Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Năm, 2024, 07:18:28 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Odessa Tổ chức những cựu thành viên SS của Hitler  (Đọc 18212 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #90 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2018, 11:05:23 pm »


        Đây là một khóa Mật Mã hết sức đơn giản, và chìa khóa giải mã dựa trên cuốn Tự Điển Thông Dụng Webster New York Dictionary do Popular Library xuất bản. Ba số đầu tiên trong nhóm sáu số tượng trưng cho trang sách trong cuốn tự điển, số thứ tự có thể là một con số nào đó tự 1 đến 9 : Số lẻ tượng trưng cho cột thứ nhất và số chẵn cho cột thứ hai. Hai số sau cùng trong nhóm sáu số, chỉ số chữ ở cuối cột tính từ trên xuống.

        Josef làm việc không hở tay và nửa giơ sau đọc được bản văn vừa được giải mã. Nội dung của bức điện tín làm chàng điên đầu, vì tầm mức quan trọng của nó, và vì chàng bất lực chưa làm gì được.

        Nửa giờ sau Josef đến gặp Leon tại nhà. Thủ Lãnh nhóm Do Thái cực đoan tại Đức đọc qua bức điện, chưởi thầm trong bụng.

        Leon thở ra :

        « Tôi thành thật xin lỗi bạn. Tôi không thể nào biết được sự việc như vậy ! »

        Hai ngưòi Do Thái này ,không biết được rằng từng mảnh tin vụn vặt đã được gợi đến Mossad trong ngày hôm qua.

        Một mầu tin được điệp viên Israel nắm vững tại Buenos Aires điện về Mossad cho biết có một kẻ lạ mặt đã trả một số tiến tương đương với một triệu Mỹ Kim cho một tên Vulkan nào đó, với mục đích giúp tên sau này hoàn tãt giai đoạn chót trong dự án nghiên cứu !

        Mầu tin thứ hai phát xuất từ một người Do Thái, tòng sự tại một ngân hàng Thụy Sĩ chuyên về dịch vụ chuyển ngân từ những trương mộc bí mật của Đức Quốc Xã đến tay nhân viên ODESSA tại Tây Âu. Mẫu tin nảy nói dền vụ một triệu Đức Kim được chuyến đến một ngân hàng tại Beirut, và được một người lạ mặt mở trương mục tại Ngân hàng này với tên Fritz Wegener rút tiền ra.

        Mẫu tin thứ ba phát xuất từ một viên Đại Tá Ai Cập đặc trách An Ninh tại xưởng 333. Tên này vì cần tiền nên đã tiết lộ cho điệp viên Mossad nằm vùng tại Cairo rằng hiện các hỏa tiễn Ai Cập chỉ còn thiếu có hệ thống điều khiển vô tuyến nữa là có thể rời khỏi dàn phóng, đồng thời cho biết máy vô tuyến viễn khiển của hỏa tiễn hiện được một xưởng máy vô tuyến điện chế tạo ngay trong nội địa Đức Quốc, và dự án này đã làm cho ODESSA hao hụt hàng triệu Đức Kim;

        Cả ba mẫu tin này cùng với hàng ngàn mẫu tin khác được các máy tính điện tử của nhà bác học Youvel Neeman, thiên tài của Israel, diễn biến và suy diễn. Youvel Neeman là người đầu tiên trên thế giới đem máy điện tử ứng dụng vào việc phân tách tinh báo và cũng là cha đẻ của bom nguyên tử Israel.

        Khi trí nhớ thông thường của con người có thể thất bại, các mạch điên tử phức tạp đã kết hợp ba mẫu tin trên lại và phát rà các dự kiện được trữ từ thuở xa xưa, thuở Eduard Roschmann bị tố cáo đội lốt Fritz Wegener năm 1955, và tổng hợp ba mẩu tin trên lại thành một bản phân tách tình báo thật chính xác:

        Josef đi đi lại lại trong căn phòng bí mật của Leon :

        « Bắt đầu từ giờ phút này tôi sẽ ở luôn đây canh máy điện thoại và sẽ không rời khỏi nó nửa bước. Phiền « bạn » kiếm cho tôi một chiếc moto thật mạnh, áo da và nón an toàn. Tất cả những thứ này phải có cho tôi trong vòng nửa giờ nữa, vì khi nào Miller gọi, tôi sẽ phải cấp tốc đến cấp cứu hắn ».   

        « Nếu ngụy tích hắn bị bể thì bạn sẽ không còn dư thì giờ để đến cứu hắn ». Leon mỉa mai.

        « Tôi không ngạc nhiên tại sao bọn ODESSA đã khuyến cáo hắn phải bỏ qua chuyện truy lùng Roschmann. Vì chưa đến gần Roschmann thì đã bị bọn cận vệ phơ rồi ! »

        Khi Leon ra khỏi căn phòng, Josef đọc lại bức điện tín từ Tel Aviv gởi sang;

        BÁO ĐỘNG ĐỎ : Tin tức mới nhất cho biết chìa khóa thành công của dự án hỏa tiễn đang nằm trong tay chủ nhân xưởng Vô Tuyến Điện người Đức hoạt động trong vùng của bạn. Stop. Bí danh VULKAN, và VUL- KAN có thể là Roschmann. Stop. Rút Miller ra khỏi kế hoạch hành quân. Stop. Tìm và thù tiêu Vulkan. Stop. CORMORANT

        Josef ngồi vào bàn, móc khẩu Walther PPK ra. Chàng tháo khẩu súng phòng thân yêu quý và bắt đầu lau chùi, cho dầu vô, lâu lâu đưa mắt liếc nhìn máy điện thoại.

        Trong suốt bữa cơm tối Bayer đóng vai chủ nhân thật hoan hảo, rống cười lên từng hơi mỗi khi Miller hay chính hắn kể được một câu chuyện tiếu lâm đắc ý.

        Miller dọ dẫm lời nói, thử để cập đến vần để thông hành với hẳn hơn năm bảy lần. Lần nào như lần nấy, Bayer chỉ đập mạnh lên vai Miller bảo đừng lo, hãy để hắn chu toàn hết mọi việc.

        Một biệt tài khác hấp thụ được trong nghề làm phóng viên là khả năng uống rượu thật nhiều, nhưng vẫn giữ được sự minh mẫn. Miller không quen uống rượu vang trắng đi kèm theo thức ăn. Mà rượu vang trắng có điểm lợi hại là rất dễ say. Thứ rượu này được dọn ra cho thực khách đựng trong những chậu nước đá bào, để rượu luôn luôn lạnh, vừa uống, và Miller đã có đôi ba dịp đổ nguyên ly rượu vô trong chậu này, khi Bayer đang mãi mê kể chuyên phiếm.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #91 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2018, 11:06:09 pm »


        Khi thức ăn tráng miệng được dọn ra, hai người đã nồc hết hai chai rượu vang. Trong bộ quần áo chật hẹp, mồ hôi Bayer đổ như tắm. Với tác dụng làm giảm cơn « khát nước », Bayer gọi thêm chai thứ ba.

        Miller một lần nữa khoác lên bộ mặt lo âu, cho Bayer biết nếu không có được một sổ thông hành mới, chắc chắn thế nào bọn cớm cũng sẽ tìm ra chàng, vì những gì chàng đã làm tại Flossenburg.

        « Ông cần hình tôi không ? » Miller hỏi, giọng nói đầy lo lắng.

        Bayer càu nhàu :

        « Cần ! Một vài tấm. Chuyện này không quan trọng. Ra tiệm chụp trong hai mươi phút sau là có hình ngay ! Nhưng phải đợi cho râu tóc chú mọc dài ra rối hay đi chụp hình ; lúc đó sẽ không còn ai nhận diện ra chú ! »

        Bayer với tay qua bàn và đặt cánh tay to lớn lên vai Miller. Miller ngửi thấy mùi rượu nồng nặc bốc ngang qua mũi chàng.

