Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:34:49 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Từ cây giáo đến khẩu súng - Tập 2  (Đọc 2073 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #30 vào lúc: 10 Tháng Hai, 2022, 07:35:49 am »

Tìm hiểu lịch sử của gần mười bốn thế kỉ tiến hành chiến tranh yêu nước của dân tộc, Trần Quốc Tuấn hiểu rằng trong hai kiểu chiến lược về thời gian "nếu thấy quân giặc đến ồ ạt như lửa cháy, gió thổi thì dễ chế ngự'. Nhận định đó, về thực tế là xuất phát từ chiến trường Việt Nam, về lí luận là xuất phát từ cuốn "Binh pháp thập tam thiên" của Tôn Tử: "Tiến hành chiến tranh lâu dài mà được lợi cho quốc gia là điều không hề có". Như vậy, "đánh nhanh, thắng nhanh" là phương thức bắt buộc đối với mọi đạo quân xâm lược. Vả lại, dân tộc ta cũng đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm trong việc đánh thắng những phương thức đó. Trái lại, "nếu nó đi chậm như cách tằm ăn, không lấy của dân, không cầu được chóng thì phải chọn dùng - tướng giỏi, xem xét quyền biến như đánh cờ vậy, tùy thời mà làm". Đây là hiện tượng hiếm có, mới lạ với vẻ bên ngoài, đi ngược lại bản chất bên trong của mọi đạo quân xâm lược. Mục đích tuy vẫn y nguyên nhưng phương pháp thực hiện của chúng đã không còn như cũ. Hãy dè chừng! Để chiến thắng âm mưu xảo quyệt đó, phải cần người chỉ huy quân sự giỏi, có tài quyền biến, biết tùy thời mà hành động.


Qua những phần vừa trình bày, chúng ta thấy rõ trước mỗi kiểu chiến lược, Trần Quốc Tuấn đều có sự lựa chọn phương pháp đối phó thích hợp. Với chiến lược "ồ ạt như lửa cháy, gió thổi" ông cho rằng "dễ chế ngự". Trái lại, ông rất quan tâm đến phương pháp đối phó với kiểu chiến lược "đi chậm".


Là người uyên bác, với tầm nhìn xa trông rộng, ông hiểu rằng, loại chiến lược này đã xuất hiện từ thời Xuân Thu (771 - 476 trước công nguyên) mà người đề ra đầu tiên là Quản Di Ngô (685 - 645 trước công nguyên) - tức Quản Trọng. Người đã góp nhiều công sức giúp Tề Hoàn Công làm nên nghiệp bá, trong đó có một biện pháp đáng kể là: "Nghệ thuật dùng binh trăm đánh, trăm thắng đã giỏi nhưng không đánh mà thắng mới thật là giỏi tuyệt vời”. Tư tưởng này được Tôn Tử phát triển lên thành một luận điểm hoàn chỉnh: "Thượng sách của việc dùng binh là dùng mưu lược, sau mới đến việc dùng ngoại giao, sau nữa mới đến việc dùng lực lượng quân sự để giành thắng lợi..."


Vấn đề đặt ra trước chiến lược "đi chậm" là phải dùng tướng giỏi. Thật ra, theo binh thư cổ, tướng giỏi có nhiều kiểu loại khác nhau, trong đó có nho tướng (mưu kế), dũng tướng (chiến đấu), cảm tướng (dũng cảm), xảo tướng (năng động), nghệ tướng (tài năng). Mỗi kiểu loại thiên về một mặt. Để đảm nhiệm công việc hết sức khó khăn này, phải cần đến người chỉ huy quân sự toàn diện. Trong nguyên bản Di chúc, tác giả dùng từ "lương tướng". Đó phải là người tướng mà "dùng nhân ái đối với kẻ dưới, lấy tín nghĩa phục nước láng giềng, trên biết thiên văn, dưới biết địa lí, giữa biết việc người, coi bốn biển như một nhà. Đó là tướng chỉ huy được cả thiên hạ, không ai địch được"1 (Trần Quốc Tuấn, Binh thư yếu lược (Phụ Hổ trướng khu cơ), Nxb Khoa học xã hội, H.1977, tr.39).


Cùng đề ra với việc chọn lương tướng, ông còn nhấn mạnh đến hai năng lực đặc biệt của người tướng đó là "tài quyền biến" và biết "tùy thời".

Người tướng có tài quyền biến là có tài ứng phó kịp thời, linh hoạt khi có biến, khi có việc bất thường. Trong lịch sử quân sự Việt Nam có thể kể ra hai trường hợp. Đó là vào năm 1285, trước sức tiến công mạnh mẽ, ào ạt của 50 vạn quân xâm lược Mông - Nguyên, Trần Quốc Tuấn, với cương vị Tổng tư lệnh, đã kịp thời cho quân chủ lực rút lui chiến lược, bảo toàn lực lượng, mặc dù cách đó ba năm, năm 1282, tại hội nghị Bình Than, vua Trần cùng bá quan văn võ triều đình đã nhất trí tổ chức một hội chiến lớn nhầm ngăn chặn và tiêu diệt địch tại Nội Bàng. Hay như cuối năm 1788, với một lực lượng nhỏ, biết không đủ khả năng đánh thắng 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, Ngô Thì Nhậm đã nhanh chóng cho quân đội rút khỏi Thăng Long về bố trí tuyến phòng ngự tại Tam Điệp - Biện Sơn, chờ vua Quang Trung cùng đại quân ra phản công chiến lược. Dưới chế độ phong kiến, người tướng cầm quân có thể không tuân lệnh vua, có quyền "tiền trảm hậu tấu". Lí thuyết là thế nhưng nếu không đủ tài quyền biến, không biết đánh giá chính xác tương quan lực lượng địch - ta thì chắc chắn Trần Quốc Tuấn và Ngô Thì Nhậm không giám chịu trách nhiệm để hành động một cách quyết đoán như vậy.


Trong lí luận quân sự Việt Nam, lần đầu tiên Di chúc đề cập đến khái niệm thời trong chiến tranh.

Trước hết, Trần Quốc Tuấn bàn về tính chất nhanh và chậm của chiến lược quân sự của các đạo quân xâm lược và hai phương pháp giải quyết như đã trình bày.

Theo trục thời gian, ông đã tổng kết một cách tài tình những cuộc chiến tranh giữ nước diễn ra trong quá khứ và cho rằng, mỗi giai đoạn lịch sử, sở dĩ đạt kết quả mĩ mãn là dân tộc ta biết hành động phù hợp với hoàn cảnh đương thời. Và trong tương lai cũng vậy, muốn thành công cũng lại phải biết ứng biến theo thời. Ở đây, điều đáng chú ý là lần đầu tiên ở Việt Nam, trong Di chúc đã xuất hiện những khái niệm quân sự mới mà theo ngôn ngữ hiện đại là: chiến tranh toàn dân, trăm họ đều là lính, sức mạnh nhân dân, đại đoàn kết, lấy ngắn trị dài (cơ sở của khái niệm "lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh"), người chỉ huy quân sự và binh lính xem nhau như cha con... Dần dần theo thời gian, sự thắng lợi của mọi cuộc chiến tranh chống ngoại xâm đã trở thành truyền thống, các khái niệm đó dường như bất biến và được xem là những hằng số văn hóa quân sự Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, không có một cuộc chiến tranh yêu nước nào đi đến thắng lợi mà lại không sử dụng đến các hằng số đó, nhưng đều phải biết sử dụng và phát triển chúng trong những hoàn cảnh cụ thể như lời khuyên của Trần Quốc Tuấn là phải biết tùy thời.


Tròn 700 năm đã trôi qua, những lời dặn dò của Trần Quốc Tuấn đâu đã mất đi tính thời sự ở năm cuối cùng của thế kỉ này?
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #31 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 07:56:17 am »

NGUYỄN TRÃI VÀ CHỪ THỜI TRONG CHIẾN TRANH


Ở thế kỷ XV, anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của sự nghiệp cứu nước vĩ đại và được xem là linh hồn của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Hoàn thành được sứ mạng cao cả đó, chính là vì ông đã biết suy nghĩ và hành động đúng đắn trước chữ thời.


Hành động đúng đắn trước chữ thời tức là hành động tùy thời, hành động đúng thời cơ, hành động kịp thời. Ông hiểu rõ, để lập nghiệp, người thức giả phải luôn luôn hành động kịp thời mới khỏi sai lầm, vấp váp. Bỏ mất chữ thời thì dù có tài giỏi đến đâu rồi cũng thất bại, thậm chí có khi còn nguy hiểm cho sự nghiệp lớn và cho chính cả bản thân mình. Kịp thời có nghĩa là đã đến lúc hành động mà không hành động hoặc hành động chậm trễ là bất cập, chưa đến lúc hành động mà đã vội vã hành động lại là thái quá. Hành động tùy thời không phải là xu thời, phụ thế - "nịnh bợ" thời cuộc, bị động trước thế sự - mà là sự tỉnh táo, đánh giá tình hình, nhận rõ đúng sai để theo hoặc để chống. Đó cũng là cách hành động theo hai chiều thuận, nghịch đối lập nhau. Thế nhưng theo hay ngược lại là chống, người thức giả phải ngẫm nghĩ, suy xét để giữ vững thế cân bằng, tránh sự lệch lạc trong hành động - ngôn ngữ hiện đại gọi là khuynh hữu hay khuynh tả. Thời nên nghỉ thì chưa nên làm, thời đáng làm thì không được nghỉ. Có thể nêu lên hai việc làm của Nguyễn Trãi trước khi gia nhập hàng ngũ nghĩa quân Lam Sơn. Một là, quan niệm về chữ hiếu. Ông sẵn sàng hi sinh tiểu hiếu với cha, kịp thời quay về, phấn đấu làm tròn đại hiếu đối với Tổ quốc của một sĩ phu yêu nước. Hai là, mai danh ẩn tính (chôn tên, giấu họ) hơn mười năm. Đây cũng là sự sáng suốt của ông. Sau khi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của nhà Hồ, thất bại, đã có rất nhiều cuộc khởi nghĩa bùng nổ nhưng ông không hề "xuất đầu lộ diện" vì thấy rằng: phong trào đấu tranh tuy lan rộng và mãnh liệt nhưng nặng tính tự phát, riêng lẻ, không phải là một phong trào có tổ chức và lãnh đạo thống nhất. Không những thế, phong trào lại thiếu hẳn một bộ tham mưu kiên quyết và có uy tín, đủ khả năng huy động và tập hợp lực lượng đông đảo của mọi tầng lớp nhân dân yêu nước. Với cách suy nghĩ đó, ông thận trọng chờ cho đến năm 1420, hai năm sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ, năm 1418, mới tìm đến Lỗi Giang (Thanh Hóa), gặp Lê Lợi để dâng "Bình Ngô sách".


Là người am tường triết học phương Đông, Nguyễn Trãi hiểu chữ thời thường có hai vế: thời bên ngoài và thời bên trong. Trong đạo xử thế, đặc biệt là trong đấu tranh vũ trang, trước hết phải rõ cái thời bên trong. Có làm được như vậy thì mới bàn đến cái thời bên ngoài. Nếu cái thời bên trong chưa được chuẩn bị kĩ và được thực hiện đến nơi, đến chốn thì cái thời bên ngoài dù có tốt đẹp, thuận lợi bao nhiêu, cũng không nên tính đến làm gì, chỉ mất công vô ích. Trong Binh pháp thập tam thiên, Tôn Tử nêu rõ: "Tri bỉ, tri kỉ, bách chiến bất đãi" (biết địch, biết ta, trăm trận không nguy". Nguyễn Trãi cũng từng viết trong Chí Linh sơn phú" "Tri bỉ, tri kỉ, năng nhược năng cường" (biết địch, biết ta, hay yếu, hay mạnh")1 (Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, H.1969, tr.72, 116). Biết địch - là biết thời bên ngoài - nhưng lại phải biết ta - là biết thời bên trong thì mới chuẩn bị được lực lượng để đánh thắng chúng. Hai vế đó phải cân xứng với nhau như người xưa thường nói "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" (cùng tiếng mới giúp được nhau, cùng khí chất mới tìm đến nhau).


