2.“Kẻ thù buộc ta ôm cây súng!”
Cuối năm 1971, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn ác liệt và quyết định. Ta và địch đều dốc lực. Miền Bắc tổng động viên, huy động nhập ngũ cả sinh viên và giảng viên, lực lượng vẫn được xem là vốn để dành cho tương lai của nước nhà. Phải có hôm nay mới có ngày mai. Đó là ngày
6/9/1971 lịch sử. Nhiều nghìn sinh viên, giảng viên đã rời giảng đường, nhập ngũ.
Những người ngày ấy ra đi, sau còn sống trở về, lập nên “Hội Sáu Chín Bảy Mốt – 6/9/71”. Có cả những đàn anh đi trước, như anh Phạm Tiến Duật, lính Sáu Tư, những đàn em đi sau, như bạn Lê Xuân Tường, lính Bảy Hai, cũng xin bằng được một “Suất Bảy Mốt”. Hội lính tráng, có quyền lợi, bổng lộc gì đâu mà “suất”, mà xin, cứ đầu tháng Chín, sau Quốc khánh ít ngày, nhớ ới nhau một câu, thế thôi, là lại có dịp nhâm nhi vui buồn, dưng dưng, ăm ắp kỷ niệm lính.
“Bạn ơi! Chuẩn bị xong chưa? Khoác ba-lô ta cùng đi” (Q.1-Tr.3)Lời bài hát quen thuộc thời đó được trích lại ở ngay trang đầu cuốn nhật ký thứ nhất, như một lời tựa, cô đọng, thúc giục. Nhưng thực sự đâu cần chuẩn bị. Miền Bắc, miền Nam, đã sôi sục từ đầu những năm 60, sau máy chém 10/59, rồi thảm sát Phú Lợi, chiến thắng Ấp Bắc, Núi Thành, sự kiện 5/8/1964, chiến thắng Khe Sanh, ... Cả dân tộc, lúc nào cũng chuẩn bị xong, cũng sẵn sàng, khoác ba-lô là đi.
Năm ấy, tôi đang nghỉ hè ở quê thì nhận được giấy báo lên trường tập trung. Biết chắc là sẽ “đi bộ đội”. Thế là chào Thầy Mợ và em gái, không mời mọc, cỗ bàn liên hoan, cũng không bịn rịn nước mắt, tôi xuôi Hà Nội.
Mùa hè năm đó có lũ lớn, đê sông Hồng vỡ ở Cống Thôn, quê tôi lũ tràn bờ thuỷ lợi, mênh mông nước. Bé Lê, học sau tôi 2 lớp, trốn mẹ tiễn đưa tôi hơn hai chục cây số theo quốc lộ 2 trên chiếc xe Phượng Hoàng xích hộp. Đến quãng đường ngập nước đâu đó gần Xuân Canh, 2 đứa chia nhau trái na cuối vụ rồi chia tay, em tần ngần quay về còn tôi đi vòng vèo tiếp lên đê ven Đuống, về Hà Nội. Lên văn phòng khoa, thấy có tên mình trong danh sách 17 người của lớp Lý 1 (lớp B1), thế là đi. “Tiền tuyến gọi”, như tên một bộ phim nổi tiếng thời đó. Chỉ cần đủ sức khoẻ, không phải diện chính sách, không phải con một, trúng tuyển là đi. Không ồn ào, hô hét, chỉ thoáng bịn rịn, bâng khuâng. “Nghĩa vụ quân sự”, không cần huyết thư xin đi, cũng không có đơn xin ở lại. Thật sự tự nhiên, nhẹ nhàng như hơi thở.
"Giấy báo nhập ngũ" -
Ngày ấy là: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ... Ủy ban hành chính xã ...
Sinh viên Đại học tổng hợp được biên chế gọn vào 2 đại đội. Sinh viên các khoa Lý, Sinh, Sử vào đại đội 23 (c23), các khoa Toán, Hoá, Văn và các thầy vào c24, sinh viên Đại học Nông nghiệp vào c22, cùng thuộc tiểu đoàn 6 (d6), trung đoàn 101 (e101), sư đoàn 325 (f325). Trường cấp III Bến Tre thị xã Phúc Yên của tôi khoá Bảy Mươi được 3 đứa vào Đại học Tổng hợp, Phạm Nguyên Bảng lớp Văn, Nguyễn Vinh Lan lớp Hoá và tôi lớp Lý, thì cả 3 lại cùng nhập ngũ đợt này. Lớp Lý 1 đi 17 người, tách 2 đứa, Hùng “cóc” và Khiết đi công an vũ trang, còn thì về cả c23, phân vào 2 trung đội. Bình “răng vàng”, Chính “nẹp”, Khoa, Kính và Phúc về b2, còn 10 đứa: Dũng, Hạnh, Hiệc, Hùng, Minh, Phải, Phú, Sơn, Tốn, và tôi về b3. Tôi được phân về tiểu đội 8, tiểu đội lại chia thành 4 tổ tam-tam. Tổ của tôi có Lê Minh, Xích Hạnh và tôi. Tôi được cử làm tổ trưởng, chức bé như chân kiến nhưng là “chức” đầu tiên trong đời.
Những ngày đầu đóng quân ở Sở Thượng, một làng ven đô thoang thoảng vị tanh của một làng cá ven sông Hồng và bồng bềnh những ao bèo tây ngợp hoa, mỗi cánh hoa như chiếc lông đuôi công, có đính một mặt trời tím biếc, nhỏ xíu xịu.
Tổ tôi được phân ở nhà chị Dịu. Nhà có 4 người, toàn là phụ nữ, mẹ chị, chị và 2 em gái. Lần đầu tôi thực sự hiểu thế nào là tình Quân – Dân – Cá - Nước. Tuổi ăn, tuổi ngủ mà bữa cơm lính đầu tiên, đêm lính đầu tiên, tôi đã trằn troài, nhớ lại đề văn luyện thi học sinh giỏi từ hồi lớp 7, lớp cuối cấp II thời đó: “Đêm đầu tiên bé Tý ở nhà Nghị Quế”.
6/9/71
Ôi cuộc đời và thời gian. Có ai biết trong đầu Tài đang nghĩ gì? Ngoài kia, nghe cuộc đời trăn trở, bịn rịn trên khoé mắt đỏ hoe của bạn bè !!
Xe đưa mình đi. Từ nay là bộ đội rồi.
Thấy trong lòng mình xốn xang, rạo rực vô vàn ý nghĩ khi nuốt miếng cơm đầu tiên của đời bộ đội.
Đêm nằm nhớ lại cái đề văn của thầy Dục: “Đêm đầu tiên bé Tý ở nhà nghị Quế”! - Sở Thượng. (Q1-Tr.8 )Thử thách đầu tiên là lần đi lấy gạo ở Ba Hàng. Cán bộ khuyến khích mượn quang gánh của dân, gánh được nhiều và dễ hơn so với địu bằng ba-lô. Mỗi đứa chỉ toòng teng hai chục cân gạo mà cả lũ “dài lưng tốn vải” bò lê, bò càng ra mấy cây số đường. Tôi còn đỡ, vì thời ở quê đã từng kẽo kẹt gánh phân, gánh mạ ra đồng, đi lấy củi trong Tam Đảo, chứ Chính “nẹp”, dân thị xã Vĩnh Yên, thân hình lòng khòng như que củi, lần đầu tiên trong đời đặt chiếc đòn gánh tre lên xương bả vai, đau rát như ai cắn, phải lót hẳn chiếc khăn mặt lên chỗ vai đặt đòn gánh vẫn không chịu nổi. Đã là gánh thì phải một tay đặt lên đỡ hờ trên đòn gánh, tay kia vung vảy nhịp nhàng, đỡ nặng. Nhưng Chính lại dùng cả 2 tay nâng đòn gánh lên ngang tai, gánh bằng tay, lắc lư, bùng biêng như người cử tạ, mặt mũi đỏ găng, nom ngồ ngộ, thương thương.
Được 3 tuần, cả đơn vị được lệnh hành quân rời Sở Thượng, nhưng chưa rõ đi đâu. Tạm biệt Sở Thượng, nơi tôi đã nhận 5 đồng “lương” đầu tiên trong đời mà lính thường gọi là “phụ cấp binh nhì”. Rời khỏi Sở Thượng, chúng tôi hành quân về phía ga Văn Điển. Đoàn quân có dừng lại nghỉ bên bờ một nhánh sông nhỏ, không biết sông Tô Lịch, sông Nhuệ hay sông Đáy, để chờ lên tàu quân sự.
Đó là đêm 11/8 âm lịch, gần trung thu. Trời đẹp, mảnh trăng non thượng tuần lặn sớm, để lại vòm trời ngút ngàn sao, trông như một ruộng mạ mênh mông, vô bờ, ai mới quải ban chiều, không đều tay, mạ chưa kịp ngồi, mống mạ còn li ti trắng. Không gian cuối thu ngạt ngào, thơm thảo mùi lúa ngậm đòng lẫn với mùi mồ hôi và quần áo mới của lính trẻ. Tốp lính c24 phía trước, nghe rõ giọng Hoàng Nhuận Cầm, khoa văn, say sưa, nghiêng ngả hát. Tiếng ghi-ta bập bùng lẫn với nhịp thìa gõ lanh canh vào vung nồi quân dụng, nghe không hẳn vui, không hẳn buồn, rất lính.
Chuyến tàu quân sự lùi lũi chạy từ phía Hà Nội xuống. Vậy là sẽ đi vào phương Nam. Nhưng khi bộ đội đã lên chật toa, thật bất ngờ, tàu lại chạy ngược về phía ga Hà Nội, qua cầu Long Biên, chạy lên phía Bắc. Tàu chạy tuyến Thái Nguyên, suốt đêm, trưa hôm sau đỗ lại giữa đường, ven rừng, không thấy cột ghi, không thấy nhà ga, chỉ bạt ngàn những rừng mỡ song sóng dưới nắng trưa. Lính xuống tàu, hành quân qua những vạt đồi với những địa danh chưa một lần nghe thấy: Mỏ Trạng, Cầu Gồ, Nhã Nam.
C23 đóng quân ở xóm Mạc, trên mấy quả đồi gần nhau, nhìn chếch sang dinh cụ Đề Thám, rất gần. Yên Thế đang giữa mùa hoa ké, chớm sang mùa hoa dẻ. Đắp thao trường, nhận súng AK, tập gói bộc phá, tập ném lựu đạn thật, rồi xạ kích bài I, bài II, bia chữ A, bia thằng còm. Đời tân binh, tuần tự.
29/9
Xin chào Sở Thượng. Sở Thượng thắm thiết tình người. Sở Thượng đầm ấm, trù phú của hạ du. Sở Thượng có bờ đê và gió nhẹ, tanh nồng mùi của sông nước Nhị Hà. Sở Thượng có thứ hoa sen Nhật bản ngắm say lòng người. Sở Thượng thân yêu, con người và cảnh vật!
Cảnh hành quân bắt đầu. Đi dưới vòm sao rộng rãi và ngút ngát những đồng lúa. Ráng đỏ cuối cùng ở chân mây đã lịm đi. Lũ tôi cùng thời gian đi vào đêm. Gió xôn xao, rặng dừa thiêm thiếp ngủ.
Lại làng rồi lại 1 làng nữa. Còng lưng xuống cho dễ đi. Bám sát nhau nhé. Lại nhớ nhà rồi à? Hò lên đi. Lại vui rồi. Lại đi thôi.
Qua Hà thành. Điện lờ mờ, bịn rịn, cây im lìm lưu luyến.
Kìa Parabol cổng trường Bách khoa úp xuống mặt đường. Kìa liễu công viên. Kìa tất cả của hạ du … Đêm rỉ rả côn trùng và lao xao âm điệu tự nhiên ... (Q.1-Tr.13)30/9
Nắng gắt. Gắt ghê gớm. Mồ hôi vã ra. Núi đồi rồi. Những tình cảm mãnh liệt bỗng lai láng lên.
“Chiều hành quân qua những đồi hoa sim - Những đồi hoa sim màu tím hoa sim”
Rạo rực trong cảm xúc.
Nghỉ lại ở 1 gia đình người dân tộc. Đây là đỉnh đồi. Tắm suối. (Q.1-Tr.13) 30/9
Lại xuyên đêm mà đi. Rả rích mưa rơi. Hơi nhớ nhà. (Q.1-Tr13)
1/10
Ngày đầu tháng. Ở gia đình một bác nông dân đông con. Đây gần đồng bằng hơn, mặc dù nhà ở lưng đồi. Những ngày vất vả nhất bắt đầu. (Q.1-Tr.14)
5.10
Những công việc thực sự của một người lính. Đắp thao trường.
Lại nói tục một câu với bạn bè rồi. Đáng hổ thẹn quá.
Những rung động sâu sa, những cảm xúc xốn xang, kì lạ ... khi nhận khẩu AK. Một chặng đường mới. Một chặng đời mới.
Súng ơi, còn duyên nợ với ngươi nhiều. (Q.1-Tr17)
1/11
Ngày đầu tiên của tháng sinh nhật đến như mọi ngày thường. Biến cố đặc biệt nhất là Tài bắt đầu được người ta cho làm quen với dư âm của chiến trường. Mình chạy lên như mọi người. Giật nụ xoè. Ném. Lặng đi, không biết gì nữa. Nổ! Thấy khói đen và mùi thuốc khét lẹt. Giữ lại cái dây nụ xoè làm kỷ niệm. Tối, trăng tỏ, trong sáng và mát dịu. Hôm nay đến lượt mình gác đêm đây- X. Mạc (Q.1-Tr.46)
4/11
Đi bắn xạ kích. Đồi dẻ trắng ngà những tán hoa.
Kết quả bi đát của đợt tập và bắn đạn thật. Gửi thư cho Lô và Bố Mẹ (Q.1-Tr49)
15.11
Nào, ghi gì cho ngày hôm nay nào?
Hôm nay, mình không ghi nhật kí vào lúc cuối của một ngày, khi đồng hồ báo lịch nhích sang một ngày mới.
Bây giờ là 3 giờ chiều. Buổi chiều ở đồi xóm Mạc thơm thơm mùi nắng. Cả đại đội đi hành quân rồi. Mình không ngờ cái điều khủng khiếp ấy lại đến được với mình. Vừa sợ, vừa lo, vừa buồn.
Hai tiếng trước, mình đeo gần 30 kg chạy từ đồi xóm Mạc sang đại đội. Tới nơi tập trung để đi hành quân, mình đứng vào hàng, đặt ba lô xuống. Và thế là không biết gì nữa. Chỉ thấy tiếng người xì xầm …, chỉ biết đi, nằm … như một cái máy.
Bây giờ anh y tá vừa dìu mình về nhà. Anh kể lại: ở hàng quân, mình ngã lăn ra đất, rồi lại lồm cồm bò dậy. Lảo đảo, loạng choạng. Mắt chắc là không nhìn thấy gì nữa. Mặt tái mét. Anh em đổ xô lại. Họ kêu mình ở lại, nghỉ, đừng đi. Mình nói lắp bắp như một người không hồn:
- Được, tôi đi được. Đừng báo cáo, tôi đi được.
Rồi chóng mặt, rồi nôn, rồi không biết gì. Họ tiêm, họ cởi quần áo, họ đắp khăn, ... Cứ thế lịm đi hơn 1 giờ.
Mình bị cảm, mình bị ngất.
Cái xác thịt kiêu căng ấy đổ xuống cùng với sự chủ quan của nó. Giờ này mình mới thấm thía, mới hiểu sâu sắc những lời dặn dò mà bao giờ mình cũng cho là công thức và vô nghĩa. Giờ này mình mới hiểu được cái phần xác tồn tại bên cạnh phần hồn của mỗi con người. Giờ này mình mới thấy rõ sự chín chắn của những người lớn tuổi và cái nông nổi chủ quan của mình. Trước mắt chờn vờn bao nhiêu gương mặt. Đầu vẫn nhức ong ong. Mình nằm xuống và mong ngủ được.
Ngoài kia, cuộc sống náo nức, rạo rực đang đợi mày, gọi mày, bỏ xa mày và đe doạ mày. Xóm Mạc (Q.1-Tr. 77)
16.11
Không phải nghỉ để viết mà là bệnh tật bắt mình nghỉ. Nằm nghe, nghe dư âm lẻ loi, tách bạch, rền rĩ, dai dẳng của bên ngoài. Tiếng con mái mơ, tiếng con chào mào, tiếng bầy trẻ nhỏ, … Tất cả dìu dịu đi vào ý nghĩ.
Đúng vào buổi sáng không đi tập vì ốm, mình nằm nhớ đến Bà Ngoại và thấy thấm thía câu nói của L. Tolstôi : “Tôi chỉ thấy trên đời có 2 điều Ác thực sự. Đó là Hối hận và Bệnh tật. Còn điều Thiện chẳng qua chỉ là không có 2 điều Ác này”. (Q.10Tr.78)
21.11
Hôm nay, được ngắm con sông Thương. Đẹp mê hồn. Mới thấy lần đầu mà đã say đắm. Con sông với mặt nước trong như mắt yêu đời, tha thiết và nên thơ làm sao.
“Sao tên sông lại là Thương,
Để cho lòng anh nhớ.,
Người xưa bảo:
Đây đôi dòng lệ nhỏ
Những suối buồn tới gửi mênh mang
Đò về Nhã Nam,
Đò qua Phủ Lạng
Mưa chiều nắng rạng, đã bao năm
Nỗi đau cũ thật không cùng
Sông cũng thành nước mắt”. (Q.1-Tr.83)
22.11
Hôm qua gặp lại ở Bố Hạ bao nhiêu là người thân. Toàn là người cùng làng. Có Trường, bạn cùng xóm, cùng lớp i-tờ, cùng chăn trâu, cùng cày bừa nhọc nhằn, vất vả khi còn ở quê. Gặp Kỳ, bạn học ngây ngô cũ.
Đêm nay sẽ bắn xạ kích bài 2. Hôm qua Tố khổ và Phát động căm thù. Công việc của người lính cứ thuận gió, thuận buồm như là được sắp đặt sẵn vậy. -Đồi Dẻ. (Q.1-Tr.84) Tôi còn nhớ một kỷ niệm bắng nhắng đáng ăn đòn lần đi xin tre làm hội trường đại đội. Tiêu chuẩn, mỗi người xin một cây. Hôm đầu chỉ xin quanh xóm đã đủ. Lính mách nhau: Viết sẵn mấy tờ “Chứng nhận gia đình đã góp tre cho bộ đội”, khi xin chỉ việc hỏi tên chủ nhà, điền vào. Người xin, người cho đều vui. Xóm nhỏ, hơn chục nóc nhà, chỉ mấy hôm sau mỗi nhà đã có dăm tờ chứng nhận, lính đành phải đi xin ở các xóm xa.
Tiểu đội trưởng Thành của chúng tôi ở nhà cô giáo Ngọ. Chúng tôi chưa kịp xin tre nhà cô thì đã thấy một tập giấy chứng nhận đặt trên bàn thờ. Chắc lính các trung đội khác nhanh chân hơn. Nhìn luỹ tre nhà cô còn dày lắm, tôi và Lê Minh bàn kế lười.
Nhà cô giáo chỉ có 2 người, cô giáo và bố cô. Ông cụ mê cờ lắm, rảnh ra lúc nào là rủ bộ đội “làm ván cho vui”. Sáng ấy, tôi giả bộ tranh thủ làm mấy ván cờ với cụ trước khi đi xin tre. Ván đầu cụ thua. Ván sau thua nhanh hơn. Ván thứ 3, đang lúc thế cờ của cụ áp đảo tôi thì như tình cờ, Minh xuất hiện gọi tôi đi xin tre kẻo muộn. Tôi xin phép dừng để tối đánh tiếp. Cờ đang bốc, cụ không cho tôi đứng lên. Rồi chính cụ ra chỉ tay cho 2 đứa tôi chặt phăng 2 cây tre đực dài sượt ngay đầu lũy nhà mình, một cho tôi, một cho Minh. Đủ chưa? Bây giờ thì pháo mã đến tối cũng được. Mấy ván sau và cho đến tận trưa, thế cờ của cụ mạnh như chặt tre. Tôi thua liền liền. Cả già, cả trẻ đều vui. Viết lại kỷ niệm này, xin được xem như một thẻ hương tạ lỗi của 2 đứa trẻ hư là tôi và Minh tới cụ ở nơi vĩnh hằng.
(Còn nữa ...)