        Bayer nói tiếp :

        « Có hình xong xuôi đâu đó rồi, lúc đó tôi sẽ gởi chú đến thằng bạn tôi, và một tuần sau chú sẽ có thông hành mới toanh. Với sổ này chúng tôi sẽ xin cho chú một cái bằng lái xe, dĩ nhiên chú phải thi cho đậu, và một số quốc gia danh bộ. Dưới mắt nhà chức trách, chú là một công dân Đức mới hồi hương sau mười lăm năm sống bôn ba ở hải ngoại. Chú đừng có lo. Đã có Gìa Bayer đây ! »

        Dù Bayer hơi say, hắn vẫn còn làm chủ được lưỡi của hắn. Hắn từ chối không tiết lộ thêm điều gì khác liên quan đến sổ thông hành, và Miller sợ nếu hỏi hắn nhiều quá, hắn sẽ sanh nghỉ.

        Dù đang thèm cà phê, Miller vẫn không gọi cà phê vì sợ chất này sẽ làm cho Bayer nhả hết rượu. Bayer móc tiền ra trả, và khi hai người bước ra khỏi nhà hàng, đồng hồ chỉ đúng mưòi giờ ba mươi.

        «Thật là một đêm tuyệt diệu. Xin cảm ơn ông Bayer !»

         « Ôi có gì đâu !» Bayer nói, khoác áo bành tô lên người.

        « Chắc Stuttgart về đêm không có những trò vui giải trí nào hấp dẫn ? » Miller hỏi, làm mặt ngớ ngẩn.

        « Ha ! Ha ! Chú mày đúng là thằng nhà quê, và ngu ngốc nữa ! Chú tưởng bề ngoài thành phố này sao thì bên trong như vậy ? Thành phố Stuttgart mà ăn chơi về đêm thì đ... có thành phố nào trên thế giới sánh bằng. Sơ sơ mới có vài ba chục hộp đêm thôi ! »

        « Ông muốn nói hộp đêm với mấy cô con gái cởi quần áo ? » Miller hồi thật ngây thơ.

        Bayer ra mặt dân chơi :

        « Bộ chú mày tưởng trong đó người ta làm gì ? Đọc sách hả! Đ.M sao mà ngu quá vậy. Con gái không thoát y thì làm cái gì chớ !! »

        « Stuttgart có những hộp đêm nào độc đáo đâu tỏi không thấy ! »

        «Để thằng Bayer này kể cho chú mày nghe sơ sơ vài chỗ. Để coi. À, Moulin Rouge, Balzac, Imperial, Sayonara. Còn một chỗ ác ôn nữa : Madeleine, trên đường Eberhardt...»

        « Eberhardt ? Trời đất ! Trùng hợp gì lạ vậy ? Đó là tên ông chũ cũ cũa tôi tại Bremen, người đã giới thiệu tôi với ông Luật sư tại Nuremberg đó ! »

        « Hay lắm. Vậy chúng ta đi đến đó cho chứ mày biết ». Bayer nói, cầm tay Miller dẫn ra xe.

        Mackensen đền nhà hàng Three Moses vào lúc hai mươi ba giờ mười lăm. Hắn hỏi thăm ông quản lý nhà hàng:

         « Ông Bayer có đến đây không ? »

        « Ông Bayer ? Có. Đêm nay ông ta có ghé, và ra về cách đây chừng nửa giờ ! »

        « Ông Bayer có đến đây với một người đàn ông tóc nâu hớt ngắn và để râu không ? »

        « Dạ thưa ông có. Tôi nhớ cặp này rất rõ. Họ ngồi ở bàn phía kia ». Tên Quản Lý chỉ tay về phía chiếc bàn.

        Mackensen nhét một tờ giấy bạc 20 Đức Kim vô tay tên quản lý, nói :

        « Tôi cần gặp ông Bayer, gấp, nội trong đêm nay ! Vợ ông ta bị lên kinh phong ».

        Tên quản lý làm mặt hoảng hốt.

        « Ông biết họ rời tiệm ăn này đi đâu không ? » « Thú thật với ông, tôi không được biết ». Viên 'quán lý nói xong vẫy tay gọi một anh bồi bàn hỏi :

        « Hanz phải chú hầu ông Bayer và người đàn ông tóc nâu ngồi ở bàn trong góc kia không ? Chú có nghe họ nói định đi đâu sau khi ăn xong không ? »

        « Thưa ông quản lý tôi không nghe ! » Tên quản lý xoay qua Mackensen nói :

        « Hay ông thử hỏi con bé giữ nón và áo bành tô xem sao, có thể nó nghe lóm được vài điều gì ! »

        Mackensen đến hỏi cô gái giữ nón và áo bành tô, nhưng cô này không biết gì hết.

        Tên đao phủ thủ của ODESSA bỗng nảy ra một ý kiến hay. Hắn hỏi mua một tạp chí du lịch nói về sinh hoạt của Stuttgart về đêm, và duyệt qua danh sách những hộp đêm của thành phố này.

        Hắn rời khỏi nhà hàng Three Moses, quay ra xe bắt đầu cuộc tìm kiếm Bayer và Miller qua các hộp đêm.

        Bayer và Miller đang ngồi trong hộp đêm Madeleine. Bayer, với hai ly Whisky làm vốn, chăm chú nhìn không chóp mắt một cô gái đang trình diễn màn uốn éo thân thể và cửi bỏ đồ phụ tùng đàn bà.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #92 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2018, 11:06:52 pm »


         Bayer thúc mạnh cùi chỏ vô hông Miller :

        «Cặp bưởi bự ác há !» Bayer nói, hơi đở lưỡi*

        Lức đó quá nửa đêm, và hắn đã say mèm. Miller lợi dụng dịp này để «moi» thêm tin về thằng «Thợ» làm thông hành giả.

        «Này ông Bayer. Không biết tại sao tôi lo quá. Tôi là một thằng trốn tránh pháp luật. Có thể nào làm thông hành tôi sơm sớm một chút được không ?» Miller thù thỉ bên tai Bayer.

        Bayer choàng tay qua vai chàng, cà lăm nổi :

        «Rolf ơi là Rolf. Tôi nói với chú bao nhiêu lần rối ! Tôi bảo chú đừng lo. Vã lại tôi đâu phải là thằng làm thông hành giả cho chú mày. Tôi chỉ gởi hình đến thằng «bạn» và một tuần sau chú sẽ có thông hành mới. Không có khó khăn mẹ gì hết. Thôi bỏ chuyện này không nói nửa mà... mà... vô một ly cho đẹp với Franz già này !»

        Bayer giơ ly lên vẫy :

        «Bồi ơi, bồi đâu rồi, làm một chầu nữa đi, mau lên !»

        Miller ngã người ra ghế suy nghĩ. Nếu chàng phải đợi cho tóc mọc dài ra để chụp hình, chàng phải chờ hàng tuần. Còn dùng đến rượu để cho thằng Bayer lòi ra tên tuổi và địa chỉ của tên «Thợ» làm thông hành cho ODESSA cũng không chắc gì thành công. Dù cho Bayer có say mèm ra, chưa chắc gì hẳn đã chịu hé môi cho chàng biết vì nhân vật quan trọng này !

        Miller không tài nào kéo Bayer về trước màn vũ thoát y thứ nhất.

        Đúng một giờ sáng, cả hai mới rời khỏi hộp đêm Madeleine để bước ra xe. Bayer không đứng vững nữa, nên Miller phải quàng tay qua vai đế dìu hắn ra xe.

        «Tôi nên lái xe đưa ông về thì hơn !» Miller nói với Bayer khi hai người ra gần tới xe. Bayer không ý kiến, và Miller tự động móc chìa khóa trong túi hẳn. Chàng đỡ Bayer ngồi vào xe một cách khó nhọc. Sau khi đóng cửa lại, chàng đi vòng đầu xe qua phía bên tay lái. Liền lúc đó một chiềc Mercedes màu xám cũng vừa trở tới ngay ngã tư sau lưng họ. Chiếc xe Mercedes thắng gấp lại cách sau xe Bayer chừng hai mươi thước. Ngồi sau tay lái chiếc Mercedes, Mackensen đâu mày lại để nhìn cho kỹ bảng số của chiếc xe phía trước đang từ từ chuyển bánh. Đúng là số xe bà Bayer cho hắn. Đạp chân lên ga, Mackensen theo bén gót xe của Bayer do Miller lái.

        Miller chạy rất cẩn thận để còn tĩnh tâm chống đỡ với cơn say đang lần bổi vật chàng. Chàng không cho xe chạy về nhà Bayer ngay, mà đi về khách sạn chàng trú ngụ. Bayer đã lăn ra ghế ngáy sùi bọt mép.

        Đến trước cửa khách sạn, Miller đánh thức Bayer dậy:

        «Nào mở mắt dậy đi ông «Thầy» ! Miller nói. «Lên phòng tôi tán dóc chơi !»

        Bayer mắt nhắm mắt mở nói :

        «Tôi phải về nhà. Vợ tôi ghen lắm !»

        «Thôi kệ bà ấy. Lâu lâu một lần. Lên uống vài ly nữa nhắc lại chuyện xa xưa chơi !»

        Bayer gật gù :

        «Xa xưa ! Ôi thuở xa xưa ấy ! Tuyệt diệu làm sao !» Hắn lè nhè.

        Miller leo xuống xe đi vòng qua phía bên kia để đỡ Bayer.

        Chiếc Mercedes xám vừa đến cuối đường, tắt hết đèn và cặp vô lề.

        Miller đã thủ sẵn chia khóa phòng trong người. Tên gác dan khách sạn đang há hốc mồm ngủ thật say. Bayer bắt đầu lảm nhảm.

        «Đừng làm ồn !» Miller nói.

        «Đuợc rồi, được rồi !» Bayer càu nhàu.

        Rất may cho Miller là phòng chàng ở lầu hai, vì nếu ờ tầng cao hơn thì chắc chàng sẽ không bao giờ có đủ sức để vác Bayer lên đến đó cả. Chàng mở cửa phòng ra, bật đèn lên và đẩy Bayer ngồi xuống chiếc ghế độc nhất trong phòng, một chièc ghế dựa có hai tay chống.

        Ngoài đường, Mackensen đứng trước khách sạn ngắm nhìn mặt tối om của cao ốc này. Vào hai giờ sáng không còn ai thức hết, nhưng ngọn đèn vừa bật lên ở một chiếc cửa sổ trên tầng lầu hai cho Mackensen biết đó là phòng của Miller.

        Tên đao phủ thủ của ODESSA đắn đo suy nghĩ không biết nên đi thẳng lên đó, đập nát đầu thằng phóng viên chó chết ra không. Có hai điểm làm hắn do dự. Qua cửa kiếng của phòng khách hẳn thấy rõ hình dáng của tên gác dan đang nằm ngủ. Chắc chắn tên này thế nào cũng để ý đến một người lạ mặt không phải là thân chủ của khách sạn lẻn vô đó lúc hai giờ sáng, và chắc chắn sẽ báo cáo sự việc này nếu trong đêm có chuyện rắc rối gì xảy ra. Điểm thứ hai là tình trạng sức khỏe của Bayer. Mackensen đã thấy rõ tên mập này được Miller dìu lẻn phòng, và biết chắc không thể nào lôi tên này ra khỏi phòng, trong trường hợp vừa thanh toán xong Miller và phải chuồn thật gấp. Nếu Cảnh Sát múm Bayer thì chắc chắn Mackensen sẽ gặp phiền phức với Sài Kíu Tinh. Ten Bayer này bề ngoài trông có vẻ hiền lành chất phác, nhưng sự thật hẳn là một nhân vật rất quan trọng trong tổ chức ODESSA tại Tây Đức.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #93 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2018, 11:07:24 pm »


        Điểm then chốt thuyết phục Mackensen chọn giải pháp thủ tiêu Miller bằng súng trường là một cao ốc đang xây cất dở dang trước mặt khách sạn. Sườn nhà của cao ốc này đã được dựng lên và có cả cầu thang nữa. Hắn cổ thể đùng chồ nàỹ để chờ một dịp tốt nào đó tặng cho Miller vài viên kẹo đồng. Chắc chắn Miller sẽ không còn đi đâu nữa.

        Mackensen lững thững đi về chiếc xe Mercedes, mở cốp ra lấy khấu súng săn thân yêu.

        Bayer choáng váng mặt mày khi nhận quả đấm của Miller, phản ứng chậm lại vì chất men nên không tránh kịp quả đấm.

        Chàng phóng viên chưa bao giở có dịp sử dụng những quả đấm học được tại Quân Trường khi thi hành nghĩa Vụ quân dịch mười năm trước đây, và không mấy tin vào hiệu năng của chúng. Chiếc cổ to lớn của Bayer trông như một miếng thịt bắp đùi nhìn từ phía sau tới, và chiếc cổ này gợi ý cho Miller phải dùng hết sức đằm mạnh vô đó, thừa lúc hắn sơ ý.

        Quả đấm tung vô chiếc cổ của Bayer không thuộc loại những quả đấm thôi sơn, dứt điểm, vì tay Miller quá mềm mại, quen cầm viết hơn là đánh đầm. Nhưng quả đấm này cũng đủ làm cho tên « Giao liên » của Odessa đo ván. Đến khi tinh hồn lại thì đã thấy hai tay mình bị buộc chặt vô thành ghế rồi. Bayer chửi thể « Cái con c... gì đây ! » Hắn càu nhàu, lắc đầu qua lại cho hoàn hồn. Chiếc cà vạt của hắn được Miller tháo ra và buộc đầu gối trái hẳn vô chân ghế trái, trong khi sợi dây điện bứt ở điên thoại ra giữ chặt đầu gối mặt của Bayer vô chân ghế mặt. Hắn nhìn Miller với cặp mắt cú vọ, đầu óc bắt đầu thấm hiểu những gì xảy đến cho hắn.

        Bayer giận dữ nói :

        « Mày không có cách gì mang tao ra khỏi nước được. Mày sẽ không bao giờ dẫn độ tao về Israel được. Mày không có con c... gì để kết tội tao hết ! Tao chưa bao giờ đụng đến dân Do Thái tụi mày ! »

        Tiếng nói của Bajer bỗng tắt nghẽn vì một chiếc vớ được Miller nhét vô miệng hắn, đồng thời một chiếc khăn choàng được trùm lên đầu hắn.

        « Nghe cho kỹ đây, thằng chó chết ! Thứ nhất, tao không phải là người Do Thái được Israel gởi đến Stuttgart để bắt mày. Thứ hai, mày sẽ không được dẫn đi đâu hết. Mày sẽ ngồi trong phòng này và trả lời tất cả những câu hỏi của tao ! Rõ chưa ? »

        Miller ngừng nói một vài giây rồi tiếp :

        « Những gì tao muốn biết trước khi mặt trời mọc là tên tuổi địa chỉ của tên thợ làm thông hành giả cho Odessa. »

        Miller đảo mắt nhìn quanh quất trong phòng, bắt gặp chiếc đèn để trên bản ngủ. Chàng đi đến đó rút phích căm ra, và xách chiếc đèn về phía Bayer.

        « Nghe tao nói đây Bayer. Tao sẽ gỡ chiếc khăn và chiếc vớ ra khỏi miệng mày. Nếu mày hét lên một tiếng, tao sẽ đập cái đèn này lên đầu mày. Tao không cần biết có đập nát đầu mày ra không ! .»

        Chiếc vớ vừa được gở ra thì Bayer đã rít lên :

        « Đ. M đồ chó săn. Tao sẽ không cho mày biết cái con c... gì hết ! »

        Bayer chưa kịp nói ra những điều chằt chửa trong đầu thì lại bị chiếc vớ ấn vô miệng.

        « Thật vậy sao ? Để xem mày lỳ đến độ nào ! Tao sẽ bẻ gãy từng ngón tay mày ! »

        Miller chụp ngón út và áp út của bàn tay Bayer bẻ ngược về phía sau. Bayer ưỡn người theo độ cong của hai ngón tay hắn. Miller thúc mạnh cùi chỏ vô hông hắn, thả hai ngón tay nầy ra.

        Gỡ chiếc vớ ra khỏi miệng Bayer, Miller nói láo :

        « Tao quên cho mày biết tao mắc bệnh khổ dâm, và tao sẽ thỏa mãn thú tính của tao bằng cách bẻ gãy từng đốt tay của mày, xong đâu đó rồi tao sẽ tháo bóng đèn ra và lấy của quý mày nhét vô đó, cắm điện vô ! »

        Bayer nhắm khít mắt lại, mồ hôi trên trán và trong người hắn đổ ra như tắm. Hắn lạy lục :

        « Không ! Không ! Tao lạy mày, tha cho tao. Điện giật chỗ đó chắc tao chết mất ! »

        « Mày dư biết cảm giác bị điện giật như thế nào rồi ? » Miller nói, kê miệng sát tai Bayer.

        Bayer vẫn chưa chịu mở mắt ra. Hẳn quá quen thuộc với cực hình này. Hai mươi năm trước, hắn là một trong số những chuyên viên tra tấn của ss, đã dợt Trung Tá Yeo Thomas như một cái bao cát trong một căn hầm bí mật của nhà lao Fresnes tại Ba Lê. Hắn biết quá nhiều về cực hình tra điện, nhưng lần này hắn lại biết qua một hình thức khác, một kẻ chịu cực hình.

        « Mầy chịu nói chưa ? » Miller rít lên. « Tên thợ là ai ? Ở đâu ? »

        Bayer lắc đầu :

        « Tao nói không được. Tụi nó sẽ giết tao chết ! » Miller nhét chiếc vớ vô miệng hẳn. Chàng nắm chặt ngón tay út của Bayer, nhắm mắt lại bẻ ngược ngón tay này về phía sau. Bayẹr chỉ kịp nghe một tiếng « rắc» khò khan thì đã nảy người ra phía sau, cụp người xuống trở lại và ói ngay vô chiếc vớ.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #94 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2018, 11:12:48 pm »


        Miller rút vội chiếc vớ ra khỏi miệng trước khi hán ngộp thở.

        Đầu Bayer cụp về phía trước, và bữa com tối thịnh soạn cùng với hai chai rượu vang, một vài ly rượu mạnh, được hắn cho ra hết.

        « Giờ mày chịu nói chưa ? » Miller nói: «Mày còn tới chín ngón tay nữa. »

        Bayer nuốt nước miếng, nhắm mắt lại « Winzer ! » Hắn thều thào.

        « Ai ? » Miller hỏi, nghe không rõ.

        « Winzer. Klaus Winder. Hẳn là tên Thợ làm thông hành. »

        « Hắn thuộc loại nhà nghề ? »

        « Hắn có nhà in ! »

        « Ở đâu ? »

        « Tụi nó giết tao chết !»

        « Tao giết mày trước nếu mày không chịu nói ! »

        « Onasbruck ! » Bayer thều thào.

        Miller nhét chiếc vớ vô miệng Bayer, bắt đầu suy tính. Thằng thợ là Klaus Winder, chủ nhà in tại Onasbruck. Mở xách tay đựng cuốn nhật ký của Salomon Tauber và một vài tấm bản đồ, Miller lấy ra tấm bản đồ đường xá tại Đức Quốc.

        Xa lộ đến Onasbruck, một thành phố nằm ở miền Bắc Rhine và Westpalia, chạy qua Mannheim, Frankfurt, Dormund và Munster. Cuộc hành trình đi đến đó lâu chừng bồn năm giờ đồng hồ và thời gian này còn tùy thuộc vào tình trạng đường xá nữa.

        Đống hồ chỉ đúng ba giờ sáng ngày 21 tháng 2 khi Miller thầm vấn xong Bayer và dò ra được xa lộ đến Onas- bruck.

        Bên kia đường, Mackensen đang cóng người lại vì lạnh trong căn phòng trên tầng lầu ba của cao ốc đang xây cất dỡ dang.

        Đèn vẫn còn sáng trong phòng bên kia đường. Hắn không ngớt nhìn hết căn phòng này đến cửa ra vô của khách sạn. Hắn nghĩ, nếu Miller bước ra khỏi cửa này, hắn có thể chơi tay đôi với Miller. Hay ngược lại, nếu Miller thò đầu ra cửa sổ, hắn có thể cho tên phóng viên về bên kia thể giới với một viên đạn súng săn. Mackensen rùng mình, nắm chặt khẩu Remington 300. Trong tầm 15 thước, hắn sẽ không gặp khó khăn nào. Mackensen có thể đợi đến ngày mai cũng còn được, vì hẳn là một tên sát nhân nhà nghề và rất kiên nhẫn.

        Miller lặng lẽ thu dọn bành lý. Miller cần Bayer ngồi yên trong sáu giờ đồng hồ là ít. Có thể tên cán bộ nòng cốt của Odessa sẽ không dám báo cáo sự việc cho thượng cấp hắn biết vì sợ bị trừng phạt nặng, nhưng Miller không thể dựa vào đó để trở nên quá lạc quan. Chàng phóng viên mất thêm vài giây nữa để siết chặt các mối dây trói Bayer và để ấn chiềc vớ vô miệng tên này. Miller đạp chiếc ghế Bayer ngồi ngã xuống đất để cho tên này hết cơ hội gây tiếng động bằng cách tự ý làm ngã chiếc ghế về phía sau hay qua một bên. Đảo mắt qua căn phòng một lần chót, Miller bước ra ngoài hành lang, khóa trái cửa phòng lại sau lưng mình.

        Ra gần đền cầu thang, Miller bỗng rút chân lại vì vừa nghĩ ra một điều thật hay : tên gác dan có thể đã trông thấy chàng dìu Bayer lên cầu thang. Hắn sẽ nghĩ gì khi chỉ có một người lặng lẽ rời khỏi khách sạn không trả tiền phòng, để lại một người lạ mặt bị trói ké trong phòng ?

        Millet quay trở lại đi về cuối hành lang, nơi có một khung cửa hẹp ngó ra chiếc thang cấp cứu ; bật then cài cửa lên, chàng phóng viên leo ra ngoài, bước xuống cầu thang cấp cứu.

        Một vài phút sau Miller đã bước xuống đường và cố đi mau để đến chiếc Jaguar đậu cách đó gần bốn cây số. Tác dụng của rượu và những hoạt động vừa qua đã làm cho Miller mệt rã người ra và thèm ngủ kinh khủng, nhưng phải tìm Winzer cho ra trước khi Odessa được Bayer báo động.

        Gần bốn giở sáng Miller mới trèo lên chiếc Jaguar và nửa giờ sau đã có mặt tại xa lộ miền Bắc đi Heillbrown và Mannheim.

        Ngay lúc Miller vừa khóa cửa phòng lại, Bayer bắt đầu vùng vẫy để cố mở trói. Hẳn cố khum đầu về phía trước để dùng hàm răng và lưỡi tống chiếc vớ ra khỏi miệng, và để mở những chiếc gút dây ra. Nhưng thân hình phì nộm của hắn không cho phép hắn cụp đầu xuống, thêm vào đó chiếc vớ làm tê cứng hai hàm răng hắn lại.

        Hắn bỗng chợt bắt gặp chiếc đèn ngủ nằm lăn lóc dưới đất.

        Bóng đèn còn nguyện vẹn, và nếu đập nát bóng đèn này ra, những mảnh kiếng có thể cứa đứt sợi dây trói hắn.

        Hắn phải mất hơn một giờ đồng hồ mới nhích chiếc ghế lại cạnh cây đèn, và vùng vẫy một hồi lâu hẳn mời làm úp chiềc ghế lại để đập nát bóng đèn ra.

        Nghe nóỉ thì dễ nhưng thử cứa một sợi dây điện thoại với một mảnh kiếng vụn thì sẽ biết. Bayer làm việc này vói sức lực còn lại của một con thú bị thương, và đến gần bảy giờ sáng mới mở được trói.

        Vào giờ đó Miller đang cho xe chạy vòng quanh công trường Cologne, cách Onasbruck chừng 150 cây số. Trời bắt đầu đồ mưa và nhịp điệu điều hòa của hai chiếc gạt nước qua lại trước mắt càng làm cho Miller buồn ngủ thêm.

        Chàng phóng viên cho xe chạy chậm lại, không muốn thử thời vận làm gì trên xa lộ trơn trợt này khi đã đến gần đích.

        Với bàn tay trái được tự do, Bayer gỡ chiếc vớ ra khỏi miệng, thở hẳn hển, Căn phòng tỏa một mùi thum thùm pha trộn mồ hôi, đồ ói mửa, và Whisky. Hắn tháo sợi dây trói tay phải hẳn ra, nhăn mặt khi vô tình đụng phải ngón tay út cong vẹo.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #95 vào lúc: 25 Tháng Năm, 2018, 11:13:07 pm »


        Ý nghĩ đầu tiên của hắn là chạy ra cửa, nhưng cửa này đã bị Miller khóa lại rồi. Hẳn thử gọi điện thoại nhưng vô hiệu. Hắn thất vọng đi cà nhắc lại phía cửa sổ kéo màn che qua một bên, vặn ổ khóa kéo cánh cửa về phía trong, Bên kia đường, Mackensen mắt nhắm mắt mở chợt thấy tấm màn che cửa được kéo qua một bên. Chụp lấy khẩu Remington, đưa lên vị thế nhắm, Mackensen chờ đợi. Dáng người bên kia đường mở cánh cửa sổ về phía trong, chưa kịp nhìn thấy bầu trời bên ngoài thì đã lãnh ngay một viên đạn.

        Mackensen nhắm bắn thẳng vào cổ và Bayer tắt thở trước khi thân hình đồ sộ của hắn ngã xuống đất. Tiếng nổ của phát súng có thể làm cho dân chúng xung quanh đó lầm tưởng là tiếng động của một chiếc xe moto bị nghẹt ống thoát hơi.

        Không chậm trễ một giây phút nào dù để liếc nhìn qua căn phòng bên kia đường, Mackensen chạy mau xuống đường trong vòng không đầy ba mươi giây. Và thêm nửa phút nữa là tên sát nhân nhà nghề đã an toàn rời khỏi đó trên chiếc Mercedes.

        Khi ngồi vào tay lái rồi, Mackensen mới định thần lại và nhận biết mọi việc không trôỉ chảy như hắn dự tưởng. Hắn nghi ngờ đã lầm lẫn mục tiêu. Con người Sài Kíu Tinh ra lệnh thanh toán cao lớn. Bóng dáng của người hắn vừa cho đi tàu suốt mập và lùn, và không ai khác hơn là Bayer.

        Nhưng «tai nạn nghề nghiệp» này chưa đến nổi nào.

        Thấy Bayer nằm chết trong phòng, thế nào Miller cũng phải co giò bỏ chạy và hẳn cần có chiếc Jaguar.

        Mackensen lái về chỗ chiếc Jaguar đậu hồi đêm hôm trước. Hẳn chỉ bắt đầu thực sự lo lắng khi bắt gặp khoảng trống giữa chiếc Opel và chiếc xe hàng nơi chiếc Jaguar đã đậu.

        Mackensen không thể nào trở thành đao phủ thủ chánh thức cho Odessa nếu dễ bị mất bình tĩnh. Hẳn từng bị kẹt trong nhiều vụ còn ác liệt hơn tai nạn này nữa. Hẳn dừng xe lại, gục đầu xuồng tay lái suy nghĩ, và khi tìm ra được cách đối phó với Miller thì chàng phỏng viên đã ở cách hẳn hàng bốn năm trăm cây số !

        Mackensen nghĩ bụng nếu Miller còn để cho Bayer sống đến sáng là vì tên phóng viên đã moi ra được những gì hắn cần biết. Trong trường hợp này. Miller chỉ được một mớ tin tức «sống» thôi, chưa thể đem ra áp dụng được, và chỉ Sài Kíu Tinh mới biết được loại tin tức nào Bayer có thể đã tiết lộ cho Miller. Nghĩ vậy, dù biết không tránh khỏi bị Sài Kíu Tinh xài xế, Mackensen vẫn gọi điện thoại cho tên trùm Odessa. Hẳn mất mười phút mới tìm ra được một phòng điện thoại công cộng,

        Sài Kíu Tinh không, dằn được cơn tức giận khi được Mackensen thông báo tin tức không lành. Tên trùm ODESSA chưởi Mackensen không tiếc lời. Hẳn hét lên trong điện thoại :

        «Phải tìm cho ra hắn nghe chưa, đồ vô dụng ! Bằng mọi giá. Dù hắn lên trời đi nữa chú mày cũng phải lên trên đó để tìm cho ra hẳn, rõ chưa !»

        Mackensen giải thích cho tên trùm ODÈSSA biết nhu cầu hiện tại của hẳn là loại tin tức nào mà Bayer có thể đã tiết lộ cho Miller trước khi bị nạn.

        Bên kia đường dây, Sài Kíu Tinh im lặng. Hẳn chợt hét lên trong điện thoái:

        «Chềt cả lũ rồi ! Thằng Thở. Miller biết được danh tánh của tên Thợ rồi !»

        «Tên Thợ nào, thưa đồng chí ?» Mackensen hỏi.

        «Tên Thở làm thông hành chớ còn ai nữa, thằng ngu !»

        Sài Kíu Tinh lấy lại bình tĩnh :

        «Để tôi liên lạc trước cho hẳn biết để phòng ! Đúng rồi. Chắc chắn thể nào thằng Miller cũng đến gặp tên Thợ.

        Tên trùm ODESSA cho Mackensen biết địa chỉ tên Thợ và nói:

        «Chú hãy đến Onasbruck ngay lập tức. Tìm ra Miller ở chỗ tôi vừa cho chú biết. Nếu không thấy hắn, hãy mở mắt ra cho lớn để tìm chiếc Jaguar.» Sài Kíu Tinh cúp máy. Hắn gọi điện thoại lại cho Ban Chỉ dẫn điện thoại. Khi được biết số điện thoại vừa hỏi, hắn liền xin liên lạc với Tổng Đài Onasbruck.

        Tại Stuttgart Mackensen gượng gạo nói vài tiếng Allo trong điện thoại, và sau một đôi phút không thấy ai trả lời, hắn thất vọng gác ống điện thoại lên giá, trở ra xe.

        Đầu óc hắn không muốn nghĩ đến công việc sắp đến. Hắn mệt mỏi không kém gì Miller, lúc đó đang ở cách Onas- bruck chừng 50 cây số. Cả hai đã không chợp mắt trong vòng hai mươi bốn giờ qua, riêng Mackensen không có gì trong bao tử ngoài buổi cơm trưa hôm trước.

        Chưa hết lạnh vì phải ngồi cóng người suốt nửa đêm hôm trước, miệng thì thèm một tách cà phê nóng, hắn chán nản leo lên xe bắt đầu cuộc hành trình về phía Bắc.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #96 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2018, 10:25:13 am »


CHƯƠNG XIV

        Thoạt nhìn bề ngoài, Klaus Winder không có vẻ gì là một cựu nhân viên SS. Thứ nhất vì hắn quá lùn, dưới mức ấn định một thước tám, và thứ đến vì hắn cận thị nặng. Vào tuổi bốn mươi, người hắn xanh xao, đầu tóc vàng rối bù và cung cách đàn bà tính làm cho người ta lầm tưởng hắn lại cái.

        Thật vậy, Winder đã có một đời binh nghiệp trong hàng ngụ ss thật lạ lùng. Chào đời năm 1924, con trai độc nhất của Johan Winzer, một tay lái thịt tại Wiesbaden, và một cảm tình viên nhiệt thành nhất của Adolf Hitler và chủ thuyết Đức Quốc Xã. Khi còn nhỏ Klaus quá quen thuộc với cảnh cha hắn đêm đêm mang đầu máu về nhà, sau những trận xáp chiến với bọn Cộng sản và Dân Xã.

        Klaus Winzer sống tuổi thơ ấu chui rúc trong váy mẹ và càng lớn càng trở nên yếu ớt, cận thị và hiền hậu trước sự khinh bỉ của người cha. Klaus căm thù bạo lực, ghét thể thao và tất cả những gì hên quan đến thanh niên đoàn Hitler. Klaus chỉ nổi bật trong mỗi một môn ; từ nhỏ hắn đã đam mê thuật viết chữ đẹp và nghề kẻ biểu ngữ, những điều mà người cha bất mãn ví như đồ lót của con gái.

        Với sự lớn mạnh của Đức Quốc Xã, tên lái thịt Johann Winzer phát tài nhờ được ân thưởng một hợp đồng độc quyền cung cấp thịt cho bộ đội ss trong vùng. Hắn luôn luôn khâm phục và ngưỡng mộ đoàn thanh niên trong hàng ngũ SS, và hằng đêm ước sao cho đứa con trai độc nhất của mình có ngày được vinh hạnh mang phù hiệu màu đen bạc của Schutz Staffel.

        Trái lại Klaus không nuôi mộng tưởng như cha, mà chỉ thích tìm tòi học hỏi những mẫu chữ đẹp, những luật phối hợp màu sắc. Chiến tranh bùng nổ, và mùa Xuân năm 1942 Klaus Winzer được mười tám tuổi và phải thi hành nghĩa vụ quân dịch. Trái ngược hẳn với người cha nóng nảy, ồn ào, thù ghét Do Thái, Klaus từ tốn, nhỏ nhẹ và e dè. Không đủ sức khỏe để phục vụ trong quân đội, Klaus được trả về nguyên quán.

        Đối với cha hắn, sự kiện này là một sĩ nhục cho cả giòng họ Winzer.

        Johann winzer đáp xe lửa lên Berlin gặp người bạn đã từng tranh đấu sát cánh với hắn, và lúc đó có được chức tước trong hàng ngũ ss, hy vọng chạy chọt cho đứa con độc nhất của mình phục vụ trong bất cứ ngành nào cho Quân Đội Đức Quốc Xã. Người này tuy muốn giúp Johann nhưng không làm gì được, vì Klaus đã bị Quân Đội chê rối thì còn ai nhận nữa ? Người này có hỏi Johann xem Klaus có nghề gì không ? Một cách nhục nhã, Johann cho biết cậu quý tử chỉ biết viết chữ đẹp mà thôi. Người này hứa hẹn sẽ giúp Johann, đồng thời nhắn bảo Klaus kẻ thử một tấm biểu ngữ chào đón quan Thiếu Tá ss Franz Suhren nào đó.

        Tại Wiesbaden, theo lệnh cha, Klaus bắt tay vào việc. Một tuần sau, trong một buổi lễ long trọng cử hành tại Berlin, tấm biểu ngữ do Klaus Winzer kẻ được trương lên để chào đón Suhren và đồng bọn. Suhren lúc đó trông coi trại tập trung Sachsenhausen, và ít lâu sau nắm quyền chỉ huy trại Ravensbruck.

        (Suhren bị quân đội Đồng Minh hành quyết năm 1945).

        Trong buổi lễ tiếp đón Suhren tại Bộ Tư Lệnh RSHA, mọi người hiện diện đều phải tấm tắc khen ngợi tài nghệ của người đã kẻ tấm biểu ngữ, trong số có tên Trung úy ss Alfred Naujocks.

        Naujocks là tên cầm đầu cuộc tấn công đài Truyền Thanh Gleiwisz đặt tại biên giới Ba Lan — Đức vào năm 1939.

        Cuộc tấn công này để lại chiến trường tử thi tù nhân trại tập trung được Naujccks cho khoác lên người quân phục Lục Quân Đức để độ tội cho Ba Lan mưu tính xâm lăng Đức, và tạo cơ hội cho Hitler ra lệnh chiếm đóng Ba Lan một tuần sau đó.

        Naujocks hỏi tác giả tấm biểu ngữ là ai, và khi được biết là Klaus Winzer, hắn liền yêu cầu triệu Klaus lên Berlin.

        Trước khi Klaus Winzer nhận biết những gì xảy đến cho mình, hắn được kết nạp vô hàng ngũ ss mà không cần phải qua phần huấn luyện căn bản quân sự và chánh trị, và được tuyên thệ bảo mật. Klaus Winzer được Naujocks cho biết là nhiệm sở của hắử sẽ là một văn phòng tối mật.

        Văn phòng tối mật mà Klaus Winder được bổ xung; đến đang nghiên cứu một dự án Phòng 6, Ban F do RSHA bảo trợ và đặt trụ sở tại một xưởng máy trên đường Delbruck, Berlin. Trên căn bản, dự án này rất giản dị. Lúc đó bọn ss đang nỗ lực làm hàng trăm ngàn tờ giấy bạc 5 Anh Kim và 10 Mỹ kim, dĩ nhiên là tiền giả. Loại giấy in, giấy bạc, được một xưởng giấy của Đức Quốc Xã đặt trụ sở tại Spechthausen ngay ngoại ô Berlin sản xuất. Công tác của xưởng máy tại đường Delbruck là nghiên cứu hòa sắc các màu của những tờ giấy bạc giả cho giống với những tờ giấy bạc thật. Bọn SS tuyển dụng Klaus Winder, chỉ vì hắn có khiếu và có tài về hòa sắc và vì hắn có hoa tay.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #97 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2018, 10:25:52 am »


        Mục đích của dự án do Ban F, Phòng 6 của RSHA đề ra là tràn ngập Anh Quốc và Hoa Kỳ với bạc giả, và lũng đoạn nền kinh tế của hai xứ này.

        Đầu năm 1943, xưởng Delbruck đã tìm ra đúng công thức hòa sắc dùng cho tờ giấy bạc 5 Anh Kim, và dự án làm bảng kẽm loại giấy bạc này được giao cho Dãy 19 của Trại Tập Trung Sachsenhausen, nơi hàng trăm họa sĩ họa viên, kiến trúc sư Do Thái và đủ mọi quốc tịch khác làm việc dưới sự giám sát khắt khe của bọn ss. Công việc của Winder là kiểm phẩm vì bọn ss không mấy tín nhiệm đám tù nhân.

        Trong vòng hai năm, Klaus đã được chỉ dạy hết tất cả những bí quyết của nghề và trở thành một tên Thợ thiện nghệ.

        Cụối năm 1944, Dãy 19 được lệnh làm những giầy tờ tùy thân giả mạo để giúp cho bọn ss đầu não đào tẩu sau này.

        Đầu năm 1945, toàn bộ dự án dưới sự chỉ huy của Đại Tá ss Bernhard Kruger được lệnh rời bỏ Sachsenhausen về vùng rừng núi hiểm trở của Áo Quốc để tiếp tục công việc. Chúng đặt bản doanh tại một xưởng máy bỏ hoang ở miền thượng du Áo Quốc, một nơi gọi là Redl zipf.

        Và một vài ngày trước khi thế chiến chấm dứt, một tên Klaus Winzer đau khổ đứng khóc ròng trên bờ hồ, nhìn đồng bọn đổ hàng tỷ bạc Mỹ kim và Anh kim giả xuống đáy hồ.

        Klaus Winder trở về Wiesbaden. Hẳn hết sức kinh ngạc khi chứng kiến cảnh đói khát của dân chúng trong mùa hè 1945» Hoa Kỳ lúc đó chiếm đóug Wiesbaden, và trong khi quân lính chiếm đóng thành phố này ăn uống phủ phê, dân chủng địa phương phải xâu xé nhau để tranh ăn từng miếng thịt dư, từng chén súp thừa.

        Cha hắn, lúc đó trở thành một kẻ chống Nazi hết mình, không tránh khỏi cảnh đói khát như trăm ngàn người khác. Tiệm thịt trước đây chất nào thịt heo, thịt bò, thịt ngựa, thịt dồi, bây giờ chỉ còn thấy một vài chiếc lạp xưởng treo lủng lẳng trơ trẽn trước cửa.

        Má Klaus cho hắn biết ai cũng đều phải sử dụng thẻ tiếp tế do quân đội Hoa Kỳ cấp để mua thực phẩm. Klaus nhìn những mẫu phiếu tiếp tế với cặp mắt ngạc nhiên. Hắn nhận thấy những mẫu này được in bằng một thứ giấy rẻ tiền và in tại địa phương. Hắn xin má hẳn vài mẫu và ẩn mình trong phòng riêng trong ba ngày liên tiếp. Và khi hắn xuất hiện ba ngày sau đó, hắn đưa cho má xem hàng trăm mẫu phiếu tiếp tế đủ để nuôi sống gia đình hẳn trong sáu tháng.

        « Nhưng mấy tờ này giả mà ! » Má hắn quở trách.

        Klaus giải thích cho mẹ hắn :

        « Trên đời này không có cái gì là giả hết. Chỉ khác ở chỗ sử dụng một cái máy in khác thôi ! »

        Cha hắn hùa theo bênh hắn :

        « Bà muốn nói là những thứ của Klaus làm dỡ hơn thứ của bọn Mỹ sao ? »

        Một tháng sau Klaus Winzer bắt áp phe với tên Otto Klops, một người mập mập, vui vẻ, đầy tự tin, nhưng lại là ông trùm Chợ Đen vùng Wiesbaden, và cả hai hợp tác làm ăn;

        Klaus Winder sản xuất không biết bao nhiêu là thẻ tiếp tế, mẫu phiếu thực phẩm, bông nhiên liệu, thẻ thông hành liên khu, bằng lái xe, giấy phép xuất trại dành cho quân đội Hoa Kỳ, thẻ quân tiếp vụ. Klops sử dụng những tấm thẻ sau này để mua đi bán lại thực phẩm, xà bông, quần áo, hàng mỹ phẩm, và những nguồn lợi tức do số lời của những món hàng này giúp cho Klops và Klaus Winder sống một cuộc đời vương giả. Chỉ trong vòng 30 tháng, tính cho đền cuối mùa hè năm 1948, Klaus Winder đã trở thành triệu phú. Hắn có đến 5 triệu Đức Kim gởi tại ngân hàng.

        Klaus Winder thường giải thích triết lý đơn giản của hẳn cho bà mẹ nghe : « Một chứng thư không hẳn là thật hay giả, mà có hiệu lực hay không có hiệu lực; Nếu một tờ thông hành giúp ta vượt qua được một trăm trạm kiểm soát, thì đó là một chứng từ có giá trị và có hiệu lực — không cần biết nó giả hay thật »

        Nhưng vào tháng 10 năm 1948, Klaus Winder bị đời và vận hạn tặng cho một cú đá thứ hai : nhà cầm quyền Đức Quốc đương thời định giá lại đồng bạc Đức Kim và gọi đơn vị tiền tệ mới là Deutschmark. Thay vì một đồng Reichsmark đổi được một đồng Deutschmark, nhà cầm quyền hủy bỏ luôn tiền Reichsmark và khoán cho mỗi đầu công dân một số tiền đồng đều là một ngàn Deutschmark. Winder bị cú này nên phá sản. Một lần nữa gia tài 5 triệu Reichmark của hắn gởi tại ngân hàng trở nên một mớ giấy lộn.

        Dân chúng Đức lúc đó không cần đến Chợ Đen nữa vì tất cả mọi thứ đều được đem ra bày bán tự do, và họ đồng thanh tố cáo những tên đầu xỏ chợ đen với nhà cầm quyền, trong sồ đó có Otto Klops. Winder liền bỏ trốn vì sợ bị liên lụy. Sử dụng một giấy thông hành do tự tay hắn làm, Winder bỏ sang khu vực do Anh Quốc chiếm đóng và đến Hanover xin một chân thơ ký tại văn phòng thông hành của Chánh phủ Quan Đội Hoàng Gia Anh.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #98 vào lúc: 26 Tháng Năm, 2018, 10:26:32 am »


        Những thơ giới thiệu của nhà cầm quyền Quân Sự Hoa Kỳ được một vị Đại Tá Không Quân Hoa Kỳ duyệt ký do Klaus xuất trình cho các chức sắc Anh Quốc thật hoàn hảo. Phải hoàn hảo, bởi do chính tay Klaus Winder viết và ký lấy. Viên Thiếu Tá người Anh phỏng vấn hắn để trắc nghiêm khả năng, chấp thuận tuyển dụng Winder, và trước khi tên Thợ ra về, nhận xét như sau :

        « Tôi hy vọng ông nhận thức được tầm quan trọng của những giấy tờ tùy thân. ». Klaus Winzer thành thật đồng ý với Thiếu tá đó.

        Hai tháng sau khi được tuyển dụng, Winzer bắt được mối áp phe đầu tiên. Đang ngồi một mình tại một quán nọ, hắn được một người lạ mặt lân la đến tiếp xúc. Tên người này là Herbert Molders. Hắn thú nhận với Winzer rằng nhà cầm quyền Anh đang truy nã hắn, và hắn đang cần một sổ thông hành mà chỉ có nhà cầm quyền Anh mới cấp cho công dân Đức mà thôi, nhưng hẳn thì lại không dám làm đơn xin vì sợ lộ mặt. Winder cho Molders biết hẳn có thế lo vụ này được nhưng hơi mắc một chút. Molders nhá cho tên Thợ xem một xâu chuỗi kim cương. Đến lượt Molders cho tên Thợ biết hắn đã làm những gì tại những trại tập trung, và những áp phe mà hắn đã lường gạt được của dân Do Thái.

        Một tuần sau, với một tấm ảnh của Molders, Winzer chuần bị thiết lập một sổ thông hành cho tên này, Hắn không cần phải ra công làm: thông hành giả, vì cách thức cung cấp thông hành tại văn phòng hắn làm việc hết sức đơn giản : tại Ban I, người đứng đơn xin cấp thông hành nạp mọi giấy tờ tùy thân liên hệ đền lý lịch của mình và ký tên vô mẫu đơn. Ban 2 có phần hành sưu tra nguồn gốc của các giấy tờ như giấy khai sanh, thẻ căn cước, bằng lái xe, và kiểm soát đối chiếu tên tuồi của người đứng đơn với danh sách tầm nã. Nếu không có gì trục trặc và nếu người đứng đơn không có vết tích, toàn bộ hồ sơ xin cấp sổ thông hành sẽ được vị trưởng ban 2 phê chuẩn. Hồ sơ này sẽ được chuyển tiếp sang Ban 3. Ban này, sau khi nhận được giấy phê chuẩn của Ban 2, sẽ phát ra một sổ thông hành điển khuyết mọi chi tiết liên quan đến lý lịch của người đứng đơn vô đó, dán hình người này vô và một tuần sau khi đệ đơn, sổ thông hành sẽ đến tay người xin.

        Winder chạy chọt để được thuyên chuyền về Ban 3. Một cách thật giản dị, hắn điền đơn của Molders dưới một tên mới, giả mạo chữ ký phê chuẩn của trưởng Ban 2. Hắn đi sang Ban 2 lấy mười chín đơn đã được phê chuẩn, kẹp đơn và giấy phê chuẩn của Molders vô và cầm tay hai mươi đơn này lên trình Thiếu Tá Johnstone, Trưởng Ban 3. Sau khi đã kiểm soát lại số lượng giấy phê thuận của vị Trưởng Ban 2, Thiếu Tá Johnstone đi lại phía chiếc tủ sắt lấy hai mươi sổ thông hành trao cho Winder. Winzer điền tên vô những sổ thông hành này, dán hình nhận mộc vô đó vả trao lại cho mười chín người đứng đơn xin đang nôn nóng trông đợi gần một tuần qua. Sổ thông hành thứ hai mươi chui vô túi Winzer, nhưng trong tủ lưu hồ sơ là hai mươi mẫu đơn được phê thuận, phù hợp với hai mươi thông hành được phát ra.

        Ngay đêm hôm đó Winzer trao sổ thông hành mới thực hiện khi sáng cho Molders để đánh đồi xâu chuỗi kim cương. Và kể từ ngày đó Winzer đã tìm được một nghề mới.

        Tháng 5 năm 1949, Cộng Hòa Liên Bang-Tây Đức ra đời và văn phòng thông hành của nhà cầm quyền Anh tại Hanover được bàn giao lại cho nhà cầm quyển Tiểu Bang Hạ Saxony, mà trụ sở cũng được đặt tại Hanover. Winzer tiếp tục phục vụ cho văn phòng này. Hắn không còn thân chủ nào nữa, nhưng hắn cóc cần. Mỗi tuần, với tấm ảnh của một kẻ vô danh, Winzer điền đại một tên nào đó vô một mẫu đơn, kẹp tấm hình vô đó, giả mạo chữ ký của vị Trưởng Ban 2 (bây giờ là người Đức) và diễn trình vị Trường Ban 3 với những mẫu đơn và những giấy phê chuẩn của vị Trưởng Ban 2. Số lượng thông hành này cấp ra luôn luôn phù hợp với số lượng đơn xin được chấp thuận. Trong số những thông hành được trao tận tay các đương đơn, luôn luôn có một sổ thông hành trinh nguyên lọt vô túi Winder. Ngoài thông hành ra, hắn cần có dấu mọc chánh thức của Tiểu bang này nữa. Đánh cắp con dầu này thì sẽ bị điều tra rắc rối, nên hẳn quyết định mượn tạm con dấu này trong một đêm, và sáng hôm sau hoàn lại vào chỗ cũ. Nội trong đêm đó hắn đã ngụy tạo được con dấu của nhà cầm quyền Hạ Saxony.

        Trong sáu mươi tuần lễ, Winder có được sáu mươi sổ thông hành trinh nguyên. Sau thời gian này hắn đệ đơn từ nhiệm trước sự mến tiếc của Thượng cấp, vì đã mất đi một nhân viên cần mẫn được mọi người tín nhiêm. Hắn rời Hanover, đến Antwerp bán xâu chuỗi kim cương của Molders, và về Onasbruck mở một nhà in nhỏ.
Logged

Giangtvx
Trung tá
*
Bài viết: 25560


« Trả lời #99 vào lúc: 27 Tháng Năm, 2018, 05:11:54 am »


        Winzer sẽ không bao giờ dính dáng với Odessa nếu Molders kín miệng. Khi đến Madrid an toàn và sống trong tập thể Đồng chí ss, Molders liền khoe hắn có một đầu mối cung cấp thông hành giả nhưng thật một trăm phần trăm.

        Cuối năm 1950, một người « bạn » tìm đến gặp Winder giữa lúc tên này đang phát triển công cuộc làm ăn tại Onasbruck. Winzer không có lý do gì để từ chối lời yêu cầu của người bạn mới cả. Và bắt đầu từ đó, mỗi khi nhân viên Odessa nào bị kẹt, Winzer có bổn phận cấp phát thông hành mới cho người đó.

        Hệ thống cung cấp thông hành của Winzer hết sức an toàn. Winzer chi cần một tấm ảnh và tuổi của người «đứng đơn »; Hắn đã lưu giữ tất cả mọi chi tiết liên quan đến lý lịch do hắn phịa ra để lấy sổ thông hành trinh nguyên, và lý lịch này đang được lưu giữ tại văn phòng thông hành Hanover, Winzer sẽ mở tủ sẳt ra lấy một sổ thông hành trinh nguyên, điền tên tuổi phù hợp với tên tuổi ghi trên đơn xin. Cái tên được hắn phịa ra trước đây rất thông dụng và nơi sanh rất khó phối kiểm, vì Winzer đã tinh ý chọn một nơi hẻo lánh nào đó hiện do Cộng Sản chiếm đóng.

        Sau khi điển tên tuổi và nơi sanh của người xin cấp thông hành, sổ này được chánh thức hóa bời dầu mộc do chính tay Winder khắc,

        Gia hạn thông hành rất dễ, Sau năm năm, người cầm thông hành do Winzer sản xuất có quyền cầm thông hành này đến gia hạn tại bất cử Tiểu bang nào trong nước Đức, ngoại trừ Tiểu Bang Hạ Saxony. Hãy đơn cử một tỳ dụ tại Bavaria : Tại đây nhân viên phụ trách gia hạn thông hành sẽ nhấc điện thoại lên phối kiểm với đồng nghiệp tại văn phòng thông hành Hanover, « Quý văn phòng có cấp một sổ thông hành số... vào năm 1950 cho tên X, ngày và nơi sanh... không ?» Nhân viên phu trách tại Hanover sẽ xem lại văn khố của mình và sẽ trả lời có, Nhân viên phụ trách tại văn phòng thông hành miền Bavaria sẽ tin tưởng vào lời xác nhận của đồng nghiệp tại Hanover để cấp thông hành mới hay gia hạn thông hành,

        Chừng nào hình dáng trên đơn xin thông hành tại Hanover không được đối chiếu với hình trên thẻ thông hành đem đến một văn phòng thông hành của tiểu bang nào ngoài Hạ Saxony ra, thì chừng đó Winder sẽ không bao giờ gặp rắc rối, vì công việc đối chiếu hình ảnh không bao giờ xảy ra,

        Chỉ sau năm 1955, người sử dụng sổ thông hành do Winder cấp mới cần phải gia hạn, và trong thòi gian năm năm này, người này có thể làm đơn xin lấy bằng lái xe, số quốc gia danh bộ, mở trương mục, xin thẻ tín dụng, nói tóm lại nhờ thông hành này mà người này có thể tạo dựng cho mình một lý lịch hoàn toàn mới mẻ và vững chắc,

        Tính đến đầu mùa Xuân năm 1964, Winzer đã cung cấp tất cả là bồn mươi hai sổ thông hành trên tổng số sáu mươi thông hành trinh nguyên do hẳn đánh cắp được,

        Tên thợ khôn ngoan không phải vì đó mà không có biện pháp để phòng bọn Odessa chơi ngược lại. Hẳn đã tính trước một bửu bối để đối phó lại bọn Odessa trong trường hợp bọn này trở cờ. Winder thiết lập một danh sách những thân chủ của hẳn. Hắn không được biết tên thật của những tên này, do đó hắn cho chụp lại ảnh của mấy tên này gởi đến hắn để dán vô thông hành.

        Mỗi bản sao của mỗi tấm ảnh của từng thân chủ một được dán lên một tờ giấy riêng rẽ, phía dưới có ghi tên tuổi, địa chỉ và sổ thông hành mới của người này.

        Những tờ giấy này được lưu thành một Hồ Sơ. Hồ Sơ này, bảo hiểm cho đời sống của hắn, được lập thành hai bản, một bản do hắn cất kỹ tại nhà, và bản còn lại được gởi đến một luật sư nọ tại Zurich. Nếu đời sổng của hắn bị Odessa đe dọa, hắn sẽ cho tổ chức này biết qua về sự hiện hữu của Hồ Sơ này, và nếu có điều gì không may xảy đến  cho hắn, vị Luật Sư tại Zurich sẽ đem toàn bộ Hồ Sơ biếu không cho Chánh Quyền Tây Đức.

        Nhà cầm quyền khi nắm được những dữ kiện như hình ảnh, tên tuổi và địa chỉ mới của những tên SS bị truy nã, sẽ tìm bắt bọn này không mấy khó khăn. Đây là một diệu kế mà Winder đã áp dụng để sống một cuộc đời vô tư, thoải mái.

        Lúc tám giờ ba mươi sáng thứ Sáu, Klaus Winzer đang ngồi tại nhà, đọc báo, nhâm nhi cà phê, thì chuông điên thoại reo. Giọng nói bên kia đầu dây lúc đầu cau có sau trở nên dịu hơn :

        « Không có vấn đề ông bị liên lụy với chúng tôi ! Chỉ có thằng phóng viên chó đẻ này mới gây phiền phức cho chúng tôi thôi. Chúng tôi biết chắc hắn sẽ đến viếng ông, Nhưng đừng lo. Chúng tôi đã cho người theo sát hắn, và mọi chuyện sẽ được giàn xếp nội trong vài ngày thôi, Nhưng có điều ông phải rời khỏi Onasbruck ngay lập tức, đồng thời phải làm đúng theo những gì tôi dặn đây...»
Logged

Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM