(Xin tiếp)..
Ngày 4/5/1975, một tiểu đoàn CPC đổ bộ lên đảo Phú Quốc.
Ngày 8/5/1975, lực lượng Pol Pot tiến công nhiều địa phương thuộc tỉnh Hà Tiên và Tây Ninh.
Ngày 10/5/1975, lực lượng Pol Pot tiến công đảo Thổ Chu của VN và bắt đi 515 dân trên đảo. Thực hiện quyền tự vệ của mình, quân đội ta đã đánh trả và truy kích chúng đến tận nơi xuất phát là đảo Wai (7), bắt giữ một số tù binh.
Ngày 2/6/1975, đ/c Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh) đi Phnom Penh gặp Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary (
. Ngày 12/6/1975, Pol Pot thăm bí mật Hà Nội, cho việc họ tấn công đảo Thổ Chu là do “không rành địa lý”, đề nghị ký Hiệp ước hòa bình hữu nghị nhưng lờ đi đề nghị của ta về đàm phán ký Hiệp ước biên giới. Ngày 3/7/1975, đ/c Nguyễn Văn Linh gặp lại Nuon Chea ở Phnom Penh và ngày 10/8/1975, đ/c Nguyễn Văn Linh một lần nữa đi Svay Rieng gặp Nuon Chea để xử lý vụ đảo Wai và về quan hệ 2 nước, ta đồng ý trao trả số tù binh CPC (800 lính) bị ta bắt ở đảo Wai nhưng phía họ vẫn không trao trả cho ta 515 dân bị bắt ở Thổ Chu.
Trong bối cảnh đó, ngày 26/5/1975, Pol Pot đi thăm bí mật TQ (mãi đến tháng 9/1977, họ mới công khai chuyến đi này). Ngày 12/8/1975, TQ đón tiếp trọng thể Khieu Samphan (9) thăm chính thức TQ. Dịp này, Mao và Đặng đã tiếp Khieu; trong diễn văn chiêu đãi Khieu, Đặng ám chỉ Liên Xô bành trướng và tìm sự có mặt ở Đông-nam Á. Trong lúc đó, khi tiếp đ/c Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị (14/8/1975), Phó Thủ tướng Lý Tiên Niệm nói nhiều đến khó khăn của TQ, không đáp ứng yêu cầu viện trợ mới, chưa trả lời về hợp tác kinh tế 1976- 1980 và nói là VN đã thu được 5 tỷ đô la chiến lợi phẩm. Ngày 24/9/1975, trong hội đàm với đoàn Đảng và Chính phủ ta thăm TQ, Đặng Tiểu Bình nói “…Về nhận định tình hình quốc tế, hai bên có khoảng cách khá xa; về đường lối chiến lược quốc tế hoặc về những vấn đề cụ thể, hai bên có sự khác nhau rất lớn”; và TQ bắt đầu công khai ủng hộ nhóm Pol Pot, ngày 7/10/1975, Lý Tiên Niệm nói với Đại sứ Vũ Ngọc Hồ ([chính phủ Cách mạng Lâm thời] miền Nam VN) ca ngợi Đảng CPC và nói Đảng CPC có uy tín cao trong nhân dân, cứ đè nén thì họ không chịu đâu, một dân tộc giác ngộ, bất cứ nước lớn nào xâm lược thì họ chống lại vì trong tay họ có chân lý.
Từ tháng 12/1975, tình hình biên giới VN-CPC lại căng lên ở Gia Rai, Kon Tum và Đắk Lắk nhất là khu vực Bu Prang [nay thuộc tỉnh Đắk Nông]. Bọn Pol Pot tiến hành tấn công vào đồn số 6 công an biên phòng ở Đắk Lắk, giết hại một số đ/c của ta.
Ngày 5/1/1976: Pol Pot công bố Hiến pháp mới của CPC Dân chủ. Cũng ngày 5/1/76, đ/c Phạm Văn Xô (Hai Xô) ở Trung ương Cục (TWC) sang Phnom Penh thăm bí mật. Ngày 17-18/1/1976, đ/c Bảy Cường (Phạm Hùng) sang thăm bí mật CPC được Pol Pot, Nuon Chea, Ieng Sary đón tiếp rất trọng thể.
Cần phải nói rằng cũng giống như TQ, bọn Pol Pot tìm cách chia rẽ nội bộ ta, rất tranh thủ các đồng chí miền Nam (TWC) và phê phán các đ/c miền Bắc. Mặt khác, trong nội bộ ta, TWC miền Nam và Trung ương [Đảng] Hà Nội cũng có cách đánh giá khác nhau về tập đoàn Pol Pot, về tính chất cuộc chiến tranh biên giới ở Tây-nam. Về cuộc chiến tranh ở biên giới Tây-nam, TWC nặng cho rằng nguyên nhân là do địa phương ta xâm phạm biên giới CPC, do buôn lậu chứ không phải do Pol Pot khiêu khích. Cũng chính vì vậy mà ở trong Nam thiếu cảnh giác, bị thiệt hại nặng khi Pol Pot tấn công, ví dụ ngày 30/9/1977, Pol Pot tiến công toàn tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh, đánh vào khu vực TWC cũ (xã Tân Lập, huyện Tân Biên, Tây Ninh) giết hại 1.000 đồng bào ta; mặc dù tin này được dự báo trước nhưng Quân khu 7 không tin, nói là chỉ chuyện vặt ở biên giới, Tư lệnh Quân khu 7, Tướng Trần Văn Trà vẫn bình thản ở thành phố Hồ Chí Minh, khi bị tấn công mới bị động đối phó (10). Nhân đây cũng nói thêm rằng khi thành lập và tổ chức bộ máy giúp CPC năm 1978, đ/c Lê Đức Thọ không sử dụng các cán bộ TWC cũ vốn quen thuộc và giúp Đảng CPC từ nhiều năm mà tuyệt đại đa số các đ/c phụ trách chuyên gia, dầu là các đ/c mới, ở miền Bắc vào.
Trở lại vấn đề biên giới VN-CPC, tiếp theo những sự kiện xung đột ở Đắk Lắk, tháng 3/1976, Nuon Chea, Phó Bí thư Đảng CPC gửi thư cho đ/c Phạm Hùng đề nghị có cuộc gặp cấp cao 2 Đảng về vấn đề biên giới và đề nghị có cuộc gặp trù bị để chuẩn bị cho gặp cấp cao. Ngày 6/4/76, Trung ương Đảng ta điện cho Trung ương Đảng CPC tán thành đề nghị đó và thoả thuận cuộc gặp sẽ tiến hành vào tháng 6/76. Từ 4 đến 18/5/1976, đ/c Phan Hiền, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao dẫn đầu đoàn trù bị VN thăm CPC; tại cuộc họp trù bị này, phía Pol Pot đòi lấy đường biên giới trên đất liền theo bản đồ Pháp tỷ lệ 1/100.000 thông dụng trước năm 1954 nhưng đòi ta chấp nhận bản bản đồ đã bị cạo sửa 9 chỗ (11) và đòi lấy đường Brévié (12) làm đường biên giới biển nên cuộc đàm phán thất bại và không tiến hành được gặp gỡ cấp cao 2 Đảng. Hai bên chỉ thoả thuận được 3 biện pháp: tăng cường giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân; mọi va chạm phải giải quyết trên tinh thần hữu nghị, đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau; Ban liên lạc 2 bên tiến hành điều tra các vụ va chạm và gặp nhau để giải quyết.
Cũng năm 1976, có mấy sự kiện nữa đáng chú ý:
- Trong nội bộ CPC: tháng 1/1976, Pol Pot tiến hành Đại hội IV của Đảng; tổ chức tổng tuyển cử (20/3/1976); ép Sihanouk và Pen Nút từ chức Quốc trưởng và Thủ tướng, lập Chính phủ mới. Ngày 27/9/1976, Pol Pot tạm nghỉ vì “lý do sức khoẻ” thôi giữ chức Thủ tướng và Nuon Chea làm Quyền Thủ tướng và Quyền Tổng bí thư.
Phải chăng có đấu tranh nội bộ CPC? Điều này gây nhiều tranh luận trong các cơ quan Trung ương của ta theo dõi vấn đề CPC, có ý kiến cho rằng có đấu tranh giữa một bên là Pol Pot, Ieng Sary còn bên kia là Nuon Chea, Suvanna vốn có quan hệ tốt với VN. Điều trùng hợp nữa là sự kiện này diễn ra khi Mao Trạch Đông chết (9/9/1976) và sự kiện “bè lũ 4 tên” ở TQ, phía CPC tổ chức 7 ngày quốc tang, Pol Pot đọc diễn văn coi tư tưởng Mao Trạch Đông là chủ nghĩa Marx-Lenin ngày nay, đề cao thuyết 3 thế giới và đề cao công lao Mao Trạch Đông đồng thời phê phán Lâm, Lưu, Đặng. Một nguồn tin khác nói sự thật việc Pol Pot “nghỉ ốm” chỉ để về Kompong Thom trấn áp lực lượng chống đối và củng cố căn cứ chúng ở đây (Kompong Thom cũng là quê Pol Pot).
- Quan hệ CPC-TQ vốn chặt chẽ trong những năm 1970-1975 tiếp tục được đẩy mạnh với việc Tổng tham mưu phó TQ Vương Thượng Vinh thăm CPC (2/1976), ký Hiệp định TQ viện trợ quân sự cho CPC và tháng 3/1976 ký Hiệp định Chính phủ TQ viện trợ không hoàn lại cho CPC trị giá 140 triệu Nhân dân tệ và 20 triệu USD.
Trong khi đó, quan hệ Việt-Trung lạnh nhạt dần, TQ không thực hiện các công trình đã ký kết, trì hoãn việc ta sử dụng tiền vay của TQ đồng thời trong năm 1975, lại gây ra vi phạm 814 vụ ở 102 điểm trên biên giới 2 nước. Dịp Đại hội IV Đảng ta (12/1976), TQ từ chối cử đoàn sang dự, đưa tin sơ sài, điện mừng không ca ngợi Đảng ta.
Quan hệ Việt-Mỹ có điểm đáng chú ý là 10/01/1976, Liên Xô chuyển cho ta ý kiến của Kissinger về bình thường hóa quan hệ và ngày 26/3/1976, Kissinger gửi công hàm cho VN bày tỏ Mỹ sẵn sàng thảo luận phát triển quan hệ với VN và 15/11/1976, Mỹ phủ quyết VN gia nhập LHQ.
Ở Đông-nam Á, các nước ASEAN họp Hội nghị cấp cao lần thứ nhất ở Bali và ký Hiệp ước Bali (23/01/1976). Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN (24/6/1976) hoan ngênh VN thống nhất và hy vọng phát triển quan hệ tay đôi với VN. Về phần VN, ngày 5/7/1976, ta tuyên bố chính sách 4 điểm với các nước Đông-nam Á, nội dung như sau:
1) Tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình.
2) Không để lãnh thổ nước mình cho bất cứ nước ngoài nào sử dụng làm căn cứ xâm lược và can thiệp vào nước kia và các nước khác trong khu vực.
3) Thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng tốt, hợp tác KHKT và trao đổi văn hoá trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Giải quyết các vấn đề tranh chấp giữa các nước trong khu vực thông qua thương lượng trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau.
4) Phát triển sự hợp tác giữa các nước trong khu vực vì sự xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng của mỗi nước vì lợi ích độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập thật sự ở Đông-nam Á, góp phần vào hòa bình thế giới.
Bốn điểm đó bao hàm ý của ta không chấp nhận khái niệm ZOPFAN và ta (cũng như Liên Xô) vẫn cho ASEAN là tổ chức quân sự, tay sai Mỹ trong khi đó TQ ra sức tranh thủ ASEAN, công khai tuyên bố “ASEAN không phải là một liên minh quân sự”. Tình hình này diễn ra khi TQ bắt đầu công khai coi “chủ nghĩa bá quyền Liên Xô là nguồn gốc chính của sự đe dọa đối với Đông-nam Á ” và phê phán luận điểm an ninh tập thể châu Á của Báo cáo chính trị tại Đại hội 25 của Đảng Cộng sản Liên Xô tháng 3/1976).
(Còn tiếp)
—–
Ghi chú:
1 Lon Nol (lŏn nōl) , 1913–85, Cambodian general and political leader. He became defense minister and army chief of staff in 1955 in Norodom Sihanouk’s government. He served as premier (1966–67) under Sihanouk. In 1970, he led the coup that deposed Sihanouk, and assumed control of the government. He attempted unsuccessfully to suppress the Communist Khmer Rouge guerrillas, and his efforts plunged the country into civil war. After temporarily relinquishing power, he seized control in 1972 and suspended the constitution. Due to his inept leadership and anti-Communist fervor, he was forced to leave the country in 1975, when the Khmer Rouge advanced on the capital city. He settled in Hawaii.
2 Saloth Sar (May 19, 1925–April 16, 1998), better known as Pol Pot (short for Politique Potentielle, French for “potential politic”), was the ruler of the Khmer Rouge and the Prime Minister of Cambodia (officially Democratic Kampuchea during his rule) from 1976 to 1979, having been de facto leader since mid-191975. During his time in power Pol Pot instigated an aggressive policy of relocating people to the countryside in an attempt to purify the Cambodian people as a step toward a communist future. The means to this end included the extermination of intellectuals and other “bourgeois enemies”. Today the policies of his government are widely blamed for causing the deaths of perhaps 1.5 million Cambodians. In 1979, he led Cambodia into a disastrous war with Vietnam which led to the collapse of the Khmer Rouge government.
3 Nuon Chea, real name Long Bunruot, also known as “Brother Number Two” in the government of Democratic Kampuchea, was Deputy General Secretary of the Communist Party and chief lieutenant to Pol Pot during the Khmer Rouge era.
4 Ta Mok, which means “Grandfather Mok” in Khmer, was the nom de guerre of Chhit Choeun (c. 1926 – 21 July 2006), a senior figure in the leadership of the Khmer Rouge. His name has also been reported as Ek Choeun, Oeung Choeun and Ung Choeun, and he was also known as “Brother Number Five”.
5 Cáp duồn. Khm: cắp duôn = chặt người Việt. Ngày xưa khi Kampuchia đánh nhau với VN, lúc xông trận họ la „cắp duôn“ tức là chém hay chặt người VN (cho chết). Mỗi khi có cuộc nổi loạn của một „sóc“ (xóm làng) người Khmer chống lại dân Việt, người Việt thường thông báo nhau là coi chừng bị họ „cáp duồn“.
6 King-Father Norodom Sihanouk (born October 31, 1922), King of Cambodia until his abdication on October 7, 2004, is now “King-Father (Khmer: Preahmâhaviraksat, see Names and titles section below) of Cambodia,” a position in which he retains many of his former prerogatives as constitutional king.
7 Poulo Wai (Đảo Trọc) và Koh Tang, nguyên là lãnh thổ VN, nằm trong vịnh Phú Quốc, bị Khmer Đỏ chiếm sau tháng 4-1975.
8 Ieng Sary [the initial letter of the first name is "I" as in "income"] (born 1922 or 1925), a powerful figure in the Khmer Rouge was the deputy Prime Minister and Foreign Minister of Democratic Kampuchea from 1975 to 1979.
He was born in South Western Vietnam bordering Cambodia and changed his name from the Vietnamese Kim Trang when he joined the Khmer Rouge. He was the brother-in-law of the Khmer Rouge leader Pol Pot. Ieng Sary and Pol Pot studied together in Paris. Whilst there, Sary rented an apartment in the Latin Quarter, a hotbed of student radicalism. He and Pol Pot met with French communist intellectuals, and formed their own cell of Cambodian communists. This nucleus was the foundation of the Khmer Rouge leadership that would take control of the country in 1975.
9 Khieu Samphan (born July 27, 1931) was the president of the state presidium of Democratic Kampuchea (Cambodia) from 1976 until 1979. As such, he served as the country’s head of state and was one of the most powerful officials in the Khmer Rouge movement, though Pol Pot was the group’s true political leader and held the most extensive power.
10 Theo lời Đại tá Nguyễn Văn Hiệu, Cục phó Cục tác chiến Bộ Quốc phòng lúc bấy giờ. TG.
11 Có lã đây là đề nghị cũ của Sihanouk. Từ năm 1964 – 1967, Chính phủ Vương quốc Campuchia do Quốc trưởng Norodom Sihanouk đứng đầu chính thức đề nghị VN công nhận Campuchia trong đường biên giới hỉện tại, cụ thể là đường biên giới trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương thông dụng trước năm 1954 với 9 điểm sửa đổi, tổng diện tích khoảng 100 km2. Trên biển, phía Campuchia đề nghị các đảo phía Bắc đường do Toàn quyền Brévié vạch năm 1939 là thuộc Campuchia, cộng thêm quần đảo Thổ Chu và nhóm phía Nam quần đảo Hải Tặc.
12 ngày 31 tháng 1 năm 1939, Toàn-Quyền Brévié xác-định đường phân-định chia khu-vực biển giữa hai xứ bảo- hộ Cambodge và thuộc-địa Nam-Kỳ như sau: “một đường thẳng góc với đường bờ biển tạo thành một góc 140 Grade với đường vĩ-tuyến Bắc… đường phân-dịnh được xác-định như trên đi vòng qua phía Bắc đảo Phú-Quốc, cách những điểm cực Bắc của đảo nầy 3 Km”. Nhưng qua thông-tri nầy ông Brévié cũng đã thận-trọng chính- thức ghi thêm rằng đường nầy chỉ sử-dụng cho “hành-chánh và cảnh-sát” và nó không dùng để phân-định giữa xứ thuộc-địa Nam-Kỳ và xứ bảo-hộ Cambodge.
Hiện nay ít nhất lưu hành 4 cách thể hiện đường Brévié khác nhau: Đường của Pôn Pốt; đường của VN Cộng hòa; đường của ông Sarin Chhak trong luận án tiến sĩ công pháp quốc tế về “Những vùng Biên giới của Cambodge” bảo vệ ở Paris năm 1965 sau đó được xuất bản với lời tựa của Quốc trưởng Norodom Sihanouk; đường của các học giả Hoa Kỳ
Installment 2, accessed at
http://vietsuky.wordpress.com/2012/12/03/222-ghi-chep-ve-campuchia-1975-1991-2/#more-7148(còn tiếp..)