À, BTR 157 AK-74 7N22 bắn không qua, vì giáp nó dầy tương đương 36-40 RHA, còn RHA là gì thì anh nói đi nói lại rồi. Nhưng M113, con quái thai này ra sau BT nhiều, rất có thể bị AK-74 bắn thủng ở tầm gần. Cái con quái thai giáp nhôm M113 ấy thì chỉ dùng để đúc nồi là tốt
Người ta khoe là M1A1 và M1A2 giáp súng khủng khiếp. Đến mức cả nước Mỹ còn rất ít người biết đó là bản rút gọn của MBT70, MBT70 là xe Đức thiết kế cho Mỹ cùng với Leopard-2, dùng cùng tiêu chuẩn. Rút bớt đi để giảm giá, súng pháo vẫn tiêu chuẩn Đức nhưng giáp, phần cơ, ổn định súng... rút bớt.
Trong khi đó, 2003, người ta phát hiện ra là M1 toàn bốc phét, không bắn được miếng giáp trước nào của T-72, mặc dù T-72 cổ lỗ rồi. Đã thế, có một số bằng cơ cho thấy M1 bị bắn thủng bởi T-55 hoặc xe nào đó dùng pháo tương đương. Khốn khổ cho cái xe này, nó bị quân Mỹ bắn phá bỏ bom nhiều lần để xóa dấu vết, nhưng lĩnh Mỹ vẫn mang về hàng đống ảnh post lên internet.
Thế là có luận điệu: Thế súng T-80 tốt, có bắn được giáp T-80 không, ha ha ha ha ha ha ha, chúng bay mâu thuẫn.
--------------------
Ta xem lại lịch sử súng trường Mỹ nhé.
Khẩu đầu tiên là Springfield Model 1892, khẩu súng copy không hoàn chỉnh kiểu Krag-Jørgensen (Ole Herman Johannes Krag và Erik Jørgensen, Nauy). Khảu súng này được copy thành 3 bản, bản của Đan Mạch, Na Uy và Mỹ. Bản của Mỹ được đặt tên Springfield Model 1892. Cái mà Mỹ kém là dùng vỏ đạn có gờ móc. Điều này cũng tương tự như ở Nga, kiểu đạn có gờ móc được chọn vì công nghiệp còn kém, thiếu máy dập nhiều chu kỳ.
Krag-Jørgensen cũng như các khẩu khác cùng thời xuất hiện ở Bắc Âu, mang nhiều nét súng Đức kể cả về kỹ thuật cũng như cấu tạo. Tuy nhiên, người Mỹ sử dụng loại thuốc nổ có thành phần giống thuốc nổ dẻo, là cordite làm thuốc đạn. Đây là loại thuốc đạn rất tồi, gây áp lực quá cao. Trong khi đó, châu ÂU khi chưa có thuốc nổ viên định hình dùng rộng rãi giải pháp trung gian là thuốc nổ tkhông khói dạng tấm cán.
http://www.spanamwar.com/krag.htmhttp://www.cruffler.com/historic-october01.htmlhttp://www.geocities.com/kj983260/Khẩu súng này tuy bớt chất lượng so với nguyên bản châu Âu nhưng đã hay hơn nhiều khẩu tiền nhiệm Springfield Model 1873 (Trapdoor ), M1892 khá hơn vì khẩu M1873 là súng có vỏ đạn giấy, cỡ nòng 11mm. Cũng buồn cười, không phải cỡ nòng nhỏ là súng tốt, mà khảu súng ra sau kỹ thuật cao hơn thì thường cỡ nòng nhỏ đi. Cái khổ là thế này, mỗi lần nhập khẩu một khẩu súng là dân Mỹ lại cãi nhau xem khẩu nào tốt hơn. Khẩu sắp nhập đương nhiên là mới ra cỡ nòng nhỏ hơn, và thế là dân Mỹ tin rằng, cứ cỡ nòng nhỏ là tốt.
Springfield Model 1892 thật ra cũng khá giống dòng súng Đức, tuy bộ phận tiếp đạn hơi khác (các bạn nhìn xem các trang kia, phần khóa nòng khá giống Mauser). Nó lại tiên tiên hơn các khẩu cùng thời vì đã có thể làm băng rời trong một số phiên bản. Người Mỹ cũng cải tiến nó nhiều lần theo các bước cải tiến của châu Âu, như làm nòng ngắn lại, làm nhỏ đầu đạn...
Tuy nhiên, phần thuốc đạn thì đã bị một ông vua độc quyền là cordite chiếm ngai vàng rồi. Và thậm chí còn tồi tệ, người ta dùng thuốc nổ dẻo để bắn đạn súng trường cho đến Thế chiến II. Mặc dù có rất nhiều nỗ lực, nhưng người ta không thể làm M1892 bắn mạnh được. Đặc biệt sau những cải tiến làm ngắn nòng, đạn càng yếu. Springfield Model 1892 cùng thời với Mauser, với Mosin, nhưng tuổi thọ thật ngắn ngủi. Nếu muốn làm cho nó bắn mạnh, thì lại to nặng. Trong khi đó ở châu Âu, khoảng 1898-1902 người ta cải tiến thuốc và đầu đạn. Đầu đạn thì có thể copy, nhưng thuốc đạn thì ông vua độc quyền vẫn ngự trên ngai. Cả nước Mỹ tung hô cordite là thuốc đạn mạnh nhất thế giới ?? ờ, nhưng chả ai làm thuốc đạn cháy nhanh như thuốc nổ phá đá cả trừ Mỹ.
Để theo đòi, người Mỹ cải tiến loại đạn ".30-40" của M1892 thành ".3003". Phần súng lại copy Mauser nhưng máy súng cũng hơi khác vì công nghệ Mỹ tồi hơn. Đạn vẫn dùng gờ móc. Loại súng đạn này tuy bắn mạnh hơn chút so với M1892, những vẫn đề áp suất quá cao chóng hỏng nòng vẫn là vẫn đề nổi cộm. Ta phải hểu là rất ít súng đạn ".3006" được sản xuất: chưa đến 100 ngàn viên đạn, điều đó cho thấy chỉ khoảng vài ngàn súng được sản xuất, hay có thể coi loại M1903 bắn đạn ".3003" chỉ là phiên bản thử nghiệm chưa được sản xuất.
Để cải thiện, người Mỹ làm cuộc cách mạng với đạn ".3006". Cần hiểu là tuy cùng tên M1903, nhưng súng dùng cho đạn 03 không bắn được đạn 06 và ngược lại. Loại đạn này là đạn có chóp khí động, đầu đạn nhẹ hơn và do đó yêu cầu năng lực thuốc nhỏ hơn. Đạn có khe móc thay cho gờ móc giống Mauser. Vẫn đề cốt lõi là thuốc súng vẫn lệ thuộc ông vua trên ngai, do đó súng vừa đắt, vừa dễ hỏng và kém chính xác.
M1 Garand dùng loại đạn ".3006" này được chấp nhận sau đó, vào khoảng 193x, thay thế cho M1903.
Thế nhưng, trong khoảng 193x, khi M1 Garand được chấp nhận sử dụng thì ở Pháp, Đức, Nga nổi lên vẫn đề cải tiến đạn một lần nữa. Lần này, họ sử dụng loại thuốc đạn hình viên chính xác và bền chắc, tương tự thuốc đạn ngày nay. Đồng thời, bài toán bắn súng đã được tính toán chính xác, như viên đạn Mosin rỗng đầu đã post. Thời điểm này cũng như khi format M16A2 sau này vậy. Khi người ta tiến lên thì khoảng cách phát triển càng ngày càng xa. Không có cải tiến nào với ".3006". Mỹ đã ở bên kia chiến tuyến với nước Đức
Lúc này, Mỹ đã ở bên kia chiến tuyến và buộc phải thể hiện bản lĩnh độc lập. Có 2 nước đứng đầu thế giới về chế súng là Nga và Đức, Mỹ cách biệt cả hai. Bản lĩnh của Mỹ cho ra cái gì: M1 carbine. Cùng thời với AK, cùng hướng phát triển với AK.
M1892 cùng thời với Mauser và Mosin, M1 carbine cùng với AK. Đặc trưng của các súng Mỹ này : tính chất chung là đều chết quá yểu vì không có đường đạn tốt, dùng thuốc nổ áp cao, chóng hỏng. Làm súng trường thì kém chính xác, súng máy thì quá yếu.
Khẩu AR-15 và đạn của nó ra đời như trong điều kiện như vậy. Sũng cũ đã yếu sẵn, mà lại không có nỗ lực nào tiến tiếp được khi châu Âu đi qua giai đoạn cải tiến 193x. Khoảng cách ngày càng xa. Súng mới thì quá tệ không thể chấp nhận được.
Suốt thời gian của nó, châu Âu vẫn dùng đạn 7,62 x 51 NATO (ví dụ FN FAL) mà ném cái đạn dở người bé tẹo đi. Xu thế súng trường nhỏ đi là đương nhiên, nhưng ở các nước khác, người ta đánh giá chưa đủ kỹ nghệ khoa học để làm súng trường nhỏ.
Thậm chí, chính những người thiết kế ra súng này như Armalite và Stoner đánh giá AR-15, họ chế ra Ar-18 và Stone-63. Thế nhưng trên ngai vàng vẫn là ông vua đẻ non AR-15.
".223 Remington" phát triển từ ".222 Remington". Để làm tăng năng lực đầu đạn quá yếu mà vẫn bị thuốc nổ áp suất cao bó buộc, người ta lại bắt đầu làm chuyện lùi đẳng cấp kỹ thuật, tức là lại tăng áp suất lên nữa. Thật ngốc nghếch, có nhiều cơ hội để thay đổi kích thướng viên đạn , cả vỏ lẫn đầu đạn, nhưng đều giải quyết bằng yêu cầu tương thích đời cũ ngớ ngẩn.
Nói thêm là, tuy nước Mỹ thắng trận, nhưng không vì thế mà châu Âu dùng đạn Mỹ. 7,62 x 51 có thể coi là một nhượng bộ của châu Âu. Viên đạn dùng thuốc có hình, nhưng là loại hinh đơn giản nhất viên cầu rất tồi với đường đạn. Biết làm thế nào được, nếu dùng viên dẹt ưu việt thì Mỹ không sản xuất được.
Châu Âu lại nhượng bộ lần nữa. Họ đồng ý dùng chung đạn với Mỹ. Nhưng phải là đạn châu Âu. Thế là nòng của FN và đạn S109 trở thành đạn M16A2 cuối những năm 197x, S109 trở thành NATO 5,56x45. Ở đây có một cái tối kiến của người Mỹ. Họ đòi tương thích đời cũ, tức là súng cũ bắn được NATO 5,56x45 mới chịu. Châu Âu đồng ý. Thế là hai đạn cùng cỡ. Có một cái dở, là nòng cũ dầy, nòng mới dài, lai vào nhau vừa dầy vừa dài. Kết quả của sự lai giống đó chứng minh: khi M16A1 bắn đạn NATO 5,56x45, hầu hết số đạn đã lộn một vòng ở tầm 100 yards (91 mét), hiệu quả cõ lẽ chả hơn mấy súng hỏa mai thời cổ về độ chính xác, còn sức phá thì khỏi nói. Nỗ lực tương thích đời cũ như vậy, súng cũ thì đành phải bỏ trong khi đạn mới bị thiết kế trong cái khuôn chật cứng. (có lẽ đây là một trong những điều "không gì ngu bằng").
Ở đây có một cái bó buộc. Viên đạn đường kính nhỏ quá, mà lại thiếu các kỹ thuật đường đạn ngoài và đường đạn kết thúc (terminal ballistic), nên buộc phải làm đạn nặng để cải thiện sức phá. Nếu như châu Âu không bị bó buộc vào cái cỡ đạn Mỹ thì đã khác. Vì làm đạn quá nặng so với cái đường kính, không làm được đạn nhọn phải làm đạn trụ, nên kỹ thuật spitzer có mũi khí động được áp dụng một thế kỷ nay phải bỏ, quay lại kỹ thuật cố định trục đạn hình trụ bằng tốc độ xoáy của Krag-Jørgensen, M1903 ".0303"....
Năng lượng thuốc cũng vậy. Đạn NATO cháy chậm hơn, nhưng lại phải tăng thuốc và trong khi bị bó buộc kích thước, người ta phải làm tăng áp suất lần nữa, tiến gần hơn tới thuật phóng tân thời của thuốc nổ đen 1000 năm trước. Bắn một viên đạn M16A1 trên M16A2 có được không ?? được, được về mặt súng không vỡ, nhưng viên đạn bị lột vỏ, đạt được hiệu năng của súng hỏa mai.
Súng cũ không bắn được đạn mới, súng mới không bắn được đạn cũ. Để tận dụng số súng đạn cũ người ta đã đề ra vẫ đề tương thích cũ này, tương tích hết sức hình thức. Giờ đây, sau 30 năm, số súng đạn cũ "tận dụng" được không còn, nhưng NATO vẫn phải dùng cỡ đạn này.
30 năm sau khi format đường kính đạn của M16, sự thiếu suy nghĩ vẫn bó buộc các nhà kỹ thuật đến mức họ không còn cách nào khác là phải quay lại tk19. Đây là các nhà kỹ thuật châu Âu hiểu biết. Còn những người format cỡ đạn này thì dĩ nhiên chả nhìn thấy sự bó buộc nào cả.
Tất nhiên, một thứ mới được phát minh "M16 là sũng dễ làm đạn nhất thế giới". Quá hài, một số người không ngộ nhận sẽ thấy, về mặt đó M16 thua máy bắn đá, không vì thế mà máy bắn đá tân thời hơn M16. Xem các slogan này mới thấy sự tài ba của các nhà quả cáo Mỹ, ơ, trình độ thiết kế súng của người Mỹ đi đâu hết??
Ngoài những điểm học của súng trường nước ngoài, nước Mỹ không có cái gì vượt qua mức tồi tệ. Hai cái vua độc quyền đã đóng góp phần lớn vào sự nghiệp sũng dặt dẹo là thuốc nổ cordite và tên đẻ non AR15, cũng như cỡ đạn "0.223.
Rất nhiều chiến sĩ tung hô súng đạn Mỹ tốt nhất thế giới. Cái hệ thống giáo dục quên không dạy họ M16A2 là nòng đạn châu Âu, M1 là xe tăng châu Âu, bắn súng xài đạn châu Âu. Đợt này giằng co quá, SCAR đã tiến lên một bước, nhưng thắng thua chưa rõ ràng. Đó là chuyện của Mỹ, còn châu Âu, quê hương của đường đạn M16A2, chả ai dùng cái máy súng Mỹ lắp vào cả. Bắt họ dùng cái cỡ đạn Mỹ là quá quắt lắm rồi. Tất nhiên là Đức cũng đang phát triển một lô kiểu đạn mới.