Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 03:18:03 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Hồi ký không tên  (Đọc 85935 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #100 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:34:47 pm »

Với Phật giáo, ngoài sự tham gia ngay trong nhóm ông Minh của luật sư Vũ Văn Mẫu, nghị sĩ quốc hội và là chủ tịch Lực lượng hòa giải dân tộc, nhóm còn tìm cách giành cho được sự tán đồng công khai của thượng tọa Thích Trí Quang, người có ảnh hưởng chính trị lớn nhất trong Phật giáo Ấn Quang. Tôi nhận nhiệm vụ riêng của ông Dương Văn Minh đi liên lạc với thượng tọa Thích Trí Quang, tìm sự ủng hộ của cá nhân thượng tọa và của Phật giáo Ấn Quang. Tôi là người thuận lợi nhất làm việc này vì trước đó tôi đã thiết lập được một quan hệ cá nhân khá tốt với thượng tọa. Theo tôi, lúc ấy ông là một người yêu nước nên không có cơ sở để chấp nhận một số tố cáo của thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ đối với thượng tọa Trí Quang khi ông còn là thủ tướng và phải đối đầu với thượng tọa Trí Quang trong biến động năm 1966 tại miền Trung. Trong hồi ký của mình (Buddha s Child - Đứa con cầu tự), tướng Kỳ cho rằng thượng tọa Thích Trí Quang muốn trở thành một kiểu Đức Giáo hoàng của Phật giáo tại Việt Nam và sở dĩ thượng tọa Trí Quang đòi lật đổ Nguyễn Cao Kỳ vì thượng tọa…nắm không được Nguyễn Cao Kỳ trong tay mình. Khi thượng tọa đưa bàn thờ… “xuống đường” để chống chính phủ, và phát động sự nổi dậy của Phật giáo ở miền Trung, đặt người của mình là bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn vào chức vụ thị trưởng Đà Nẵng, thì thượng tọa Trí Quang bị tố cáo là hành động theo sự chỉ đạo của cộng sản. Trong hoạt động lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963, thượng tọa Trí Quang cũng đã từng bị tố cáo là một phần tử cộng sản. Nhưng sự kiện xảy ra tại chùa Xá Lợi đêm 21-8-1963 đã làm đảo lộn sự đánh giá về thượng tọa Trí Quang trước đó.

Trong cuộc tranh đấu của Phật giáo chống chế độ Diệm, chùa Xá Lợi được chọn làm “tổng hành dinh” của Phật giáo. Thượng tọa Trí Quang chỉ huy cuộc đấu tranh từ đây. Tại chùa Xá Lợi luôn có hàng ngàn nhà sư, ni cô, sinh viên đấu tranh và cả dân thường ở đó ngày đêm. Đêm 21-8-1963, Ngô Đình Nhu ra lệnh tấn công chùa Xá Lợi. Rất nhiều người bị bắt, bị thương, bị mất tích và cả bị giết chết trong cuộc đàn áp. Nhưng Ngô Đình Nhu không đạt được mục đích chính của mình là bắt thượng tọa Trí Quang: ông đã biến mất vào phút chót. Sau đó báo chí Mỹ mới khám phá ra rằng thượng tọa Trí Quang đã vào “tị nạn chính trị” trong Đại sứ quán Mỹ. Sự kiện này đã gián tiếp đính chính thượng tọa Trí Quang không phải là cộng sản. Và sau đó lại có lời đồn rằng thượng tọa Trí Quang là người của... CIA!

Các tài liệu về Việt Nam chưa bao giờ nói rõ gốc tích của vị thượng tọa này. Theo nhà báo Mỹ Stanley Karnow, Thích Trí Quang từng bị người Pháp bắt giam vì tội làm cộng sản trước 1954 khi ông còn là một thanh niên. Đi tu, ông được đưa đi học ở Tích Lan (Ceylon) và sau đó trở về đi thuyết pháp khắp Việt Nam. Thượng tọa Trí Quang có mặt tại Huế từ tháng 5-1963 và trở thành người lãnh đạo cuộc đấu tranh của Phật giáo nhằm lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Theo lệnh của Washington, đại sứ Mỹ Frederick Nolting khuyên ông Diệm nên hoa giải với thượng tọa Trí Quang, nhưng ông Diệm từ chối, cho rằng biến động ở Huế có bàn tay cộng sản nhúng vào. Nhưng sau đó trong cuộc phản công của bà Ngô Đình Nhu ngày 7-6-1963, bà lại tố cáo Phật giáo đấu tranh có sự giật dây của người Mỹ ở phía sau. Gián tiếp bà tố cáo thượng tọa Trí Quang là người của Mỹ.

Khi thì bị coi là người của cộng sản, khi thì bị nghi ngờ làm việc cho CIA, thật sự Thích Trí Quang là người của ai? Lúc đó tôi không có đủ điều kiện trả lời câu hỏi này, nhưng với tôi, thượng tọa Trí Quang trước hết là một nhà tu yêu nước.

Sự liên kết chính thức giữa tướng Minh và thượng tọa Trí Quang diễn ra trong năm 1974. Khi tôi đặt thẳng vấn đề ông Dương Văn Minh mong muốn có sự ủng hộ công khai của thượng tọa trong một chủ trương đấu tranh cho hòa bình, hòa giải hòa hợp dân tộc và trước hết là thay đổi chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thì thượng tọa Trí Quang trầm ngâm một lúc. Sau đó thượng tọa chậm rãi nói: “Ông Minh không phải là một người làm chính trị sắc bén. Nhưng ông là người cần thiết lúc này, trao cho ông ngọn cờ tập hợp cũng được”. Cách nói của thượng tọa Trí Quang cho thấy việc chọn lựa ông Minh cầm ngọn cờ tập hợp để góp phần cùng lật đổ chính phủ Thiệu chưa phải là hoàn toàn ưng ý mà là một giải pháp thay thế, một chọn lựa tương đối tốt nhất bấy giờ. Tôi đề nghị tiếp: Ông Dương Văn Minh sẽ chính thức đến thăm thượng tọa tại chùa Ấn Quang và sau đó thượng tọa đến Đinh Hoa Lan thăm xã giao trở lại ông Minh, như thế sự liên kết được chính thức hóa và công khai hóa. Sau mỗi cuộc gặp, sẽ có mặt thông cáo báo chí được cả ông Minh và thượng tọa thông qua.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #101 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:35:47 pm »

Dĩ nhiên cuộc viếng thăm thượng tọa Trí Quang của ông Minh tại chùa Ấn Quang với sự có mặt của báo chí và truyền hình nước ngoài là một sự kiện bất ngờ và gây tiếng vang. Mọi người dự đoán chính trường Sài Gòn sắp có một chuyển động lớn. Qua hôm sau trung tướng Dương Văn Minh tiếp thượng tọa Trí Quang tại Dinh Hoa Lan của mình. Báo chí cũng được báo tin vào giờ chót sự kiện này.

Cả hai người đều rất hài lòng về các cuộc tiếp xúc này, và họ tỏ ra rất tương kính nhau. Trước đây ông Minh chưa hề gặp và nói chuyện với thượng tọa Trí Quang. Qua hai lần tiếp xúc đầu tiên, ông Minh dành nhiều cảm tình và sự kính trọng cho bậc cao tăng này. Sự kiện thượng tọa Trí Quang đến Dinh Hoa Lan rõ ràng làm tăng thế chính trị của ông Minh.