Chuẩn bị được kĩ lưỡng cái thời bên trong từ chính bản thân mình, Nguyễn Trãi mới bàn đến thời bên trong của đất nước vào cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV. Sau khi phân tích những mặt yếu kém của các triều đại phong kiến thời cuối Trần và thời Hồ, đưa tới thảm họa mất nước, ông đã thấy rõ một điều: thời kỳ dân tộc ta tiến hành những cuộc chiến tranh giữ nước như trong năm thế kỷ độc lập, tự chủ vừa qua đã không còn nữa. Bản Di chúc của Trần Quốc Tuấn để lại, được giới sử học quân sự xem là một bản tổng kết hàm súc về chiến tranh yêu nước, có giá trị lớn về nhiều mặt nhưng tất cả đều chỉ bàn đến những phương pháp đi tới chiến thắng của loại hình chiến tranh bảo vệ Tổ quốc mà không hề có một câu, một chữ nào đề cập đến loại hình chiến tranh giải phóng dân tộc. Điều đó cũng thật dễ hiểu. Bởi lẽ, cho đến thời điểm ấy, trong thực tế lịch sử quân sự Việt Nam, chưa từng có một cuộc chiến tranh cứu nước nào mang tầm vóc lớn. Nói chính xác ra cũng có một vài lần xảy ra dưới thời Bắc thuộc như cuộc chiến tranh cứu nước của Bà Triệu ở thế kỷ III, cuộc chiến tranh cứa nước của Phùng Hưng ở thế kỷ VIII nhưng tất cả đều bị nhấn chìm trong biển máu. Từ đó, vấn đề đặt ra cho Nguyễn Trãi trước thời cuộc là nhất thiết phải tiến hành thắng lợi một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, song lại không thể không tìm tòi, lựa chọn ra những phương pháp hành động thích hợp và hiệu quả.


Nếu như trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở những thế kỉ trước đó, nhà nước phong kiến dân tộc là cơ quan chỉ đạo, quân đội là phương tiện thực hiện, dựa trên nền tảng nhân dân yêu nước thì trong cuộc chiến tranh giải phóng ở thế kỷ XV, tất cả chỉ còn lại là sức mạnh tuyệt đối của cả một dân tộc bị áp bức đang vươn dậy. Với một tầm nhìn lịch sử sắc sảo, Nguyễn Trãi nhận thức được rằng sức mạnh của thời đại mới chính là sức mạnh của "manh lệ bốn phương". Lấy những người dân phiêu bạt, li tán, những người làm ruộng nghèo khổ làm động lực chủ yếu cho cuộc chiến tranh giải phóng, Nguyễn Trãi xác định cho mình một phương châm hành động, một đường lối đánh giặc cứu nước, mệnh danh là "nhân nghĩa" và được nêu rõ trong Bài cáo bình Ngô:

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo".


Câu thứ nhất chỉ rõ đem lòng yêu nước nồng nàn, đem tinh thần độc lập dân tộc để đánh thắng quân xâm lược. Câu thứ hai xác định việc lấy lòng yêu nước, yêu thương nhân dân rất mực, lấy tinh thần dân chủ để chống lại sự áp bức, bóc lột của chính quyền thống trị ngoại bang. Trên cơ sở gắn bó chặt chẽ lòng yêu nước thiết tha với lòng yêu dân vô hạn, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã khái quát cao độ sự kết hợp nhuần nhuyễn tinh thần độc lập của dân tộc với ý thức dân chủ của nhân dân trong mọi hoạt động xã hội và trong đạo đức con người. Phương châm hành động của ông sở dĩ đã đưa cuộc chiến tranh giải phóng đến thắng lợi huy hoàng vì nó đã thực sự tuân theo một trong hai qui luật khách quan của lịch sử dân tộc: dựng nước gắn liền với giữ nước và độc lập dân tộc gắn liền với dân chủ của nhân dân.


Tiếp nối sự chuẩn bị mọi mặt cái thời bên trong, Nguyễn Trãi tìm hiểu đến cái thời bên ngoài của cuộc chiến tranh giải phóng, cụ thể là thời của triều đình và xã hội nhà Minh, nhất là từ năm 1424 trở đi. Trên cơ sở tình hình địch, từ chính quốc đến chiến trường, ông xác định phương hướng sẵn sàng hành động khi thấy xuất hiện thời cơ thuận lợi "thời cơ, thời cơ, chớ nên để lỡ"  vốn là suy nghĩ của ông.


Trong cuộc chiến tranh giải phóng ở thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã tỏ rõ một tài năng điêu luyện trong việc nắm bắt chính xác thời cơ. Mùa thu năm 1424, nhân lúc vua Minh Thành Tổ chết, vua Minh Nhân Tông lên kế vị, quân xâm lược đang hoang mang trước cái chết của vua cũ, chúc tụng, đón mừng sự đăng quang của vua mới, nghĩa quân mở đường chuyển hướng chiến lược vào Nam theo sự đề xướng của tướng Nguyễn Chích.


Tháng 6 năm 1425, nhân lúc đại bộ phận lực lượng địch bị giam chân ở Nghệ An, lúng túng ở Đông Quan, hoang mang lo sợ ở khắp nơi, còn địch ở Tây Đô, Thanh Hóa lại suy yếu, từ vùng "đất đứng chân", nghĩa quân đánh ra Diễn Châu, Thanh Hóa và sau đó thừa thắng đánh vào Tân Bình, Thuận Hóa, thực hiện việc mở rộng đất đai vùng giải phóng.


Mùa thu năm 1426, tương quan lực lượng đã nghiêng hẳn về phía ta, quân Minh hoàn toàn bất lực, chỉ còn đủ khả năng cố thủ trong thành Đông Quan và một số thành bảo khác, chờ viện binh, không thể kiểm soát được một vùng đất đai rộng lớn trên đất nước ta. Đó là thời cơ thuận lợi để một vạn nghĩa quân tiến ra Băc hoạt động mạnh ở vùng châu thổ sông Hồng, chuẩn bị cho chiến trường tiêu diệt địch sau này.


Tháng 11 năm 1426, thấy quân Minh đã rút gần hết về Đông Quan, thành Nghệ An không còn là một mục tiêu quan trọng mà địch ở Đông Quan lại được sự tăng viện từ các nơi, tất sẽ tổ chức những cuộc phản công lớn, châu thổ sông Hồng sẽ trở thành chiến trường chính, nghĩa quân quyết định chuyển hướng chiến lược ra Bâc. Từ quyết định táo bạo nhưng rất sáng suốt này mà chỉ một năm sau đó, tháng 10-11 năm 1427, quân và dân ta đã thành công lớn trong việc vây thành, diệt viện, tạo nên những chiến thắng vang dội ở Chi Lăng - Xương Giang, ở Lãnh Câu - Đan Xá, tiến lên, đưa cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ở thế kỷ XV đi tới thắng lợi cuối cùng.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #32 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 07:57:47 am »

LẤY CÁI VÔ CÙNG THẮNG CÁI HỮU HẠN


Bị thất bại tại trận "Chung kết " đẫm máu trên sông Bạch Đằng ngày 9-4-1288, triều đình nhà Nguyên không dám liều lĩnh tổ chức tiếp cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ tư nữa, vì biết chắc rằng phần thắng không bao giờ thuộc về phía chúng.


Công lao cực kì to lớn từ các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đó đời đời thuộc về lớp người Việt ở thế kỉ XIII mà linh hồn của nó là Trần Quốc Tuấn, vị thống soái kiệt xuất, người anh hùng dân tộc vĩ đại, một thiên tài quân sự thời trung đại trên phạm vi toàn thế giới.


Để chiến thắng được quân "Hung nô thời đại", chính vì ông đã biết khoét sâu những điểm yếu của quân xâm lược và phát huy những điểm mạnh của chiến tranh toàn dân.

Thật vậy, về phía quân Mông - Nguyên, mục đích chiến tranh của chúng là xâm lược, phi nghĩa thì phía nhân dân ta lại là chính nghĩa, là bảo vệ độc lập, tự do. Vì lí tưởng vô cùng cao đẹp đó mà hàng triệu công dân thời đó đã sẵn sàng quên mình cho Tổ quốc. Đỗ Khắc Chung, một mình giữa doanh trại giặc, dám dũng cảm vén cánh tay áo để cho tên tướng Ô Mã Nhi thấy rõ hai chữ "Sát Thát". Trần Bình Trọng, trước lời đường mật của quân xâm lược đã dõng dạc thét lên: "Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc".


Phải nói rằng ở thế kỷ XIII, trên hành tinh này, xét riêng về quân đội thì kị binh Mông - Nguyên là một lực lượng có sức tiến công mạnh. Nếu không, làm sao chúng có thể thắng được quân đội của bốn mươi quốc gia Âu - Á. Ngay cả khi kéo vào Đại Việt đầu năm 1285 và cuối năm 1287, số quân của chúng cũng từ 50 đến 60 vạn. Nhưng theo luận điểm của Trần Quốc Tuấn "quân cần tinh, không cần nhiều"1 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H.1971, t.2, tr.64) thì những đạo quân ấy, tuy đông nhưng chưa hẳn đã mạnh. Lịch sử đã ghi rõ trong các đạo quân Mông - Nguyên, khi tiến vào nước ta, không chỉ có người Mông Cổ mà còn pha trộn thêm rất nhiều tộc người khác. Ví như trong 50 vạn quân tiến hành cuộc chiến tranh năm 1288, theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, bên cạnh binh sĩ người Mông còn tới sáu vạn quân thuộc các vùng Hồ Quảng, Giang Chiết, Giang Tây; có 4.000 quân miền Bắc Trung Quốc; có 3.000 quân thuộc tộc người ở Ô Man2 (Nguyên sử, quyển 14, Bản kỉ, tập 2a)... Đã thế, ở đấy, mối quan hệ giữa người Mông Cổ, thường giữ cương vị chỉ huy, với các tộc người trên đất Trung Quốc, là quân lính, còn là quan hệ giữa giai tầng thống trị nước ngoài với các giai tầng bị đô hộ người bản xứ. Rõ ràng quyền lợi của các thành phần quân đội đó hoàn toàn trái ngược với nhau. Nó vừa là mâu thuẫn dân tộc, lại vừa là mâu thuẫn giai cấp.


Nói đến quân đội còn là nói đến lực lượng tham chiến. Theo thông lệ trên thế giới, lực lượng này bao giờ cũng là quân đội - đặt dưới sự chỉ đạo của nhà nước. Nhân dân đứng ngoài cuộc. Vì vậy, quân đội thuộc các quốc gia Âu - Á, khi đã bị quân đội Mông - Nguyên đánh bại thì sức đề kháng bị thủ tiêu. Chúng ta hãy hình dung ba yếu tố quân đội, nhà nước và nhân dân với một hình tam giác. Quân đội và nhà nước là "hai cạnh" còn nhân dân là "đáy". "Đáy" nuôi nấng và bảo vệ "hai cạnh", trong thời chiến cũng như trong thời bình. Đó cũng chính là tình hình nước Đại Việt trong chiến tranh chống Mông - Nguyên. Lực lượng tham chiến đâu chỉ có quân đội và Nhà nước mà còn có toàn dân, có quần chúng vũ trang, có lực lượng tại chỗ. Nếu tính quân chủ lực dưới thời Trần, thường chỉ là 10 vạn nhưng cuộc chiến tranh năm 1285 vừa mới nổ ra, chỉ huy động riêng các lộ phía đông châu thổ sông Hồng, Trần Quốc Tuấn đã có ngay 20 vạn quân, ở tư thế sẵn sàng chiến đấu tại Vạn Kiếp. Trong khi đó "Hoan Diễn đang còn mười vạn quân” dự trữ. Có thể khẳng định rằng nếu ở thời kì đầu chiến tranh, khi quân xâm lược chưa bị suy yếu, quân chủ lực buộc phải rút lui chiến lược, đợi thời cơ mà thiếu đi sức mạnh của chiến tranh toàn dân, chắc chắn cuộc chiến tranh yêu nước của chúng ta đã bị đè bẹp. Chính nhờ có tinh thần "tận dân vi binh", "bách tính giai binh” mà tổ tiên ta đã liên tục giữ vững được sức đề kháng cho tới khi quân chủ lực phản công chiến lược, giành chiến thắng quyết định.


Như trên đã nêu, cuộc chiến tranh năm 1285, quân Mông - Nguyên đưa vào nước ta ngót 60 vạn người, với hai tập đoàn chiến lược từ hai đầu đất nước. Đến khi chủ lực ta tiến hành phản công, tập đoàn phía Bắc bị đánh thiệt hại nặng, số tàn quân rút chạy theo Thoát Hoan về đến biên giới, chỉ còn lại năm vạn. Tập đoàn phía Nam ra đến Tây Kết thì bị tiêu diệt gọn. Chủ tướng Toa Đô tử trận, năm vạn tên bị bắt sống. Như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, ngót 50 vạn xác giặc trên chiến trường Đại Việt là thành quả của chiến tranh tại chỗ.


Trong quân đội Mông - Nguyên, ai cũng đều biết, kị binh đóng vai trò chủ chốt. Dùng kị binh tiến hành cuộc chiến tranh năm 1258 bị thất bại, trong cuộc chiến tranh năm 1285, quân Mông - Nguyên đưa thêm bộ binh làm nhiệm vụ chiếm đóng, canh giữ. Thất bại tiếp một lần nữa, trong cuộc chiến tranh năm 1288, chúng đưa thêm thủy quân. Nhưng tất cả các binh chủng đó, về cơ bản, cũng chỉ là những tên lính kém phẩm chất, nếu thiếu phương tiện tác chiến thì rất dễ bị loại bộ binh tinh nhuệ, như bộ binh Đại Việt, đánh thắng. Đối với những loại binh chủng này, phương pháp tối ưa mà Trần Quốc Tuấn đề ra là "bộ binh hóa" để tiêu diệt. Điều hữu hiệu nhất để quật ngã kị binh là tách rời kị thủ ra khỏi con ngựa đúng như Ph.Ăng-ghen từng nhận xét: "Các hiệp sĩ khi đã mất ngựa, phải đi bộ thì không chiến đấu được nửa và thường bị bắt làm tù binh"1 (Ph.Ăng-ghen, Tuyển tập luận văn quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, H.1978, t.2, tr.49). Trong hội chiến Đông Bộ Đầu năm 1258, do Trần Quốc Tuấn trực tiếp chỉ huy, quân ta tập kích doanh trại giặc vào ban đêm và đã chiến thắng, vì lúc đó, các kị thủ đang ngủ, nghĩa là đang thoát khỏi mình ngựa. Còn trong hội chiến Chương Dương - Thăng Long năm 1285, quân ta lại dùng cung tên, nhằm thẳng vào ngựa chiến đang rong ruổi mà hạ sát khiến kị thủ bị hất ngã và bị giết chết. Cách làm này đã đạt hiệu suất rất cao. Chính thế mà từ những năm trước cuộc chiến tranh năm 1285, trong "Dụ chư tì tướng hịch văn" (thường gọi là "Hịch tướng sĩ"), Trần Quốc Tuấn đã nhắc nhở các tướng sĩ thuộc quyền: "Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ"1 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxn Khoa học xã hội, H.1971, t.2, tr.93). Trên qui mô toàn thế giới, thắng lợi của bộ binh đối với kỵ binh lần đầu tiên đã diễn ra ở châu Âu. Đó là vào năm 1302, tại xứ Flandre (miền Tây nước Bỉ) - nơi xem là vùng trung tâm công nghiệp của thế giới đương thời - bộ binh thành thị đã đánh thắng kị binh hiệp sĩ người Pháp. Nếu so với trận bộ binh thắng kị binh đầu tiên ở châu Á, cụ thể là ở Việt Nam, tại hội chiến Đông Bộ Đầu năm 1258, thì hai trận đánh đó cũng cách nhau tới 44 năm. Bộ binh của chúng ta đã giành được chiến thắng lẫy lừng trước loài người ngót nửa thế kỷ. Để cho có được chiến thắng lịch sử này, những người bộ binh châu Âu phải là những thị dân, tức là phải ở một phương thức sản xuất cao hơn. Trái lại ở Việt Nam, không phải bộ binh thị dân mà chính là bộ binh nông dân của chế độ phong kiến nông nghiệp đã đánh bại kị binh Mông Cổ.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #33 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 07:58:58 am »

So với tiêu diệt kị binh thì tiêu diệt thủy quân có khó hơn nhưng vấn đề đặt ra cũng là làm đắm thuyền, đẩy thủy binh lên bờ, lọt vào lõng, như ở trận Bạch Đằng năm 1288. Vì thế ở vùng này, hiện vẫn lưu truyền câu ca dao:

Bạch Đằng giang là sông cửa ải
Tổng Hà Nam là bãi chiến trường.


"Bạch Đằng giang" chỉ bãi cọc đâm thủng thuyền. "Tổng Hà Nam" chỉ nơi tiêu diệt thủy binh tháo chạy lên bờ.

Trong chiến tranh xâm lược nói chung ở mọi thời đại còn có một vấn đề luôn luôn nan giải là lương thực. Vì thế từ thời Xuân Thu (771 - 476 trước công nguyên), binh thư cổ đã dạy: "Những tướng soái thông minh bao giờ cũng nhằm lấy lương từ nước địch, vì dùng một chung lương của địch tương đương với vận chuyển hai mươi chung lương từ nước nhà tới"1 (Tôn Tử, Binh pháp thập tam thiên, Thiên Tác chiến). Cái khó khăn về lương thực của quân Mông - Nguyên cũng là như vậy. Thấy trước sự khó khăn này, trong cuộc chiến tranh năm 1285, Toa Đô đã đề nghị lấy lương ở ba nơi: Việt Lí (Quảng Trị ngày nay), Triều Châu (bắc Quảng Đông, Trung Quốc) và Tì Lan (tây bắc đảo Hải Nam, Trung Quốc) để tránh mệt nhọc nguy hiểm vì phải vận chuyển đường biển. Thế nhưng việc lấy lương ở các nơi này cũng không dễ dàng gì. Chính vì thế khi tiến vào nước ta, chúng đã tăng cường việc tìm kiếm lương thực song gặp trở ngại lớn vì khắp nơi, nhân dân ta đã triệt để thực hiện "vườn không nhà trống". Bên cạnh việc tìm lương cho người, quân Mông - Nguyên lại còn phải lo cỏ cho ngựa - tới hàng vạn con - mà chiến tranh đang diễn ra trên một đất nước chằng chịt sông ngòi, ao hồ, ruộng lầy... Để khắc phục, trong cuộc chiến tranh năm 1288, quân Mông - Nguyên đã phải tổ chức đoàn thuyền lương đi theo. Kết quả đoàn thuyền bị đánh đắm. Sự thất bại này đã gây nên một cú sốc lớn, đến nỗi khi nghe tin khủng khiếp này, lập tức "quân Nguyên phải rút chạy"1 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxn Khoa học xã hội, H.1971, tr.66).


Cuối cùng là vấn đề nghệ thuật quân sự. Đặc điểm chung, lớn nhất của nghệ thuật quân sự Trần Quốc Tuấn là buộc quân Mông - Nguyên phải đánh theo cách của ta. Thật vậy, cũng như mọi quân đội xâm lược, tác chiến của quân Mông - Nguyên là dùng các binh đoàn chủ lực cơ động, tìm diệt chủ lực đối phương, giành thắng lợi để kết thúc chiến tranh, ở thời kỳ đầu chiến tranh, gặp khó khăn lớn, tương kế, tựu kế, chủ lực ta rút lui chiến lược nhằm biến nguy thành yên để buộc địch phải vào sâu săn đuổi. Trong cuộc chiến tranh năm 1285, đợt đầu cuộc rút lui, chúng đuổi theo đến cửa Hải Thị (Hưng Yên), đợt thứ hai, chúng đuổi theo đến Tam Trĩ (Ba Chẽ, Quảng Ninh) rồi lại đuổi tiếp vào tận Thanh Hóa. Trong cuộc chiến tranh năm 1288, chúng cũng đuổi theo quân ta đến cửa Hải Thị như lần trước.


Để phối hợp với hành động rút lui chiến lược của quân chủ lực, quần chúng vũ trang đã tiến công địch ở khắp nơi, thúc đẩy chiến tranh xóm làng, chiến tranh tại chỗ phát triển, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó và tìm kiếm lương thực nuôi quân. Trong cuộc chiến tranh năm 1285, từ Lạng Sơn đến Thăng Long, quân Mông - Nguyên "cứ 30 dặm thì lập một trại, 60 dặm thì đặt một trạm, mỗi trại, mỗi trạm đóng 300 quân trấn giữ"1 (Nguyên sử, quyển 209, An Nam truyện, tập 7b) và có cả một chiến tuyến dài theo trục sông Hồng, từ Thăng Long ra đến biển. Theo dọc con sông này, chúng bố trí thành hai cụm cứ điểm lớn và một đồn tiền tiêu. Cụm cứ điểm thứ nhất là Thăng Long với một bộ phận lớn đóng trong thành và đại bản doanh của Thoát Hoan đóng bên bờ bắc (ở giữa có cầu phao nối liền). Lực lượng ở đây rất mạnh, là tập đoàn chiến lược, chiếm vị trí hàng đầu, tiêu biểu cho cả đạo quân xâm lược. Cụm cứ điểm thứ hai, tuy ở vị trí thấp hơn nhưng lại liên quan chặt chẽ đến toàn bộ tuyến sông Hồng, là Thiên Mạc (Hưng Yên). Để đối phó với Long Hưng (Thái Bình) và Thiên Trường (Nam Định), cụm cứ điểm này có chính diện hướng ra phía biển, vì vậy quân Mông - Nguyên đã bố trí trận địa ở cửa Hàm Tử (Châu Giang, Hưng Yên) và gần đấy là các đồn Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây), Tây Kết (Châu Giang, Hưng Yên). Và cuối cùng, về phía hạ lưu, ở khúc sông Lỗ, là đồn tiền tiêu A Lỗ.


Trong cuộc chiến tranh năm 1288, tình hình có khác. Lần này, quân xâm lược muốn biến Vạn Kiếp, một vị trí địa - quân sự thành một căn cứ vững chắc để tính kế lâu dài trên đất nước ta. Có thể Thoát Hoan đã rút kinh nghiệm từ cuộc chiến tranh trước. Lần ấy, sau khi tên chủ tướng này đưa quân tiến vào Thăng Long thì Trần Quốc Tuấn lại đem binh thuyền quay về Vạn Kiếp. Bị uy hiếp, hắn đã hoảng sợ, phải vội vã xin Hốt Tất Liệt tăng viện. Vì vậy, ngày 2 tháng 1 năm 1288, khi tiến đến vùng này, hắn đã cử ngay hai vạn quân thủy bộ đánh chiếm sông Lục Đầu, chiếm thành Linh Sơn - trên núi Chí Linh - và thành chữ "nhất" - nằm dọc theo sông Lục Đầu. Ngày 7 tháng 1 năm 1288, Thoát Hoan tiến đến Tứ Thập Nguyên (có thể ở gần Vạn Kiếp) đồng thời sai Trình Bằng Phi, A-li và Lưu Giang chỉ huy hai vạn quân đóng giữ Vạn Kiếp và làm thành trại bằng gỗ ở núi Phả Lại, núi Chí Linh để chứa lương thực. Ngày 21 tháng 1 năm 1288, Thoát Hoan đem quân đến và giao chiến với quân ta ở cảng Mao La (có thể là một ngách sông nào đó ở gần vùng Lục Đầu). Sau đó, tên tướng giặc này lại tiến đánh trại Phù Sơn (có thể là tên một ngọn núi phía hữu ngạn sông Lục Đầu). Đấy là những trận đánh nhằm mở rộng và củng cố khu căn cứ Vạn Kiếp. Như vậy là Thoát Hoan đã biết dựa vào địa hình thuận lợi của sông Lục Đầu, tập trung sức lực, xây dựng các cứ điểm trên các ngọn núi hai bên bờ sông, quyết biến vùng này thành một khu căn cứ thủy - bộ liên hoàn để thực hiện chiến lược "chiến tranh bình định". Trong âm mưu đó, hẳn là tên chủ tướng này đã tính đến khả năng nếu như không thắng nổi đối phương thì Vạn Kiếp ít nhất cũng là một vị trí co cụm để bảo toàn lực lượng trước khi tháo chạy về nước như sau này lịch sử đã diễn ra. Có thể với lí do đó mà trong cuộc chiến tranh năm 1288, việc rải quân chiếm đóng của chúng cũng không nhiều như trong cuộc chiến tranh năm 1285. Hai cụm cứ điểm tiêu biểu chỉ là Vạn Kiếp và Thăng Long.

Những hành động trên của quân Mông - Nguyên đã dẫn đến tình trạng:

- Lực lượng bị dàn mỏng, bị chiến tranh tại chỗ tiêu hao, tiêu diệt nhỏ nên sức tiến công suy yếu dần.

- Lương thực bị thiếu thốn nghiêm trọng.

- Nguy cơ bị chủ lực đối phương phản công, tiêu diệt lớn ngày một tới gần.

Tình trạng đó buộc địch phải rút chạy và rồi sau đó bị tiêu diệt. Đây cũng là một đặc điểm khác nữa của nghệ thuật quân sự Trần Quốc Tuấn: buộc địch phải rút chạy và tiêu diệt lớn trên đường chúng rút chạy. Những đòn tiêu diệt đó từng diễn ra ở Chương Dương - Thăng Long, Vạn Kiếp, Tây Kết, Bạch Đẳng, Nội Bàng... đã đưa các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đi tới toàn thắng.


Tóm lại, nghệ thuật quân sự Trần Quốc Tuấn nổi lên là dùng cái vô cùng để thắng cái hữu hạn; mà vô cùng thắng hữu hạn vốn dĩ là một chân lí trong mọi thời đại.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #34 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 07:59:50 am »

TỪ CHIẾN THẮNG BẠCH ĐẮNG MỞ NƯỚC


Trên đất nước ta, ít có vùng đất nào mà địa hình lại hiểm trở như vùng cửa Bạch Đằng giang đổ ra biển cả. Một vùng sông nước mà các lực lượng vũ trang dân tộc ta đã ba lần lập nên những chiến công hiển hách, năm 938, năm 981 và năm 1288. Tuy thế nhưng trong đó, chiến thắng Bạch Đằng năm 938 vẫn được xếp lên vị trí hàng đầu.


Chúng ta hãy đặt chiến thắng này vào trong toàn bộ cuộc chiến tranh chống quân Nam Hán lần thứ hai. Như sử sách đã viết, năm 937 ở nước ta có một cuộc chính biến lớn. Dương Đình Nghệ đã bị nha tướng là Kiều Công Tiễn - một tên tay sai của Nam Hán - giết chết, cướp chính quyền. Lúc đó Nam Hán đã thành lập một đạo thủy quân lớn. Kế hoạch của Lưu Cung - vua Nam Hán - là dùng thủy quân làm lực lượng tiên phong, tiến quân vào Giao Châu, dưới sự yểm trợ của đạo quân Kiều Công Tiễn, chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho lực lượng của ông ta tự chỉ huy, đóng tại trấn Hải Môn (Bác Bạch, Quảng Đông), sẵn sàng tiếp ứng. Cuối năm 938, đạo thủy quân của thái tử Lưu Hoàng Thao bắt đầu xuất phát.


Trước tình hình đất nước có "thù trong, giặc ngoài” như vậy, Ngô Quyền thấy rõ trước mắt phải đối phó với ba lực lượng: một là Kiều Công Tiễn, hai là Lưu Hoàng Thao và ba là Lưu Cung. Nhằm đi tới thắng lợi trong một thời gian ngắn, quyết không để quân xâm lược vào sâu trong lãnh thổ, ông xác định hành động quân sự lần lượt theo ba bước. Thứ nhất là phải nhanh chóng tiêu diệt Kiều Công Tiễn, làm quân xâm lược mất chỗ dựa. Thứ hai là tập trung hướng nỗ lực vào đạo thủy quân, bẻ gãy ngay chủ lực mũi nhọn đột kích của địch. Kết quả của hai bước trước nhất định sẽ dẫn tới bước thứ ba: Lưu Cung phải bãi binh. Sau khi diệt Kiều Công Tiễn, chuẩn bị đón đánh đạo thủy quân địch, Ngô Quyền nhận định: "Hoàng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt lại được tin Công Tiễn bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, đánh quân mỏi mệt, tất phá được. Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền địch nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả"1 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H.1972, t.1, tr.146). Quả nhiên, thực tế chiến địa diễn ra đúng như lời dự đoán hết sức tự tin của Ngô Quyền. Bằng hai đòn quyết định, mà trận Bạch Đằng là đòn quyết định nhất, tương quan lực lượng hai bên đã thay đổi một cách cơ bản trong một thời gian cực ngắn. Trước thảm họa đó, nếu tung thêm lực lượng ra nữa cũng sẽ dễ dàng bị tiêu diệt gọn, Lưu Cung đành xót xa chấp nhận sự thất bại và rút quân về Phiên Ngung.


Nghệ thuật quân sự trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc có những đặc điểm: về chiến lược, đòn tiến công của Ngô Quyền nổi bật lên ở chỗ xác định đúng đắn mục tiêu chủ yếu, quyết định trong cuộc tiến công chiến lược đầu tiên là thủy quân Nam Hán, đồng thời tiêu diệt lực lượng Kiều Công Tiễn. Hai đạo quân này là chỗ dựa không thể nào thiếu được của đạo quân phía sau. Sau khi địch bị diệt, thế và lực của ta đã mạnh lên rất nhiều, quyết định sự thất bại hoàn toàn của quân xâm lược, biểu hiện rõ là Lưu Cung không giám tiến quân nữa vì biết rằng con đường phía trước chắc chắn sế dẫn đến đất chết. Bởi vậy, trận Bạch Đằng là một thủy chiến thể hiện một ưu thế: không những thủy quân non trẻ của chúng ta lúc bấy giờ có khả năng quyết chiến mà còn có đầy đủ sức mạnh tiêu diệt gọn một binh chủng mới của địch. Về chiến thuật, cái mới trong cuộc chiến tranh này là thủy chiến. Điều độc đáo là trên sông Bạch Đằng, đội hình chiến đấu của thủy quân ta đã tạo được một thế chiến thuật chặn đứng phía sau lưng địch không phải bằng bộ binh, thủy binh mà lại bằng những hàng cọc gỗ cứng. Ngô Quyền đã tính toán kĩ lưỡng về thời cơ và địa điểm để tiêu diệt địch. Đó là lúc thủy quân chúng vượt qua hàng cọc, cũng là lúc thủy triều dâng và lúc thủy triều bắt đầu rút thì mở cuộc tiến công quyết định. Trên chiến địa, thủy quân ta đã dàn thành các tuyến hàng ngang, dùng toàn lực, lợi dụng dòng nước chảy, lao tới, áp mạn xông lên, dùng gươm giáo đánh chiếm các thuyền địch. Tiếp sau đó, kết hợp chặt chẽ thế trận hàng rào phía sau và tiến công phía trước, thủy quân ta đã lợi dụng sức cơ động nhanh của thuyền nhỏ, truy kích và đánh chìm thuyền địch bằng cách dùng mũi nhọn đầu thuyền đâm vào đội hình đang rối loạn của chúng.


Từ một chiến thắng quyết định trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc cùng với nghệ thuật sử dụng nỏ liễu của quân đội nhà nước Âu Lạc, lần đầu tiên, chiến thắng Bạch Đằng năm 938 đã khắc họa một nét độc đáo của văn hóa quân sự Việt Nam đúng như người phương Bắc từng nhận xét về tổ tiên người phương Nam chúng ta "giỏi cung nỏ, thạo thủy chiến". Với sự thông minh về chiến thuật trong nghệ thuật tận dụng môi trường tự nhiên vào đấu tranh vũ trang, chiến thắng Bạch Đằng năm 938 còn bao gồm cả sự bất ngờ về kĩ thuật qua nghệ thuật tạo dựng thêm những hàng cọc gỗ liên kết chặt chẽ với nhịp độ lên xuống của thủy triều để tiêu diệt thủy quân địch. Tư chất thạo thủy chiến cộng thêm sự tìm tòi, khám phá ra một cách đánh giặc khác lạ của nhân dân ta từ chiến thắng Bạch Đằng năm 938, theo thời gian, hầu như đã trở thành một trong những yếu tố chi phối mạnh mẽ đến sự phát triển văn hóa quân sự nói chung và văn hóa thủy chiến nói riêng trong kỉ nguyên Đại Việt. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến Bạch Đằng trong cuộc chiến tranh chống Tống lần thứ nhất, Bạch Đằng trong cuộc chiến tranh chống Mông - Nguyên lần thứ ba. Và còn chưa kể đến những cơ động chiến lược trên sông nước của quân đội nhà Tiền Lê, quân đội nhà Lí, quân đội nhà Trần, quân đội Tây Sơn và chiến thẳng Rạch Gầm - Xoài Mút năm 1785. Thế nhưng chiến thắng Bạch Đẳng năm 938 không chỉ là một chiến thắng quân sự dù rằng riêng phương diện ấy cũng đã có một ý nghĩa to lớn. Chiến thắng này đã vượt lên trên phạm vi một trận đánh, một thành quả quân sự đơn thuần mà nó còn là một kết cục tất yếu của cuộc đấu tranh lâu dài, dai dẳng, đầy gian lao, khổ hạnh của nhân dân ta, hết lớp người trước đến lớp người sau nhằm chống lại sự áp bức, bóc lột về kinh tế, sự đồng hóa về ngôn ngữ, nòi giống, về tập quán, phong tục của các triều đại phong kiến Trung Hoa để mở ra một kỉ nguyên độc lập, tự chủ cho thiên niên kỉ thứ hai. Nếu như nhà sử học Lê Văn Hưu cho rằng những người làm nên chiến thắng Bạch Đằng năm 938 là "quân mới họp của đất Việt" mà "phá được trăm vạn quân của Lưu Hoàng Thao"1 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H.1972, t.1, tr.147) thì chúng ta phải hiểu rằng "quân mới họp" là hiện thân của thế hệ người Việt Nam thời ấy, chính là hậu duệ của dân tộc Văn Lang, là sự tiếp nối dòng máu Lạc Hồng. Lớp người đó biết kế thừa, nâng niu, trân trọng, bảo vệ và phát triển nền văn hóa Việt mà cốt lõi là lòng yêu nước đã nẩy mầm từ nghìn xưa và được thử thách qua mười thế kỉ đấu tranh dưới các hình thức khởi nghĩa và chiến tranh yêu nước để chờ khi thời cơ đến thì cùng nhau chung sức, chung lòng làm nên sự tích anh hùng.


Bước vào thế kỉ XXI, là lớp con cháu của thế hệ người Việt làm nên chiến thắng Bạch Đẳng mở nước, chúng ta quyết tâm phấn đấu làm hết sức mình cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vững bước tiến vào thiên niên kỉ thứ ba.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #35 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 08:01:05 am »

NHỮNG CHI LĂNG, BẠCH ĐẰNG, TÂY KẾT


Tương tự như môi trường văn hóa nói chung, môi trường văn hóa quân sự Việt Nam là sự tương tác trong đấu tranh giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Mà môi trường tự nhiên - núi rừng, đèo dốc, sông ngòi, đồng ruộng... - trong văn hóa quân sự chính là địa hình. Thử hỏi, cổ kim đông tây, có trận đánh lớn nhỏ nào thoát ra khỏi địa hình? Nắm vững qui luật ấy, các thống soái quân sự ta đã dự báo chính xác những con đường tiến quân của lũ xâm lược để bố trí lực lượng chặn đánh và tiêu diệt chúng trên các nẻo đường đó.


Đất nước ta, từ ngày giành được chủ quyền cho đến thế kỉ XI, bờ cõi phía nam chỉ mới đến đèo Ngang. Đã thế, phần đất từ Thanh Hóa trở vào lại có dãy núi Tam Điệp che chắn nên khó có kẻ thù xâm lược phong kiến phương Bắc nào vượt qua nổi trong điều kiện khoa học - kĩ thuật đương thời.


Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Nam Hán, nhờ có dãy núi Tam Điệp mà Dương Đình Nghệ có thể ung dung chuẩn bị lực lượng, chớp thời cơ khi cánh quân xâm lược thứ nhất chưa kịp củng cố, cánh quân thứ hai chưa sang đến nơi, đã mở ngay cuộc tiến công chiến lược vào thành Tống Bình, đồng thời đưa quân lên mai phục trên vùng đông - bắc và diệt tan lực lượng của chúng, giành thắng lợi quyết định vào tháng 3 năm 931.


Đến năm 937, Kiều Công Tiễn đã phản bội giết Dương Đình Nghệ, cướp chính quyền hòng gây ngòi nổ cho cuộc chiến tranh phi nghĩa lần thứ hai của quân Nam Hán nhưng vẫn không giám liều lĩnh vượt qua dãy núi Tam Điệp tiến vào châu Ái, vùng căn cứ của đất nước. Kết quả là một năm sau, từ phía nam dãy núi này, Ngô Quyền đã đưa quân ra, định đoạt số phận tên phản dân hại nước cùng đạo thủy quân xâm lược đến tiếp ứng như lịch sử từng ghi lại.


Đánh giá về Tam Điệp, khi nghe tin quân Tây Sơn chuẩn bị tiến ra Bắc Hà lần thứ hai, các tướng lĩnh nhà Trịnh đã cho rằng: "Giữa Thanh Hóa nội và Thanh Hóa ngoại có núi Tam Điệp ngăn cách, ấy là chỗ trời đất xây dựng, rất là hiểm yếu. Ta nên tiến quân gấp để giữ lấy, chớ để quân giặc chiếm trước. Được như vậy thì từ Trường Yên về bắc còn là của mình. Nếu núi Tam Điệp mà mất thì lộ Sơn Nam thênh thang với những cánh đồng bằng phẳng, rộng rãi, e khó tranh nhau với giặc, việc nước sẽ không thể làm thế nào được nữa"1 (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, H.1970, tr.268).


Thậm chí đến tận cuối thế kỉ XVIII, quân đội Tây Sơn vẫn còn sử dụng "tấm lá chắn thiên nhiên" này, phục vụ cho thời kì đầu cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789, khi mà cán cân lực lượng đang nghiêng hẳn về phía quân xâm lược, khi mà quân ta - như lời Ngô Thì Nhậm: "Đánh đã chẳng được, giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều không phải là kế hay. Nghĩ cho cùng thì chỉ còn một cách này: sớm truyền cho thủy quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm ra thẳng cửa biển, đến vùng Biện Sơn mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên đường, lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thủy bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu Thống sau khi phục quốc, xếp đặt việc quân, việc nước thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen cũng chưa muộn gì"?1 (Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, H.1970, tr.341).


Do những điều kiện địa hình như vậy, quân xâm lược thường chỉ tập trung sức lực toan tính đến việc tiến công - đại thể trên bốn hướng chủ yếu - vào vùng châu thổ sông Hồng: chính bắc, đông - bắc, tây - nam và tây - bắc.


Tương ứng với đường quốc lộ 1A, chính bắc là hướng tiến công đường bộ chủ yếu của bọn cướp nước hàng mấy ngàn năm, kể từ cuộc chiến tranh xâm lược đầu tiên trong lịch sử dân tộc - cuộc chiến tranh của quân Tần cuối thế kỉ III trước công nguyên đến tận cuộc chiến tranh của quân Mãn Thanh năm 1789. Trong hướng tiến công này, các thống soái quân sự dân tộc ta đã biết lấy ải Chi Lăng làm một trận địa mai phục nhằm tiêu diệt địch. Là một thung lũng nhỏ, hình, bầu dục, hai đầu nam bắc thu hẹp, gần như khép kín, ải Chi Lăng có chiều dài khoảng 4km, chỗ rộng nhất hơn 1km. Phía tây là dãy núi đá lởm chởm, vách núi dựng đứng. Phía đông là núi đá Quỉ Môn, núi đá Phượng Hoàng liền với dãy núi đất thuộc hệ núi Thái Hòa và Chi Lăng. Dòng sông Thương bắt nguồn từ núi Kháo, chảy qua các huyện Chi Lăng, Hữu Lũng (Lạng Sơn), Lạng Giang (Bắc Giang) rồi xuôi về ngã ba Nhãn xuống sông Lục Đầu.


Dãy núi Chi Lăng dốc dứng và dãy núi Thái Hòa trùng điệp là những bức thành cao, chắn hai ngả đông tây, khép lấy thung lũng Chi Lăng cùng với các ngọn núi đá nhỏ bên trong làm cho cửa ải này thêm hiểm trở. Lại nằm trên đường độc đạo nên ải Chi Lăng càng chiếm giữ một vị trí địa - quân sự vô cùng quan trọng như sử sách Trung Quốc từng đánh giá là "cổ họng của Giao Chỉ", "nơi hiểm yếu đại quân ra vào".


Đầu năm 981, bằng kế hoạch dụ địch vào "đất chết”, quân ta đã chém đầu Hầu Nhân Bảo, chủ tướng quân Tống, trong cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất. Trong cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai, năm 1076, đạo quân người Tày, dưới sự chỉ huy của phò mã Thân Cảnh Phúc, trấn giữ vị trí hiểm yếu này, đã buộc quân Tống phải vòng về phía tây mới tiến được xuống đồng bằng. Đến cuối thế kỉ XIII, trong hai cuộc chiến tranh chống quân Mông - Nguyên, vua tôi nhà Trần cũng đã lấy Chi Lăng làm căn cứ ngăn chặn địch.


Nhưng chiến công "oai hùng, vang dội" nhất ở vùng này phải kể đến trận đánh ngày 10 tháng 10 năm 1427 trong cuộc chiến tranh giải phóng chống quân Minh ở thế kỉ XV. Bằng phương pháp nghi binh, đánh lừa địch, quân ta đã dụ được Tổng binh Liễu Thăng - chủ tướng của mười vạn quân viện binh - đích thân dẫn hơn một trăm quân kị hộ vệ hung hăng, kiêu ngạo, mở đường tiến vào cửa ải. Tiền quân của chúng tiến theo sau. Chờ khi quân địch hoàn toàn lọt vào trận địa mai phục quanh một vùng đầm lầy, phục binh ta từ bốn mặt nhất tề xông ra. Thấy nguy, Liễu Thăng cố phóng ngựa hòng thoát ra khỏi tử địa nhưng đã bị quân ta phóng lao đâm chết tươi bên sườn núi Mã Yên. Bị đánh bất ngờ, lại mất ngay chủ tướng, quân địch vô cùng hoang mang, rối loạn. Kết quả là một vạn quân tiên phong bị tiêu diệt gọn. Sau thất bại lớn ở Chi Lăng, số chín vạn quân còn lại vẫn tìm cách tiến về phía Đông Quan. Theo kế hoạch tác chiến, quân ta "mở đường" cho đối phương tiến xuống, vào các trận địa bố trí sẵn và cuối cùng đã tiêu diệt gọn chúng ở Xương Giang vào ngày 3 tháng 11 năm 1427.


Sang đầu thế kỉ X, môi trường thiên nhiên đã đóng góp cho văn hóa quân sự Việt Nam một phương pháp tác chiển mới từ chiến trường sông Bạch Đằng dậy sóng, ở phía đông - bắc châu thổ sông Hồng. Thật ra thì con đường biển từ Trung Quốc vào Việt Nam thời xưa, thuận tiện và quen thuộc nhất vẫn là đến cửa sông Bạch Đằng (hiện nay là cửa Nam Triệu) rồi đi qua sông Kinh Thầy để vào sông Lục Đầu. Ví như đoàn thuyền chiến của Đoàn Chí theo Mã Viện vào đánh Hai Bà Trưng năm 42, của Trần Bá Tiên vào đánh Lí Bí năm 545.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #36 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 08:01:43 am »

Năm 938, Hoàng Thao, chủ tướng quân Nam Hán, cũng định tiến quân qua cửa Bạch Đằng vào nước ta hòng cứu nguy cho Kiều Công Tiễn. Trước tình hình đó, Ngô Quyền đã họp bàn với các tướng sĩ: "Hoàng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại được tin Kiều Công Tiễn bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, đánh quân mỏi mệt, tất phá được. Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngâm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sát, thuyền địch nhân khi nước triều lên, tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả"1 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H.1972, t.1, tr.146). Kết quả, chiến sự diễn ra đúng như lời dự báo. Thái tử Hoàng Thao cùng với đạo thủy quân đã bị tiêu diệt gọn trước sóng thủy triều và trận địa cọc gỗ lim - một thông minh về chiến thuật và một sáng tạo về kĩ thuật của văn hóa quân sự Việt Nam - mà người khởi xướng là Thống soái quân sự Ngô Quyền.


350 năm sau, năm 1288, bị thất bại nặng nề sau ba tháng chiến trận đầy gian lao, nguy hiểm trên đất Đại Việt, Thoát Hoan, chủ tướng quân xâm lược Mông - Nguyên, buộc phải cho lực lượng thủy quân, dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp, rút lui theo đường sông Bạch Đằng, ra biển về nước. Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai lại diễn ra.


Phải nói rằng, hội chiến Bạch Đằng năm 1288 là một trận "chung kết" vô cùng ngoạn mục của quân và dân ta, sau ba cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Mông - Nguyên, ở thế kỉ XIII. Theo cách tính toán của văn hóa quân sự Việt Nam, kết cục trận đánh tiêu diệt gọn nhất thiết phải diễn ra trên bãi cọc ở vùng sông nước này thì trận Bạch Đằng năm 938 là một đòn đánh chặn chóng vánh và thành công lớn trước quân Nam Hán từ ngoài biển tiến vào, còn trận Bạch Đằng năm 1288 lại là thành quả của những tính toán ki lưỡng và những nỗ lực hết mình của thế hệ người Việt đương thời. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Thống soái quân sự Trần Quốc Tuấn, quân và dân ta đã tổ chức những trận đánh ngăn chặn suốt mười một ngày đêm, buộc hơn 600 chiếc thuyền chiến địch phải rút chạy theo "đúng luồng lạch" và những trận đánh kiềm chế tốc độ hành quân, không cho chúng đi quá tốc độ 3km/ngày để đến trận địa mai phục "đúng giờ giấc" đặng nhận đòn giáng trả sấm sét của những hàng cọc gỗ rắn chắc của những lớp sóng thủy triều giận dữ và của cả ngọn lửa đỏ rực căm thù từ những chiếc bè nứa, chất đầy rơm rạ trên thượng lưu dồn về.


Từ trong cuộc chiến tranh xâm lược của quân Tống lần thứ hai, năm 981, một hướng tiến công mới được hình thành ở phía tây - nam đồng bằng Bắc Bộ ngày nay. Đó là con đường mà Trần Khâm Tộ đi từ biển, theo sông Thiên Mạc (đoạn sông Hồng, từ Thăng Long ra biển) vào đất liền, lấy Tây Kết (Mạn Trù, Khoái Châu, Hưng Yên) làm vị trí đầu cầu để bất ngờ tiến công quân ta khị mọi sự chú ý đang hướng về cánh chính binh của Hầu Nhân Bảo phía Chi Lăng. Thế nhưng lần đó, quỉ kế của cánh kì binh địch đã không thành công trước sự cảnh giác cao độ của quân và dân Đại Việt. Tất cả các chiến thuyền ở hướng này đã bị tiêu diệt gọn, chỉ riêng chủ tướng Trần Khâm Tộ may mắn thoát chết nhờ chiếc thuyền con trốn được ra biển.


Từ vị trí địa - quân sự này, trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Mông Cổ năm 1258 vua tôi nhà Trần đã lấy nó (lúc bấy giờ gọi chung là "sông Thiên Mạc") làm căn cứ xuất phát tiến công, giáng đòn quyết định vào Đông Bộ Đầu. Nhưng nổi bật nhất là trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1285, trên hướng chiến lược chủ yếu - theo trục sông Hồng, tính từ Thăng Long, qua cửa Hàm Tử, Tây Kết đến cửa Hải Thị - đã từng là nơi tranh chấp quyết liệt giữa quân ta và quân xâm lược trong vòng hơn bốn tháng (từ 18-2, triều đình rút khỏi kinh thành, đến 24-6-1285, trận Tây Kết lần thứ hai, Toa Đô tử trận). Trong thời kì đầu chiến tranh (từ giữa tháng 2 đến đầu tháng 5-1285) - khi cán cân lực lượng hai bên đang còn nghiêng hẳn về phía địch - quân ta phải rút lui chiến lược, trận đánh chặn địch đầu tiên trên hướng chiến lược này là do Trần Bình Trọng chỉ huy và đã anh dũng hi sinh. Đến thời kỳ phản công chiến lược (từ đầu tháng 5 đến ngày 24-6-1285), trục sông Hồng cũng là hướng tiến công chủ yếu của quân ta. Mở đầu là trận đánh chia cắt hai tập đoàn địch tại đồn tiền tiêu A Lỗ và quét sạch địch là hội chiến Chương Dương - Thăng Long, Thoát Hoan buộc phải rút chạy, quân ta giành lại quốc đô. Nhưng chưa hết, trên đường tháo lui, tập đoàn Toa Đô ở phía nam vẫn tìm cách ngược dòng sông Hồng, đuổi theo, hội quân với tập đoàn Thoát Hoan ở phía bắc mong hỗ trợ nhau để bảo toàn lực lượng nhưng có ngờ đâu rằng chiến sự đã diễn ra quá nhanh trước đòn tiến công dồn dập của quân ta. Mãi cho đến khi đám tàn quân năm vạn tên của tập đoàn Thoát Hoan về được đến châu Tư Minh, phía bên kia biên giới, thì tập đoàn Toa Đô mới lò dò kéo quân đến Tây Kết. Kết quả là tại địa danh lịch sử này, toàn bộ năm vạn quân của tập đoàn này đã bị tiêu diệt và bị bầt sống. Chủ tướng phải đền tội.    Và từ thế kỉ XIII - một thế kỉ dân tộc ta phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nhất trong lịch sử để chống đế quốc Mông - Nguyên - quân xâm lược đã thực hiện một hướng tiến công mới từ phía tây - bắc của châu thổ sông Hồng. Trên hướng này, trong cuộc chiến tranh năm 1258, ba vạn kị binh Mông Cổ đã chia thành hai cánh, một theo hữu ngạn sông Thao và một theo thung lũng sông Chảy về hội quân ở ngã ba sông Thao, sông Đà và sông Lô để tiến xuống đồng bằng. Trong cuộc chiến tranh năm 1285, một cánh quân Mông - Nguyên từ Vân Nam cũng theo thung lũng sông Chảy tiến xuống, phối hợp với ba cánh quân khác cùng đánh vào nước ta. Thế nhưng, ở cả hai cuộc chiến tranh xâm lược trên hướng này, quân địch đã bị chặn đánh quyết liệt. Chiến công trong cuộc chiến tranh lần thứ nhất thuộc về Hà Bổng, người chỉ huy dân binh vùng Qui Hóa (thuộc Yên Bái, Lao Cai). Trong cuộc chiến tranh lần thứ hai, khi tiến vào, chúng đã bị quân chủ lực, dưới sự chỉ huy của Trần Nhật Duật, chặn đánh ở Thu Vật (Yên Bình, Yên Bái) và khi rút chạy lại bị đội dân binh của hai anh em Hà Đặc, Hà Chương tập kích ở Phù Ninh (Phú Thọ). Trong cuộc chiến tranh giải phóng ở thế kỉ XV, tại hướng chiến lược này, quân ta đã phục kích đánh tan 5 vạn quân tiếp viện, dưới sự chỉ huy của Mộc Thạnh, tại Lãnh Câu - Đan Xá (phía thượng nguồn sông Lô). Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789, cũng trên hướng này, một cánh quân xâm lược Mãn Thanh, dưới sự chỉ huy của Đề đốc Ô Đại Kinh, đã đi vào trót lọt đến Sơn Tây nhưng khi nghe tin thất trận lớn ở Ngọc Hồi - Đống Đa, chúng đã theo đường cũ, tháo chạy và bị đội dân binh người Tày, dưới sự chỉ huy của Ma Doãn Dảo, đánh tan trên vùng đất Tuyên Quang.


Tóm lại, môi trường tự nhiên vốn là một thực tại khách quan nhưng dưới sự tương tác của tài năng quân sự Việt Nam, chúng đã đi vào lịch sử bằng những địa danh chói lọi, được lặp đi, lặp lại nhiều lần những chiến công hiển hách với "những Chi Lăng", "những Bạch Đằng", "những Tây Kết"... Mỗi chiến công lại mang theo một phương pháp tác chiến riêng biệt. Tất cả đã làm cho văn hóa quân sự Việt Nam ngày càng đậm đà thêm bản sắc dân tộc.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #37 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 08:02:59 am »

NGUYỄN HUỆ VỚI TƯ TƯỞNG ĐÁNH TIÊU DIỆT


Trong sự nghiệp đấu tranh vũ trang bảo vệ Tổ quốc, sở dĩ Nguyễn Huệ đạt được thành tựu to lớn trong những thời gian ngắn như vậy chính là ông đã biết lấy tư tưởng đánh tiêu diệt làm tư tưởng chỉ đạo tác chiến cơ bản trong toàn bộ các cuộc chiến tranh, từ cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Xiêm năm 1785 và nhất là đến cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mãn Thanh năm 1789.


Trước hết, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện ở chỗ lấy việc bảo tồn mình, tiêu diệt địch làm nguyên tắc chỉ đạo tác chiến và lấy việc tiêu diệt địch làm mục tiêu chủ yếu của chiến tranh.

Điểm nổi bật của tư tưởng đó được thể hiện rõ trong lời dụ tướng sĩ đanh thép của ông tại Thanh Hóa trên đường hành quân ra Bắc Hà trong cuộc chiến tranh chống quân Mãn Thanh:

   ”Đánh cho để dài tóc,
   Đánh cho đề đen răng.
   Đánh cho nó chích luân bất phản,
   Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn.
   Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ"


Hai câu đầu nói lên quyết tâm đánh giặc để bảo vệ độc lập dân tộc, giữ gìn nền văn hóa và những phong tục tập quán lâu đời của nhân dân. Hai câu giữa nói lên quyết tâm đánh tiêu diệt khiến cho quân giặc không một chiếc xe nào trở về, không một phiến giáp nào nguyên vẹn. Câu cuối nghĩa là đánh cho chúng biết rằng nước Nam anh hùng là có chủ.


Trước khi vào cuộc chiến năm Kỉ Dậu (1789), Nguyễn Huệ đã huấn thị cho quân sĩ: "Ai... bằng lòng chiến đấu thì hãy vì ta giết sạch quân giặc. Nếu ai không muốn thì hãy xem xét ta giết vài vạn người trong một trận, đó không phải là chuyện hiếm lạ đâu?"


Thứ hai, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện ở việc xác định những hình thức chủ yếu của trận đánh. Tuy quân Tây Sơn đến lúc ấy đã thông thạo cả đánh vận động lẫn đánh công kiên nhưng xuất phát từ tư tưởng đánh tiêu diệt, nhất là dựa vào tinh thần yêu nước, tinh thần chiến đấu rất cao của những chiến binh nông dân vừa mới được giải phóng, đánh vận động vẫn được chọn làm hình thức tác chiến chủ yếu. Chính vì vậy mà dụ quân Xiêm đến chiến trường sông nước Rạch Gầm - Xoài Mút để tiêu diệt gọn là phương pháp tác chiến thích hợp nhất. Ngay cả trong trường hợp phải công thành như sau khi tiến công đồn Ngọc Hồi, một "điểm rắn" trong cuộc chiến tranh năm 1789, quân ta cũng đã có những hành động tích cực, linh hoạt như xua địch phải rút chạy vào trận địa mai phục ở Đầm Mực để tiêu diệt gọn.


Thứ ba, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện ở chỗ "biết người, biết mình", tranh thủ chủ động. Từ đó, những phương pháp, thủ đoạn, cách thức thích hợp nhất đã được đề ra nhằm đi tới đánh chắc tháng. Đó là việc nghị hòa với Chiêu Tăng trong cuộc chiến tranh chống quân Xiêm và hai lần trá hàng nhằm "khích tướng" đối với Tôn Sĩ Nghị trong cuộc chiến tranh chống quân Mãn Thanh. Ngay cả trong những trường hợp có nguy cơ mất quyền chủ động, Nguyễn Huệ cũng đã nhanh chóng, năng động xử trí tình hình, tìm mọi cách giành lại. Ví như việc chủ động rút lui khỏi Gia Định cuối năm 1784 cũng như việc rút lui khỏi Thăng Long cuối năm 1788 chính là nhằm né tránh sức mạnh của quân xâm lược lúc ban đầu để tạo thế chiến thắng cho những đòn phản công chiến lược trong những thời gian sau đó.


Thứ tư, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện trong các phương pháp tác chiến, ở đây, điều chủ yếu và nổi bật là phương pháp tập trung gân như toàn bộ lực lượng đánh vào chính diện và một hoặc hai cạnh sườn của đối phương nhằm đặt tới mục đích trước hết là tiêu diệt một bộ phận đồng thời đánh tan một bộ phận khác. Việc làm đó đã tạo điều kiện thuận lợi để quân ta nhanh chóng di chuyển binh lực, tập trung sức mạnh, tiêu diệt một bộ phận khác cho đến lúc tiêu diệt hoàn toàn. Hội chiến Ngọc Hồi - Đống Đa là một trường hợp điển hình. Sau khi ở Ngọc Hồi, chính diện phía nam và sườn phía đông bị toàn bộ lực lượng quân ta chọc thủng, địch phải rút chạy về phía bác thì các đội phục binh của ta, gồm mấy trăm voi chiến, di chuyển từ Đại Áng đến, đẩy chúng xuống tử địa Đầm Mực, như đã nêu.


Thứ năm, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện trong việc dàn thế trận. Đó là cách bố trí, có điểm chính (khối quân địch ở bờ nam sông Hồng) có điểm phụ (các khối quân địch ở Hải Dương, Sơn Tây) và luôn luôn có sẵn một đội dự bị quan trọng (mấy trăm voi chiến). Cách bố trí đó thể hiện tư tưởng tập trung tiến công trên một điểm (Ngọc Hồi) cùng với tiến công trên nhiều mặt (cung Tây Long, Hải Dương) đồng thời có sự nổi dậy của nhân dân các xã ngoại thành, tạo thành "con rồng lửa" lịch sử khi đại quân tiến vào giải phóng Thăng Long. Mọi hành động trên các mặt đều nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thắng lợi quyết định tại một điểm.


Thứ sáu, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện ở sự vận dụng chiến thuật một cách cơ động, linh hoạt và đánh địch một cách thật bất ngờ. Bất kì trong điều kiện nào, quân xâm lược cũng bị động nên luôn luôn bị dồn vào thế yếu. Chính vì vậy cho nên dù địch có chuẩn bị kĩ lưỡng đến đâu cũng vẫn bị lừa. Chúng chuẩn bị nơi này, bị đánh nơi kia, chuẩn bị chu đáo thời gian này, bị đánh vào thời gian khác. Ngọc Hồi - Đống Đa là một hội chiến đã gây cho địch nhiều bất ngờ nhất, từ chiến lược đến chiến thuật, từ cách đánh đến vũ khí, từ địa điểm đến thời gian... Địch đinh ninh chiến sự sẽ diễn ra ở Phú Xuân nhưng không ngờ lại diễn ra ở Thăng Long mà ngay ở cung Tây Long, thậm chí vào cả đến phòng ngủ của chủ tướng Tôn Sĩ Nghị. Địch định sẽ mở cuộc tiến công sau Tết Nguyên đán nhưng lại bị tiến công ngay trong những ngày Tết, đến nỗi khi quân ta đã tiến đến Ngọc Hồi nhưng vì giỏi biết che giấu hành động thực dưới những hành động giả nên ngay cả Tôn Sĩ Nghị cũng cho rằng: "... Đối với giặc, không có gì đáng lo ngại”... Chính vì vậy, khi quân ta ào ạt tiến vào Thăng Long, quá hốt hoảng, Tôn Sĩ Nghị chỉ kịp rút gươm chém vào không khí và thảng thốt kêu lên: "Sao mà thần tốc thế" rồi người không kịp mặc giáp, nhảy vội lên con ngựa không kịp đóng yên, cùng mấy tên thân binh, nhanh chóng lao nhanh qua cầu phao sông Hồng; chạy tháo thân về hướng bắc, mặc cho mấy chục vạn quân ngơ ngác, rối loạn vì không có sự chỉ huy nơi chiến địa và đang chịu đòn sấm sét giáng xuống đầu.


Thứ bảy, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện ở việc khéo sử dụng các quân, binh chủng và giỏi tổ chức hiệp đồng chặt chẽ động tác của chúng trong tác chiến. Trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1785, chỉ bằng một hội chiến quyết định là thủy quân ta đã "xóa sổ" ngay đạo quân xâm lược tới năm vạn người. Còn trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789 thì sự hiệp đồng giữa thủy quân với bộ binh, giữa bộ binh với pháo binh, tượng binh lại được diễn ra rất khăng khít dưới một hình thức mới quanh hai trục xoay là qui mô đông đảo và tính cơ động. Chỉ tính riêng việc thống nhất về giờ nổ súng giữa mặt trận cung Tây Long và mặt trận Ngọc Hồi cũng thể hiện rõ tính kỉ luật rất nghiêm về thời gian hiệp đồng tác chiến.


Thứ tám, tư tưởng đánh tiêu diệt biểu hiện ở sự chuẩn bị hết sức chu đáo về mọi mặt trước khi mở chiến dịch. Ví như ngày 21-12-1788, ở Phú Xuân, sau khi nhận được tin quân Mãn Thanh vào Thăng Long thì chỉ một ngày sau, ngày 22-12-1788, đại quân, hàng mấy vạn người, đã lập tức lên đường hành quân ra Bâc. Nếu không ở trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao độ làm sao quân đội Tây Sơn có thể hành động được kịp thời như vậy. Hay như, cũng trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc năm 1789, khi tiến quân ra đến Tam Điệp, sau khi nghiên cứu kĩ tình hình địch, Nguyễn Huệ tuyên bố với các tướng lĩnh ở Bâc Hà: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mười ngày, có thể đuổi được người Thanh". Cùng với sự khẳng định quyết tâm chiến lược, câu nói trên còn thể hiện cả sự chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng cho một cuộc đọ sức sắp tới. Hiểu được ý định của Nguyễn Huệ, ngay trong lần tiếp kiến với ông, Nguyễn Thiếp - một danh sĩ nổi tiếng ở Nghệ An - cũng đã nói: "Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan. "Cụ thể hơn nữa là ngay trước khi xuất kích, ngày 30 tháng chạp (25-1-1789), Nguyễn Huệ cho mở tiệc khao quân và hứa trước các tướng sĩ: "Nay hãy làm lễ ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến mồng 7 tháng giêng vào thành Thăng Long, sẽ mở tiệc lớn. Các người hãy ghi lấy lời ta nói xem có đúng thế không?". Sự thật lịch sử đã diễn ra đúng như vậy, thậm chí còn sớm hơn ý định của Nguyễn Huệ tới hai ngày. Ngay từ trưa ngày mồng 5 tháng Giêng (30-1-1789) quân ta đã vào đến kinh thành. Thử hỏi nếu không có sự chuẩn bị trong từng chi tiết thì làm sao lại có thể đi tới chiến thắng một cách nhanh gọn và chính xác đến thế?


Còn như bốn năm về trước, năm 1785, với một sự chuẩn bị công phu, tỉ mỉ, quân Tây Sơn đã dễ dàng nhấn chìm năm vạn quân Xiêm xuống đáy sông nước Rạch Gầm - Xoài Mút chỉ trong vòng một buổi sáng mùa xuân.


Những chiến thắng vĩ đại đó trong các cuộc chiến tranh yêu nước vào cuối thế kỉ XVIII được xem là đã đạt tới đỉnh cao của văn hóa quân sự Việt Nam tính đến thời điểm ấy.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #38 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 08:04:36 am »

TÀI TRÍ TRẦN QUỐC TUẤN TRÊN CHIẾN ĐỊA THĂNG LONG


(Hà Nội), có hai cụ già ngồi nói chuyện với nhau bên ghế đá. Với giọng chậm rãi, một cụ giơ tay chỉ lên tháp nước cao ngất ở phía đông:

- Giá như chỗ ấy mà dựng được bức tượng Hưng Đạo Vương thì hay biết mấy. Vì nơi đây từng là vùng chiến địa Đông Bộ Đầu dưới sự chỉ huy trực tiếp của Người.

Sự thật đã diễn ra đúng như lời vị cao niên nọ. Song phải nói thêm rằng tài trí quân sự Trần Quốc Tuấn còn gắn chặt với hai lần giải phóng Thăng Long sau đó vào những năm 80 của thế kỉ XIII. Duy có điều là sử sách ghi chép lại rất sơ sài. Chúng ta chỉ có thể dựa vào những tư liệu quá ít ỏi này để hình dung ra những trận đánh với những phương pháp tác chiến thích hợp.


Trận đánh giải phóng Thăng Long lần thứ nhất vào năm 1258 qua hội chiến Đông Bộ Đầu trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Mông - Nguyên lần thứ nhất. Cuộc đụng độ diễn ra khi quân xâm lược đã cùng quẫn, phải liên tiếp hai lần đến cầu hòa, xin được an toàn về nước sau chín ngày (từ 20 đến 29-1-1258) chiếm đóng. Chính căn cứ vào tình hình đó, vua Trần Thái Tông quyết định tiến hành phản công chiến lược, giành lại quốc đô và giao cho Trần Quốc Tuấn trực tiếp chỉ huy trận đánh. Lúc bấy giờ vấn đề đặt ra cho vị tướng trẻ tuổi1 (Sách Tuệ trung thượng sĩ hành trang ghi Hưng Ninh vương Trần Tung, anh cả Trần Quốc Tuấn, mất năm Tân Mão, Trùng Hưng thứ bảy, tức năm 1291, thọ 62 tuổi, theo dương lịch là 61 tuổi, sinh năm 1230. Như vậy, là em Trần Quốc Tuấn chỉ có thể sinh từ năm Tân Mão (1231) về sau. Nguyễn Lương Bích Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, Nxb Quân đội nhân dân, H.1981) này là ở trên đất Thăng Long, đòn tiến công nên giáng vào đâu, giữa thành nội và vị trí Đông Bộ Đầu? Tiến đánh vào thành nội thì khó chiến thắng. Bởi lẽ cho đến lúc ấy, khả năng công thành của quân đội ta còn rất hạn chế nhưng lại rất thành thạo về đánh vận động, cả tập kích lẫn phục kích. Vì vậy, ông chọn Đông Bộ Đầu làm mục tiêu công kích và lấy tập kích2 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H.1971, t.2, tr.52) làm phương pháp tác chiến. Đây là một phương pháp thích hợp nhất vì sự bố phòng của quân địch rất sơ sài, có nhiều sơ hở. Vị trí trú quân của chúng chỉ là những lều trại dã chiến nằm trên một địa bàn trống trải cạnh bến sông. Trận đánh đã diễn ra trong đêm 24 tháng chạp (29-1-1258) một đêm lạnh, cuối tháng, không trăng, tối trời, quân ta có thể phát huy cao độ yếu tố bí mật, bất ngờ. Nhưng điều khó tưởng tượng nổi đối với địch là trong ngày 23, sứ giả của chúng còn tới gặp vua Trần xin cầu hòa thì ngay ngày hôm sau, quân ta mở trận phản công, sở dĩ việc tập kích phải thực hiện vào ban đêm vì lúc đó địch bị bất ngờ nhất, lúc mà các kị thủ tách rời khỏi lưng ngựa chiến. Sức mạnh của kị binh là khi người - ngựa ở trong tư thế tiến công. Biết rõ điều đó, Trần Quốc Tuấn công kích vào doanh trại địch đúng lúc kị binh chúng đang bị "bộ binh hóa". Để giành thắng lợi quyết định, giành thắng lợi cuối cùng cho toàn cuộc chiến, "vua và thái tử ngự thuyền lầu tiến quân tới Đông Bộ Đầu đón đánh, phá được quân giặc"1 (Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, H.1971, t.2, tr.29). Điều ghi chép đó, tuy ngắn nhưng cũng cho chúng ta thấy được đánh vào Đồng Bộ Đầu là khối quân chủ lực thủy bộ của triều đình từ sông Thiên Mạc tiến lên. Cùng với quân chủ lực, chắc chắn là các cánh quân khác bố trí vây hãm kinh thành cũng được lệnh nhất loạt đánh tới để phối hợp. Tham gia hội chiến lớn này, ngoài Trần Khánh Dư, nhất định phải có mặt nhiều vương hầu, danh tướng như Trần Thủ Độ, Lê Phụ Trần, Trần Quang Khải...


Thực ra, đến trước khi xảy ra hội chiến này, lực lượng quân đội hai bên hầu như đang còn nguyên vẹn. Thế nhưng tinh thần chiến đấu của quân xâm lược đã sa sút nghiêm trọng. Ngược lại, tinh thần chiến đấu của quân ta lại phấn chấn lạ thường. Chính vì thế mà trong trận đánh, quân xâm lược không chống đỡ nổi, đã bị thiệt hại quá nặng. Chúng không đủ sức vượt sông chạy sang bờ bắc vì không có quân thủy, lại chẳng có thuyền bè mà nếu có thì cũng không chống lại được với quân thủy thiện chiến của quân ta trên khắp dải sông Hồng bao quanh trận địa. Thất thế, chúng buộc phải dốc toàn lực, mở một đường máu, hướng theo phía tây kinh thành, dọc đường bộ bên phải sông Hồng tháo chạy về nước. Chiến tranh kết thúc thắng lợi ở phía dân tộc ta.


Trận đánh giải phóng Thăng Long lần thứ hai trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Mông - Nguyên nám 1285 thông qua hội chiến Chương Dương - Thăng Long. So với Đông Bộ Đầu, việc tiến hành hội chiến này khó khăn hơn rất nhiều. Do quân số địch đông hơn, thời gian chiếm đóng lại dài hơn - 110 ngày (từ 19-2 đến 8-6-1285) - nên việc phòng thủ Thăng Long của chúng cũng vững chắc hơn.


Về hội chiến này, sử sách chỉ ghi vẻn vẹn có mấy dòng, Toàn thư viết: "Ngày mồng 10, có người từ chỗ giặc trốn đến quân ngự dinh tâu báo rằng: Thượng tướng Quang Khải, Hoài Văn hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp với em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ đánh được giặc ở các xứ kinh thành, Chương Dương, quân giặc tan vỡ. Bọn thái tử Thoát Hoan và Bình chương sự A-lạt chạy qua sông Lô". Kinh thế đại điển tự lục viết: "Hưng Đạo vương đánh vạn hộ Lưu Thế Anh ở đồn A Lỗ. Trung Thành vương đánh thiên hộ Mã Vinh ở Giang Khẩu"1 (Kinh thế đại điển tự lục, Nguyên văn loại, quyển 41, t.564), ở chỗ khác, Kinh thế đại điển tự lục lại viết tiếp: "... Thủy lục đến đánh vào đại doanh, vây thành mấy vòng, tuy chết nhiều nhưng quân tăng thêm càng trở nên đông, quan quân sớm tối đánh rất khốn đốn, thiếu thốn, khí giới đều hết..."2 (Kinh thế đại điển tự lục, Nguyên văn loại, quyển 41, t.564).


Dựa vào các sử liệu trên, chúng ta thấy được Trần Quốc Tuấn đã dùng phương pháp tác chiến vận động, theo lối đánh chính - kì, tiến công vào Thăng Long từ hai phía, phía nam là Chương Dương và phía đông là Giang Khẩu. Theo lô-gích quân sự, đòn giáng vào Chương Dương phải diễn ra trước đòn giáng vào Đại bản doanh quân xâm lược, với điểm đột phá là Giang Khẩu. Sở dĩ như vậy là vì khi bắt đầu phản công chiến lược, quân ta tiêu diệt A Lỗ rồi cứ hướng bắc ép dần lên Tây Kết, Hàm Tử, khiến ở Tổng hành dinh Thoát Hoan cũng thấy rõ mối đe dọa lớn từ phía nam đang ngày một tới gần. Bởi thế, khi quân ta tiến đánh Chương Dương - một căn cứ chỉ cách Thăng Long chừng 20km - lại đặt dưới sự chỉ huy của một danh tướng như Trần Quang Khải, đạo quân mà ngay ngày mồng 3 tháng 5 (7-6-1285) vừa tham gia chiến đấu cùng lực lượng của hai vua Trần và thắng lớn ở Trường Yên, thì Thoát Hoan buộc phải tỏ rõ thái độ bằng cách tung đội kị binh tinh nhuệ ra chống đỡ. Ở đây cũng cần nói thêm rằng, hội chiến Chương Dương - Thăng Long chỉ có thể diễn ra trong ngày 4 tháng 5 (8-6-1285). Vì trước đó một ngày, Trần Quang Khải đang chiến đấu ở Trường Yên. Còn sau đó một ngày - ngày 5 tháng 5 (9-6-1285), bọn Giảo Kì và Tang-gu-tai đã về Thăng Long hội quân với Thoát Hoan thì tên chủ tướng này đã chạy sang bờ bắc sông Hồng và rồi ngày hôm sau, 6 tháng 5 (10-6-1285), tất cả bọn chúng đều rút quân về nước.
Logged
ktqsvn
Thành viên
*
Bài viết: 561



« Trả lời #39 vào lúc: 17 Tháng Hai, 2022, 08:05:36 am »

Như trên đã nói, trước đòn sấm sét đang giáng xuống, Thoát Hoan đã tung đội dự bị chiến lược ra đối phó. Hắn có ngờ đâu rằng việc làm đó đã rơi trúng vào ý định tác chiến của quân ta. Chính khi tiến đánh Thăng Long, Trần Quốc Tuấn cũng hiểu rằng, công kích vào thành lũy là một khó khăn không nhỏ. Điều tối ưu đó là nhử địch ra xa để tiêu diệt. Một lực lượng kị binh cơ động tinh nhuệ như vậy đối với quân ta, muốn đánh thắng không gì thích hợp hơn là dùng trận địa bày sẵn. Mục tiêu thực chất cần phải đập nát chính là lực lượng then chốt này. Kị binh tinh nhuệ đã bị hút xuống phía nam rồi bị tiêu diệt, Tổng hành dinh mất hẳn lực lượng cơ động. Cho nên khi thủy, lục quân ta từ phía đông ào ạt tập kích vào, không có con đường nào khác, Thoát Hoan đành phải bỏ kinh thành rút chạy.


Trận đánh giải phóng Thăng Long lần thứ ba trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc chống quân Mông - Nguyên năm 1288 trong hoàn cảnh không diễn ra hội chiến, nghĩa là chủ lực ta không hề xuất kích nhưng quân địch vẫn phải bỏ kinh thành rút chạỵ.


Để giải thích hiện tượng trên, chúng ta phải đặt nó vào những điều kiện chung của toàn cuộc chiến tranh. So với hai cuộc chiến tranh trước thì trong cuộc chiến tranh năm 1288, thế và lực ta đều vững mạnh hơn. Chính Trần Quốc Tuấn cũng đã nhận định: "Năm nay giặc đến dễ đánh" dù số lượng quân xâm lược cũng vẫn cứ là nửa triệu người vì "quân ta đã quen việc đánh dẹp” còn quân địch thì "ngại đi xa", lại "cạch về sự thất bại của Hằng và Quán, không có lòng chiến đấu nữa".


Trong mối tương quan lực lượng hai bên như vậy nên vào thời kì đầu chiến tranh, chủ lực ta có tiến hành rút lui chiến lược nhưng cũng chỉ tỏa ra các lộ ven biển, không phải lùi sâu vào hậu phương xa như trong cuộc chiến tranh lần thứ hai. Còn các lực lượng vũ trang địa phương thì tiến công địch liên tục, từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh, trên khắp mọi vùng địch đi qua. Ngay tại châu thổ sông Hồng, quân ta cũng đã làm chủ nhiều vùng rộng lớn thuộc các tỉnh Hải Dương và Hải Phòng hiện nay. Cùng với việc tiến công địch của phong quân và dân binh, nhân dân còn tiến hành triệt để việc cất giấu lương thực. Từ chỗ mất thế chủ động vì không tìm được chủ lực ta, bây giờ quân xâm lược lại lún sâu vào thế bị động trước sức tiến công mạnh mẽ của chiến tranh nhân dân. Bởi vậy, Thăng Long đã biến thành một hòn đảo chơi vơi, thậm chí còn có nguy cơ bị cắt đường tiếp tế lương thực. Trước tình hình đó, ngày 2 tháng 2 (5-3-1288), Thoát Hoan quyết định rút quân về Vạn Kiếp sau 33 ngày (từ 6-2 đến 5-3-1288) chiếm đóng Thăng Long1 (Nguyên sử, quyển 15, Thế tổ bản kỉ, t.26).


Bây giờ, từ các chiến thắng của ba lần giải phóng Thăng Long, chúng ta tìm hiểu về tài trí quân sự Trần Quốc Tuấn trong việc lựa chọn các phương pháp tác chiến thích hợp và hiệu quả cho mỗi đòn tiến công. Cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất qui mô nhỏ, số quân chiếm đóng không nhiều, quân ta chỉ cần dồn sức giáng một đòn tập kích áp đảo trong phản công chiến lược vào Thăng Long là giành được toàn thắng. Cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai qui mô rất lớn, số quân địch quá đông, tới hơn nửa triệu người. Tập đoàn chiến lược mạnh nhất cùng với đại bản doanh của chủ tướng lại đóng ngay tại Thăng Long. Với đối tượng tác chiến này, quân chủ lực ta không đủ khả năng tiến công để giành ngay được "một bàn thắng vàng" như trong cuộc chiến tranh lần thứ nhất mà kế hoạch tiến đánh phải hình thành hai bước. Bước thứ nhất là cô lập tập đoàn Thoát Hoan bằng cách diệt vị trí A Lỗ, chia cắt tập đoàn này với tập đoàn Toa Đô, đồng thời ép dần lên phía bắc, buộc địch phải tung lực lượng kị binh tinh nhuệ ra cứu vãn; bước thứ hai dùng lối chính - kì kết hợp tiến đánh từ hai phía: từ phía nam, cánh chính binh thu hút địch, tiêu diệt chúng bằng một trận phục kích, thực hiện hành động "moi ruột" Đại bản doanh để từ phía đông, cánh kì binh, gồm lực lượng lớn quân thủy, lục tạo nên thế áp đảo, tập kích vào kinh thành, buộc Thoát Hoan phải rút chạy để bảo toàn lực lượng. Quân xâm lược rút khỏi Thăng Long là kết quả công kích của quân chủ lực ta ở chiến địa này và cũng tạo nên bước ngoặt cơ bản cho toàn cuộc chiến tranh. Số là do tương quan lực lượng hai bên, quân ta không thể đánh thắng quân Mông - Nguyên ở đồng bằng. Buộc quân xâm lược rút khỏi Thăng Long cũng là buộc chúng rút khỏi trục sông Hồng, chạy lên rừng núi để quân ta dễ dàng tiêu diệt trên tuyến Thăng Long - Tư Minh. Nếu như hai lần trước, giải phóng kinh thành là kết quả tác chiến của quân chủ lực thì ở lần thứ ba lại là kết quả ngày đêm quần nhau với địch của các lực lượng vũ trang địa phương. Chỉ với sức tiến công của phong quân và dân binh cộng với kế sách "vườn không, nhà trống” của nhân dân mà cả một tập đoàn chiến lược, hàng chục vạn quân, bị cô lập, buộc phải bỏ Thăng Long rút chạy. Phải nói rằng, đây cũng là sự chỉ đạo chiến tranh nhân dân tài tình của Thống soái quân sự Trần Quốc Tuấn.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM