Tốc độ trên đường nhựa: 60km/h
• Tầm hoạt động theo đường nhựa: 500km
• Khả năng vượt chướng ngại vật
+ tường cao: 0,8 mét
+ hố rộng: 2,7 mét
Các phiên bản
- Obyekt 430 (Dự án 430) (1957) – Mẫu thử với pháo 100-mm D-10T, giáp dày 120 mm, động cơ 4TPD 580 hp (427 kW), trọng lượng 36 tấn.
- Obyekt 430U (Dự án 430U) – Kế hoạch thiết kế mẫu xe tăng trang bị pháo 122 mm và giáp 160 mm.
- T-64 hay Obyekt 432 (Dự án 432) (1961) – Mẫu thử một khẩu pháo D-68 115-mm, khoảng 600 chiếc được sản xuất.
- T-64R hay Obyekt 432R (Dự án 432R) – Mẫu thiết kế lại trong giai đoạn 1977-1981, với cơ cấu bên ngoài từ T-64A nhưng vẫn giữ lại pháo 115-mm.
- T-64A hay Obyekt 434 (Dự án 432) – Trang bị pháo 125-mm, lắp giáp yếm chắn, cải thiện tầm nhìn, và hệ thống treo.
- T-64T (1963) – Phiên bản thử nghiệm với động cơ tuabin khí GTD-3TL 700 hp (515 kW).
- Obyekt 436 (Dự án 436) – Phiên bản lựa chọn khác cho dự án 432, with a V-45 engine, three built.
- Obyekt 438 và Obyekt 439 (Dự án 438 và Dự án 439) – Obyekt 434 với động cơ đi-ê-den V-45.
- T-64AK hay Obyekt 446 (Dự án 446) (1972) – Phiên bản chỉ huy, với 1 hệ thống liên lạc vô tuyến R-130M và anten, một hệ thống dẫn đường TNA-3, không có súng máy phòng không, mang theo 38 viên đạn cho pháo chính.
- Obyekt 447 (Dự án 447) – Mẫu thử của T-64B. Về cơ bản là T-64A trang bị hệ thống 9K112 "Kobra" và ngắm bắn a1G21. Hiện đang trưng bày tại bảo tàng Kiev.
- T-64B hay Obyekt 447A (Dự án 447A) (1976) – Trang bị giáp được thiết kế lại, hệ thống điều khiển hỏa lực 1A33, hệ thống ATGM9K112-1 "Kobra" (mã của NATO "AT-8 Songster"), thiết bị ngắm TPN-1-49-23, pháo 2A46-2, thiết bị ổn định 2E26M và máy nạp đạn 6ETs40. Sau đó kiểu B/BV có các hệ thống hiện đại hơn là 1A33-1, TPN-3-49, 2E42 và pháo 2A46M-1. Từ năm 1985, T-64B được trang bị với giáp phần chính diện xe khỏe hơn, những chiếc xe tăng cũ hơn được nâng cấp với các tấm giáp 16-mm. Các xe tăng được trang bị động cơ 1,000 hp 6DT được gọi là T-64BM.
- T-64BV – Trang bị hệ thống giáp phản ứng "Kontakt-1" và hệ thống phóng lựu đạn khói "Tucha" 81-mm ở phía bên trái tháp pháo.
- T-64BM2 hay Obyekt 447AM-2 (Dự án 447AM-2) – Trang bị hệ thống giáp phản ứng "Kontakt-5", các tấm chắn bảo vệ bằng cao su, hệ thống hỏa lực 1A43U, máy nạp đạn 6ETs43 và khả năng bắn đạn tự hành 9K119 (mã của NATO "AT-11A Sniper"), động cơ 5TDFM 850 hp (625 kW).
- T-64U, BM Bulat, hay Obyekt 447AM-1 (Dự án 447AM-1) – Phiên bản hiện đại hóa của Ukraina, nâng cấp T-64B với tiêu chuẩn của T-84. Trang bị hệ thống giáp phản ứng "Kontakt-5", đạn tự hành 9K120 "Refleks" (mã của NATO "AT-11 Sniper"), hệ thống hỏa lực 1A45 "Irtysh", hệ thống ngắm cho sỹ quan TKN-4S, hệ thống ngắm bắn cho súng phòng không PZU-7, kính ngắm đêm TPN-4E "Buran-E", động cơ 6TDF 1,000-hp (735 kW).
- T-64B1 hay Obyekt 437 (Dự án 437) – Giống như phiên bản B, nhưng không có hệ thống điều khiển hỏa lực, mang 37 viên đạn.
- T-64B1M – T-64B trang bị động cơ 1,000-hp 6DT.
- T-64BK và T-64B1K hay Obyekt 446B (Dự án 446B) – Các phiên bản chỉ huy, với hệ thống liên lạc vô tuyến R-130M và anten, hệ thống dẫn đường TNA-3 và AB-1P/30 APU, không có súng máy phòng không, mang 28 viên đạn pháo.
- Obyekt 476 (Dự án 476) – 5 mẫu thử với động cơ 6TDF, đây là các nguyên mẫu cho việc phát triển T-80UD.
- BREM-64 hay Obyekt 447T (Dự án 447T) – Xe hỗ trợ sửa chữa giáp với 1 cần trục hạng nhẹ 2.5 tấn, lưỡi ủi đất phía trước, thiết bị hàn... Chỉ có một số lượng nhỏ được chế tạo.
- T-55-64 – T-55 nâng cấp lớn với phần thân và khung gầm của T-64, trang bị giáp phản ứng nổ "Kontakt-1". Nguyên mẫu.
- T-80 và T-84 là phát triển xa hơn của T-64.
Các phiên bản hiện đại hóa
- T-64 : 1977–1981 – nâng cấp với tiêu chuẩn của T-64R, tổ chức lại các thiết bị bên ngoài thân như T-64A.
- T-64A/AK :
+ 1972 - thiết kế lại, cải tiến hệ thống hỏa lực (TPD-2-49 và TPN-1-49-23), bao gồm súng máy NSVT trên một tháp pháo điện, máy radio R-123M.
+ 1975 - thiết kế lại, bộ thăng bằng mới 2E28M, máy nạp đạn 6ETs10M, động cơ hỗn hợp, pháo 2A46-1 và kính nhìn đêm TNPA-65.
+ 1981 - thiết kế lại, 2 khối với 12 súng phóng lựu đạn khói 902A, các tấm đệm cao su ở hệ thống treo thay cho các tấm bảo vệ yếm.
+1983 T-64AM,T-64AKM, một số chiếc được trang bị với động cơ 6TDF trong khi bảo quản.
- T-64B/B1/BK/B1K :
+ 1981 - thiết kế lại, 2 khối gồm 8 súng phóng lựu đạn khói 902B2, pháo 2A26M1.
+1983 T-64BM,T-64B1M,T-64BMK và T-64B1MK: một số chiếc được trang bị với động cơ 6TDF trong khi bảo quản.
+ 1985 T-64BV,T-64B1V,T-64BVK và T-64B1VK: trang bị giáp phản ứng nổ "Kontakt", súng phóng lựu đạn khói ở bên trái tháp pháo.
+ BM Bulat – T-64 hiện đại hóa bởi Nhà máy Malyshev ở Ukraina.[1] 17 chiếc được đưa vào sử dụng trong quân đội Ukraina năm 2005
Các xe chiến đấu và xe công binh trên gầm T-64
- BTRV-64 – Tương tự như phiên bản APC.[4]
- UMBP-64 – Phiên bản sửa đổi sẽ hoạt động về cơ bản như các xe chuyên dụng trên chiến trường (đang lên kế hoạch), bao gồm một xe hỗ trợ hỏa lực, một xe cứu thương và một xe phòng không.
- BAT-2 – Xe công binh chiến trường hỗ trợ nhanh, với động cơ, thân và hệ thống treo của T-64.
BMPV-64 (БМПВ-64)
BMPV-64 (БМПВ-64) là xe thiết giáp đã có sẵn giáp thân xe là giáp thép tổng hợp của xe tăng, đã được thử nghiệm qua chiến trường, để tăng cường thêm sức chịu đựng các loại tên lửa chống tăng, được tăng cường thêm giáp phản ứng nổ. Phần đáy xe tăng đã có lớp giáp chịu đựng được mìn chống tăng đến 4 kg thuốc nổ, sẽ được tăng cường thêm lớp vỏ thứ hai nhằm giảm khả năng tổn thất do mìn chống tăng. Đồng thời, BMPV-64 (БМПВ-64) sẽ được trang bị hệ thống bảo vệ tích cực (Zaslon). Như vậy, với chiều cao thấp, lớp vỏ được tăng cường, đồng thời có hệ thống bảo vệ chống tên lửa chống tăng, xe bộ binh cơ giới được bảo vệ tương đương với các xe tăng hiện đại.
Động cơ của xe BMPV-64 được đặt ở phía trước. Các nhà thiết kế đã quay ngược lại hoàn toàn thân xe, như vậy, nếu so với xe tăng truyền thống, thì xe bộ binh cơ giới BMPV-64 đi ngược lại so với xe tăng. Vị trí động cơ ở phía trước tạo thuật lợi cho bố trí khoang bộ binh ở phía đằng sau, đồng thời tăng thêm khả năng bảo vệ cho kíp xe và bộ binh.
Cửa khoang bộ binh cơ giới được thiết kế ở phía sau của đuôi xe. Đây là điểm khác biệt được các nhà thiết kế xe tăng của nhà máy chế tạo xe tăng Kharcov thực hiện nếu so sánh với các trung tâm thiết kế khác của Nhà máy sử chữa xe tăng Kharcov và các nhà chế tạo xe cơ giới Liên bang Nga. Nếu so sánh với các xe bộ binh cơ giới hạng nặng của Liên bang Nga như xe BMO-T, DPM-72 (БМО-Т, ДПМ-72), xe bộ binh cơ giới BMPV-64 của Ucraina có được khoảng không gian lớn hơn và điều kiện tốt hơn cho bộ binh khi bố trí vị trí trong thân xe.
Mẫu xe BMPV-64 được trang bị hệ thống điều khiển hỏa lực từ xa với pháo 30mm, và súng trung liên song song 7,62mm. Đồng thời, hệ thống cho phép có thể sử dụng module các loại súng khác như đại liên 14,5mm, 12,7 mm hoặc tên lửa chống tăng và súng máy 7,62mm phụ thuộc vào yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Động cơ của xe BMPV-64 sử dụng là động cơ đa nhiên liệu 5TDF, công suất động cơ là 700 sức ngựa. Xe cũng có thể được lắp động cơ sản xuất tại Ucraina công suất 1000 sức ngựa. Với động cơ này xe có thể đạt tốc độ cơ động lên đến 75km/h trên đường nhựa.
Có nhiều phương án thiết kế đối với xe BMP được sử dụng: sở chi huy cơ động của đơn vị bộ binh, pháo tự hành cho súng cối tiêu chuẩn 120mm, xe cứu kéo, xe cứu thương chiến trường. Việc nâng cấp và cải tiến cho phép có thể đặt lên thân xe BMP các module chiến đấu có khối lượng lên đến khoảng 22 tấn. Khi hoàn thiện và lắp đặt thiết bị, xe BMPV-64 có khối lượng 32,5 tấn. Xe có thể bố trí 12 chiến sĩ bộ binh và chiến sĩ kíp lái.
Xe được biên chế trong quân đội Ucraina và từng bước thay thế xe BMP đã cũ. Đồng thời, sử dụng thân xe T-64 sẽ làm giảm đi các chi phí chế tạo các xe bộ binh cơ giới mới, đồng thời giảm chi phí trong quá trình huấn luyện chuyển giao kỹ thuật. Xe cũng được giới thiệu để phục vụ cho xuất khẩu.
Thông số kỹ thuật thân xe. BMPV-64 :
- Kíp lái : 3 người
- Tiểu đội bộ binh : 12 người
- Khối lượng : 32500 kg
- Công suất động cơ : 1000 sức ngựa.
- Tốc độ tối đa : 75 km/h
- Dự trữ hành trình :
+ đường nhựa: 800 kmm
+ rãnh sâu: 1,8 mét (có sự chuẩn bị: 5 mét).
- Hỗ trợ: 17,62; 1/12,7
- Độ dày giáp đầu: 200+giáp phòng ngự D3
- Độ dày giáp bên: 80
---------------------------------------
Nếu bạn đơn thuần là chỉ xào nấu lại từ wiki và vietnamdefence thì cũng nên ghi nguồn chứ