Đúng theo yêu cầu của thượng tọa Trí Quang, hai thông cáo báo chí do tôi thảo đều được đưa cho thượng tọa xem trước và tự tay thượng tọa chỉnh lại những câu chữ theo ý ông. Dù biết rất rõ Đinh Hoa Lan đã trở thành trung tâm hoạt động nhằm lật đổ mình, nhưng ông Thiệu và tay chân vẫn không làm gì để vô hiệu hóa trung tâm này. Ông Thiệu có thể tố cáo Dinh Hoa Lan chứa chấp nhiều phần tử đang bị chính quyền truy nã và có thể xin lệnh tòa án lúc soát Dinh Hoa Lan để làm “bể mặt” ông Minh. Nhưng ông chẳng làm gì hết. Tại sao? Sự im lặng của ông Thiệu có thể được giải thích: ông Minh là tướng lãnh đàn anh của ông Thiệu dù gì ông vẫn phải nhân nhượng; mặt khác “tấn công” vào Dinh Hoa Lan là một xì căng đan chính trị hoàn toàn bất lợi chơ ông. Ông Thiệu biết rằng “đụng” vào Dinh Hoa Lan sẽ không được tòa đại sứ Mỹ tán đồng và làm bùng nổ sự chống đối ông mạnh mẽ hơn.

Nhưng có một nguyên nhân lớn khiến cho chính quyền Thiệu tê liệt từ cuối năm 1974. Do sức ép từ nhiều phía, Mỹ tìm cách rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam. Tổng thống Mỹ Gerald Ford cố gắng vận động quốc hội Mỹ tiếp tục viện trợ cho chính quyền Thiệu để tránh sự suy sụp của Sài Gòn sau khi quân đội Mỹ rút. Ngoại trưởng Kissinger vẫn thấy mình có một trách nhiệm tinh thần hỗ trợ chính quyền Sài Gòn sau khi ký Hiệp định Paris. Lới hứa của Nixon được chuyển qua Ford. Tình hình viện trợ quân sự của Washington dành cho miền Nam từ sau ký Hiệp định Paris cứ bị cắt 50% từng năm. Từ 2,1 tỷ đô la năm 1973, còn 1,4 tỷ đô la năm 1974 và qua năm 1975 chỉ còn 700 triệu. Trước khi từ chức, tổng thống Nixon yêu cầu con số l,4 tỷ đô la cho năm 1975. Ủy ban quốc phòng của Thượng viện Mỹ, đứng đầu là nghị sĩ bảo thủ John Stennis, cắt xuống còn 1 tỷ, sau đó ủy ban phân bổ ngân sách Thượng viện do nghị sĩ bảo thủ John McClellan làm chủ tịch, cắt thêm 300 triệu đô la. Trong khi đó viện trợ kinh tế từ 650 triệu đô la bị giảm xuống còn 250 triệu đô la. Ảnh hưởng của các sự cắt giảm này trong thực tế còn lớn hơn vì giá dầu tăng và tình hình lạm phát. Trong hồi ký của mình, Henry Kissinger kể rằng ngay ở ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ tổng thống, ông Ford đã tiếp đại sứ Trần Kim Phượng (thay Bùi Diễm) của chính phủ Sài Gòn để chính thức hứa với ông Phượng rằng ông quyết tâm bảo đảm sự tồn tại của chính quyền Sài Gòn và cố gắng tăng viện trợ. Nhưng thực tế sau đó cho thấy Ford hoàn toàn bất lực.

Ngày 12-9-1974, Kissinger gửi cho tổng thống Gerald Ford một “memorandum” (bản ghi nhớ) mô tả những gì sẽ xảy ra nếu duy trì viện trợ quân sự ở mức 700 triệu đô la:

• Ngân sách không đủ để thay những trang thiết bị bị hư hỏng hoặc mất.

• Sẽ giảm 50% việc sử dụng các máy bay chiến đấu.

• Giảm 30% các tàu hoạt động trên biển và 82% trên sông.

• Tiếp tế về y tế hoàn toàn cạn vào cuối tháng 5-1975.

• Xăng dầu dùng cho các lực lượng dưới đất cũng cạn cuối tháng 4-1975.

• Cuối năm tài chính 1975, quân đội chỉ còn một phần tư dự trữ đạn dược để đối phó với các tấn công lớn của cộng sản.

• Các máy bay trên mặt đất và trang thiết bị dưới đất sẽ bị xuống cấp và hư hỏng nhanh chóng.

Theo tài liệu của Mỹ, cho đến tháng 9-1974, thiệt hại người của quân đội Sài Gòn tăng theo tỷ lệ nghịch với sự cắt giảm viện trợ. Quân đội Sài Gòn phải sử dụng đạn dược tiết kiệm. Đạn đại bác bắn được tính tổng viên. Sự hạn chế đạn dược tác động trực tiếp vào tinh thần binh lính VNCH. Từ khi ký Hiệp định Paris, quân đội Sài Gòn thiệt hại 26.000 quân.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #102 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:36:33 pm »

Ngày 7-1-1975 thị xã Phước Bình thuộc định Phước Long bị chiếm. Lần đầu tiên chế độ Sài Gòn mất một tỉnh lỵ và không hề tái chiếm. Theo Kissinger, trận Phước Bình là một trắc nghiệm của Hà Nội về phản ứng của người Mỹ. “Nếu Hoa Kỳ phản ứng, vẫn còn hy vọng Hà Nội lùi bước” – Kissinger ghi như thế trong quyển Hồi ký Ending the Vletnam War của ông. Bộ quốc phòng Mỹ có đưa ra một loạt khả năng phản ứng để cho đối phương thấy quyết tâm của Washington không bỏ rơi miền Nam:

•   Tăng cường các hoạt động do thám trên không phận Bắc Việt.

•   Đưa tàu sân bay Enterprise đang hướng tới Ấn Độ Dương từ Vịnh Subic chuyển sang vịnh Bắc Việt.

•   Đưa chiến đấu cơ F-4 trở lại Phillipines và Thái Lan; đưa B-52 từ Mỹ đến Guam.

Kissinger tán đồng các biện pháp này, tổng thống Ford cũng thế. Nhưng dưới áp lực của quốc hội giờ đây thuộc ảnh hưởng McGovern (cựu đối thủ của Nixon đã từng bị ông Thiệu chỉ trích ác liệt) và báo chí, sự tiếp cứu miền Nam bất thành.Cuối cùng trong danh sách các biện pháp phản ứng này, Mỹ chỉ làm được mỗi việc là tăng các chuyến bay do thám. Nhưng như dự đoán trước, Hà Nội phản đối các chuyến bay này coi như một vi phạm Hiệp định Paris. Thế là Lầu Năm Góc có lý do để phủi tay với phần còn lại của kế hoạch phản ứng. Kế hoạch đưa tàu sân bay Enterprise vào Vịnh Bắc Việt không thành. Tàu Enterprise rời Vịnh Subic trực chỉ Ấn Độ Dương.

Bình luận về thái độ bất hợp tác của quốc hội Mỹ trong nỗ lực bổ sung viện trợ quân sự cho miền Nam, Kissinger viết trong Ending the War như sau: “...Washington nhất quyết từ chối viện trợ cho một đồng minh đang bị kê dao vào cuống họng”.

Trong hoàn cảnh biết trước là gần như tuyệt vọng, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã gửi hai bức thư đề ngày 24 và 25-1-1975 cầu cứu tổng thống Ford. Ông Thiệu nhắc lại với tổng thống Ford những lời hứa đảm bảo của Mỹ tiếp tục viện trợ cho miền Nam để thuyết phục ông Thiệu ký Hiệp định Paris trước đây.

Đúng là một bi kịch cho ông Thiệu. Trong lịch sử đất nước không hiếm trường hợp dựa vào những thế lực ngoại bang đã lãnh một kết thúc nhục nhã. Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh 30 năm về trước đã tự treo cổ tìm cái chết để phản đối thực dân Pháp đã đẩy mình vào chỗ bất lực trong vai trò được giao phó. Sau khi tái chiếm Nam Kỳ, Pháp đã mời bác sĩ Thinh làm thủ tướng chínhh phủ lâm thời Nam Kỳ. Theo tướng Trần Văn Đôn sau này kể lại, thủ tướng Thinh luôn đòi quyền tự trị với chính phủ Pháp nhưng chẳng những không thành mà còn bị người Pháp gây áp lực nặng nề, biến ông thành một bù nhìn. Chỉ ít tháng làm thủ tướng, bác sĩ Thinh treo cổ tại phòng làm việc của mình. Người ta tìm thấy trên bàn ngay dưới chỗ ông treo cổ một cuốn sách mở ra ở trang nói về cách chết treo cổ và làm sao cứu người treo cổ!

Ông Thiệu không hành động như bác sĩ Thinh dù nỗi nhục của ông trước sự phản bội của người Mỹ còn nặng nề hơn nỗi nhục của bác sĩ Thinh. Bốn năm trước ông Thiệu nghe lời đường mật của Nixon phá vỡ nỗ lực hòa đàm của chính phủ Johnson với hi vọng Nixon lên làm tổng thống, ông sẽ có một bảo đảm tốt hơn cho sinh mệnh chính trị của mình. Nào dè ông đã phải chịu một nỗi nhục ê chề hơn gấp bội. Bị Nixon và Kissinger thúc bách và ra tối hậu thư buộc phải ký một Hiệp định mà mình biết không gì khác hơn là sự kết thúc quyền lực của chính mình, ông Thiệu chỉ biểu lộ sự uất ức của mình bằng cách hét lên: “Tôi muốn đấm vào mồm của Kissinger!”. Nhưng cần biết thêm khi ông Thiệu hét như thế thì trong phòng làm việc của ông chỉ có một người duy nhất chứng kiến: đó là Hoàng Đức Nhã. Sau 1975, ông Nhã đã kể lại chuyện này với nhà báo Mỹ Larry Berman. Nhà báo Pháp Olivier Todd trong quyển “Cruel April- the Fall of Saigon” (Tháng Tư tàn nhẫn - sự sụp đổ của Sài Gòn) còn kể rằng ông Thiệu bực tức vì bị áp lực ký Hiệp định Paris đã chửi Kissinger là “the bastard”. Olivier Todd còn chú thêm tiếng Việt bên cạnh: “thằng chó đẻ”!

Nguyễn Văn Thiệu không hành động như bác sĩ Thinh nhưng cũng không để mình rơi vào bi kịch của hai anh em Ngô Đình Diệm mà ông đã từng là một trong những người đứng đầu cuộc chính biến ngày 1-11-1963. Ông Thiệu không để người ta lật đổ mình, mà tự rút lui khi thấy chiếc ghế tổng thống của mình không còn cứu vãn được nữa. Ông “chuồn” trước sang Đài Loan (cùng tướng Trần Thiện Khiêm), mang theo một tài sản khổng lồ, bỏ lại đằng sau các đồng đội của ông, mặc kệ cho số phận của họ ra sao!

Sau khi mất Phước Long (6-1-1975) Nguyễn Văn Thiệu đã thấy rõ Washington bắt đầu “buông” miền Nam và cá nhân mình, ông xuống tinh thần thấy rõ. Bây giờ ông có hai kẻ thù chứ không là một, thậm chí kẻ thù Mỹ được đặt lên trên cộng sản.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #103 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:37:14 pm »

Sau Hiệp định Paris, tổng thống Thiệu có cho dự thảo một kế hoạch khẩn cấp (emergency plan) “để đối phó khi Mỹ rút các đơn vị chiến đấu và các lực lượng Bắc Việt làm chủ chiến trường”. Ý định của ông Thiệu là bỏ hai vùng quân sự nằm sát với miền Bắc và tập trung lực lượng phòng thủ thật dày chung quanh Sài Gòn, bảo vệ trung tâm kinh tế, hành chính của chính quyền Sài Gòn và phía sau là Đồng bằng sông Cửu Long giàu lúa gạo. Ý đồ này, vào cuối tháng 4-1975, sau khi Thiệu đã bỏ chạy, tướng Kỳ cũng có trong đầu mình. Ngoài ra còn có kế hoạch khẩn cấp khác do một tướng người Úc -Ted Sarong - đề xuất. Ted Sarong tự động đến Sài Gòn, không được mời, tự xưng là cố vấn quân sự của ông Thiệu. Kế hoạch của Ted Sarong phân chia miền Nam ra làm nhiều vùng dễ phòng thủ hơn nhưng bị coi là không lô gích, và không thể áp dụng, vì khi quân đội đối phương tấn công, họ luôn tập trung lực lượng đông hơn bất cứ một điểm phòng thủ nào của quân Sài Gòn. Khi bị phân tán là một vùng phòng thủ rộng lớn lại không có đủ lực lượng dự trữ.

...Tại Sài Gòn, các hoạt động chống Thiệu ngày càng gia tăng. Tết Ất Mão, các dân biểu và nghị sĩ đối lập không ăn Tết tại nhà. Tối 30 và ngày mùng một, họ tổ chức “đêm không ngủ” và tuyệt thực ngay tại tiền đình Hạ viện, đòi tổng thống Thiệu tổ chức. Dĩ nhiên tôi cũng có mặt trong cuộc tuyệt thực này. Sáng mùng một, tướng Dương Văn Minh đích thân đến Hạ viện thăm anh em đang tuyệt thực. Đây là lần đầu tiên ông Minh rời khỏi Dinh Hoa Lan để tham gia một hoạt động của phe đối lập. Cần nói thêm trong đêm 30, các dân biểu, nghị sĩ đã tổ chức công khai đốt hình ông Thiệu (là tấm ảnh chính thức thường được treo trong các công sở). Mỗi người cầm một cây đuốc và tự tay đốt hình. Nhiều người cùng làm việc đó, nhưng không hiểu sao tuần báo Mỹ Newsweek chỉ đăng mỗi ảnh tôi đang châm lửa vào bức ảnh tổng thống Thiệu. Nếu tổng thống Thiệu quyết tâm đưa tôi ra tòa thì bức ảnh đó quá đủ để dùng làm chứng cớ. Nhưng giữa thời điểm ông Thiệu kết tội phản quốc với dân biểu Phạm Thế Trúc vì đốt hình nộm của ông tại Tokyo (1966) và thời điểm hiện tại khi hàng chục dân biểu, nghị sĩ đồng loạt đốt hình ông ngay tại trung tâm Sài Gòn thì thế và lực của ông Thiệu đã hoàn toàn khác.

Phải thấy thêm rằng sự kiện những nhà lập pháp đốt hình tổng thống là hết sức nghiêm trọng, đây không còn là một hoạt động đối lập hợp pháp (opposition légale) mà là sự dứt khoát chối bỏ quyền lực của tổng thống, tự đặt mình ra ngoài chế độ do ông Thiệu cầm quyền.

Ông Thiệu đón cái Tết Ất Mão mà lòng không yên bởi luôn ám ảnh về cái Tết Con Mèo từng là tai họa đối với ông Ngô Đình Diệm 12 năm về trước. Ông Diệm tuổi con chuột đã bị con mèo Quý Mão “xơi”, liệu con chuột Nguyên Văn Thiệu (ông Thiệu cũng tuổi Tý) có thoát khỏi con mèo Ất Mão? Dân Sài Gòn Tết năm 1975 bàn râm ran chuyện con chuột Nguyễn Văn Thiệu và con mèo Ất Mão. Ông Thiệu là người mê tín nên không khỏi âu lo trước những lời bàn tán loại này. Mùng một Tết, ông Thiệu cố tình chọn một nhân vật có tuổi hợp tử vi của ông để xông đất... dinh Độc Lập. Ông thầy bói tên Chiêm rất được ông Thiệu tin cậy, hình như đã chọn tướng Đặng Văn Quang để làm người xông đất cho ông Thiệu. Người ta cũng kể chính vì tin thầy bói Chiêm, mà ông Thiệu cho xây hồ Con Rùa ở ngã tư Trần Cao Vân - Phạm Ngọc Thạch hiện nay. Xưa kia thời Pháp tại đây có một bức tượng to được gọi là Monument des morts inconnus (Chiến sĩ vô danh). Bức tượng là một người lính Pháp ngồi ôm cây súng “mousqueton” (một loại súng trường) trông rất buồn. Sau năm 1963, thời tướng Nguyễn Khánh nắm quyền ở Sài Gòn, có lẽ để lấy cảm tình người Mỹ, Nguyễn Khánh đã tổ chức biểu tình và phá đổ tướng này. Tiếp theo là hàng loạt biến động chính trị, từ vụ đảo chính này đến vụ đảo chính khác. Người ta cho rằng chính vì làm “động” tượng đài này mà Sài Gòn…không yên.

Người Sài Gòn trước 1975 đặt tên Dinh Độc Lập là Phủ Đầu Rồng. Đầu rồng nằm ở đây, còn đuôi rồng ở đâu? Mình chạy ngoằn ngoèo qua các đường Công Lý, (hiện là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) xuống tận bến Bạch Đằng, vòng trở lên đường Tự Do (hiện là Đồng Khởi), đến đường Duy Tân (hiện là Phạm Ngọc Thạch), cuối cùng - theo các ông thầy địa lý của ông Thiệu - thì cái đuôi rồng nằm ngay tại công viên có “Chiến sĩ vô danh” của Pháp bị phá đổ. Ông thầy Chiêm cố vấn ông Thiệu phải “ếm” cái đuôi rồng, không cho nó cựa quậy bằng cách xây tại đây một hồ… con rùa.

Những người gần gũi với Phủ Đầu Rồng còn kể rằng lúc đầu cột cờ ở Dinh Độc Lập đặt dưới đất trong khuôn viên, giữa đài phun nước và tiền sảnh của dinh, chứ không phải chót vót trên sân thượng của dinh. Nhưng một đêm thầy bói Chiêm đứng trên đường Thống Nhất (nay đường Lê Duẩn) nhìn thẳng vào dinh thấy cảnh tượng như một chiếc tàu khổng lồ đang bị cháy. Khói bốc lên là màu trắng xóa của nước phun cao, còn lửa là lá cờ vàng ba sọc đỏ trên cột cờ. Hôm sau thầy bói Chiêm đề nghị với tổng thống Thiệu nên hạ cột cờ xuống và treo cờ trên nóc Dinh Độc Lập. Nếu không có sự thay đổi này thì ngày 30-4- 1975, trung tá Bùi Quang Thận không cần vào thang máy để lên tận sân thượng mới hạ được lá cờ vàng ba sọc đỏ và kéo lên lá cờ cách mạng.

Những chuyện đồn đại như thế về sự mê tín của ông Thiệu không thể phối kiểm được chuyện nào là thật, chuyện nào là đặt thêm. Nhưng có một sự trùng hợp thực tế: con mèo Quý Mão thì xơi “con chuột” Ngô Đình Diệm, còn con mèo Ất Mão đã hất “con chuột” Nguyễn Văn Thiệu văng khỏi cái ghế tổng thống.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #104 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:37:52 pm »

Chương 20

Người của mặt trận

Trong suốt thời kỳ hoạt động của tôi trước 1975, tôi không có một cuộc tiếp xúc chính thức nào với người của MTDTGPMN. Tôi chỉ được biết ai, trong số những người có quan hệ với mình là cán bộ cộng sản sau ngày 30-4-1975. Còn trước đó tôi chỉ đoán mò như trường hợp nhà báo Nguyễn Vạn Hồng (tức nhà thơ Cung Văn), vì anh đã đọc cho tôi nghe tác phẩm “Thăm lúa” của nhà thơ Trần Hữu Thung và nói bài thơ này đoạt giải thưởng ở Vácxava (Ba Lan). Anh Hồng vô tình để lộ tông tích của mình hay đây là sự cố tình vì đã đánh giá được thái độ chính trị của tôi? Sau 1975 tôi cũng quên hỏi anh về chuyện này. Nhưng có một người từ đầu năm 1975 đã để lộ mình là người của Mặt Trận. Tuy không nói thẳng ra “tôi là người của Mặt Trận”, nhưng cái cách anh Huỳnh Bá Thành bày tỏ quan điểm chính trị của mình, đặc biệt đối với Hiệp định Paris cùng những gợi ý về phương pháp đấu tranh chống Thiệu, rồi sau cùng là những tuyên truyền trực tiếp về chính sách của MTDTGPMN đối với trí thức... khiến cho tôi không thể kết luận khác hơn: Anh là người của Mặt Trận. Tôi chỉ nói riêng với vợ tôi về sự nhận định này. Khi anh Huỳnh Bá Thành nói về Hiệp định Paris, anh nói rất bài bản và sâu sắc. Sau khi quân đội Sài Gòn mất Phước Long, Thành càng thể hiện không còn dè dặt với tôi. Số người ra đi chính thức mỗi lúc một nhiều hơn do tình hình bất ổn và có lẽ Thành ngại tôi cũng sẽ ra đi chăng? Có những hôm, Thành bỏ ra cả buổi để nói chuyện với tôi về... chính sách của Mặt Trận đối với những người trí thức. Trường hợp trí thức tiêu biểu đi theo Cách mạng gần nhất mà anh kể ra để thuyết phục tôi là luật sư Trịnh Đình Thảo. Anh kể rằng luật sư Thảo quen ăn bánh mì hơn là cơm. Trong rừng, anh em biết ý của bác Thảo, cố gắng làm bánh mì để phục vụ cho bác. Thành cố gắng tạo sự yên tâm cho tôi về thái độ của Mặt Trận đối với những người trí thức. Thật sự lúc đó tôi chỉ quan tâm những chuyện kể của họa sĩ Ớt để xác định anh là ai, hơn là am hiểu các chủ trương của Mặt Trận. Thực tâm mà nói tôi không tìm kiếm ở những chuyện kể của anh Thành một bảo đảm chính trị hay an toàn cá nhân cho mình sau này. Vả lại tôi không nghĩ mối quan hệ giữa tôi và Thành là sự móc nối chính thức. Chưa bao giờ Huỳnh Bá Thành đặt thẳng vấn đề... “làm việc cho Mặt Trận” với tôi. Có anh Thành hay không có anh Thành, tôi vẫn chọn lập trường chính trị mà tôi đã chọn. Trước khi họa sĩ Ớt để lộ anh là người của Mặt Trận, tôi đã dấn thân vào con đường chính trị của mình.

Nhưng điều không thể chối cãi là từ khi có những cuộc trao đổi với Thành, tôi cảm thấy mình bớt cô đơn hơn. Tôi là người chẳng bao giờ dư dả tiền bạc. Những tháng cuối cùng trước 30-4-1975, tôi gặp khó khăn thật sự. Tiền điện không đóng đúng kỳ hạn thường bị Nhà Đèn đến cắt. Một hôm Huỳnh Bá Thành mang một số tiền khá lớn trao cho tôi bảo rằng của mẹ anh. Anh muốn giúp tôi trả mấy tháng tiền điện chưa thanh toán và cả tiền thuê bao điện thoại. Sau này, nhắc chuyện cũ, Thành cười cười nói với tôi “Không phải tiền của mình đâu”. Anh chỉ nói thế, tôi muốn hiểu sao cứ hiểu.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #105 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:38:26 pm »

Cho đến cái xe DS 21 của tôi đưa vào garage Citroen sửa và sơn lại, cũng không có tiền lấy ra. Lúc này vợ tôi làm ăn thất bại, nợ nần nhiều nơi, phụ cấp dân biểu khá lớn nhưng vẫn không đủ xoay trở. Thấy mỗi sáng tôi đi họp hành bằng taxi tốn kém và nguy hiểm, Huỳnh Bá Thành đề nghị mỗi ngày anh đến đưa tôi đi bằng chiếc ô tô LaDalat của anh và do anh tự lái. Thế là mỗi sáng Thành đều đến đưa tôi vào Dinh Hoa Lan. Trong khi tôi vào bên trong họp thì Thành ở bên ngoài, anh ghé vào căn nhà trước cổng dùng làm văn phòng thường trực, nơi khách muốn gặp ông Minh phải liên hệ trước tại đây. Nơi đây cũng lo việc in ấn các tài liệu của nhóm ông Minh. Huỳnh Bá Thành dùng thời gian chờ tôi để tìm hiểu các hoạt động của nhóm ông Minh và khi có tài liệu quan trọng được quay roneo thì Thành cũng kín đáo lấy một bản. Chuyện đó không khó lắm vì người phụ trách văn phòng này là cựu dân biểu Dương Văn Ba, còn người lo khâu quay roneo là Triệu Bình, em ruột của nhà báo Cung Văn - Nguyễn Vạn Hồng, đều rất thân thiết với Thành.
Sau khi mất Phước Long và tình hình quân sự, chính trị càng trở nên căng thẳng, để phòng ngừa các biến động, tướng Nguyễn Khắc Bình, chỉ huy trung ương tình báo, đã tiến hành bắt giữ tất cả các những người có liên lạc với cộng sản mà trước đây Trung ương tình báo biết rõ nhưng vẫn... “để đó”. Hàng loạt nhà báo như Kiên Giang - Hà Huy Hà, Tô Nguyệt, Văn Mại, Quốc Phượng, Sơn Nam, v.v... và các “phần tử chống Thiệu” ngoài Quốc hội như linh mục Nguyễn Ngọc Lan, kỹ sư Châu Tâm Luân…đều bị bắt trong một ngày: Nhưng riêng Huỳnh Bá Thành không sao cả, dù rằng anh là loại nhà báo chống Thiệu nằm trong danh sách đen. Điều này khiến nhiều người đặt dấu hỏi. Riêng anh Hồ Ngọc Nhuận nghi rằng Thành làm việc cho Trung ương tình báo (TƯTB) của Nguyễn Khắc Bình. Anh đề nghị không cho Thành vào phòng thường trực của Dinh Hoa Lan nữa. Do đó có mấy hôm Thành phải ngồi ngoài xe chờ tôi. Tôi cũng không biết tại sao cuộc bố ráp của (TƯTB) lại để lọt lưới Thành. Có lẽ lý do đơn giản là Thành chưa bị lộ. TƯTB chủ yếu bắt các phần tử có hồ sơ liên với cộng sản. Sau này tôi mới biết cha Lan cùng một số trí thức khác như Châu Tâm Luân đã từng ra vùng giải phóng tiếp xúc với Mặt Trận. Các nhà báo như Nguyễn Vạn Hồng, Trương Lộc... dù có quan hệ với Mặt Trận, nhưng không bị lộ cũng không bị bắt trong đợt đó.

Sau này anh Hồ Ngọc Nhuận có kể lại: có lần anh Nhuận nghe họa sĩ Ớt bị cảnh sát bao vây trước rạp Olympic trên đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai) đúng khi anh đang lái xe đi ngang qua. Cảnh sát bao vây khá lâu nhưng không bắt, không biết tại sao... “Nghĩ cũng tức cười: sau 30-4-1975 và nhất là sau những gì anh viết, anh kể, ai cũng biết Ớt là một cán bộ chl huy điệp vụ cách mạng, mà tôi lại nghi anh là công an chế độ cũ! Và khi anh nói anh đi về quê thì chắc là để đi đến một nơi bí mật nào đó mà tôi cứ theo cản…”

Có một vài bài báo viết sau ngày 30-4-1975 cho rằng anh Huỳnh Bá Thành đã vận động trực tiếp tướng Dương Văn Minh “đầu hàng”. Tôi không biết các tác giả này căn cứ và đâu nhưng là người cận kề ông Minh cho đến ngày chế độ Sài Gòn sụp đổ, tôi biết Thành không có cuộc gặp gỡ nào trực tiếp với ông Minh để “vận động ông Minh đầu hàng”. Anh Dương Văn Ba là người 24/24 giờ có mặt tại Dinh Hoa Lan và là người từng để Thành đến lánh nạn tạm ở chỗ anh cũng xác nhận chưa bao giờ có cuộc tiếp riêng nào mà ông Minh dành cho Huỳnh Bá Thành.

Theo nhận xét của riêng tôi, dù Huỳnh Bá Thành không vận động trực tiếp ông Dương Văn Minh đầu hàng, điều đó cũng không thay đổi bao nhiêu những đóng góp cho cách mạng về nhiều mặt của anh trước 1975. Tôi không có tư cách để đánh giá các mặt công tác của anh cho Mặt Trận nhưng với những gì Thành làm được trên báo chí công khai và những ảnh hưởng của anh với những người đối lập hướng về Mặt Trận thì rõ ràng rất lớn. Cây cọ biếm họa Ớt trước năm 1975 chống Thiệu và chống Mỹ công khai - dứt khoát sẽ được đặt vào một vị trí xứng đáng trong lịch sử báo chí Việt Nam. Sau 30-4-1975, các tranh biếm họa của Ớt, cũng được tập hợp in lại và thỉnh thoảng nhắc lại nhưng thật sự vẫn chưa có một nghiên cứu, đánh giá đúng mức về giá trị báo chí và các tác động chính trị - xã hội sâu sắc mà các bức tranh đã tạo ra khi chúng xuất hiện trước 1975. Mỗi tranh của Ớt là một bài xã luận nặng ký chống Mỹ, chống chính quyền. Còn trong cách Thành vận động tôi “hãy tin vào Mặt Trận”, và thời điểm chưa có gì bảo đảm “Miền Nam được giải phóng”, tôi đã nhận ở anh sự chân thành và đoan quyết của mặt người hết lòng vì lý tưởng. Trước 1975, Thành là người duy nhất bắt nhịp cầu không chính thức giữa tôi và “cái bờ bên kia vừa xa vừa lạ”. Một hôm sau khi nghe Thành tuyên truyền về chính sách của Mặt Trận đối với giới trí thức, tôi nói với anh: “Mình chỉ có mỗi một ao ước là được thấy đất nước hòa bình, thống nhất. Lúc đó mình được làm một công dân bình thường, có một công việc gì đó trong khu phố của mình là hạnh phúc rồi”. Đến bây giờ nhớ lại câu nói đó với Thành, tôi tưởng như nó vừa được nói hôm qua.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #106 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:39:10 pm »

Khi đến nhà tôi, thỉnh thoảng Thành nói chuyện với Nguyễn Hữu Thái đang trốn lệnh truy nã của chính quyền Thiệu được tôi che giấu trên lầu ba. Thành cũng bàn việc gì đó với nhà báo Trương Lộc. Phía sau nhà Trương Lộc và phía sau nhà tôi liền nhau. Tôi biết cả ba là người tốt nên không hề tìm hiểu họ bàn với nhau chuyện gì. Vợ tôi làm mai cho Trương Lộc lấy vợ là cô con gái của một gia đình nhà giáo hiền lành và thân thiết với chúng tôi. Với gia đình Thành, chúng tôi cũng có quan hệ tốt. Tôi biết vợ Thành khi hai người mới lấy nhau (trước năm 1975). Gia đình chị Thành ở Mỹ Tho (Tiền Giang). Khi tổ chức đám cưới và rước dâu, anh Thành xuống Mỹ Tho bằng chiếc xe ĐS 21 của tôi. Hai vợ chồng tôi cũng có mặt trong ngày vui của vợ chồng Thành.

Trong những ngày căng thẳng gần 30-4-1975, cảnh sát của Thiệu mở nhiều cuộc bắt bớ nhắm vào những người thân cộng hoặc có dính líu với cộng sản, tôi và Trương Lộc đã thiết kế một đường dây báo động mật kéo từ nhà tôi sang nhà Trương Lộc. Nếu có xe cảnh sát nửa đêm đến lúc soát nhà tôi, tôi sẽ giựt giây báo động qua bên nhà Lộc, tức thời Lộc mở cửa để đón Hữu Thái qua nhà Lộc. Còn ngược lại nếu cảnh sát đến xét nhà Trương Lộc thì anh sẽ giật dây báo động, tôi sẽ mở cửa sau để anh tuồn sang nhà tôi. Nhưng may mắn là cho đến ngày 30-4-1975, chúng tôi chưa bao giờ phải sử dụng hệ thống báo động này.

…Những ngày cuối, trước khi quân giải phóng vào Sài Gòn, tôi không gặp Huỳnh Bá Thành. Nhưng chỉ ít ngày sau 30-4-1975, Thành đến nhà tôi. Có lẽ anh lo tôi hoang mang trước sự đổi thay đột ngột. Anh vẫn thế, thân quen và tình cảm. Anh có đề nghị tôi viết một bài báo cho báo Sài Gòn Giải Phóng. Tôi có viết nhưng bài báo không thấy xuất hiện. Tôi coi chuyện ấy bình thường thôi. Sự hòa nhập đòi hỏi phải có thời gian. Nhưng Thành và tôi vẫn giữ tình bạn như xưa cho đến ngày Thành bị nhồi máu cơ tim qua đời giữa lúc anh trở thành người thành đạt trong chế độ mới về nhiều mặt. Trong những năm tháng đất nước còn khó khăn, lúc tôi làm ở báo Tuổi Trẻ, thu nhập chỉ đủ xoay xở tối đa trong nửa tháng, Thành gặp tôi và gợi ý: “Anh nên đưa gia đình đi nghỉ ở Vũng Tàu ít ngày cho thư giãn. Anh cứ sử dụng chiếc xe LaDaLat của tôi. Tôi sẽ đổ xăng đầy đủ cho anh”. Lúc này, Huỳnh Bá Thành đang là phó tổng biên tập báo Công An TP. Hồ Chí Minh. Chiếc xe LaDaLat - một kỷ niệm giữa tôi và Thành! Thành đã từng đưa tôi đi họp mỗi sáng tại Dinh Hoa Lan bằng chiếc xe đó. Tôi không biết Thành có cố tình làm như thế để nhắc với tôi rằng tình bạn giữa hai chúng tôi vẫn như ngày nào? Khi tôi ngồi trên chiếc xe LaDaLat của Thành, tự lái đưa vợ con lần đầu ra Vũng Tàu sau ngày 30-4-1975, tôi nghe lòng mình ấm lên một tình cảm lạ kỳ.

...Tôi đã chứng kiến từ đầu sự vận động của Huỳnh Bá Thành để chuyển tờ tin nội bộ Sở Công An TP. Hồ Chí Minh thành tờ báoCông An phát hành rộng rãi, và sau đó là sự mày mò để tìm ra một công thức và một vị trí phù hợp cho tờ Công An giữa làng báo TP. Hồ Chí Minh và cả nước. Ngành công an xuất bản một tờ báo công khai là điều chưa từng có trước đó. Cho nên khi nó xuất hiện và trở thành một hiện tượng báo chí với số phát hành mỗi ngày một tăng - chỉ một thời gian ngắn là đạt số lượng cao nhất nước - hiện tượng đó không dễ dàng được mọi người đón nhận và đánh giá giống nhau. Đồng thời, bản thân tờ báo khai thác một thể loại quá mới mẻ đối với mặt bằng báo chí, không thể tránh được những sơ hở, va vấp. Thành đã phải đối phó trước sự phê bình và chỉ trích từ nhiều phía. Kể cả từ chính các đồng nghiệp.

…Ngày Thành nằm xuống vì một cơn nhồi máu cơ tim, quan tài anh được quàn tại tòa soạn báo Công An trên đường Nguyễn Du, tôi đã đến viếng anh lần cuối. Tôi viết vào sổ tang: “...bạn ra đi mang theo một phần ký ức của tôi”.

Anh là một nhà báo hết lòng với nghề và là một người trung thành với lý tướng mình đã chọn. Và với tôi, Thành là một người bạn trước sau như một.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #107 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:39:57 pm »

Chương 21

Những ngày cuối cùng của Tổng thống Thiệu

Tháng 3-1975, nhiều người ở Sài Gòn không thể đoán rằng quyết định rút quân ra khỏi Cao Nguyên của tổng thống Thiệu là sự khởi đầu của sự sụp đổ hoàn toàn và mau chóng của cả chế độ.

Với người Mỹ thì từ cuối năm 1974, họ đã ngửi thấy trước viễn cảnh tai họa sẽ xảy đến ở Đông Dương. Kissinger cố gắng vận dụng hoạt động ngoại giao của mình để cứu gỡ tình hình. Tháng 11-1974, Kissinger tháp tùng tổng. thống Ford gặp tổng bí thư Brezhnev tại Vladivostok và sau đó thực hiện một chuyến đi chớp nhoáng đến Bắc Kinh để bàn về số phận của Campuchia. Nhưng ở cả hai nơi Kissinger đều trở về tay trắng.

Tháng 3-1975, tổng thống Ford viết thư cho thủ tướng Thái Lan Khurkrit Pramot trong đó ông cho rằng các sư đoàn chính qui Bắc Việt đang chuẩn bị đánh vào miền Nam, đồng thời khẳng định: “Tôi bảo đảm với ngài, thưa Thủ tướng, rằng Hoa Kỳ vẫn cương quyết cung cấp cho miền Nam những phương tiện để họ có thể chống lại. Chúng tôi muốn giúp các người bạn của chúng tôi.”.

Liền đó, tổng thống Ford quyết định gửi tổng tham mưu trưởng quân đội Fred Weyand đến miền Nam với nhiệm vụ đánh giá tình hình và đưa ra những đề xuất cho thời gian tới. Kết luận của Weyand: Tình hình quân sự đang nguy cấp và có khả năng sự sống sót của miền Nam sẽ là một “quốc gia” bị cắt xén chỉ còn lại các tỉnh ở Nam bộ. Weyand cho rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm làm mọi khả năng của mình để cung cấp phương tiện và trang thiết bị giúp cho chính quyền miền Nam bổ sung tiềm lực của mình đối đầu với cuộc tấn công. Theo Weyand, con số viện trợ cần bổ sung là 722 triệu đô la để cứu chính quyền Sài Gòn. Nhưng đa số các nhà lập pháp Mỹ đều từ chối biểu quyết thêm bất cứ một khoản viện trợ bổ sung nào cho miền Nam Việt Nam.

Các nhà báo Mỹ đã phát hiện rằng khi tướng Weyand từ miền Nam Việt Nam trở về phải đến tận California mới gặp được tổng thống Ford để báo cáo. Lúc này tổng thống Ford đang chơi golf ở Palm Springs. Truyền hình Mỹ cho phát hình Ford đang vung tay đánh quả bóng nhỏ rồi liền đó vài giây phát hình những cảnh quân lính Việt Nam Cộng Hòa tháo chạy.

11 ngày sau, Kissinger xuất hiện trước ủy ban quan hệ quốc tế Thượng viện. Nghị sĩ Sparman hỏi “Liệu chúng ta có bất cứ ràng buộc gì đối với Hiệp định Paris?”. Kissinger cho rằng “Hiệp định Paris này không có những ràng buộc mà chỉ có những quyền hạn, thể hiện trong điều 7. Tổng thống Nixon và những người khác thì đánh giá rằng việc cho phép nước Mỹ rút ra tại điều kiện cho Mỹ sớm viện trợ và thúc đầy Hiệp định. Với chính quyền Sài Gòn, nếu họ để cho chúng ta rút các lực lượng ra thì chúng ta sẽ tăng được hy vọng tranh thủ viện trợ cho họ và hiệu lực cho hiệp định. Vấn đề nằm trong bối cảnh như thế, chứ không có một ràng buộc pháp lý nào. Chúng ta chưa bao giờ tuyên bố có sự ràng buộc. Chúng ta chưa bao giờ phản bác sự ràng buộc. Nhưng một số người trong chúng ta nghĩ rằng đó là một ràng buộc về đạo đức...” (Ending The Vietnam War).
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #108 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:40:53 pm »

Khi khu vực Cao nguyên bắt đầu lung lay, tổng thống Thiệu gửi ngoại trưởng Trần Văn Lắm sang Washington vừa xin viện trợ bổ sung vừa đánh giá thái độ của quốc hội Mỹ đối với miền Nam. Nhưng từ Mỹ, Trần Văn Lắm điện về cho biết rằng không hy vọng quốc hội Mỹ chấp nhận viện trợ bổ sung. Ông Lắm lo ngại rằng khi Hạ viện và Thượng viện họp kín bỏ phiếu ngày 12 và 13-3-1975 sẽ chống lại bất cứ một khoản viện trợ nào cho miền Nam Việt Nam.

Trong hồi ký của mình (Ending The Vietnam War) Henry Kissinger đã viết như sau về quyết định của ông Thiệu rút quân khỏi Cao nguyên: ‘‘Thiệu hiểu rằng, với tiềm lực bị co lại, ông không thể bảo vệ lâu dài toàn bộ lãnh thổ của đẩt nước đang bị bao vây và ra lệnh một cuộc rút quân chiến lược khỏi Cao nguyên. Nếu là một bài tập trong học viện quân sự thì sự chuyển quân của Thiệu được coi là có lý. hưng căn cứ những thựcc tế của Việt Nam thì nó dẫn tới tai họa. Chiến lược này được phát động với sự không chuẩn bị hoặc không có nhữngchỉ đạo tường tận từ Bộ tổng tham ở Sài Gòn, nên “chiến lược rút quân’‘ chỉ tiến hành trên một con đường độc đạo- đường 7B - dễ làm mục tiêu cho địch. Đồng thời con đường nay đã hư hỏng và đầy rẫy mìn. Đúng ra phải có sự tham gia của công binh thì con đường này mới sử dụng được, kẻ cả việc phải xây lại nhiều cây cầu bị sập – những công việc này hiện các sư đoàn của quân đội VNCH không được trang bị đầy đủ để đối phó. Ngoài các đơn vị chiến đấu, đường 7B còn phải tải một dòng người đông đúc dân thường chạy nạn. Ngay khi có lệnh rút quân, sự hỗn loạn xảy ra (…). Con đường độc đạo này sau đó nhanh chóng bị kẹt cứng bởi hoảng 60.000 quân lính và 400.000 thường dân. Hệ thống tiếp liệu lương thực bị cắt đứt, nhiều lính đói khát bắt đầu cướp phá những làng mạc dọc theo con đường. Không quân tiếp viện lại ném bom lầm mục tiêu vào một đơn vị xe bọc thép, giết nhiều quân lính VNCH và thường dân di tản. Chỉ một số ít binh lính và thường dân thoát ra đến vùng ven biển. Các sư đoàn bảo vệ Cao nguyên đã bốc hơi hết...”.

Một chi tiết cần biết thêm về cuộc rút quân khỏi Pleiku và Kontum: lúc đó trấn thủ Vùng 2 chiến thuật là tướng Phạm Văn Phú, cũng như Nguyễn Văn Thiệu, đã từng là sĩ quan quân đội Pháp. Phạm Văn Phú từng bị bắt làm tù binh khi quân đội Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ năm 1954. Trước đó tướng Phú tâm tình với Lou Conein (một nhân viên CIA) rằng: “Tôi sẽ tự sát. Tôi nhất quyết không bao giờ để bị bắt làm tù binh lần nữa”. Khi Thiệu ra lệnh cho Phú bắt đầu rút quân khỏi Vùng 2 quân sự, Phú mất bình tĩnh nhảy lên trực thăng bay đến nơi an toàn ở ven biển sớm nhất. Cuộc rút quân khỏi Pleiku và Kontum dự định trong trật tự đã “diễn ra trong hỗn loạn và điên cuồng” (frenzied - theo báo Mỹ), giai đoạn khởi đầu sự sụp đổ hoàn toàn của quân đội Sài Gòn.

…Sau khi ông Thiệu mất tại Mỹ, Hoàng Đức Nhã từng là bộ trưởng Dân vận Chiêu hồi và cố vấn của tổng thống Thiệu, có trả lời phỏng vấn đài phát thanh RFI tiếng Việt của Pháp về quyết định của ông Thiệu “rút quân chiến lược” ở Cao nguyên. Phóng viên RFI phỏng vấn trực tiếp ông Nhã đã kể lại với tôi sau này rằng ông Nhã đã phủ nhận quyết định của ông Thiệu là một sai lầm. Ngược lại ông Nhã cho đó là một quyết định đúng nhưng chuyện xảy ra sau đó như những con bài domino, nó tác động sự sụp đổ dây chuyền. Ông Nhã cho rằng cần có độ lùi thời gian để đánh giá đúng đắn về quyết định này. Phóng viên RFI có một nhận xét: chẳng lẽ một phần tư thế kỷ chưa đủ độ lùi để có một kết luận? Còn phải chờ bao lâu nữa? Cách đánh giá của Henry Kissinger thuần về kỹ thuật quân sự có hơi phũ phàng đối với ông Thiệu nhưng có lẽ cũng xác đáng. Quyết định của ông Thiệu phù hợp với tình hình suy yếu về quân sự của chế độ Sài Gòn lúc đó nhưng hoàn toàn không được chuẩn bị trước.

Một thí đụ khác về sự chỉ đạo lúng túng của ông Thiệu: Ngày 15-3-1975, Ban Mê Thuật bị chiếm. Ngày 15-3-1975, ông Thiệu triệu tập các chỉ huy quân sự họp tại Cam Ranh và đưa ra quyết định bỏ các tỉnh phía Bắc (của miền Nam). Nhưng ngày 20-3-1975, sợ phản ứng của dư luận, ông Thiệu lại có một chỉ đạo ngược lại: bảo vệ Huế đến người lính cuối cùng. Nhưng 5 ngày sau đó cố đô thất thủ?

Nhà báo Vũ Thụy Hoàng (Tổng thư ký báo Dân Chủ, tiếng nói chính thức của đảng Dân Chủ của Thiệu) trong quyển hồi ký của mình (Sài Gòn tuyết trắng) đã ghi lại lời của chuẩn tướng Nguyễn Văn Điển, tư lệnh sư đoàn 1 Bộ binh, khi từ Huế về tới Đà Nẵng, đã than thở với Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại như sau: “Tôi mất hết tất cả. Mất cả sư đoàn. Mất binh sĩ. Mất đất đai. Tôi không còn gì nữa. Danh dự cũng không còn”.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
selene0802
Moderator
*
Bài viết: 2783


...áo xanh, nón tai bèo, mưa đầu mùa...


« Trả lời #109 vào lúc: 23 Tháng Hai, 2011, 02:43:09 pm »

Sự tháo chạy khỏi Kontum-Pleiku ra hướng Nha Trang quả thật kinh hoàng. Trên báo Chính Luận ngày 21-3-1975 có đăng bài của phóng viên Nguyễn Tú đi theo đoàn người di tản từ Phú Bổn điện về tòa soạn ngày 19-3 như sau:

“Hôm nay đoàn di tản từ Kontum-Pleiku đã tới Phú Bổn, Số người di tản ở Phú Bổn nhập thêm vào. Đoàn người lại rời khỏi thị xã Hậu Bổn (Cheo Reo) để hướng về Phú Yên. Cuộc di tản bước qua ngày thứ tư.

“Đoàn xe đi trước gồm khoảng 4.000 chiếc vừa quân sự dân sự đã thoát đi an toàn. Đoàn sau khoảng 1.000 chiếc cũng cả quân sự lẫn dân sự rời Cheo Reo là gặp đại họa. Trong lối 4 tiểu đoàn địa phương gồm toàn đồng bào Thượng, phần lớn đã đào nhiệm mang theo vũ khí, đã phản loạn mở cuộc tấn công tập hậu vào đoạn cuối đoàn di tản đồng thời nổi lửa phá phố phường, cướp bóc và bắn giết những đồng bào còn ở lại.


Như kể trên, ngày 20-3-1975, tổng thống Thiệu ra lệnh tử thủ Huế cho đến người lính cuối cùng, nhưng trước đó hai ngày (18-3) cuộc di tản khỏi Huế đã bắt đầu. Cũng trên nhật báo Chính Luậnra ngày 23-3-1975 có bản tin và tường thuật từ Huế như sau:

Sáng nay 18-3, dân Huế khởi đầu cuộc “Nam tiến” với một số người chưa đông đảo lắm và hầu hết chạy bằng xe hàng. Giá một xe Traction từ Huế vào Đà Nẵng 15.000 đồng một chuyến. Xe vận tải giá khoảng 50 ngàn.

Sau khi được chứng kiến hàng ngàn dân Quảng Trị bơ phờ nằm vạ nằm vật đầy khắp thành phố Huế và những tin tức dồn dập bệnh viện Quảng Trị di tản 100%... sáng 19-3 dân Huế đổ xô vào Đà Nẵng bằng tất cả mọi phương tiện, từng đoàn Hon da, xe hàng nối đuôi nhau vượt đèo Hải Vân, thảm thương nhất là đoàn xe đạp, cũng “thồ” đầy những hành lý như ai, kĩu kịt từng đoàn bỏ rơi thành phố Huế (...)


Mỹ phản ứng lại tình hình này ra sao? Trong hồi ký của mình, Henry Kissinger kể rằng chính quyền Ford và ông chỉ quan tâm về một số triệu người dân di tản đổ dồn vào Đà Nẵng, trong khi tại đây không còn lương thực để tiếp tế cho họ. Washington tìm cách góp sức giải quyết vấn đề này chứ không tính chuyện bảo vệ Đà Nẵng. Nhóm hành động đặc biệt Washington (WSAG) được tổng thống Ford triệu tập nhưng lại sa lầy vào những chuyện pháp lý đâu đâu trước đề xuất nên gửi những chiếc LST Mỹ (loại xe bọc thép đồng thời sử dụng như tàu chiến) đến Việt Nam để giúp di tản dân. Các chuyên gia Quốc hội Mỹ đặt câu hỏi liệu việc đưa vào những chiếc LST có vi phạm điều 7 của Hiệp định Paris không? Người ta không khỏi ngạc nhiên về người Mỹ bỗng nhiên trở thành những người rất tôn trọng luật lệ tại chiến trường Việt Nam mà trước đây họ hoàn toàn bất cần. Ngoài ra WSAG còn bàn việc sử dụng phương tiện vận tải quân sự vào chiến trường Việt Nam để di tản dân có vi phạm một điều khoản của War Powers Act biểu quyết một năm trước đây về vấn đề hạn chế việc sử dụng thiết bị quân sự? Vấn đề viện trợ bổ sung bị bế tắc, đến chuyện cần thêm phương tiện di tản dân cũng hết sức khó khăn, điều đó chứng tỏ người Mỹ đã nhất quyết quay lưng lại với chính quyền Thiệu và phủi tay với chiến tranh Việt Nam. Trong khi đó cuộc sống ở Sài Gòn, một “kinh đô ánh sáng”của Đông Nam Á nhìn bên ngoài sinh hoạt như không có chuyện gì xảy ra. Chỉ riêng các dancing bị đóng cửa, còn các rạp hát và các tụ điểm vui chơi khác hoạt động bình thường. Rạp Rex chiếu một trong những phim cuối cùng do Romy Schneider diễn xuất: Le Train (đóng chung với Jean Louis Trintignant) thu hút đông đảo người xem. Câu lạc bộ CSS (Cercle Sportif Saigonnais) - một ốc đảo của xã hội trưởng giả Sài Gòn - vẫn sinh hoạt bình thường. Các sân tennis vẫn đầy người chơi, các phu nhân vẫn đến tập thể dục thẩm mỹ đều đặn, hồ bơi mỗi buổi trưa vẫn là nơi hò hẹn của những giai nhân trong các bộ bikini khêu gợi.

Thậm chí ở Sài Gòn, có những người còn vớt vát bằng cách đồn rằng cuộc tháo chạy khỏi Cao nguyên và việc rút khỏi tỉnh Quảng Trị của tổng thống Thiệu là sự thỏa thuận ngầm giữa Mỹ và Bắc Việt. Nhưng ngày 21-3-1975, chính ông Hồ Văn Châm, tổng trưởng Cựu chiến binh, kiêm quyền tổng trưởng Dân Vận và Chiêu Hồi, lại đính chính điều này trên hệ thống truyền hình như sau:

“Thừa lệnh tổng thường VNCH, chúng tôi xin thưa cùng đồng bào rằng những tin đồn trong những ngày gần đây được tường thuật qua báo chí trong nước và qua các bản tin viễn ký của hãng thông tấn ngoại quốc, liên quan đến việc chính phủ VNCH thỏa hiệp với CSBV để bỏ ngỏ ba tỉnh Cao nguyên thuộc quân khu 2 và tỉnh Quảng Trị thuộc quân khu 1 là những nguồn tin hoàn toàn thất thiệt và vô căn cứ…”

Ngày 26-3-1975, tổng thống Thiệu lại tuyên bố trên đài phát thanh quyết bảo vệ Đà Nẵng tới cùng. Nhưng chỉ bốn ngày sau Đà Nẵng mất. Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn l, quân đoàn bảo vệ Đà Nẵng, biết rõ mình không đủ lực lượng đối địch với quân giải phóng. Hơn một tháng trước đó, Ngô Quang Trưởng đã cho biết “nếu cộng quân mở cuộc tấn công họ có thể chọc thủng phòng tuyến ở bất cứ chỗ nào”.
Tướng Trưởng đã tiết lộ điều này với phái đoàn quốc hội Mỹ tới vùng 1 để cứu xét quân viện cho VNCH.

Ngày 30-3-1975, Đà Nẵng thất thủ. Nhà báo Paul Quinn Judge của tờ Christian Science Monitor, một người bạn của tôi chưa kịp rời thành phố này, đã điện về Sài Gòn tường thuật cho tôi nghe những gì anh đang nhìn thấy trước mắt. Một cuộc tường thuật sốt dẻo tại chỗ: “Tôi nhìn thấy những chiếc xe đầu tiên vào thành phố cắm cờ MTDTGPMN. Những toán quân đầu tiên của Mặt trận trang bị súng ống đầy đủ cũng xuất hiện trên các đường phố... Các vụ tấn công, cướp bóc vào nhà dân trước khi quân lính VNCH rút đi cũng chấm dứt...”. Tôi còn nhớ phản ứng trong lòng tôi lúc đó rất lạ, vừa xúc động vừa tò mò. Tôi muốn hỏi Paul thêm chi tiết về những người lính giải phóng đầu tiên mà Paul đã gặp, nhưng anh đã gác máy. Tôi cố gắng hình dung lại trong đầu mình hình ảnh một toán quân giải phóng cầm cờ và trang bị đầy đủ súng ống tiến vào thành phố như thế nào. Cái “bến bờ vừa xa vừa lạ” ấy đang tiến lại gần, với tốc độ càng lúc càng nhanh.
Logged

...thành phố đang nhớ nhung một dáng hình ai...
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM