Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Năm, 2024, 12:13:23 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân - Tập 4  (Đọc 8086 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #160 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2022, 09:23:04 pm »

ANH HÙNG VÕ THỊ NHÃ


Võ Thị Nhã (tức Võ Thị Cưu) sinh năm 1921, dân tộc Kinh, quê ở xã Đức Minh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi, trú quán xã Đức Chánh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là dân quân xã Đức Chánh, huyện Mộ Đức, tỉnh Nghĩa Bình.


Từ năm 1955 đến tháng 4 năm 1975, Võ Thị Nhã làm nhiệm vụ phục vụ chiến đấu ở địa phương. Trong hoàn cảnh địch khủng bố phong trào cách mạng rất ác liệt, chồng là cán bộ kháng chiến đang bị chúng theo dõi, bản thân bận nuôi ba con nhỏ nhưng trong 5 năm (1954 - 1959), đồng chí vẫn nuôi giấu 4 cán bộ cốt cán dưới hầm bí mật được chu đáo.


Từ năm 1966 đến năm 1971, Võ Thị Nhã đã 26 lần đi trinh sát nắm tình hình địch, giúp bộ đội và du kích đánh nhiều trận thắng lợi. Có lúc giặc càn quét, vây ráp, lùng sục gắt gao nhưng đồng chí vẫn nuôi giấu được 20 cán bộ, bộ đội, thương binh an toàn.


Trong đấu tranh chính trị, Võ Thị Nhã luôn luôn dẫn đầu đoàn biểu tình chống cày ủi ruộng vườn, chống bắt lính, dồn dân, lập ấp.


Tuy chồng bị địch bắn chết, hai con trai tham gia du kích đều hy sinh, Võ Thị Nhã vẫn động viên tiếp hai con gái đi làm giao liên và thanh niên xung phong; bản thân càng tích cực hoạt động cách mạng.


Võ Thị Nhã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Võ Thị Nhã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #161 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2022, 09:23:33 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN THỊ TRƯỜNG


Nguyễn Thị Trường sinh năm 1950, dân tộc Kinh, quê ở xả Mỹ Cẩm, huyện Càng Long, tỉnh Trà Vinh. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là du kích thị trấn Càng Long, tỉnh Cửu Long, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ cuối năm 1970 đến tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thị Trường làm nhiệm vụ theo dõi nắm tình hình địch. Đồng chí đã tham gia đánh 28 trận, diệt và làm bị thương 79 tên địch (có 11 sĩ quan), phá 1 nhà đèn, thu 16 súng, 3 máy thông tin. Ngoài ra, Nguyễn Thị Trường còn xây dựng được 48 cơ sở quần chúng, phát triển được 24 du kích mật.


Ngày 30 tháng 12 năm 1972, đồng chí bí mật đặt mìn nơi địch đang tập trung bàn kế hoạch càn quét, diệt và làm bị thương 14 tên, buộc chúng phải bỏ âm mưu càn quét đánh phá vào xã.


Ngày 20 tháng 1 năm 1973, Nguyễn Thị Trường bí mật vào sơ chỉ huy tiểu đoàn pháo binh địch đặt mìn, diệt 24 tên, phá hủy một số vũ khí.


Nguyễn Thị Trường nêu gương chấp hành tốt chính sách của Đảng, được quần chúng tin yêu.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba; 3 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Nguyễn Thị Trường được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #162 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2022, 09:24:05 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN THANH TÙNG


Nguyễn Thanh Tùng sinh năm 1933, dân tộc Kinh, quê ở xã Hảo Đước, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, nhập ngũ tháng 4 năm 1948. Khi  được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung tá, chỉ huy phó đoàn đặc công 429, Quân khu 7, đảng viên Đang Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1961 đến tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thanh Tùng liên tục chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị diệt hàng nghìn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh khác.


Đêm 15 tháng 5 năm 1969, Nguyễn Thanh Tùng trực tiếp chỉ huy 1 tiểu đoàn đặc công tiến công mãnh liệt căn cứ Tếch Ních, diệt 800 tên Mỹ, 2 sở chỉ huy lữ đoàn, phá hủy 22 khẩu pháo, 96 xe quân sự (có 43 xe tăng), 8 kho vũ khí, quân trang, quân dụng.


25 ngày sau, Nguyễn Thanh Tùng lại chỉ huy đơn vị đánh căn cứ Tếch Ních lần thứ hai. Địch tăng cường đối phó, bố trí nhiều bãi mìn và rào kẽm gai. Tuy vậy, đồng chí vẫn tìm cách đưa đơn vị lọt vào căn cứ, diệt 500 tên Mỹ, phá hủy 10 máy bay, 6 khẩu pháo, 41 xe quân sự (có 21 xe tăng), 35 lô cốt, 92 nhà lính, hơn trăm hầm ngầm, 3 kho đạn, gây cho địch thiệt hại lớn.


Tháng 11 nãm 1971, Nguyễn Thanh Tùng chỉ huy 2 tiểu đoàn đặc công đánh thiệt hại nặng căn cứ Trảng Lớn, do 1 trung đoàn địch đóng.


Năm 1972, Nguyễn Thanh Tùng chỉ huy đơn vị đánh ba trận xuất sắc:

Trận đánh căn cứ Bà Dơn, diệt 240 tên địch, phá hủy 6 khu thông tin.

Trận đánh tổng kho Long Bình, đốt cháy và phá hủy 15.000 tấn bom, đạn.

Trận đánh sân bay Biên Hòa phá hủy 90 máy bay.

Tháng 4 năm 1975, đồng chí chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh chiếm căn cứ ra đa Phú Lâm và chi khu Tân Trào.


Nguyễn Thanh Tùng được tặng thưởng 5 Huân chương Chiến công giải phóng, 3 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Nguyễn Thanh Tùng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #163 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2022, 09:24:42 pm »

ANH HÙNG LÊ HỮU KlỂN


Lê Hữu Kiển (tức Lê Quốc Bảo) sinh năm 1925, dân tộc Kinh, quê ở xã Quảng Ngọc, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 10 năm 1945. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung tá, chỉ huy trường quân sự tỉnh Đắc Lắc, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nhập ngũ được 2 tháng, Lê Hữu Kiển xung phong vào đơn vị Nam tiến. Từ đó đến năm 1954, đồng chí chiến đấu ở chiến trường Khu 5. Năm 1955, tập kết ra Bắc, đến tháng 5 năm 1959, Lê Hữu Kiển trở lại chiến đấu ở chiến trường Khu 5.


Từ năm 1959 đến tháng 3 năm 1975, Lê Hữu Kiên hoạt động ở Tây Nguyên. Đồng chí đã góp phần tích cực xây dựng lực lượng vũ trang địa phương trưởng thành, chỉ huy đánh hàng trăm trận, loại khỏi vòng chiến đấu gần một vạn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.


Từ tháng 8 năm 1959 đến năm 1961, Lê Hữu Kiển phụ trách đội vũ trang tuyên truyền của tỉnh hoạt động ở huyện Lắc. Lúc đầu, nhân dân sợ địch khủng bố, không tiếp xúc với bộ đội, đồng chí đã động viên đơn vị kiên trì bám địa bàn, ăn rau, củ rừng để hoạt động. Dần dần, đội đã thành lập được chi bộ Đảng ở buôn Ea Rôc và phát triển ra nhiều buôn khác, vận động được hàng trăm thanh niên đi bộ đội và tham gia du kích đánh địch, phát động được khí thế cách mạng của quần chúng trong tỉnh. Đồng chí đã xây dựng được nhiều vùng cơ sở, căn cứ vững chắc, và nối được tuyến giao liên Nam - Bắc, đón cán bộ ở ngoài vào thành lập Khu 6.


Năm 1964 và năm 1965, với cương vị chỉ huy trưởng, Lê Hữu Kiên đã chỉ đạo lực lượng vũ trang địa phương nhanh chóng phát triển lực lượng, tích cực đánh địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên, hỗ trợ đắc lực cho phong trào quần chúng nổi dậy diột ác ôn, tước 7.000 súng của bọn bảo an, dân vệ, giành chính quyền, giải phóng hầu hết vùng nông thôn của tỉnh.


Từ tháng 1 đến tháng 9 năm 1973, tuy sức khỏe giam sút, đồng chí vẫn theo sát các đơn vị chiến đấu và các huyện trọng điểm, góp phần giữ vững và phát triển thế tiến công địch sau Hiệp định Pa-ri, bảo vệ vững chắc vùng giái phóng cũ và mở rộng nhiều vùng khác.


Lê Hữu Kiển được tặng thưởng 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 2 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Lê Hữu Kiển được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #164 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2022, 09:25:10 pm »

ANH HÙNG LÊ HỮU THỜI


Lê Hữu Thời sinh năm 1932, dân tộc Kinh, quê ở xã Sơn Phú, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, nhập ngũ tháng 4 năm 1949. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung tá, trung đoàn trưởng trung đoàn 1 bộ binh (Đồng Tháp), Quân khu 9, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Lê Hữu Thời tham gia chiến đấu 200 trận, góp phần chỉ huy đơn vị diệt hơn một vạn tên địch. Riêng đồng chí diệt 300 tên, thu 55 súng.


Tháng 6 năm 1963, 2 tiểu đoàn bộ binh địch có xe bọc thép yểm trợ càn vào Ấp Bắc (Mỹ Tho), nơi trú quân của ta. Lê Hữu Thời chỉ huy đại đội kiên quyết tổ chức nhiều tổ xuất kích, liên tục đánh địch, diệt và làm bị thương 180 tên, bắn cháy 3 xe M.113, thu 25 súng, giữ vững trận địa. Riêng đồng chí diệt được 16 tên địch, thu 4 súng.


Tháng 4 năm 1972, trong trận đánh 2 tiểu đoàn địch đóng ở chi khu Vĩnh Kim (Mỹ Tho), nơi địch bố phòng nghiêm ngặt và có lực lượng ngăn chặn từ xa, Lê Hữu Thời đã hạ quyết tâm chính xác, chỉ huy linh hoạt, đánh mạnh, thọc sâu vào giữa vị trí, sau đó tiếp tục đánh chiếm từng mục tiêu trong căn cứ. Đơn vị đã diệt gọn 2 tiểu đoàn, có hơn 700 tên, bắt sống 70 tên, thu 200 súng, 30 máy thông tin.


Tháng 4 năm 1975, Lê Hữu Thời chỉ huy đơn vị đánh thọc sâu ở khu Cần Đước (Cần Giuộc, Long An) diệt 10 đồn, bốt và 400 tên địch, mở đường cho các đơn vị bạn tiến công vào Sài Gòn.


Lê Hữu Thời được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Lê Hữu Thời được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #165 vào lúc: 31 Tháng Tám, 2022, 09:25:41 pm »

ANH HÙNG LÊ THẾ TRUNG


Lê Thế Trung sinh năm 1928, dân tộc Kinh, quê ở xã Lĩnh Nam, huyện Thanh Trì, Hà Nội, nhập ngũ tháng 1 năm 1946. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là trung tá, phó tiến sĩ y khoa, viện phó Viện quân y 103 - Trường Đại học quân y, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Lê Thế Trung trưởng thành từ y tá lên. Đồng chí đã qua các cồng tác: y tá đại đội, chủ nhiệm quân y trung đoàn, chủ nhiệm quân y Quân khu Tây Bắc, Viện trưởng Viện quân y 6, viện phó Viện quân y 103. Ở cương vị nào Lê Thế Trung cũng luôn luôn nêu cao tinh thần tận tụy phục vụ thương binh, bệnh binh, hăng say nghiên cứu khoa học, giảng dạy và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Hai lần đi chiến trường Khu 5 và Trị Thiên, Lê Thế Trung luôn luôn xông xáo, dũng cảm, trực tiếp xuống những tuyến địch đánh phá ác liệt để cứu chữa thương binh và chỉ đạo các đội điều trị.


Lê Thế Trung đã mổ cứu sống hơn một trăm trường hợp vết thương hiểm nghèo như vừa bỏng, vừa gãy xương lớn, vừa bỏng vừa tổn thương nội tạng; mổ 35 trường hợp bị bệnh bướu cổ nhiễm độc nặng. Ngoài ra, đồng chí còn chỉ đạo, hướng dẫn góp phần cùng đơn vị cứu chữa đựợc hàng trăm trường hợp khác. Đặc biệt, Lê Thế Trung đã rất chú trọng kết hợp 2 nền y học cứu chữa thành công cho 80 thương binh bị suy mòn do bỏng gây ra; mổ thành công các sẹo co kéo, sẹo lồi, sẹo gây dị dạng đưa trở lại chức năng hoạt động bình thường.


Đồng chí rất say mê học tập, tổng kết, rút kinh nghiệm, đi sâu nghiên cứu hơn 50 đề tài y học có giá trị viết thành tài liệu giảng dạy cho sinh viên quân y và phổ biến kịp thời cho cán bộ quân y trong ngành phục vụ cấp cứu thương binh, bệnh binh, giảm tỷ lệ tử vong trong chiến đấu. Có những đề tài có giá trị khoa học lớn như: choáng chấn thương, bỏng trong chiến tranh, vũ khí mảnh nhỏ, choáng bỏng, nhiễm trùng bỏng, suy mòn bỏng, di chứng bỏng, phân loại độ sâu bòng, mổ bướu v.v...


Thời gian làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô (1972 - 1975) luận án phó tiến sĩ khoa học của Lê Thế Trung được đánh giá loại xuất sắc. Đồng chí đã góp nhiều công sức đào tạo, bồi dưỡng hàng ngàn cán bộ quân y, trong đó 32 bác sĩ có trình độ chuyên sâu về bỏng và xây dựng được chuyên khoa bỏng trở thành tuyến điều trị cao nhất trong quân đội.


Lê Thế Trung được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 2 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua, nhiều lần được tặng bằng khen và giấy khen.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Lê Thế Trung được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #166 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2022, 08:09:23 pm »

ANH HÙNG ĐỖ VĂN NINH


Đỗ Văn Ninh sinh năm 1939, dân tộc Kinh, quê ở thôn Đọ Xá, phường Ninh Xá, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc, nhập ngũ tháng 8 năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thiếu tá, trung đoàn trưởng trung đoàn 113 đặc công, Bộ tư lệnh Đặc công, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 8 năm   1967   đến tháng 4 năm 1975, Đỗ Văn Ninh chiến đấu ở chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị diệt 3.000 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh quan trọng như máy bay, xe tăng, kho vũ khí, bom đạn... Riêng đồng chí diệt 80 tên Mỹ, đánh sập 7 nhà lính, 3 nhà kho, nhiều lô cốt và hầm ngầm.


Ngày 4 tháng 7 năm 1968, đánh căn cứ lữ đoàn 3 ngụy ở Dầu Tiếng, Đỗ Văn Ninh vượt qua 7 lớp rào vào trinh sát. Khi nổ súng đồng chí đã dẫn đầu mũi cắt rào, gỡ mìn, tạo cửa mở cho đơn vị đánh thẳng vào trung tâm, diệt các mục tiêu. Lúc lui quân, hai lần gặp địch ngăn chặn, Đỗ Văn Ninh chỉ huy đơn vị chiến đấu quyết liệt và rút ra an toàn. Kết quả trận đánh: đã diệt 2 trung đội Mỹ, 16 hầm ngầm và lô cốt, phá 2 nhà tầng, 4 xe. Riêng đồng chí diệt 5 tên Mỹ, phá hủy 5 hầm ngầm và lô cốt.


Đầu năm 1969, Đỗ Văn Ninh chỉ huy đại đội đánh căn cứ Dầu Tiếng lần thứ hai, diệt được sở chỉ huy lữ đoàn địch, phá hủy 2 khu thông tin. Đồng chí trực tiếp đánh sập 4 lô cốt, hầm ngầm, 1 nhà kho, 3 nhà ngủ.


Ngày 15 tháng 5 năm 1969, đánh căn cứ Tếch Ních (Bình Long), Đỗ Văn Ninh đã 7 ngày đêm đi trinh sát; đến khi đánh, bản thân trực tiếp dẫn 4 mũi tiến vào vị trí chiến đấu rồi mới về vị trí chỉ huy. Kết quả, tiểu đoàn do đồng chí chỉ huy đã diệt sở chỉ huy lữ đoàn 1 (trên 500 tên, có 1 đại tá Mỹ), phá hủy 13 khẩu pháo và nhiều lô cốt, hầm ngầm.


Ngày 1 tháng 8 năm 1972, Đỗ Văn Ninh cho đạn vào thùng phuy xăng, chuyển qua sông vào đánh sân bay Biên Hòa. Kết quả, phá hủy nhiều máy bay, đường băng, làm tê liệt sân bay này trong 7 ngày.


Với cương vị tham mưu phó trung đoàn, Đỗ Văn Ninh trực tiếp đi trinh sát và chỉ huy đánh tổng kho Long Bình ngày 13 tháng 8 năm 1972, phá hủy 150 tấn bom, đạn, 12 ngàn tấn xăng dầu, diệt 300 tên địch, có 1 đại tá Mỹ.


Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Đỗ Văn Ninh chỉ huy trung đoàn tiến công căn cứ Hóc Bà Thức (Biên Hòa) diệt thiết đoàn số 15, và đánh lui 5 đợt phản kích của địch, tạo điều kiện cho các đơn vị bạn tiến công thị xã Biên Hòa.


Đỗ Văn Ninh được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì, 5 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, 4 lần được bầu là Chiến sĩ thi đua, 4 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Đỗ Văn Ninh được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #167 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2022, 08:09:54 pm »

ANH HÙNG HÀ QUANG ĐỊNH


Hà Quang Định sinh năm 1946, dân tộc Thái, quê ở xã Thọ Bình, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, nhập ngũ tháng 4 năm 1966. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là đại úy, tham mưu phó trung đoàn 1 bộ binh sư đoàn 324, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1966 đến tháng 4 năm 1975, Hà Quang Định liên tục chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên. Đồng chí đã chỉ huy đơn vị diệt hàng ngàn tên địch, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn, diệt 5 đại đội. Riêng đồng chí diệt 30 tên, bắn rơi 1 máy bay.


Cuối năm 1968, Hà Quang Định chỉ huy một tổ bám điểm cao 176 (Khe Mễ, Thừa Thiên) để quan sát. Địch dùng máy bay, pháo binh yểm trợ cho bộ binh đánh chiếm điểm cao. Đồng chí cùng tổ đánh lui nhiều đợt phản kích của địch, diệt 50 tên, bắn rơi 2 máy bay, giữ vững trận địa. Riêng đồng chí diệt 20 tên, bắn rơi 1 máy bay.


Năm 1972, Hà Quang Định chỉ huy đơn vị chặn đánh địch ở cầụ Nhùng (Quảng Trị), diệt gọn 3 đại đội, phá hủy 10 xe tăng, xe bọc thép.


Năm 1974, Hà Quang Định chỉ huy đơn vị đánh đài quan sát của địch ở điểm cao 300. Địa hình rất khó khăn, giặc chống cự quyết liệt, đồng chí đã cùng tổ trinh sát bí mật chọc thẳng vào sở chỉ huy địch, yểm trợ cho các mũi đánh vào trung tâm, diệt gọn vị trí này, thu 30 súng.


Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Hà Quang Định chỉ huy 1 tiểu đoàn chiến đấu ở hướng đông - bầc Sài Gòn, hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Hà Quang Định được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhì.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Hà Quang Định được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #168 vào lúc: 01 Tháng Chín, 2022, 08:10:34 pm »

ANH HÙNG NGUYỄN MINH HỒNG


Nguyễn Minh Hồng (tức Nguyễn Minh Đậu), sinh năm 1945, dân tộc Kinh, quê ở xã Bình Thạnh Trung, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp, nhập ngũ tháng 8 năm 1963. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng úy, chính trị viên tiểu đoàn 261A bộ binh, trung đoàn 1, sư đoàn 8 Quân khu 9, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1963 đến tháng 4 năm 1975, Nguyễn Minh Hồng chiến đấu ở chiến trường Tây Nam Bộ. Khi ở đơn vị biệt dộng, lúc ở bộ đội chủ lực, đồng chí luôn luôn chiến đấu mưu trí, dũng cảm. Chín lần bị thương, lần nào Nguyễn Minh Hồng cũng tự băng bó, tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu, giành thắng lợi. Đồng chí đã cùng đồng đội diệt gần một ngàn tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Riêng Nguyễn Minh Hồng diệt 273 tên, thu 23 súng.


Ngày 7 tháng 10 nảm 1967, đồng chí chỉ huy tiểu đội tiến công địch trong thị xã Long Xuyên. Khi được lệnh rút, bị chúng bao vây, đồng chí ở lại bắn thu hút hỏa lực địch về phía mình để đơn vị rút an toàn. Nguyễn Minh Hồng bị thương, máu ra nhiều nhưng vẫn dùng lựu đạn, thủ pháo đánh trả địch quyết liệt, loại khỏi vòng chiến đấu 1 trung đội.


Ngày 10 tháng 8 năm 1968, địch đổ quân xuống núi Tô. Nguyễn Minh Hồng dẫn đầu đại đội nhanh chóng tiến công, chia cắt đội hình địch. Trận chiến đấu diễn ra quyết liệt gần 3 giờ. Máy bay, pháo binh địch đánh phá dữ dội. Nguyễn Minh Hồng bình tĩnh động viên đơn vị ngoan cường chiến đấu, diệt 165 tên địch. Riêng đồng chí diệt 30 tên.


Ngày 8 tháng 7 năm 1972, lúc đang chỉ huy đại đội tiến công 1 tiểu đoàn địch ở xã Nhị Bình (Mỹ Tho), Nguyễn Minh Hồng bị thương vào chân, đồng chí đã tự băng bó và tiếp tục chỉ huy chiến đấu đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn địch, phá vỡ cuộc càn của chúng. Đồng chí diệt được 1 tên đại úy ngụy.


Ngày 30 tháng 10 năm 1972, đại đội Nguyễn Minh Hổng làm nhiệm vụ vận động phục kích đánh 1 tiểu đoàn địch ở xã Long Khánh (Cai Lậy). Đồng chí đã trực tiếp dần đầu 1 tiểu đội xung phong đánh mạnh vào giữa đội hình địch, cùng đại đội diệt hơn 50 tên, bọn còn lại bỏ chạy. Riêng đồng chí diệt 23 tên.


Ngày 12 tháng 12 năm 1974, 1 tiểu đoàn địch tiến công vào vị trí trú quân của ta. Đồng chí tiểu đoàn trưởng bị thương nặng: Nguyễn Minh Hồng là tiểu đoàn phó đã thay thế, tổ chức phản kích diệt 150 tên địch, bắn rơi 1 máy bay lên thẳng, giữ vững trận địa.


Nguyễn Minh Hồng được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công giải phóng hạng nhất, 3 Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, được tặng 8 bằng khen, 4 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Nguyễn Minh Hồng được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #169 vào lúc: 07 Tháng Chín, 2022, 02:03:11 pm »

ANH HÙNG PHAN CHÂU MỸ


Phan Châu Mỹ sinh năm 1945, dân tộc Kinh, quê ở xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, nhập ngũ tháng 2 năm 1964. Khi được tuyên dương Anh hùng, đồng chí là thượng úy, chính trị viên tiểu đoàn 7 bộ binh, trung đoàn 39, Đoàn 565, Bộ tư lệnh 559, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Phan Châu Mỹ liên tục chiến đấu ở chiến trường từ năm 1964 đến năm 1975. Đồng chí đã tham gia đánh 72 trận, góp phần tích cực chỉ huy đơn vị diệt 1.000 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Riêng đồng chí diệt 31 tên, phá hủy 1 khẩu ĐKZ.


Tháng 12 năm 1968, trong trận đánh Ma-pô-vát, do địa hình lầy lội không có nơi đặt súng, Phan Châu Mỹ đã đứng làm giá súng đại liên cho chiến sĩ diệt 2 hỏa điểm yểm trợ đắc lực cho đơn vị xông lên diệt gọn 1 đại đội địch.


Đánh trận Bà Tông tháng 3 năm 1970, tuy địch đông gấp nhiều lần (2 tiểu đoàn), Phan Châu Mỹ vẫn kiên quyết chỉ huy đại đội tiến công mãnh liệt vào đội hình giặc, diệt 116 tên, phá hủy 1 khấu ĐKZ. Trận đánh đã phá vỡ cuộc càn của địch vào vùng giải phóng của bạn (Lào).


Tháng 12 năm 1970, Phan Châu Mỹ chỉ huy đại đội tham gia chiến dịch Bô-lô-ven, mặc dù số quân ít, lương thực, đạn dược thiếu thốn, đồng chí đã động viên đơn vị đánh nhiều trận xuất sắc. Phan Châu Mỹ đã dẫn đầu đại đội tập kích diệt gọn 1 đại đội địch trong trận đánh then chốt quyết liệt của chiến dịch, tạo điều kiện cho toàn đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.


Tháng 11 năm 1971, 2 tiểu đoàn địch phản kích vào Lao Ngam, hòng chiếm lại khu vực Keng Nhao. Phan Châu Mỹ trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn tiến công địch quyết liệt, diệt gần 100 tên, giữ vững được khu vực Keng Nhao.


Phan Châu Mỹ được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhì, 2 Huân chương Chiến công hạng ba, được tặng 17 bằng khen và giấy khen, 4 lần được bầu là Chiến sĩ Quyết thắng.


Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Phan Châu Mỹ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM