Em có vài dòng trước như sau qua quá trình tổng hợp thông tin:
1. Trung đoàn 16 không có tiểu đoàn 603 và khoảng thời gian đó không thuộc sư đoàn 5, nó là một trung đoàn độc lập trực thuộc Miền.
2. Thời điểm đó như sau: (sư đoàn 7):
Khi thành lập (ngày 13 tháng 6 năm 1966) Sư đoàn 7 (có mật danh là "Công trường 7") có ba trung đoàn bộ binh là Trung đoàn 141, 165 (Sư đoàn 312) và Trung đoàn 52 (Chú thích: Theo chủ trương của Bộ Chỉ huy Miền (tháng 3 năm 1966) thì "Công trường 7" gồm hai Trung đoàn 141, 165 (đang trên đường hành quân từ Bắc vào) và Trung đoàn 16 (Sư đoàn 325) nhưng khi hai trung đoàn trên hành quân tới nơi lại là lúc địch chuẩn bị mở cuộc càn lớn Át-tơn-bo-rơ nên Bộ Chỉ huy Miền điều Trung đoàn 16 về Dương Minh Châu (để cùng lực lượng khác đánh tan cuộc càn này), đưa Trung đoàn 52 vào thay thế.) (Sư đoàn 320).
Đến tháng 4 năm 1967 Trung đoàn 52 tách khỏi đội hình sư đoàn thì Trung đoàn 16 về thay thế. Tháng 10 năm 1967 Trung đoàn 16 xuống vùng sâu, Trung đoàn 320 về thay thế.
3. Trạm 7 Phước Long có nằm ở chỗ núi Bà Rá không?
Qua quá trình tổng hợp thông tin có một loạt các điểm nghi vấn sau:
- trạm 7 Phước Long
- trạm 7 Bắc Ân
- Đồi quân y hay còn gọi là Đồi Bắc Sơn (nơi trung đoàn Bắc Sơn hành quân vào đến B2 thì dừng lại củng cố)
Em ngờ là các địa danh có tên khác nhau nhưng có thể cùng là một, ở xã Đắc ơ, huyện Phước Long, tỉnh Bình Phước - phía dưới khu Rừng quốc gia Bù Gia Mập. Vấn đề này, kết hợp với thông tin
tiểu đoàn 603 có thể chứng minh được như sau:
3.1 Bù Gia Mập, nơi đóng quân, củng cố của các đơn vị đi B:
- Có thể nói, trung đoàn 165A và trung đoàn 141A là những đơn vị thực binh đầu tiên hành quân theo đội hình trung đoàn đủ vào thẳng chiến trường B2. Chính họ, những người lính đầu tiên ấy đã phải mất gần 6 tháng trời, mang vác nặng, bị bom B52 đánh trúng đội hình, bị thám báo tập kích, vượt lên cái đói - cái sốt rét - cái thiếu thốn của đường 559 trong những năm đầu 1966, rồi dừng chân củng cố ở huyện Phước Long.
Nắng nóng, qua nhiều tháng hành quân, mang nặng (có nhẹ đi vài ki-lô-gam do gần hết thực phẩm khô nhưng phải mang thêm súng, đạn cho người bệnh), ăn uống thiếu thốn lại căng hơn về địch nên bệnh tật càng tăng. Trừ Đại đội 19 công binh Trung đoàn 141 còn đơn vị nào cũng có tử vong do sốt, có 30 đến 40 phần trăm quân số phải tụt lại trên đường. Tất cả đều cố gắng đi - dù chậm cũng quyết tới đích, tới "ông Cụ" - khu vực tây và bắc Bù Gia Mập tỉnh Phước Long.
Và đây, "Đồi quân Y" từ đó mà có tên gọi, từ đây mà ra đời trong những giọt nước mắt của thân nhân các gia đình Liệt sỹ:
Nơi đặt ba lô đầu tiên của hai trung đoàn là vùng sông Đa Quýt - tây và bắc Bù Gia Mập - nơi một thời Pháp đã từng giam giữ những người yêu nước của ta (chúng gọi là tù nhân chính trị). Nơi đây là rừng già rậm rạp nguyên sơ; đã cuối mùa khô, lá rụng thành lớp dày dưới đất. Suốt mấy tháng ở đây ngày không thấy nắng, đêm không thấy ánh trăng, chỉ thấy oi bức, mưa, mù với những tiếng ve kêu não nề, tiếng kêu của dế, tiếng vo ve của muỗi, tiếng rào rào của mối, tiếng gọi nhau của con hoẵng, con nai.
Vào tới đây ai cũng tưởng tới đích, được nghỉ ngơi ít ngày, ít phải vượt suối, trèo đèo, cái đói, cái khát không còn nữa thì bệnh tật sẽ lùi dần, sức khỏe sẽ nhanh chóng được hồi phục. Nhưng không? Chưa kịp nghỉ ngơi thì dường như tất cả những gì đã bị sức mạnh ý chí, tinh thần đè bẹp để hành quân, bây giờ lại trỗi dậy, bung ra, hoành hành trên cơ thể người chiến sĩ. Họ mới kịp chặt vội mấy đoạn cây, che tạm tấm tăng ni lông thành chỗ nằm, hầm hố còn dang dở, nhà cầu (nơi đi đại tiện) chưa làm xong thì đã mệt mỏi rã rời. Thân thể người. nào cũng nhão ra, ê ẩm đau, xương cốt nhức buốt, tê dại. Những cơn sốt rét, sốt nóng dai dẳng ở giai đoạn cuối của cuộc hành quân mới chỉ dám xâm nhập vào một số người thì bây giờ chúng mở cuộc "tiến công" ào ạt, quyết liệt vào tất cả. Quân số sốt rét tăng vọt lên. Số người trước càng khỏe nay mới bị sốt lại càng sốt nặng. Không ai tránh khỏi sốt rét. Hôm qua, hôm kia, cả cánh rừng còn rậm rịch tiếng bước chân, còn ồn ào tiếng nói, tiếng cười, tiếng cuốc, xẻng, dao cưa thì hôm nay bỗng im lìm, chỉ có tiếng mưa rơi trên tán cây, trên mái tăng khi ào ào, khi rả rịch. Trong mỗi lán nhỏ là những chiếc võng bạt ôm tròn người lính, khi thì nằm bất động, khi thì run bần bật bởi cơn sốt ập tới. Tiếng rên hòa trong tiếng mưa rơi, tiếng suối chảy, tiếng dế kêu.
Những ngày này, nhiều anh em phải hai tay với hai gậy chống tỳ hai vai để đi lại, sinh hoạt. Sốt vậy mà không có thuốc, đưa lên trạm xá Trung đoàn (mới thành lập) thì dồn cục, đặc nghẹt, thiếu người phục vụ. Thuốc sốt rét phải hòa tan vào nước, uống nhưng mà cũng chỉ những bệnh nhân nặng mới được uống.
Về ăn cũng rất thiếu thốn. Đoàn hậu cần 86 mới được thành lập, các cửa khẩu vừa bị địch đánh phá nên việc tổ chức thu mua, cấp phát còn nhiều khó khăn. Thực phẩm ngoài cá khô mắm tôm hầu như không có thứ gì khác mà người đang sốt hầu hết lại rất sợ hai loại thức ăn này. Gạo ở kho thì có, nhưng có lúc, có phân đội không có đủ người đi nhận đành phải đào củ chụp, củ mài thay thế. Chính vì những lẽ trên, bệnh sốt rét không những không bị đẩy lùi mà ngược lại còn ngày thêm trầm trọng, gây nên những biến chứng thành sốt rét ác tính, hôn mê, co giật, đi tiểu ra máu dẫn tới tử vong, hầu như ngày nào cũng có tử vong. Riêng Trung đoàn 141 từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 7 năm 1966 số người chết vì sốt rét lên tới hơn 100 người . Với Sư đoàn 7 thì còn gấp nhiều lần con số ấy, vẫn còn đang nằm lại trên "đồi Quân y", đến nay mỗi khi có người thân vào tìm kiếm ai cũng rưng rưng nước mắt.
còn tiếp, em đi họp tý đã, cập nhật sau, các bác bấm hộ phím F5 nhé