Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:41:37 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lịch sử Quân sự  (Đọc 7419 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #110 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2021, 08:18:01 pm »

c) Bước phát triển và lởn manh của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954- 1975)

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đưa nước ta sang thời kỳ mới. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tạm thời dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nựớc của nhân dân ta chưa hoàn thành.


Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta đã lớn mạnh, trưởng thành, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên các chiến trường từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên, trước đối tượng tác chiến mới là đế quốc Mỹ, nhiệm vụ xây dựng quân đội đòi hỏi có những yêu cầu mới cao hơn. Tranh thủ những năm miền Bắc có hoà bình, quân đội ta vừa tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa tập trung xây dựng theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất (1955-1960) và 5 năm lần thứ hai (1961-1965), từng bước tiến lên chính quy, hiện đại.


Trong 10 năm xây dựng (1954-1964), quân đội ta đã có bước trưởng thành mới, từ đơn thuần bộ binh tổ chức không thống nhất, trang bị thiếu thốn, trở thành quân đội chính quy và tương đối hiện đại gồm ba quân chủng: Lục quân, Phòng không-Không quân và Hải quân. Đây là sự thay đổi lớn trong cơ cấu tổ chức của quân đội ta. Trong đó, lục quân là quân chủng chủ yếu gồm cả bộ binh, pháo binh, công binh, thiết giáp, phòng hoá, thông tin, vận tải... được huấn luyện có hệ thống và khá cơ bản về kỹ thuật và chiến thuật, bước đầu nắm được nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng. Quân đội ta tích luỹ được một số kinh nghiệm về xây dựng trong hoà bình, là cơ sở để bảo vệ miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Ở miền Nam, trong những năm 1954-1960, cách mạng phát triển từ đấu tranh chính trị đơn thuần lên khởi nghĩa từng phần và đồng khởi. Lực lượng cách mạng được củng cố và từng bước phát triển. Các đội vũ trang tập trung của huyện, tỉnh và toàn Miền được thành lập. Trong những năm 1961-1964, các đơn vị Quân giải phóng ở các địa phương, một số đơn vị chủ lực của Khu và Miền được tổ chức với quy mô trung đoàn, làm nòng cốt cho toàn dân đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ-ngụy.


Năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược ra cả nước, Đảng ta động viên lực lượng của toàn dân, chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến, nhanh chóng mở rộng lực lượng vũ trang, đặc biệt là phát triển bộ đội chủ lực. Về mặt tổ chức, Quân chủng Phòng không-Không quân phát triển các binh chủng: Ra-đa, Tên lửa, Pháo cao xa và Không quân chiến đấu. Các binh đoàn của lục quân được tăng cường nhiều binh chủng kỹ thuật. Lực lượng vận tải quân sự (Đoàn 559) phát triển thành binh đoàn vận tải chiến lược gồm bộ đội vận tải, công binh, phòng không và bộ binh. Trên chiến trường miền Nam, trên cơ sở phát triển ba thứ quân, trong hai năm 1965-1966, ta thành lập các sư đoàn bộ binh 5, 7, 9 chủ lực ở Nam Bộ; các sư đoàn 2 và 3 chủ lực ở Khu 5 và sư đoàn 1 chủ lực ở Tây Nguyên. Năm 1970, ta thành lập Binh đoàn 70, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tác chiến của quân đội ta trong giai đoạn mới và là tiên đê cho sự ra đời của các quân đoàn chủ lực sau này.


Kết hợp vừa xây dựng, vừa chiến đấu, sau thắng lợi của các chiến dịch Bình Giã, Đồng Xoài, Ba Gia, Plây Me, Bầu Bàng-Dầu Tiếng, quân và dân ta đánh bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967; tiếp đó, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân 1968 trên toàn chiến trường miền Nam; đồng thời đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, tạo ra bước ngoặt cho cuộc kháng chiến của ta.


Trong những năm 1969-1972, trước sự phản kích điên cuồng của Mỹ-ngụy, quân đội ta đã vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, kiên trì chiến đấu, giữ vững các khối chủ lực ở miền Nam: đồng thời tăng cường lực lượng chủ lực và các binh chủng kỹ thuật, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng. Quân đội ta đã giành được những thắng lợi lớn trên chiến trường ba nước Đông Dương, tiêu biểu là chiến dịch Đường 9-Nam Lào (1971). Năm 1972, quân và dân ta mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam; đồng thời đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, đỉnh cao là chiến dịch phòng không đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng, buộc chính quyền Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri (27-1-1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu về quân sự, rút hết quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ ra khỏi miền Nam.


Để sớm kết thúc chiến tranh, chúng ta phải tập trung xây dựng một lực lượng lớn với quy mô tổ chức cao hơn. Theo đề nghị của Quân uỷ Trung ương và Bộ Quốc phòng, Bộ Chính trị phê chuẩn việc thành lập các Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232 (tương đương quân đoàn) và tăng cường các binh chủng kỹ thuật. Việc thành lập các quân đoàn đánh dấu bước trưởng thành về quy mô tổ chức lực lượng và thay đổi về chất, tạo ra lực mới cho quân đội ta cùng toàn dân mở cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh đổ ngụy quyền tay sai, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.


Như vậy, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lớn mạnh không ngừng và chiến thắng rất vẻ vang. Quân đội ta đã trưởng thành cả về số lượng và chất lượng, trước hết là chất lượng chính trị và trình độ chính quy, hiện đại. Trải qua kháng chiến, quân đội ta đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm về xây dựng lực lượng, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, cùng toàn dân đánh thắng quân xâm lược Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự đứng hàng đầu các nước đế quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #111 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2021, 08:18:31 pm »

d) Quân đội nhân dân Việt Nam trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975 - 2000).

Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, quân đội ta chuyển từ nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu trong chiến tranh sang xây dựng và sẵn sàng chiến đấu; đồng thời tham gia xây dựng kinh tế đất nước trong thời bình. Quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng IV, trong những năm 1975-1977, quân đội ta vừa tham gia xây dựng kinh tế đất nước, vừa điều chỉnh tổng quân số, chấn chỉnh tổ chức biên chế, đẩy mạnh huấn luyện quân sự, nâng cao trình độ chính trị. chấp hành điều lệnh, điều lệ thống nhất trong toàn quân.


Ngay từ những năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân và dân ta đã phải đối phó với kẻ thù mới. Thực hiện âm mưu tiếp tục làm suy yếu Việt Nam, một lần nữa, đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế sử dụng tập đoàn Pôn-pốt Iêng-xa-ri ở Cam-pu-chia quấy phá và gây chiến tranh xâm lược ở vùng biên giới Tây Nam. Quyết tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc, quân và dân các quân khu 5, 7, 9 và một số đơn vị chủ lực cơ động đã kịp thời đánh trả, đẩy chúng về bên kia biên giới. Tiếp đó, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam theo yêu cầu của Mặt trận Dân tộc giải phóng Cam-pu-chia đã phối hợp với quân và dân nước bạn đánh đuổi tập đoàn Pôn- pốt Iêng- xa-ri, cứu dân tộc Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng và giúp bạn xây dựng lại đất nước.


Trong 10 năm (1979-1989) giúp cách mạng Cam-pu-chia, cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã phát huy tinh thần quốc tế trong sáng, giúp bạn truy quét bọn tàn quân Pôn-pốt Iêng-xa-ri, củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, ổn định cuộc sống của nhân dân. Hoàn thành nhiệm vụ quốc tế, trong những năm 1982- 1983, quân tình nguyện Việt Nam đã rút từng bộ phận và đến tháng 9 năm 1989 đã rút toàn bộ lực lượng và trang bị của mình về nước.


Đồng thời với giúp bạn Cam-pu-chia, quân đội ta cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương giành thắng lợi lớn trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc (17-2 - 18-3-1979), tiếp đó đánh trả các hành động lấn chiếm một số vùng biên giới và làm thất bại âm mưu gây chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ và vùng biển, hải đảo của Tổ quốc. Như vậy, tiếp theo chiến công vì đại trong cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm (1945-1975). quân đội ta lại giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, góp phần cùng toàn dân giữ vững ổn định chính trị; thực hiện chức năng một đội quân công tác, đội quân sản xuất, tích cực tham gia xây dựng kinh tế đất nước, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng Cam-pu-chia.


Từ cuối năm 1986 đến năm 2000, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, quân đội ta tiếp tục xây dựng theo hướng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Trong thời kỳ này, chúng ta đã thực hiện việc điều chỉnh lực lượng, tinh giảm biên chế, chấn chỉnh quân đội thường trực, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.


Có thể nói, trong những năm đầu của thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân đội ta đã bước ngay vào cuộc chiến đấu mới, giành thắng lợi ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc và hoàn thành nhiệm vụ quốc tế đối với cách mạng Cam-pu-chia. Trước những thử thách của tình hình quốc tế và trong nước, quân đội ta luôn vững vàng về chính trị, tuyệt đôi trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Phát huy truyền thống anh hùng trong chiến đấu, quân đội ta tiếp tục xây dựng trong hoà bình, có bước trưởng thành mới về trình độ cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đặt nền móng để xây dựng trong những năm đầu của thế ký XXI.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #112 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2021, 08:19:49 pm »

2. Những đặc điểm trong quá trình xây dựng và phát triển

Hơn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành, quân đội ta đã trải qua những chặng đường phát triển đầy gian khổ hy sinh, nhưng cũng rất hào hùng. Từ quá trình xây dựng và phát triển đó, chúng ta có thể thấy những đặc điểm lớn của một quân đội cách mạng mang đặc trưng rất Việt Nam - "Bộ đội Cụ Hồ". Những đặc điểm đó là:

a) Quana đội nhân dân Viêt Nam ra đời, xây dựng và chiến đấu trong điều kiện một nước đất không rộng, người không đông lắm, vốn là thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế chưa phát triển.

So với các nước thực dân, đế quốc đã từng đến xâm lược, thì nước ta đất không rộng lắm, hình thế địa lý dài và hẹp, dễ bị quân thù chia cắt. Dân số nước ta cũng không đông lắm (năm 1945 là 25 triệu), phân bố không đều giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng, trung du và rừng núi. Dưới ách thống trị và áp bức bóc lột hà khắc gần 100 năm của thực dân Pháp, đất nước ta đã lâm vào cảnh lầm than, kinh tế kiệt quệ, nhân dân nghèo đói. Cách mạng tháng Tám thành công, nhân dân ta chưa kịp bước vào xây dựng cuộc sống mới, thì thực dân Pháp trở lại xâm lược, khôi phục lại chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Sau 9 năm kháng chiến, vượt qua bao khó khăn, gian khổ, chiến đấu anh dũng, hy sinh, quân và dân ta mới giải phóng được miền Bắc, còn miền Nam tạm thời nằm dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Chúng âm mưu thống trị miền Nam bằng chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Nhân dân ta lại phải tiếp tục kháng chiến 21 năm nữa, mới giành được thắng lợi trọn vẹn, hoàn thành sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.


Sau nhiều năm chiến tranh tàn phá nặng nề, chưa kịp khôi phục, hàn gắn, quân và dân ta lại phải tiến hành cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; tiếp đó đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt và chiến lược "diễn biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ của đế quốc Mỹ và các thế lực phản động quốc tế âm mưu làm suy yếu đất nước Việt Nam, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng.


Do chế độ bóc lột nặng nề, hà khắc của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và các thế lực thù địch trong và ngoài nước, do chiến tranh tàn phá khốc liệt và nhân dân ta phải tập trung toàn bộ nhân lực, vật lực tiến hành cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt, nền kinh tế đất nước ta chậm phát triển. Trong hoàn cảnh đó, vấn đề tổ chức xây dựng, bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho quân đội gặp nhiều khó khăn. Mọi việc từ tổ chức, trang bị, huấn luyện đến chiến đấu đánh thắng địch của quân đội ta ngay từ khi mới hình thành và trải qua các giai đoạn phát triển của cách mạng đã đặt ra nhiều vấn đề mới không giống quân đội các nước, kể cả quân đội các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Song quân đội ta vẫn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành qua từng chặng đường phát triển của cách mạng.


b) Đối tượng tác chiến của quân đội ta là quân đội của các nước đế quốc lớn, đất rộng, người đông, có tiềm lực kinh tế, quân sự manh và trang bị vũ khí kỹ thuật hiện đại

Trong mấy chục năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, quân đội ta liên tiếp phải đương đầu với những đội quân cơ bản. Mọi mặt xây dựng, huấn luyện đều xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu và phục vụ ngay cho cuộc chiến đấu trên các chiến trường, với từng đối tượng tác chiến khác nhau. Nhờ biết kết hợp đúng theo yêu cầu vừa chiến đấu, vừa xây dựng, càng đánh càng mạnh, quân đội ta đã tạo được sức mạnh vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu và từng bước trưởng thành trong từng mặt công tác.


Có một thời gian, quân đội ta được tập trung xây dựng liên tục hơn 10 năm khi miền Bắc hoà bình (1954-1964). Trong thời gian này, khó khăn lớn nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và chuyên môn kỹ thuật. Nhiều công việc còn mới mẻ, phải triển khai cùng một lúc để nhanh chóng mở rộng lực lượng, sẵn sàng chiến đấu. Cán bộ và chiến sĩ, cấp trên và cấp dưới đều phải học tập để làm cho được chức trách của mình. Việc xây dựng của quân đội ta có những thuận lợi hơn thời kỳ kháng chiến chống Pháp.


Miền Bắc được giải phóng đã tạo điều kiện cho quân đội ta phát triển cả về cơ cấu tổ chức và sức mạnh chiến đấu. Hàng vạn cán bộ các cấp đã trưởng thành qua rèn luyện, thử thách trong chín năm chiến tranh. Đông đảo chiến sĩ được tôi luyện trong thực tế chiến đấu và phục vụ chiến đấu là nguồn bổ sung lớn cho đội ngũ cán bộ quân đội trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với phương hướng xây dựng đúng đắn, quyết tâm cao và tổ chức thực hiện tốt, quân đội ta có bản lĩnh cách mạng cao và sức mạnh chiến đấu được nhân lên nhiều lần. Đó là cơ sở chắc chắn tạo cho quân đội ta sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng rất vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.


Thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc từ đầu những năm 80, đặc biệt là từ năm 1990 đến năm 2000, quân đội ta tập trung xây dựng thành một quân đội cách mạng chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Đây là những nội dung cơ bản trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện tại cũng như những năm tiếp theo, trong đó xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng là nội dung cơ bản không lúc nào được coi nhẹ, nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #113 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2021, 08:20:32 pm »

c) Sự nghiệp xây dựng và phát triển quân đội ta diễn ra trong điều kiện quốc tế có nhiêu thuận lợi, đồng thời có những diễn biến phức tạp

Sự nghiệp mà Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành chống lại quân đội các nước đế quốc xâm lược không những chỉ là kẻ thù của nhân dân ta, mà còn là kẻ thù của nhân loại yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của quân dân ta chống lại sự xâm lược và nô dịch của các nước đế quốc, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc là phù hợp với đạo lý, với lòng người trên thế giới và quy luật phát triển của thời đại. Đây là thuận lợi lớn để ta cô lập kẻ thù, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ ngày càng rộng rãi và có hiệu quả của quốc tế.


Trong khi đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh, phong trào đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ngày càng phát triển. Mặc dù trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế xâm lược hung bạo nhất của thời đại, từ phát xít Nhật, thực dân Pháp cho đến đế quốc Mỹ (gồm cả một số nước đồng minh của Mỹ), tên đế quốc đầu sỏ, kẻ thù của cả nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới. Đó là quân đội của các nước đế quốc lớn, đất rộng, người đông, có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự đứng hàng đầu thế giới hồi đó. Chúng được trang bị vũ khí kỹ thuật rất hiện đại, được huấn luyện một cách bài bản theo yêu cầu của một cuộc chiến tranh hiện đại với âm mưu và thủ đoạn rất xảo quyệt. Quân đội ngụy do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ tổ chức, huấn luyện và chỉ huy cũng là những đội quân có số lượng đông, trang bị hiện đại. Tuy nhiên, chiến tranh của chúng là phi nghĩa, nên không những bị quân dân ta kiên quyết chống lại, không được nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới đồng tình, mà còn không được nhân dân nước chúng ủng hộ, khiến chúng ngày càng bị cô lập về chính trị trên thế giới và ngay cả tại chính quốc. Tuy quân đội các nước đế quốc có số lượng đông, trang bị vũ khí hiện đại, nhưng chúng không có mục tiêu, lý tưởng chân chính, nên tinh thần chiến đấu có mặt hạn chế. Chúng lại phải tác chiến ở chiến trường xa, không quen thuộc, điều kiện về lòng người, thời tiết cũng như địa hình đều không thuận lợi.


Những năm gần đây, đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch quốc tế mặc dù đã thất bại nặng nề ở Việt Nam, nhưng với bản chất ngoan cố, chúng vẫn ấm mưu thực hiện "diễn biến hoà bình", kết hợp với gây bạo loạn lật đổ và răn đe quân sự, chuyển hoá từ bên trong và gây áp lực từ bên ngoài hòng buộc chúng ta phải tuân theo những giá trị do chúng áp đặt.


Nếu so sánh với quân độỉ các nước đế quốc mà chúng ta phải đương đầu, thì quân đội ta còn thua kém về số lượng, vũ khí, trang bị kỹ thuật. Quân đội ta chưa được huấn luyện một cách bài bản để đối phó với chiến tranh hiện đại, công nghệ cao. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đã giao phó, quân đội ta luôn phải xây dựng và chiến đấu trong tình thế lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn, vừa chiến đấu vừa xây dựng và phát triển lực lượng, tạo ra thế và lực đánh thắng bằng sức mạnh tổng hợp, kết hợp sức mạnh của dân tộc và thời đại, chiến đấu lâu dài, tiêu hao và tiêu diệt từng bộ phận quân địch, làm thất bại từng chiến lược và ý chí xâm lược của địch, giành thắng lợi từng bước và cuối cùng đánh thắng các đội quân nhà nghê xâm lược nước ta.


d) Kết hợp vừa chiến đấu, vừa xây dựng trong chiến tranh; đồng thời xây dựng trong hoà bình, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị và sức mạnh chiến đấu của quân đội

Trong nửa thế kỷ vừa qua, do các cuộc chiến tranh kéo dài và vô cùng ác liệt, hơn nửa thời gian, quân đội ta phải vừa xây dựng, vừa chiến đấu trong chiến tranh. Từ năm 1944 đến năm 1989, hầu như quân đội ta liên tục chiến đấu, cùng toàn dân thực hành Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, tiến hành các cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) và chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), chiến đấu bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc (1977-1979), thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Lào (1945-1954, 1960-1975) và Cam-pu-chia (1945-1954, 1970-1975, 1979-1989). Do các cuộc chiến tranh kéo dài, quân đội ta không có thời gian tập trung xây dựng, huấn luyện xuất hiện những quan điểm và xu hướng khác nhau về chiến lược, sách lược cách mạng, nhưng trước sự nghiệp chính nghĩa của quân dân ta và đường lối độc lập, tự chủ, đoàn kết quốc tế đúng đắn của Đảng ta, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, giai cấp công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và nhân loại tiến bộ yêu chuộng hoà bình công lý kể cả nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ đều đồng tình ủng hộ, đoàn kết với Việt Nam kháng chiến chống quân đội các nước, đế quốc xâm lược.


Sự giúp đỡ của nhân dân và quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, trước hết là Liên Xô, Trung Quốc đối với quân và dân ta về vật chất và tinh thần, đặc biệt là về vũ khí, kỹ thuật là to lớn và hiệu quả. Sự đồng tình và ủng hộ đó đã tạo thêm sức mạnh cho quân đội và nhân dân ta kiên trì cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng. Đặc biệt, tình đoàn kết chiến đấu giữa quân dân Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp, đế quốc Mỹ ngày càng được củng cố vững chắc. Cách mạng ba nước Đông Dương liên minh chặt chẽ với nhau trong chiến đấu và xây dựng đã trở thành một quy luật để đánh thắng quân xâm lược và giữ gìn độc lập tự do của mỗi nước.


Thực tiễn tình đoàn kết chiến đấu ba nước Đông Dương đã trở thành truyền thống đoàn kết đặc biệt, một sức mạnh to lớn để chiến thắng kẻ thù. Trên chiến trường Lào, Cam-pu-chia, cán bộ và chiến sĩ ta được quân đội và nhân dân hai nước anh em coi như ruột thịt, chia ngọt sẻ bùi, tận tình giúp đỡ nhiều mặt. Đó là những điều kiện thuận lợi để quân và dân ta cô lập kẻ thù và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ rộng lớn của quốc tế, kiên trì các cuộc kháng chiến, không chỉ giành thắng lợi cho mình, mà còn giúp quân đội cách mạng và nhân dân các nước Lào, Cam-pu-chia. Sát cánh chiến đấu với Lào và Cam-pu-chia, quân đội ta đã góp phần xây dựng cơ sở cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân cho bạn, cùng bạn từng bước đẩy mạnh kháng chiến: ngược lại, chúng ta cũng được sự giúp đỡ to lớn của nhân dân hai nước anh em. Nhờ có sự giúp đỡ và học tập lẫn nhau trên tinh thần quốc tế vô sản, quân đội ta đã phát huy được khả năng của mình, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #114 vào lúc: 19 Tháng Năm, 2021, 08:20:58 pm »

đ) Từ khi thành lập đến nay, quân đội ta được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt

Quân đội ta trưởng thành vững mạnh và hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của mình trong các giai đoạn của cách mạng, trước hết là Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng và lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất của việc xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu của Đảng và Nhà nước, cùng toàn dân giành chính quyền, giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Có Đảng lãnh đạo, quân đội ta mới có bản chất cách mạng tốt đẹp với tinh thần cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc và tính quốc tế cao cả, có mục tiêu chiến đấu và đường lối xây dựng đúng đắn cho mình, thực hiện chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân sản xuất. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục cho quân đội ta lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, luôn phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp đó.


Đảng lãnh đạo xây dựng các lực lượng vũ trang ba thứ quân, xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, bao gồm các quân chủng, binh chủng, các ngành nghề chuyên môn nghiệp vụ, trong đó tập trung xây dựng các binh đoàn chủ lực mạnh, có hiệu suất chiến đấu cao, làm cho quân đội ta càng đánh càng mạnh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, giành thắng lợi từng bước, đi tới thắng lợi hoàn toàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành công cụ tin cậy sắc bén, một lực lượng tinh thông cùng toàn dân thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, thực hiện chức năng của mình một cách sáng tạo, làm cho cuộc chiến tranh nhân dân phát triển mạnh mẽ, linh hoạt, khiến kẻ địch không thể đối phó nổi trong chiến tranh. Trong hoà bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng, ta đã xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trong hoà bình.


Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn gốc, nhân tố quyết định sự ra đời, phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ yếu thành mạnh, ngày càng trưởng thành và chiến thắng oanh liệt của quân đội ta. Không có đường lối đúng đắn, sáng suốt của Đảng, không có Đảng tổ chức xây dựng và lănh đạo, quân đội ta dù có được thành lập cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, không thể đối phó nổi với kẻ địch, không thực hiện được yêu cầu càng đánh càng mạnh để đi đến thắng lợi hoàn toàn.


Ngày nay, điều cơ bản có ý nghĩa quyết định là phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội nhân dân, giữ vững và nâng cao một bước mới về bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, tính quốc tế của quân đội nhân dân. Thực chất là làm cho quân đội nhân dân nắm vững chức năng vũ trang, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


Có thể nói, những đặc điểm trên đây đã ảnh hưởng thường xuyên, sâu sắc đến quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta trong hơn nửa thế kỷ qua. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng quân đội cách mạng; đồng thời căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta để định ra đường lối xây dựng và phát triển quân đội nhân dân, một quân đội kiểu mới của dân tộc, quân đội của dân, do dân và vì dân, trở thành công cụ, lực lượng sắc bén cùng toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu của chúng ta.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #115 vào lúc: 20 Tháng Năm, 2021, 07:53:03 pm »

II- BẢN CHẤT VÀ TRUYỀN THỐNG CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM


1. Bản chất

Quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua là kết quả của đường lối xây dựng lực lượng vũ tran^nhân dân, quân đội nhân dân đúng đắn của Đảng. Đường lối đó được hình thành và phát triển ngày càng hoàn thiện theo quan điểm quân sự cơ bản của Đảng và những giá trị tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân. So với quân đội của dân tộc trước đây, Quân đội nhân dân Việt Nam thời hiện đại, có những bước phát triển mới về bản chất giai cấp trong xây dựng, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc hết sức vẻ vang.


a) Quân đội ta mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc và tính quốc tế cao cả. Đó là quân đội kiểu mới ở Việt Nam, nó kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc và sự vận dụng sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng quân đội cách mạng trong điều kiện của đất nước ta.


Xác định bản chất cách mạng cho quân đội nhân dân là nguyên tắc hàng đầu trong đường lối xây dựng quân đội của Đảng ta. Tư tưởng đó bắt nguồn từ quan điểm "lấy dân làm gốc", coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Không có dân thì không có bộ đội, còn bộ đội thì "ở trong dân, bênh vực quyền lợi cho dân, vì nhân dân mà hy sinh chiến đấu", "tận tâm, tận lực, vui lòng hy sinh vì sự nghiệp cứu nước, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì cách mạng"1 (Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1990, tr.71). Tư tưởng đó còn xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: Phải kết hợp vũ trang quần chúng cách mạng với xây dựng quân đội cách mạng, do chính Đảng vô sản lãnh đạo. Xuất phát từ những quan điểm đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt cho quân đội ta mang cái tên rất gần gũi là Quân đội nhân dân Việt Nam.


Xây dựng quân đội nhân dân mang bản chất cách mạng là một trong những nội dung cơ bản trong đường lối xây dựng quân đội của Đảng ta. Khi chưa giành được chính quyền, quân đội ta mới hình thành (gồm các đội quân tiền thân như Tự vệ công nông, Đội du kích Bắc Sơn, Quân du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Đội du kích Ba Tơ...) là công cụ bạo lực của Đảng cùng toàn dân đấu tranh giành chính quyền. Khi đã giành được chính quyền, quân đội ta trở thành một bộ phận cấu thành của quốc gia, mang bản chất của chính quyền mới, Nhà nước mới, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trước đây và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.


Nhìn nhận bản chất cách mạng của quân đội ta có thể xem xét các mối quan hệ của quân đội với Đảng, Nhà nước, nhân dân, với nội bộ, bạn bè và với kẻ thù. Đồng thời cũng có thể nhận rõ bản chất cách mạng của quân đội theo quan điểm cơ bản của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở mục tiêu chiến đấu, vì Đảng, vì nước, vì dân, do dân. Quân đội nhân dân cùng với công an nhân dân nói riêng, các lực lượng vũ trang nhân dân nói chung là công cụ bạo lực chủ yếu của Đảng, của Nhà nước ta và đó cũng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân thực hiện Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền cách mạng trong cả nước: tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi, thống nhất đất nước, đưa cả nước chuyển sang thời kỳ mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, các triều đại phong kiến đã từng tổ chức ra những quân đội dân tộc. Đó là quân đội của các nhà nước Văn Lang, Âu Lạc, Vạn Xuân, Đại Cồ Việt, Đại Việt và Việt Nam thời cận đại. Quân đội của dân tộc trong các thời đại trước đây chủ yếu do giai câp phong kiến tổ chức và lãnh đạo, mang bản chất của giai cấp phong kiến tiến bộ, có sự điều hoà về lợi ích dân tộc và mục tiêu chiến đấu với đông đảo dân chúng. Khi các nhà nước phong kiến dân tộc có đường lối chính trị - quân sự đúng đắn, thì quân đội của họ cùng toàn dân hoàn thành nhiệm vụ đánh thắng giặc ngoại xâm.


Tuy nhiên, quân đội của các nhà nước phong kiến và dân chúng đông đảọ có sự đối lập về lợi ích giai cấp, bởi quân đội của các nhà nước phong kiến là quân đội của số ít người thuộc giai cấp phong kiến thống trị bóc lột, khi các tập đoàn phong kiến cầm quyền bị thoái hoá, suy tàn, họ đã sử dụng quân đội để đàn áp những cuộc nổi dậy của nhân dân, giết hại nông dân, quần chúng lao động để bảo vệ lợi ích, bảo vệ ngai vàng và điền trang thái ấp của vua quan. Vì thế, sự nhất trí về quyền lợi dân tộc và mục tiêu chiến đấu cũng bị hạn chế, nên trong một số thời điểm lịch sử, quân đội của nhà nước phong kiến đã không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của dân tộc trước các đạo quân xâm lược lớn mạnh.


Những đạo quân viễn chinh của các thế lực phong kiến phương Bắc hay các đế quốc phương Tây, từng xâm lược nước ta đều là công cụ thực hiện âm mưu thôn tính, nô dịch các dân tộc khác. Nhiều đạo quân đông và mạnh đã được các triều đại Trung Hoa sử dụng đế xâm lược nước ta. Tiếp đó, hàng chục vạn quân viễn chinh trang bị vũ khí hiện đại cũng đã được thực dân Pháp, đế quốc Mỹ huy động sang xâm lược Việt Nam. Những đạo quân viễn chinh xâm lược đó xuất hiện ở Việt Nam, thực chất là công cụ bạo lực để các thế lực phong kiến phương Bắc, các đế quốc phương Tây sử dụng, lộ rõ bản chất dã man, vô nhân đạo của quân đội nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản phản động, tiến hành các cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bạo để xâm lược, nô dịch, bóc lột, kìm hãm sự phát triển của đất nước ta.


Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời là một mốc son hoàn toàn mới trong lịch sử dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại Hồ Chí Minh. Quân đội ta đã kế thừa và phát huy bản chất tốt đẹp, nhưng lại khác hẳn vể bản chất so với quân đội các triều đại trong lịch sử dân tộc. Quân đội ta ngày nay là thành quả của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân lao động, của toàn thể dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó chính là công cụ bạo lực để thực hiện và bảo vệ đường lối chính trị, quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy, đồng thời giáo dục, rèn luyện quân đội ta trưởng thành. Trong xây dựng quân đội, Đảng ta nhấn mạnh: Vấn đề cơ bản là phải tăng cường bản chất cách mạng của giai cấp công nhân cho Quân đội nhân dân Việt Nam. Bởi tăng cường bản chất cách mạng của giai cấp công nhản, cũng là nhân tố cơ bản, bảo đảm cho quân đội ta xác định rỡ mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, luôn vững vàng trong mọi tình huống và theo kịp sự chuyển biến to lớn của cách mạng: đồng thời thường xuyên giữ được mối quan hệ máu-thịt quân với dân như cá-nước, giữ nghiêm kỷ luật quần chúng, vì nhân dân mà phục vụ, bảo vệ nhân dân không điều kiện. Được vũ trang trong mình bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, quân đội ta có bản lĩnh giải quyết một cách đúng đắn các mối quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ, quân đội và nhân dân; giữa các cấp trong quân đội với các cơ quan Đảng và Nhà nước; giữa quân đội ta với quân đội các nước Lào và Cam-pu-chia, chiến đấu chống kẻ thù chung thắng lợi.


Tư tưởng chỉ đạo cơ bản trong xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội nhân dân được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Trung với nước, hiếu với dân". Đó là bổn phận rất thiêng liêng của mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội ta. Trung với vua, với nước, hiếu với cha mẹ là hai đạo lý lớn của dân tộc Việt Nam, nay được Đảng ta nâng lên thành đạo lý cho quân đội nhân dân ở tầm cao mới, sâu sắc, triệt để hơn. Khái niệm trung với vua trước kia, nay trở thành trung với nước, với Đảng Cộng sản, hiếu với cha mẹ nay gồm cả lòng trung hiếu với nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, hy sinh. Năm 1964. nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày thành lập quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát cô đọng bản chất cách mạng của quân đội ta: "Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng hy sinh chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.350).


Trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân là bản chất chính trị, tư tưởng của quân đội nhân dân; đồng thời cũng là bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, do Đảng lãnh đạo. Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, được vũ trang bằng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tổ chức quân đội của giai cấp vô sản, Quân đội nhân dân Việt Nam đã mang trong mình bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, có tính nhân dân, tính dân tộc và tính quốc tế; đó cũng là bản chất nhân dân của một tổ chức quân sự kiểu mới ở Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #116 vào lúc: 20 Tháng Năm, 2021, 07:53:53 pm »

b) Phấn đấu vì mục tiêu giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta hết sức coi trọng việc xây dựng và không ngừng tăng cường bản chất cách mạng cho các đội quân tiền thân của quân đội ta, đặc biệt là quân đội nhân dân sau này. Đó là yếu tố cơ bản trang bị cho quân đội ta ngày càng có sức chiến đấu mạnh mẽ, luôn là công cụ bạo lực đáng tin cậy của Đảng và Nhà nước, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó. Bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta thể hiện ở mục tiêu nhất quán: Chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc xâm lược và bọn vua quan phong kiến tay sai, giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất cho Tổ quốc Việt Nam, đem lại ruộng đất cho dân cày, thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Lào và nhân dân Cam-pu- chia, đưa cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa.


Mục tiêu chiến đấu của quân đội ta phản ánh quyền lợi của giai cấp công nhân Việt Nam, mà trước hết phản ánh quyền lợi cơ bản, khát vọng lâu đời của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, trong đó điều chủ yếu là phản ánh sự thống nhất quyền lợi của giai cấp công nhân và quyền lợi của cả dân tộc. Nội dung phản ánh bản chất của quân đội ta thể hiện tính nhân dân, tính dân tộc và tính quốc tế. Chỉ có giai cấp công nhân là người đại diện chân chính nhất, trung thành nhất với quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, của toàn thể dân tộc Việt Nam và cả nhân loại tiến bộ.


Bản chất nhân dân của quân đội ta không thể hình thành một cách tự phát. Quân đội nhân dân Việt Nam là một tập đoàn người xuất thân từ mọi tầng lớp nhân dân trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, chủ yếu là công nhân, nông dân và trí thức yêu nước. Nhân tố cơ bản quyết định sự hình thành và phát triển bản chất công nhân của quân đội nhân dân là sự lãnh đạo duy nhất của chính đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam. Đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Đảng đã trực tiếp xây đựng, lãnh đạo và giáo dục quân đội nhân dân, trao sứ mệnh lịch sử và xác định mục tiêu chiến đấu cho quân đội ta trong suốt các giai đoạn của cách mạng Việt Nam.


Ngay khi mới ra đời, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu cách mạng của dân tộc Việt Nam nói chung cũng như "quân đội công nông" (sẽ tổ chức) nói riêng là làm "cách mạng tư sản dân quyền", do giai cấp công nhân lãnh đạo, tức là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ nhất (10-1930) khẳng định cần đánh đổ đế quốc Pháp, làm cho dân tộc độc lập và xoá bỏ chế độ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.


Có thể nói, Đảng đã xác định rõ ràng mục tiêu phấn đấu của quân đội ta ngay từ những ngày đầu hình thành. Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, các đội quân tiền thân của quân đội ta đã lần lượt hình thành ở các chiến khu, căn cứ cách mạng, gồm chủ yếu là công nhân, nông dân. Cán bộ chỉ huy là những đảng viên hay cán bộ phụ trách trong các tổ chức cứu quốc thuộc Mặt trận Việt Minh. Xây dựng các đội quân tiền thân của quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân và có tính nhân dân là nội dung cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng hồi đó. Mục tiêu chiến đấu được xác định là đánh đổ ách thống trị của đế quốc và phong kiến, mang lại nền độc lập cho dân tộc, thống nhất Tổ quốc và cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.


Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta rất coi trọng việc tăng cường bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng cho quân đội thể hiện ở mục tiêu chiến đấu giành lại nền độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân cày, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng quân đội mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, Đảng coi trọng kết hợp giác ngộ giai cấp với giác ngộ dân tộc, tinh thần yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản, gắn giáo dục chính trị với nhiệm vụ quân sự, kết hợp nâng cao nhận thức với động viên hành động cách mạng trong xây dựng và chiến đấu. Nhờ không ngừng xây dựng bản chất của giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của Đảng, quân đội ta luôn kiên định, vững vàng trong mọi tình huống và ngày càng có sức chiến đấu mạnh mẽ.


Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nội dung xây dựng bản chất quân đội ta có bước phát triển mới, đầy đủ và sâu sắc hơn trước. Ở miền Bắc, thành quả của công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã làm chuyển biến sâu sắc tình hình xã hội. Đội ngũ giai cấp công nhân lớn mạnh, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức hình thành tham gia quân đội ngày càng đông đảo. Từ những năm 1961-1965, số cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam ngày càng đông đã làm cho thành phần Quân Giải phóng miền Nam cũng có sự thay đổi. Mục tiêu của cuộc kháng chiến cũng là mục tiêu của quân đội ta, đó là vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội chiến đấu. Mục tiêu này được thể hiện rõ trong nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. 


Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Đảng ta xác định phải tăng cường bản chất cách mạng cho quân đội trong điều kiện mới. Đó là tập trung xây dựng và không ngừng nâng cao bản chất cách mạng, tạo cho quân đội ta thực sự là một quân đội cách mạng kiểu mới của Việt Nam. Việc xây dựng quân đội mang bản chất cách mạng luôn gắn liền với việc xây dựng quân đội vê các mặt chính trị, quân sự, hậu cần và kỹ thuật. Đó là một trong những nguyên tắc trong xây dựng quân đội của Đảng ta. Trong những năm đất nước đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước những biến động phức tạp của tình hình quốc tế, việc xây dựng bản chất cách mạng của giai cấp công nhân cho quân đội đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi chặt chẽ, kiên định, vững vàng hơn. Mục tiêu chiến đấu cơ bản lâu dài của quân đội ta được xác định là bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ sự toàn vẹn của chủ quyền quốc gia, bảo vệ Đảng và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa.


Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh giáo dục, rèn luyện, nâng cao bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân trong các thời kỳ xây dựng và chiến đấu, từ Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ đến xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cán bộ và chiến sĩ quân đội ta luôn vững vàng về lập trường tư tưởng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, quyết tâm phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh, thực hiện bằng được những nhiệm vụ mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân giao phó.


Vừa mới hình thành, quân đội ta đã cùng toàn dân đấu tranh, giành chính quyền về tay nhân dân trong cả nước; khi đã có chính quyền thì cùng nhân dân củng cố, giữ vững chính quyền của nhân dân, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đó là bước phát triển về bản chất cách mạng và mục tiêu chiến đấu của quân đội ta; đồng thời khẳng định nó là công cụ bạo lực sắc bén thực hiện thắng lợi những mục tiêu do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với điều kiện mới ở Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #117 vào lúc: 20 Tháng Năm, 2021, 08:00:24 pm »

c) Quân đội ta từ nhân dân mà ra, được nhân dân nuôi dưỡng và bảo vệ

Quân đội nhân dân Việt Nam vốn xuất thân từ nhân dân và trở thành lực lượng đặc biệt của dân, do nhân dân nuôi dưỡng, che chở, bảo vệ. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Phải xây dựng quân đội nhân dân cũng như xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân "thật là một quân đội cách mạng của nhân dân"1 (Nghị quyết quân sự của Đảng 1930-1960, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1959, tr.147, 105) và "quân đội Việt Nam là quân đội nhân dân, từ nhân dân tổ chức ra, được nhân dân nuôi nấng, giúp đỡ, vì nhân dân mà chiến đấu"2 (Nghị quyết quân sự của Đảng 1930-1960, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1959, tr.147, 105). Đây chính là điểm cốt lõi trong xây dựng quân đội của Đảng ta. Nó khẳng định nguồn gốc của quân đội là từ nhân dân mà ra. Quan điểm xây dựng quân đội cách mạng đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội"1 (Hồ Chí Minh: Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.61), "Muốn đánh thắng giặc... trước nhất và mọi việc phải dựa vào dân"2 (Hồ Chí Minh: Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1975, tr.61).


Đảng ta coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng và xác định công nông là đội quân chủ lực của cách mạng. Vì thế, Đảng thường xuyên giáo dục cán bộ, chiến sĩ rằng nhân dân là chủ, phải giữ vững mối quan hệ quân với dân như cá - nước; đồng thời phải giúp đỡ tận tình nhân dân, làm cho nhân dân luôn tin tưởng, mến phục, yêu thương. Đây là cả một quá trình phấn đấu, xây đắp mối quan hệ máu - thịt giữa quân đội với nhân dân, bắt đầu từ một người lan ra bộ phận, một đơn vị, địa phương đến toàn quân và toàn dân. Nhờ dựa chắc vào dân, được nhân dân giúp đỡ, nuôi dưỡng, quân đội ta đã không ngừng phát triển nhanh chóng, vững chắc, sức mạnh chiến đấu được nâng cao, hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.


Theo yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng ban đầu, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương chọn những người ưu tú trong các đội tự vệ, du kích và quần chúng cách mạng tích cực để tổ chức ra đội quân chủ lực đầu tiên, bởi "cuộc kháng chiến của ta là kháng chiến của toàn dân, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân" và "chọn trong hàng ngũ những du kích Cao-Bắc-Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực"3 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.507). Quân đội ta "ban đầu lương thực, khí giới, chăn áo, thuốc men cái gì cũng thiếu thốn", nhưng nhờ dựa chắc vào dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, ủng hộ sức người, sức của, nên "chẳng mấy lâu, từ vài chục người đã trưởng thành đến vài trăm người. Thanh niên rầm rộ kéo đến xin vào bộ đội. Nhờ đồng bào Việt Bắc hăng hái giúp đỡ mọi mặt... từ đó người càng đông, sức càng mạnh, chẳng những lập nên khu giải phóng, mà lại xây dựng căn cứ địa khắp nơi"1 (Hồ Chí Minh: Những bài nói và viết về quân sự, tập 1, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr.285), tạo chỗ đứng chân vững chắc cho quân đội ta đẩy mạnh hoạt động, cùng toàn dân đấu tranh giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.


Được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục, động viên và tổ chức, nhân dân ta ở khắp Bắc-Trung-Nam đều thương yêu, đùm bọc và dồn tâm sức giúp đỡ bộ đội, đó chính là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm cho quân đội ta ngày cặng lớn mạnh, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Nhân dân đóng góp sức người, sức của để xây dựng quân đội thật là to lớn. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân đã đóng góp hàng trăm lượng vàng, thực hiện "hũ gạo kháng chiến" để có thêm lương thực nuôi quân, hoặc quyên góp quần áo trong phong trào "Mùa đông binh sĩ"...


Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân hậu phương miền Bắc hăng hái thi đua "mỗi người làm việc bàng hai", "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người", chi viện kịp thời cho tiền tuyến đánh giặc. Còn nhân dân miền Nam, mỗi người phấn đấu trở thành đũng sĩ diệt Mỹ. Trong cuộc chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, nhân dân ta trên khắp mọi miền đất nước, từ thành phố, thị xã, vùng nông thôn đồng bằng đến trung du, miền núi, vùng ven biển và hải đảo đều có phong trào vì điểm tựa biên giới, vì Trường Sa thân yêu. Có thể nói, bất kỳ ở đâu có dân là ở đó có sự giúp đỡ tận tình về mọi mặt kể cả sức người, sức của to lớn của nhân dân cho quân đội.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #118 vào lúc: 20 Tháng Năm, 2021, 08:01:19 pm »

d) Đảng lãnh đạo và xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị

Trong xây dựng và tăng cường bản chất cách mạng cho quân đội nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trước hết phải có Đảng cách mạng... Đảng có vững, cách mạng mối thành công"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.268). Và chính Người đã sáng lập, tổ chức ra Đảng Cộng sản Việt Nam, một chính Đảng kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng Việt Nam.


Đảng lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt đối với quân đội nhân dân nhằm bảo đảm cho quân đội mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, thể hiện đầy đủ, sâu sắc tính nhân dân, tính dân tộc và tính quốc tế. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng bản chất cách mạng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đảng phải nắm quyền lãnh đạo chặt chẽ quân đội nhân dân, không thể chia sẻ cho bất kỳ giai cấp, đảng phái hoặc cá nhân nào khác. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, các thế lực thù địch, phản động mưu toan tiêu diệt quân đội, tiêu diệt Đảng Cộng sản, bóp chết cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì nguyên tắc "các đảng phái không được có quân đội riêng"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.141), nhằm bảo đảm cho Đảng và Nhà nước ta nắm vững quân đội; đồng thời khẳng định người đứng ra tổ chức, lãnh đạo quân đội nhân dân phải là "Đoàn thể chúng ta" (tức Đảng Cộng sản Việt Nam) và quân đội phải thực sự là "tổ chức quân sự của Đoàn thể". Kiên trì và giữ vững nguyên tắc này, quân đội ta "theo con đường đúng đắn mà tiến lên". Trái lại, lơi lỏng, coi nhẹ, xa rời nguyên tắc này trong quá trình xây dựng và phát triển quân đội thì điều đó sẽ "ảnh hưởng về sau rất tai hại".


Chủ tịch Hồ Chí Minh là người tổ chức, sáng lập ra quân đội cũng như lực lượng vũ trang ta đã khẳng định vấn đề cơ bản hàng đầu trong tổ chức xây dựng quân đội "phải có con đường chính trị đúng"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, sđd, tr.168). Từ năm 1941, Người khẳng định: "Du kích là binh lính cách mạng, do Đoàn thể cách mạng (Đảng Cộng sản) lãnh đạo và tổ chức ra". Nhờ có Đảng lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, quân đội ta mới có đường lối chính trị, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu đúng, cũng như xác định đối tượng tác chiến rõ ràng. Trên cơ sở đó, bảo đảm phương hướng tổ chức, xây dựng quân đội đúng đắn, phù hợp, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của giặc ngoại xâm, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.


Một nội dung khác trong xây dựng bản chất cách mạng cho quân đội nhân dân là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Đây là nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản; đồng thời cũng là nguyên tắc rất quan trọng trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam để nâng cao chât lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn diện của quân đội.


Quân đội ta ra đời từ những đội du kích, đội vũ trang tuyên truyền, trong một giai đoạn chuyển tiếp cách mạng, từ thời kỳ chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Lúc đó, nhiệm vụ xây dựng quân đội được tập trung theo phương châm "chính trị trọng hơn quân sự". Phương châm này được xác định ngay trong chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo. Tư tưởng "chính trị trọng hơn quân sự" tiếp tục được giữ vững và phát huy cao độ trong quá trình xây dựng quân đội trở thành một công cụ sắc bén, tin cậy của Đảng, lấy bản chất chính trị và mục tiêu chính trị của cách mạng làm nội dung hoạt động, phù hợp với mỗi giai đoạn của cách mạng.


Trong các hoạt động quân sự, cán bộ chiến sĩ quân đội ta đều phải tuân thủ đường lối chính trị của Đảng và "chính trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.319). Xác định mối quan hệ giữa chính trị và quân sự, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị"1 (Sự nghiệp và tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1995, tr.225), "quân sự mà không có chính trị, như cây không có gốc, vô dụng lại có hại"2 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, sđd, tr.318).


Xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, coi chính trị là nền tảng, là "gốc", làm cơ sở để xây dựng các hoạt động khác trở thành quan điểm hàng đầu trong xây dựng quân đội của Đảng. Quan điểm các hoạt động quân sự phải phục tùng chính trị cũng có nghĩa là đường lối quân sự phải tuân thủ theo đường lối chính trị, do Đảng đê ra. Các hoạt động của quân đội về quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật phải quán xuyến theo đường lối chính trị, quân sự, đối nội và đối ngoại của Đảng; từ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và từ Hiến pháp, Pháp luật của Nhà nước ta. Quan điểm xây dựng bản chất quân đội về chính trị phản ánh quy luật phát triển khách quan của mối quan hệ chính trị và quân sự, trên cơ sở đó, định hướng cho quân đội ta hoạt động đúng đắn, đáp ứng với yêu cầụ của cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu, giải phóng dân tộc, chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào và cách mạng Cam-pu-chia.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #119 vào lúc: 20 Tháng Năm, 2021, 08:01:49 pm »

đ) Thực hiện chức năng đội quân công tác và đội quân sản xuất

Trong xây dựng bản chất quân đội nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú ý xây dựng bản chất của quân đội thực hiện chức năng đội quân công tác và đội quân sản xuất. Thực tiễn hơn nửa thế kỷ xây dựng và chiến đấu cho thấy, quân đội ta không chỉ phát huy tốt bản chất cách mạng, lập nên nhiều chiến công oanh liệt trong chiến đấu, mà còn giữ vững bản chất cách mạng của "Bộ đội Cụ Hồ" trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân công tác và đội quân sản xuất.


Là lực lượng chính trị đặc biệt, quân đội nhân dân đã thực hiện chức năng đội quân công tác trong quá trình tham gia tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân thực hiện đường lối kháng chiến, kiến quốc của Đảng và Nhà nước, không ngừng nâng cao niềm tin cho nhân dân vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất Tổ quốc. Từ việc tuyên truyền chống cưỡng ép đồng bào miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, đến nhiệm vụ sửa sai sau cải cách ruộng đất và việc đấu tranh chống những tư tưởng sai trái trong các thời điểm có những biến động về chính trị, xã hội; từ giúp nhân dân khắc phục hậu quả bão lụt, đến đưa ánh sáng văn hoá về các vùng căn cứ cách mạng, vùng sâu, vùng xa, ở đâu, việc gì, cán bộ và chiến sĩ quân đội ta đều là lực lượng tin cậy, góp phần đoàn kết dân tộc, xây dựng cuộc sống, cải cách dân chủ, phát triển văn hoá, xây dựng con người mối, bảo vệ chính quyền cách mạng.


Thực hiện chức năng đội quân sản xuất, quân đội ta đã nỗ lực sản xuất đáp ứng một phần nhu cầu về ăn, mặc và thêm vũ khí đánh giặc. Nhiều lúc tranh thủ thời gian, cán bộ chiến sĩ tích cực giúp đỡ nhân dân lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế trong kháng chiến, kinh tế dân chủ nhân dân và kinh tế xã hội chủ nghĩa ngay trong chiến tranh. Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ và trong những năm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, quân đội là lực lượng xung kích trong việc xây dựng những công trình thuỷ lợi, giao thông lớn, xây dựng hệ thống các nông trường, các xí nghiệp quốc phòng phục vụ dân sinh và quốc phòng. Trong sản xuất, quân đội ta luôn quán triệt tinh thần tiết kiệm cho cán bộ, chiến sĩ thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi.


Xuất phát từ bản chất cách mạng, từ tính chất của quân đội kiểu mới, Đảng ta đã xác định quân đội nhân dân có ba chức năng thể hiện thành ba nhiệm vụ, đó là chiến đấu, công tác và sản xuất như đã nói ở trên; trong đó, chức năng cơ bản, chủ yếu là đội quân chiến đấu, quân đội ta đã hoàn thành rất vẻ vang.


Quan điểm xây dựng quân đội nhân dân mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng. Quan điểm đó được thể hiện cụ thể qua quá trình xây dựng quân đội vững mạnh theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại. Đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta. Quán triệt sâu sắc tư tưởng đó, quân đội nhân dân đã không ngừng xây dựng để trang bị cho mình bản chất cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, tạo nên sức mạnh chính trị-tinh thần to lớn. Nhờ đó, quân đội ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ cùng toàn dân giành thắng lợi rất vẻ vang trước những kẻ thù mạnh hơn ta nhiều lần về tiềm lực kinh tế, quân sự. xứng đáng với lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"1 (Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.350). Lời khen ngợi của Bác Hồ cũng đồng thời là sự khái quát rất sâu sắc, cô đọng về bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp và bản lĩnh chính trị vững vàng của quân đội ta; khẳng định sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Sự vững vàng về chính trị là nguyên tắc trong xây dựng quân đội, yếu tố quan trọng và có ý nghĩa quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp trong chiến đấu và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM