Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:45:38 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam  (Đọc 162086 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #110 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 10:28:10 am »

ĐỐC ĐOÁN

   Đốc Đoán tức Tổng Đoán tên thật là Đinh Văn Đoán người làng Vô Ngại, sau đổi là Cảnh Lâm. Ông là bạn thân tín của Nguyễn Thiện Thuật, tham gia chống Pháp từ năm 1883, khi Nguyễn Thiện Thuật chiêu mộ quân đánh Pháp ở các huyện Đông Triều, Chí Linh. Ông có mặt trong đội quân do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy đánh thành Hải Dương ngày 12/11/1883.

   Sau trận hạ thành Hải Dương không thành ông lại theo Nguyễn Thiện Thuật đánh Pháp ở Phả Lại, và giữ thành Bắc Ninh. Bắc Ninh lọt vào tay quân Pháp, Đốc Đoán theo Nguyễn Thiện Thuật lên giữ thành Hưng Hoá, đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Tuyên Quang. Sau khi Nguyễn Thiện Thuật phải tạm lánh sang Trung Quốc, Đốc Đoán trở về Cảnh Lâm chiêu mộ quân phối hợp chặt chẽ vơi hai ông Lãnh Chủ, Lãnh Điếc, chỉ huy nghĩa quân ở Xuân Trúc, Ân Thi nhưng chỉ cách thôn Vô Ngại một cánh đồng rộng.

   Nghĩa quân của Đốc Đoán đã cùng nghĩa quân Lãnh Chủ, Lãnh Điếc đánh Pháp trên đường 39, đường đê 99 Lực Điền - Cầu Hầu, tập kích quân Pháp đóng ở Lực Điền.

   Ông cũng điều động nghĩa quân và nhân dân đến Thuỷ Trúc khai hoang nuôi quân. Sau khi phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy thất bại, số ruộng của nghĩa quân trở thành công điền của làng Cảnh Lâm.

   Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu (Trung Quốc) về nước. Ông được Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích thừa lệnh vua Hàm Nghi cử ông về lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy vì Đổng Quân vụ Đinh Gia Quế bị ốm nặng. Được tin báo tháng 9/1885, Đốc Đoán về Văn chỉ Bình Dân dự lễ tế cờ. Ông nhận nhiệm vụ phối hợp với Đốc Đồng, Lãnh Mậu, Lãnh Chủ, Lãnh Điếc chống, đánh quân Pháp ở Mỹ Hào và Ân Thi.

   Đốc Đoán chỉ huy nghĩa quân đánh nhiều trận. Ngày 3/3/1889, hôm đó là ngày chủ nhật, Đốc Đoán tham gia đánh quân Pháp đặt đường dây điện thoại từ Lực Điền đi Sặt, tiêu diệt một số tên làm ngừng trệ công việc. Báo Tin tức Hải Phòng số 250 ra ngày thứ năm, 7/3/1889 viết như sau: "Chủ nhật ngày mùng 3 tháng 3 tổ điện báo có nhiệm vụ đặt đường dây nối từ Lực Điền lên Kẻ Sặt bất ngờ bị tấn công trong tỉnh Hưng Yên. Lực lượng tấn công đông chừng 100 tên”.

   Lịch sử Đảng bộ và nhân dân xã Tân Việt xuất bản năm 1997  viết: "Vào cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp mở rộng phạm vi đô hộ nước ta thì cũng tà lúc phong trào Cần vương bùng nổ. Tại khu vực tỉnh nhà có phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy do ông Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy. Tân Việt (trong đó có Cảnh Lâm) là một căn cứ của nghĩa quân. Nhân dân Tân Việt đã tự nguyện đứng dưới cờ khởi nghĩa của nghĩa quân Bãi Sậy. Nhiều người là tướng lĩnh tin cẩn của ông đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu dũng cảm chống đội quân xâm lược và đội quân nhà Nguyễn, làm cho chúng bao phen khiếp sợ”.





LÃNH DUỆ

   Lãnh Duệ quê gốc ở Nghệ An người cao, gầy, giỏi võ nghệ. Ông đã từng chiến đấu chống quân Pháp ở Nghệ An, bị quân Pháp truy nã, phải chạy ra Bắc, làm con nuôi cụ Tán Thuật rồi ở lại làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hải Dương. Tới nay con cháu cũng không nhớ rõ ông họ Vương hay họ Hoàng. Điều này được chứng minh là khi phong trào Bãi Sậy tan rã, giặc Pháp tới xã Xuân Dục truy xét một người mang hai họ Vương và họ Hoàng.

   Tuy Lãnh Duệ theo nghề võ, nhưng đã từng theo học chữ Nho tới khoá sinh Vì thế tuy Nguyễn Thiện Thuật phong ông làm lãnh binh, nhưng vẫn giữ nhiệm vụ văn thư. Lãnh Duệ cũng là người thay mặt Nguyễn Thiện Thuật tiếp kiến các tướng đề đạt kiến nghị của họ lên và truyền mệnh lệnh của Nguyễn Thiện Thuật đến các tướng lĩnh. Tuy vậy Lãnh Duệ vẫn cầm quân đánh giặc.

   Nguyễn Thiện Thuật đã phái Lãnh Duệ tới các xã trong huyện Mỹ Hào, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên phát động nhân dân khởi nghĩa. Từ cuối năm 1885, đầu năm 1886, Nguyễn Thiện Thuật phái Lãnh Duệ về xây dựng căn cứ ở chùa Xuân Nhân. Căn cứ xây dựng xong ông là người chỉ huy căn cứ này, cây đề cạnh chùa Xuân Nhân là vọng gác tiền tiêu của căn cứ. Từ căn cứ Xuân Nhân - Xuân Bản - Xuân Đào quê hương của Nguyễn Thiện Thuật, Lãnh Duệ đã tới xã Lương Xá gặp vợ chồng Lãnh Lường, tới làng Khuốc gặp anh em Lãnh Thảo bàn kế hoạch tác chiến và thu lương.

   Tháng 10 năm 1890, Nguyễn Thiện Thuật đi Trung Quốc cầu viện, giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế. Lãnh Duệ chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế. Lãnh Duệ đã cùng Lãnh Thảo, Hai Thao, Đốc Muỗi ở làng Khuốc, Tuần Khấu, Đốc Nhông ở Hương Lãng chiến đấu chống quân Pháp ở Nam Bắc Ninh, Bắc Hải Dương. Nguyễn Thiện Thuật đi Trung Quốc, nhưng dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thiện Kế , Đề Vinh, Lãnh Duệ, Đề Ban, Hai Thao... vẫn hết lòng giúp đỡ Nguyễn Thiện Kế đánh đuổi quân Pháp, xây dựng cơ sở, cử những người của nghĩa quân ra làm chánh tổng, lý trưởng, đóng thuế, quyên góp cho nghĩa quân.

   Tháng 4 năm 1892 , Nguyễn Thiện Kế, Đề Vinh thất trận ở Ngô Phần, Bích Khê, huyện Lang Tài, Bắc Ninh, nghĩa quân Bãi Sậy tan rã. Lãnh Duệ trở về Xuân Đào, Xuân Nhân mưu toan khôi phục phong trào.

   Quân Pháp kéo về Xuân Dục bắt người mang hai họ Vương, Hoàng người Nghệ An. Song ông đã được báo trước nên trốn đi gia nhập nghĩa quân của Đề Thám. Không bắt được ông, chúng sục vào khắp các xóm bắt con cháu ông. Khi đó anh Luận, con trai ông Duệ cho rằng mình đã đổi họ sang họ Phạm là họ của mẹ, chúng không biết, nên chỉ trốn quanh làng. Chúng bắt được Luận đầy đi Côn Đảo. Hết hạn tù, Luận được tha, trở về nhà làm thợ mộc, chết năm 1967, thọ 77 tuổi.

   Từ khi Lãnh Duệ lên Yên Thế tham gia cuộc khởi nghĩa do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo, con cháu không nhận được tin tức gì chỉ nghe phong thanh lên đó ông đổi tên là Cai Thanh hay Cai Chanh. Con cháu cúng giỗ vào ngày ông đi là ngày 28 tháng 8 âm lịch. Nhưng theo Nguyễn Thiện Kế nói lại thì Lãnh Duệ hy sinh trong trận chiến đấu với quân Pháp ở Tam Lộng, tỉnh Vĩnh Phúc.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #111 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 10:29:44 am »

ĐỐC ĐỒNG

   Đốc Đồng tên thật là Vũ Văn Đồng, còn gọi là Đốc Quần, quê ở xã Tam Trạch, tổng Sài Trang, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, nay thuộc xã Trung Hoà, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.

   Vũ Văn Đồng chiêu mộ nghĩa quân, dựng cờ khởi nghĩa ngay từ khi giặc Pháp hạ thành Hải Dương và thành Hưng Yên lần thứ hai (1883). Hai năm đầu ông chiến đấu dưới sự chỉ huy của Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật. Cuối năm 1884, Nguyễn Thiện Thuật chuyển địa bàn hoạt động lên Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn sau đó sang Long Châu, (Trung Quốc) thì ông chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đổng quân vụ Đinh Gia Quế.

   Tháng 9/1885, khi Đinh Gia Quế bị ốm, nằm dưỡng bệnh ở xã Dương Trạch (trong căn cứ Bãi Sậy) Nguyễn Thiện Thuật về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, được vua Hàm Nghi phong Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần. Ông Thuật đưa phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy lên một quy mô lớn trên phạm vi các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên, Phúc Yên, Phủ Lạng Thương, Sơn Tây. Xã Tam Trạch căn cứ của Đốc Đồng và Lãnh Mậu chỉ qua một cánh đồng tới thôn Xuân Nhân, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, là tiền đồn của đại bản doanh Nguyễn Thiện Thuật những năm 1885, 1886; qua sông Nghĩa Trụ ở bến Cầu Hàu. Đốc binh Vũ Văn Đồng lập được nhiều công lao như trận đánh quân Pháp tấn công vào làng Tam Trạch; trận tấn công đồn Mai Đường ở xã Đỗ Mỹ, huyện Ân Thi.

   Cuối năm 1889 giặc Pháp mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Tam Trạch - Nguyễn Xá chúng bắt được Đốc binh Vũ Văn Đồng đưa đi đày ở Côn Đảo. Chúng chém ông sau một lần ông cầm đầu cuộc đấu tranh quyết liệt với bọn giám ngục, vứt thây xuống biển, chặt đầu ướp muối đưa về cắm cọc bêu ở huyện Mỹ Hào. Sau nghĩa quân cùng con cháu lấy được đầu ông đưa về táng ở quê, không có thân thể, con cháu đành lấy cành dâu làm xương đưa về táng, chỉ đánh dấu, không đắp nấm.





BANG ẤM

   Bang Ấm tên thật là Phạm Ngọc Toản là con trai độc nhất của Ngự sử Phạm Ngọc Xuân. Phạm Ngọc Toản là người thông tuệ học nhiều, hiểu rộng, thông kinh sử, nhưng không thích chốn quan trường ràng buộc, chỉ thích vui thú cảnh điền viên, nên không đi thi. Giữa lúc ấy quan Tán Nguyễn Thiện Thuật đứng lên chống giặc Pháp vận động ông gia nhập nghĩa quân Bãi Sậy. Sẵn có tấm lòng yêu nước, được Nguyễn Thiện Thuật động viện, ông hăng hái nhận lời, nhận ra làm quan Bang. Trong thời gian làm quan, ông đã thu thập được nhiều tin tức về các cuộc hành quân, vây bắt các thủ lĩnh kịp thời báo cho nghĩa quân. Việc này đã giúp cho nghĩa quân tránh được nhiều tổn thất, còn quân Pháp thì bị khốn đốn.

   Nhằm đẩy nhanh tốc độ khai thác thuộc địa ở xứ Bắc Kỳ, giặc Pháp thẳng tay đàn áp phong trào Cần vương. Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị quân Pháp đem quân vây đánh liên tục. Nghĩa quân bị tan vỡ, Nguyễn Thiện Thuật phải trốn tránh hết nơi này đến nơi khác. Trước tình hình đó ông thấy mình không thể làm gì được cho nghĩa quân nữa, ông xin từ chức quan Bang. Về nhà được ít lâu Nguyễn Thiện Thuật biết ông chưa bị lộ, bí mật cho người đến bàn cách tiếp tục chống giặc.

   Nguyễn Thiện Thuật phái ông Toản và một số thủ lĩnh nghĩa quân lên miền rừng núi Yên Bái lập đồn điền để trồng cấy lấy lương thực, đồng thời dựa vào thế rừng núi hiểm trở làm nơi tụ nghĩa. Ông Toản liền làm đơn với chính quyền Pháp đưa số nghĩa quân đã ra hàng hoặc chưa bị lộ đi mở đồn điền ở tỉnh Yên Bái. Nghe ông Toản trình bày chúng rất mừng vì sơn lâm, chướng khí, nước độc sẽ giết chết số nghĩa quân đó, chúng sẽ không mang tiếng giết người đã ra hàng. Chúng chẳng những cấp giấy phép, mà còn chu cấp cả nông cụ, lương thực, thuốc men cho anh em. Ông Toản cùng đi với anh em đến nơi lập đồn điền rồi về đón Nguyễn Thiện Thuật đang trú ẩn ở một nơi an toàn đi Cao Bằng để sang Trung Quốc cầu viện nhà Thanh.

   Anh em ở đồng bằng lên, lạ nước, lạ cái ăn uống không giữ được vệ sinh, uống nước suối, ăn quả xanh, mùng màn không có, nên bị sơn lam, chướng khí, muỗi đốt bị sốt rét chết gần một nửa. Số còn lại nản chí bỏ về gần hết. Khi ông Toản đưa Nguyễn Thiện Thuật lên Cao Bằng trở về nơi lập đồn điền thì chỉ còn dăm người, đành bàn với nhau hãy trở về quê, chờ Nguyễn Thiện Thuật về sẽ bàn kế chống giặc. Thế là ông cùng mấy anh em lủi thủi luồn rừng trở về nhà. Ông không ở đấy lâu nhưng cũng bị bệnh sốt rét, ốm đau dai dẳng, quặt quẹo mãi, sau đó qua đời vào ngày 11 tháng 6 khi mới 37 tuổi.

   Chuyện về ông bang biện Phạm Ngọc Toản chống Pháp do bà Phạm Thị Oanh, tức Chiêu Oanh là em gái ông Toản kể lại cho Phạm Dung là cháu gọi là bà cô từ trước cách mạng Tháng 8 năm 1945, sau này ông Phạm Dung viết lại trong gia phả dòng họ Phạm ở xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.

   Cứ mỗi lần kể xong, bà lại khóc nức nở. Qua cơn xúc động, cụ lau khô nước mắt nói nhỏ với cháu: "Bà nói cho cháu nghe chuyện gian truân của nhà mình để cháu biết thôi chớ có hở môi ra với ai, Tây nó biết nó cắt lưỡi đấy. Làng ta và làng Đậu làng vẫn vẫn có mật thám rình mò đấy. Chả thế mà cụ Hai Kế, em cụ Tán bị giặc Pháp bắt đày ra Côn Đảo, ngoài bẩy chục tuổi nó mới thả về. Khi cụ mất, mật thám còn về soát xét xem có phải cụ chết thật không hay là nói ra như thế để trốn đi làm Hội kín. Cháu nhớ nhời bà dặn nhé”. (Theo bài kể của cụ Phạm Dung, cụ Phạm Toán - Cháu tam đại cụ Bang Ấm)
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #112 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 10:32:39 am »

LÃNH THẢO

   Ngày 20 tháng 8 năm 1883, Triều đình Huế ký với thực dân Pháp Hiệp ước Harmand, ra lệnh cho các quân thứ Bắc Kỳ bãi binh, Tán tương quân vụ, Tổng đốc Hải - Yên Nguyễn Thiện Thuật kháng chỉ, từ quan về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Ông cho quân về các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh kêu gọi mọi người gia nhập nghĩa quân.

   Năm anh em ông Lê Văn Thảo, Lê Văn Thao, Lê Văn Muỗi, Lê Văn Điền, Lê Văn Cỡi người làng Khúc Nhu tên nôm là làng Khuốc cùng các ông Cai Thóc, Xã Tiên, Sư Rốn ở thôn Kim Huy, Vũ Xuân Quang ở thôn Yên Xá đều ở tổng Lỗ Xá, huyện Đường Hào đã thành lập đội nghĩa binh hàng tổng gia nhập cuộc khởi nghĩa này.

   Sau trận đánh thành Hải Dương không thành, Nguyễn Thiện Thuật giao cho một số chỉ huy nghĩa quân trở về quê xây dựng lực lượng vũ trang bí mật. Ông chỉ huy hơn 300 quân phối hợp với các lực lượng vũ trang khác, đánh quân Pháp ở Phả Lại, tham gia giữ thành Bắc Ninh, Hưng Hoá, đánh quân Pháp ở Phủ Lạng Thương, Kép, cầu Quan Âm (Lạng Sơn). Sau trận này, Chính phủ Pháp và Triều đình Mãn Thanh ký "Hiệp ước Hoà bình” rút hết quân Triều đình và quân Cờ Đen về nước. Quân Pháp huy động lực lượng lớn đánh phá Lạng Sơn, Nguyễn Thiện Thuật phải giải tán nghĩa quân, rồi sang Long Châu, Trung Quốc.

   Trong khi đó thì tại Khúc Khu, anh em Cả Thảo cùng các ông đầu lĩnh nghĩa quân khác ở xã Lỗ Xá hoạt động gặp nhiều khó khăn, vì quân Pháp đóng đồn ở Bần Yên Nhân, huyện lỵ Mỹ Hào, đồn Đống Mối.

   Sau một thời gian, Nguyễn Thiện Thuật về nước, tháng 9 năm 1885, ông tổ chức lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, triệu tập các tướng về dự. Cả Thảo, Vũ Xuân Quang, Ba Muỗi cũng được về dự. Sau lễ tế cờ, Nguyễn Thiện Thuật đã phong chức tước cho tướng lĩnh. Cả Thảo và Vũ Xuân Quang được phong chức Lãnh binh, Ba Muỗi được phong chức Đốc binh.

   Để phá âm mưu tiêu diệt phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy của thực dân Pháp, Nguyễn Thiện Thuật lệnh cho các tướng đồng loạt tấn công đồn binh Pháp. Lãnh Thảo, Lãnh Quang, Đốc Muỗi nhận được lệnh cùng Tuần Khấu, Đốc Nhông quê ở tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xây dựng vùng Khuốc - Lạng thành căn cứ quân sự quan trọng ở vùng Tây bắc Hải Dương, Tây - Nam Bắc Ninh.

   Ngày 11/11/1888, Lãnh Thảo, Lãnh Quang nhận được lệnh của Nguyễn Thiện Thuật, liền điều động 80 nghĩa quân của tổng An Xá về cánh đồng xã Liêu Trung, tổng Liêu Xá, cũng thuộc huyện Mỹ Hào tham gia trận phục kích lớn. Quân ta diệt 31 tên Pháp trong đó có giám binh Louis Ney và bang tá Nguyễn Hữu Hào, bắt hụt Hoàng Cao Khải.

   Lãnh Thảo cùng với Hai Thao, Đội Khĩnh, Đội Thi đều là người làng Khuốc chỉ huy 150 nghĩa quân từ Mễ Xá (Ân Thi) theo đường 38 hiện nay rút về căn cứ của Lãnh Chủ, Lãnh Điếc ở Xuân Trúc, Xuân Đình rồi từ đó về căn cứ Bãi Sậy. Nhưng đi tới Chu Xá (Ân Thi) thì các ông bị quân Pháp mai phục đổ ra đánh, các ông phải chạy sang ấp Thuần Xuyên. Các ông vừa đánh, vừa rút về vùng Tam Tổng (Xuân Đào, Xuân Nhân, Xuân Bản) quê hương của chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật. Nghĩa quân bị thiệt hại nặng nề. Lãnh Thảo bị thương gẫy chân, mấy nghĩa quân cõng ông giấu trong một cái bếp của nhà dân ở làng Xuân Nhân. Ông biết mình không thể sống truyền lệnh cho mấy nghĩa quân: “Nếu giặc ập đến thì đốt nhà, kéo sập xuống”, nói rồi ông rút súng lục ghé vào tai bóp cò tự sát.






ĐỐC MUỖI

   Đốc Muỗi tên thật Lê Văn Muỗi quê ở làng Khúc Khu, xã Lỗ Xá, tổng Yên Xá, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Phúc Xá, xã Phan Đình Phùng, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên.

   Tháng 4 năm 1883, khi Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật quê ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, tổng Bạch Sam huyện Mỹ Hào làm Tổng đốc Hải - Yên từ quan về Đông Triều khởi nghĩa đánh Pháp, thì bốn anh em trai trong đó có Lê Văn Muỗi đã chiêu mộ dân làng Khuốc gia nhập đội nghĩa binh về Đông Triều ứng nghĩa.

   Lê Văn Muỗi cùng với các anh trai là Cả Thảo, Hai Thao và các ông Vũ Xuân Quang, Cai Thóc, Cai Tiên, Sư Rốn đều là những người ở các thôn trong xã Lỗ Xá thành lập một đội nghĩa quân bí mật, luyện tập quân sự, chờ thời cơ khởi nghĩa. Các ông đã nhiều lần cảnh cáo bọn lý dịch trong tổng không được theo Pháp làm hại dân, khống chế ba em trai của Cả Nhiên đã đi lính đeo lon đội nhất lính Khố đỏ không được tiếp tay cho Pháp làm hại dân.

   Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật ở Long Châu nhận được tin vua Hàm Nghi xuất bôn ra sơn phòng Quảng Trị hạ chiếu Cần vương liền về nước. Ông được vua Hàm Nghi phong là Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy thay Đổng Quế vừa lâm bệnh từ trần.

   Tháng 9/1885, Ba Muỗi cùng với anh trai là Cả Thảo, Vũ Xuân Quang được triệu tập về Văn chỉ Bình Dân dự lễ tế cờ và nghe đọc chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Sau lễ tế cờ, thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật phong chức tước cho chỉ huy các đội nghĩa quân. Lê Thảo và Vũ Xuân Quang được phong chức Lãnh binh, ông được phong chức Đốc binh. Trở về quê, các ông đã phát triển lực lượng nghĩa quân ở tổng Yên Xá. Các ông còn liên kết với nghĩa quân tổng Thái Lạc, phủ Thuận Thành do Tuần Khấu, Đề Quân, Đốc Nhông chỉ huy thành “căn cứ Khuốc - Lạng".

   Đốc Muỗi đã tham dự nhiều trận phối hợp với Tuần Khấu, Đốc Nhông ở thôn Hương Lãng, tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành tấn công đồn Bần Yên Nhân, lấy được đầu Đề Quân bị chúng cắm cọc bêu ở cổng đồn. đốt cháy đồn vào khoảng tháng 3 năm 1886.

   Trong năm 1886-1887 ông cùng Lãnh Thảo, Lãnh Quang, Đôi Khĩnh, Đội Thi đánh phá các đồn binh trạm gác của giặc Pháp mới xây hoặc đang xây ở đường 5 đoạn từ Phố Nối đi huyện lỵ Đường Hào, đoạn từ Quán Gỏi đi Cẩm Giàng - Bắc Ninh. Khi nhận được tin quân Pháp đóng dã ngoại ở cầu Bà Sinh thuộc huyện Thuận Thành, nay thuộc Văn Lâm, ông đem quân tập kích, giết chết một số tên, thu vũ khí. Ông phối hợp với nghĩa quân tổng Thái Lạc tấn công đồn Điền (Xuân Đào), đồn Đống Mối (Đông Mai) gây cho chúng thiệt hại nặng nề. Ông cũng có mặt trong trận nghĩa quân mai phục ở cánh đồng Liêu Trung giết chết 31 tên lính Pháp, lính Nam, trong đó có tên giám binh Louis Ney, bang tá Nguyễn Hữu Hào, bắt hụt Hoàng Cao Khải.

   Tháng 12/1888 ông cùng Lãnh Thảo, Lãnh Quang tập kích vào sườn quân hỗn hợp Lê dương - pháo binh Bắc Kỳ - vệ binh dân sự đông tới 223 tên do trung uý Corre chỉ huy đang tấn công đội quân của Lãnh binh Lưu Ngọc Tháu ở làng Liêu Trung tổng Liêu Xá cũng ở huyện Đường Hào khiến quân Pháp phải tháo chạy.

   Giặc Pháp càn quét vùng Khuốc - Lạng bắt được Đốc Muỗi tại chợ Trạm, phủ Thuận Thành. Chúng áp giải ông về đồn Đống Mối tra hỏi. Ông không khai báo nửa lời, còn nguyền rủa chúng là quân bán nước thờ quan Tây. Suốt hai ngày ròng rã Đốc Muỗi nhịn ăn, nhịn uống. Bọn giặc ở đồn Đống Mối nhốt ông vào cũi sắt kéo từ Đống Mối, qua Hương Lãng, đến làng Khuốc chúng gọi loa cho người nhà ra nhận mặt. Chúng kéo ông về đồn Bần Yên Nhân. Trước khi đưa ông ra xử chém, chúng cho ông một bát cơm, ông hất cơm đi, đập bát lấy mảnh khoét rốn lôi ruột ra thét lớn: "Muỗi từ nay không thèm đốt chúng bay nữa mà nhân dân sẽ giiết chúng bay!”. Chúng sai tên đao phủ xông tới chém ông. Dòng máu hồng của ông vọt lên cao tưới ướt đẫm mảnh đất Bần Yên Nhân nơi đã thấm máu biết bao anh hùng liệt sĩ bị chúng hành hình ở đây. Chúng đem đầu ông cắm cọc đem bêu, còn thây vứt xuống sông Bần Yên Nhân, trôi dạt vào vó bè của cánh đồng Đìa, nhân dân vớt lên chôn ở mé song. Vài ngày sau anh em đang đêm tới đào lên đem về làng Khuốc chon, chỉ đánh dấu hòn đá rồi san bằng mặt.

   Từ ấy cho đến nay, con cháu (chỉ có ông Tư Dệu là có con, còn bốn ông chưa có vợ con) không biết đích xác ngày ông hi sinh chỉ cúng ông vào ngày ông đi. (Lê Quang Tuyến - Lê Thị Hoà cháu gọi bằng ông và các cụ cao tuổi ở làng Khúc Khu (Phúc Xá), làng Lạng (Hương Lãng) kể với tác giả.)
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #113 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 10:34:53 am »

LÃNH LƯỜNG

   Lãnh Lường tên thật là Nguyễn Văn Lường sinh năm 1863, quê ở làng Lương Xá, tổng Bạch Sam, huyện Mỹ Hào. Từ tháng 4 năm 1883, Nguyễn Thiện Thuật mộ quân đánh Pháp. Rất nhiều trai tráng trong huyện tham gia. trong số đó có Nguyễn Văn Lường đã tới Đông Triều ứng nghĩa.

   Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật làm lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân (Khoái Châu, Hưng Yên) phát động cuộc khởi nghĩa trên qui mô lớn. Ông Nguyễn Văn Lường ở Lương Xá cũng được triệu tập về dự. Sau lễ Tế cờ, ông Lường được phong là Lãnh binh, được cử cùng Lãnh Đậu (quê Thuận Thành, Bắc Ninh) hoạt động ở các xã thuộc tổng Bạch Sam. Lãnh Lường cùng Lãnh Đậu được lệnh đưa quân đánh bọn phản động cưỡng bức dân rào làng, lĩnh súng của Pháp chống lại nghĩa quân ở làng Ngọc Cục, huyện Bình Giang, Hải Dương. Ngày 12/11/1888, Lãnh Lường tham gia đánh trân phục kích lớn ở cánh đồng Liêu Trung, góp phần vào chiến công giết 31 tên Pháp, trong đó có giám binh Louis Ney. Lãnh Lường phối hợp chặt chẽ với các lực lượng nghĩa quân khác liên tục đánh quân Pháp trên địa bàn huyện Mỹ Hào. Bị thua đau nhiều trận quân Pháp khủng bố ác liệt nhân dân huyện Mỹ Hào.

   Năm 1890 quân Pháp mở nhiều trận tấn công lớn vào vùng Bắc Hải Dương, Hưng Yên, Nam Bắc Ninh, nhưng đội nghĩa quân do Lãnh Lường chỉ huy vẫn bảo vệ được làng Lường, vẫn mở nhiều trận đột kích vào các đồn binh Pháp.

   Tháng 10 năm 1890, cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy suy yếu, Nguyễn Thiện Thuật giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế, sang Trung Quốc mưu một cuộc vận động mới. Tuy vậy trong suốt những tháng cuối năm 1890 và đầu năm 1891, cuộc kháng chiến của các đội nghĩa binh và nhân dân Mỹ Hào vẫn tồn tại.

   Quân Pháp, quân Nam triều tập trung binh lực tiêu diệt thủ lĩnh, đánh tan rã các cánh quân chủ lực của cuộc khởi nghĩa như Đốc Sung tháng 3/1891; Đốc Cọp tháng 5/1891; bốn anh em Đề Tính và Lãnh Điển tháng 8/1891; Đề Ban tháng 12/1891… thì cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị suy yếu hoàn toàn, quân Pháp tập trung quân đánh phủ huyện Mỹ Hào và các huyện Lang Tài, Gia Bình ở Nam Bắc Ninh. Khoảng tháng 1 -2 năm 1892, Lãnh Lường và Lãnh Đậu đóng quân ở làng Vân An bị quân Pháp truy kích phải chạy sang làng Vũ Xá, nơi Lãnh Đậu đang trú quân. Quân Pháp tập trung quân bao vây, đánh phá. Các ông buộc phải phá vây. Lãnh Đậu hy sinh. Lãnh Lường chạy thoát sang làng Bùi. Quân Pháp đem hàng trăm quân bao vây chặt làng Bùi. Lãnh Lường đem quân ra đột phá ở hướng Đông của làng thu hút quân địch để đại bộ phận nghĩa quân và dân làng rút ra khỏi làng theo hướng Tây và đã hy sinh, giặc chặt đầu ông bêu ở phố Bạc.

   Dân làng Bùi chôn cất ông, biết ơn ông hy sinh vì dân, vì nước, đã bốc bát hương phối thờ ông ở trong đình, sau lập miếu thờ ở gốc cây đề gần đình.

   Đến nay các cháu của ông đã cải táng ông ở đồng làng Lương Xá và trong nhà tổ của ngôi chùa làng Lương Xá có một ban thờ ông. (Ghi theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Nhiêu 82 tuổi là cháu gọi cụ Lãnh Lường là ông chú kể theo gia phả)





ĐỐC NHÔNG

   Tháng 9 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật họp hội nghị các tướng và làm lễ tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, Khoái Châu. Nguyễn Văn Nhông, Tuần Khấu, ông Quân cũng được triệu tập về dự. Tại lễ Tế cờ, Nguyễn Thiện Thuật nhận được sắc của vua Hàm Nghi phong là Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, gia chấn Trung tướng quân. Nguyễn Thiện Thuật phong cho Nguyễn Văn Long chức Chánh tuần huyện, ông Quân được phong là Đề đốc, Nguyễn Văn Nhông được phong là Đốc binh nên thường gọi là Đốc Nhông.

   Ngày 26/10/1884, Đốc Nhông có mặt trong trận đánh quân Pháp ở cầu Quan Âm, Bắc Lệ, Lạng Sơn. Đốc Nhông còn tham gia nhiều trận quân ta đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Tuyên Quang.

   Sau khi dự lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân về, Đốc Nhông góp phần tích cực cùng Chánh tuần Khấu chiêu mộ thêm nghĩa quân, trang bị vũ khí, quyên góp lương thực. Các ông cũng xây dựng xã Hương Lãng, xã Phượng Trì, xã Xuân Ao thành những làng chiến đấu.

   Trong khi các ông đang khẩn trương trang bị vũ khí, luyện quân thì nhận được tin bọn chỉ huy Pháp ở đồn Bần Yên Nhân đang ráo riết tập hợp quân ở các nơi để tấn công vào các căn cứ Hương Lãng, Xuân Ao, Phượng Trì. Đốc Nhông đưa ra ý kiến là phải đánh phủ đầu trước. Kế hoạch trên được Chánh tuần Khấu và Đề Quân nhất trí. Ngay tối hôm đó nghĩa quân tổng Thái Lạc làm lễ Tế cờ ở đình Chạ xã Hương Lãng, xuất quân đánh đồn Bần Yên Nhân. Trận này do Đề Quân trực tiếp chỉ huy, Đốc Nhông bảo vệ căn cứ.

   Cuối năm 1888, Nguyễn Thiện Thuật điều động 100 nghĩa quân tổng Thái Lạc do Đốc Nhông chỉ huy vào đội quân cơ động do Nguyễn Thiển Kế, Đề Vinh chỉ huy hoạt động ở Bắc Hải Dương, Nam Bắc Ninh.

   Tháng 10 năm 1890, nhận thấy tình hình trong nước khó khăn, Nguyễn Thiện Thuật giao binh quyền cho Nguyễn Thiện Kế rồi sang Trung Quốc mưu tính một cuộc vận động mới. Song tình thế đã khác, việc không thành, ông cũng không thể về nước được.

   Trong những năm tháng khó khăn đó, Đề Vinh, Quan Bá Học, Đốc Nhông vẫn giúp Nguyễn Thiện Kế duy trì được đội quân thường trực trên 300 người. Đội quân này cùng với các tướng Đề Ban ở Ân Thi, Đốc Cọp ở Kim Động, Đốc Sung, Lãnh Tháu ở Yên Mỹ, Chánh Tính, Lãnh Điển ở Khoái Châu duy trì cuộc chiến đấu. Một cuộc chiến đấu không cân sức giữa một bên là 409 quân Pháp, trang bị vũ khí hiện đại, có đại bác yểm trợ, một bên là 70 nghĩa quân do Đề Vinh, Quan Bá Học, Đốc Nhông chỉ huy và khoảng 40 nghĩa quân làng Ngô Phần do Hai Dĩnh chỉ huy.

   Song nghĩa quân dựa vào hào lũy kiên cố đã bắn chết, làm bị thương hơn 10 tên Pháp. Quân Pháp nhận được quân tiếp viện từ Bắc Ninh do tên sĩ quan Pierrot, Feleppit, Vilian... kéo tới cùng hai khẩu pháo. Chúng tấn công ác liệt vào Ngô Phần. Nghĩa quân đợi chúng tiến sát lũy tre mới bắn, giết chết tên Desmot, bắn trọng thương giám binh Lambert cùng trên 20 lính Pháp, lính Nam. Song nghĩa quân cũng bị tổn thất, Hai Dĩnh cùng 30 nghĩa quân hy sinh. Đề Vinh, Đốc Nhông, Quan Bá Học quyết định đi ngược luồng đạn của giặc để thoát khỏi vòng vây. Đó là quyết định táo bạo và sáng suốt, vì nếu còn ở lại trong làng sẽ bị chết dưới làn đạn đại bác và đạn bắn thẳng của giặc. Nhưng cả 30 chiến sĩ trong đó có Đề Vinh, Đốc Nhông, Quan Bá Học, Am đều hy sinh. Song trong trận phá vây táo bạo này quân Pháp cũng bị chết năm tên trong đó có tên Montillion, bảy tên khác bị thương.

   Ba ngày sau xác của Đốc Nhông trôi lập lờ trên sông Bích Khê đổ ra cống huyện lỵ Cẩm Giàng đổ ra sông Cẩm Giàng. Những người dân ven sông vớt lên an táng trên bờ sông. Song sợ giặc khủng bố, họ đánh dấu bằng một tảng đá lớn, rồi đắp một cái mộ giả cách đó một quãng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #114 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 10:36:24 am »

NGUYỄN VĂN LONG

   Nguyễn Văn Long, con trai cụ Nguyễn Đình Chi, được Triều đình phong chức "Bách hộ hầu”. Ông quê ở làng Phượng Trì, còn gọi là làng Xuân Ao, tên Nôm là làng Ao.

   Ông làm Chánh tổng rồi làm Chánh tuần huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật từ Trung Quốc về nước hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Lễ bộ thượng thư Nguyễn Quang Bích được vua Hàm Nghi ủy quyền chủ trương chống Pháp ở Bắc Kỳ, khi đó chỉ huy căn cứ ở Tiên Động, Phú Thọ giao cho Nguyễn Thiện Thuật về trực tiếp lãnh đạo căn cứ Bãi Sậy do Đổng Quế chỉ huy nhưng đang bị ốm nặng. Nguyễn Thiện Thuật đã đưa cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lên quy mô lớn khắp các tỉnh Hưng Yên, Bắc Ninh, Hải Dương, Quảng Yên, Bắc Giang. Các xã Phượng Trì, Hương Lãng của huyện Thuận Thành nằm giáp huyện Mỹ Hào là một trong những căn cứ lớn của nghĩa quân nên có nhiều người gia nhập cuộc khởi nghĩa.

   Trước khí thế sôi sục đó Nguyễn Văn Long từ quan về quê chiêu mộ quân khởi nghĩa. Hầu hết tuần đinh và tráng đinh tổng Thái Lạc, huyện Thuận Thành gia nhập nghĩa quân do ông chỉ huy. Khi đã có vài trăm quân, ông đến căn cứ Xuân Nhân gặp phái viên của cụ Tán bẩm báo tình hình, xin gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Nguyễn Văn Long được phái viên của cụ Tán chỉ định chỉ huy nghĩa quân tổng Thái Lạc và các xã phụ cận.

   Vốn là người phụ trách công việc trị an, an ninh trong huyện, nên Nguyễn Văn Long rất thạo việc binh. huấn luyện quân sĩ và xây dựng các đồn trại công khai, bí mật ngăn chặn quân Pháp đánh vào Hương Lãng, Xuân Ao, Phượng Trì.

   Khi Lãnh Vắn ở Đông Mai làm phản, giết hại nhiều thủ lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy, thì Nguyễn Văn Long cũng bị Lãnh Vắn chỉ điểm cho giặc Pháp bắt. Chung đưa ông ra tù Côn Đảo. Khi được trả tự do, ông gả em gái cho Lãnh Hạp ở Tam Má, rồi lên Thuận Thành tiếp tục sự nghiệp chống Pháp.

   Nguyễn Văn Long cùng Lãnh Hạp đánh Pháp ở Thuận Thành, Gia Bình, ông hy sinh trong trận đánh thành Thuận Thành. Đồng đội chôn xong xóa dấu vết, đánh dấu. Mất 20 năm sau con cháu mới đưa hài cốt về quê, nay mộ thất lạc. Con cháu cúng giỗ vào ngày 15 tháng giêng. (Ghi theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Nguyên 84 tuổi ở thôn Thanh Khê, cháu ba đời Nguyễn Văn Long).






QUẢN CẦU

   Lê Hữu Cầu còn gọi là Quản Cầu, quê ở làng Lưu Xá, xã Nhật Tân, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Ông sinh khoảng năm 1860 trong một gia đình nho học. Tháng 7 năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi, ông chiêu mộ trai tráng ở địa phương dấy binh Cần vương tập kích quân Pháp ở Cầu Giẽ (cầu bắc qua sông Nhuệ, trên đường số I), gây cho chúng thiệt hại nặng nề, chúng phải tháo chạy.

   Lê Hữu Cầu nhận thấy ông chỉ có gần 100 quân không thể chống chọi lâu dài với giặc Pháp liền đưa quân vượt sông Hồng sang căn cứ Dạ Trạch gia nhập vào cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Khi đó phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy do Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy.

   Lê Hữu Cầu đến Bãi Sậy khoảng một tháng thì được dự lễ tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân tổ chức vào tháng 9 năm 1885. Sau lễ tế cờ, Nguyễn Thiện Thuật phong chức tước cho một số người chỉ huy. Lê Hữu Cầu được phong chức Hiệp quản, nên quân sĩ gọi là Quản Cầu.

   Ngay sau lễ Tế cờ, vị Tổng chỉ huy cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy tổ chức một cánh quân vượt sông Hồng tấn công các đồn binh Pháp cùng các huyện đường các huyện Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa thuộc tỉnh Hà Đông. Lê Hữu Cầu xin đi tiên phong, Nguyễn Thiện Thuật tin tưởng vào tài năng chiến thắng quân Pháp trong trận Cầu Giẽ nên chấp nhận. Nghĩa quân đánh phá ác liệt các huyện trên. Cao Xuân Dục đem lính từ Hà Nội tới đánh bị thua phải bỏ chạy về Hà Nội.

   Cuối tháng 9 năm 1885 nghĩa quân Bãi Sậy tấn công thành Hải Dương. Vì kế hoạch bị lộ, quân Pháp đưa quân ra ngoài thành chặn đường Mao Điền. Quân Pháp điều hai pháo hạm tuần tiễn trên sông Thái Bình để bảo vệ thành phố Hải Dương. Để trả thù, tháng 10/1885, thống tướng De Courcy giao cho thiếu tướng Négrier, trung tá Donuier, trung tá Godard, Hoàng Cao Khải mở cuộc càn quét lớn vào căn cứ Bãi Sậy. Nguyễn Thiện Thuật giao cho các tướng đem quân mai phục chặn các ngả đường vào Bãi Sậy. Quản Cầu được lệnh đem quân vượt sông Hồng đánh phá các đồn binh thuộc Thường Tín, Phú Xuyên (Hà Đông), Đồng Văn (Hà Nam), đánh phá giao thông để ngăn chặn không cho quân Pháp từ Hà Đông, Hà Nam vượt sông Hồng đánh vào phía Tây căn cứ Bãi Sậy. Nghĩa quân mai phục chờ quân Pháp lọt vào trận địa phục kích mới đổ ra đánh giáp lá cà. Quản Cầu đã góp phần công lao vào chiến công đánh cho thiếu tướng Négrier phải liều chết mở đường máu chạy thoát.

   Tháng 11/1888, Nguyễn Thiện Thuật giao cho Quản Cầu bảo vệ căn Bãi Sậy, điều động phần lớn các tướng đánh trận phục kích lớn ở Liêu Trung.

   Trong trận càn quét quy mô lớn của quân Pháp đánh vào căn cứ Bãi Sậy vào cuối năm 1889, Quản Cầu chiến đấu ngoan cường và anh dũng hy sinh.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #115 vào lúc: 28 Tháng Mười Một, 2011, 10:38:10 am »

PHẠM TRUNG THỨ

   Phạm Trung Thứ còn có tên là Phạm Khắc Thứ, Phạm Khắc Trung. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Thượng Đồng, bờ Bắc sông Đáy, tỉnh Ninh Bình. Thời gian này, phe chủ hòa, do vua Tự Đức cầm đầu đã thắng thế. Quân Pháp phải rút khỏi các tỉnh Bắc Kỳ do chúng đánh chiếm năm 1873, nhưng vẫn cho bọn tay chân như Tạ Văn Phụng, Tiên Viên tập hợp bọn lưu manh, thổ phỉ và những giáo dân quá khích gây nhiều vụ bạo loạn, dọn đường cho quân Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ hai. Vì vậy Phạm Trung Thứ không nhận chức tước của triều đình Huế.

   Tháng 7 năm 1885, Nguyễn Thiện Thuật được giao lãnh đạo cuộc kháng chiến Bãi Sậy. Nhận được tin trên, Phạm Trung Thứ liền đến Bãi Sậy gia nhập lực lượng vũ trang do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy.

   Trong suốt mấy năm tham gia nghĩa quân Bãi Sậy, Phạm Trung Thứ đã có nhiều công lao trong việc đánh địch, bảo vệ căn cứ và mở rộng địa bàn hoạt động của nghĩa quân sang Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên. Cuộc chiến đấu ở Bãi Sậy gặp nhiều khó khăn, khó có điều kiện phát triển, Phạm Trung Thứ trở về làng Thượng Đồng cùng với các ông Đỗ Công Thiềm, Phạm Văn Sắt, Phạm Văn Thu, Nguyễn Thế Thị, Phạm Kim Thảo lập thành bộ tham mưu hoạch định kế hoạch khởi nghĩa. Các ông là những người có uy tín ở các huyện phía bắc tỉnh Ninh Bình nên vừa hô hào nhân dân khởi nghĩa thì toàn bộ trai gái Thượng Đồng kể cả những người cao tuổi đã nhiệt liệt hưởng ứng. Các ông cũng trưng tập thợ rèn các nơi về rèn vũ khí, các kho lương được thành lập. Nghĩa quân được các ông chia thành cơ ngũ, huấn luyện kỹ năng chiến đấu. Để giành thế chủ động, Phạm Trung Thứ và bộ Tham mưu quyết định khởi nghĩa. Sau khi làm lễ Tế cờ, đích thân Phạm Trung Thứ chỉ huy một cánh nghĩa quân tiến đánh huyện lỵ Phong Doanh, bắt tên tri huyện Nguyễn Quỹ đưa về đình làng Thượng Đồng xử tội. Không để cho giặc kịp trở tay, Phạm Trung Thứ đưa quân về đánh chiếm tỉnh lỵ Ninh Bình. Nhưng quân Pháp cho quân đón đường chặn đánh, nghĩa quân vừa chiến đấu vừa rút về làng chốt giữ cứ điểm, đắp cao lũy đất, rào thêm tre, đào nhiều hố chông, cạm bẫy để diệt địch. Quân Pháp bao vây làng, không dám tiến đánh, chỉ ở xa bắn súng vào, triệt đường tiếp tế. Chỉ sau khi do thám lực lượng quân sự trong làng và cách bố phòng của nghĩa quân, ngày 10/12/1889, quân Pháp nã đại bác rồi tấn công vào làng Thượng Đồng. Một cuộc ác chiến đã xảy ra, nghĩa quân ít súng đạn nhưng lợi dụng địa hình mình quá quen thuộc và vũ khí thô sơ để đánh địch. Khi quân giặc tiến đến sát lũy đất, Phạm Trung Thứ lệnh cho nghĩa quân bắn vào bọn xâm lược Pháp và phát loa gọi lính tập quay súng bắn vào giặc Pháp trở về với chính nghĩa. Công tác địch vận có kết quả, nhiều lính tập chĩa súng lên trời bắn chỉ thiên. Quân Pháp không vào được làng mà còn bị thương vong nhiều phải rút quân. Giặc Pháp điều động lực lượng đánh phá núi Nể, làng Thượng Đồng, Phạm Trung Thứ phải chia nhỏ quân đội chống càn quét, bảo vệ nhân dân. Bọn giặc tràn vào Thượng Đồng, đốt phá nhà những gia đình tham gia nghĩa quân, tịch thu gia sản, ruộng đất của họ.

   Trước sự khủng bố ác liệt của giặc, nghĩa quân tan rã, Phạm Trung Thứ lẩn tránh 10 năm mới trở về làng Thượng Đồng. Giặc dụ ông ra làm quan, ông không ra, mở trường dạy học. Đỗ Công Thiền cũng không hàng giặc, được nhân dân giúp đỡ ông trốn tránh, đến khi tuổi già mới trở về làng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #116 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2012, 02:43:45 pm »

ĐỘI VĂN

Đội Văn tên thật là Vương Văn Vang, trong các bản Thông cáo của ông gửi nhân dân Yên Dũng (Bắc Giang) vào tháng 10-1889 ông cũng thường xưng là “Đề đốc họ Vương”. Ông quê ở thôn Thuận An, xã Trạm Lộ, tổng Tám Á, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, nay là xã Trạm Lộ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Vương Văn Vang trở thành một viên dũng tướng trong Tam tỉnh nghĩa quân, ông đã góp phần tích cực xây dựng căn cứ Đình Bảng, căn cứ núi Nham Biền, huyện Yên Dũng. Vương Văn Vang (khi đó gọi là Đội Văn) đã đánh thắng nhiều trận lớn trong đó có trận thắng lớn làng Ngọc Trì (tên Nôm là làng Bến) huyện Lang Tài tỉnh Bắc Ninh. Đội Văn còn tổ chức trận đánh lớn vào đồn Hồ cướp súng của quân Pháp trang bị cho nghĩa quân.

Cuối năm 1884 “Tam tỉnh nghĩa quân” tan rã, Đội Văn cùng Tuần Xô vẫn hoạt động ở Nam Bắc Ninh. Khi Tuần Xô hy sinh trong trận Hà Mẫn, Đội Văn tiếp tục hoạt động, song để cung cấp quân lương cho gần 200 quân rất khó khăn, ông thường phải đi “làm lương” tức là thu thuế của dân, vận động nhân dân ủng hộ, và cướp thóc của nhà giầu. Trong lễ Tế cờ ở Văn chỉ Bình Dân, Nguyễn Thiện Thuật phong cho Đội Văn chức Đề đốc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Ngô Quang Huy. (Daufes viết trong cuốn: “Bảo an binh Đông Dương từ ngày thành lập đồn này viết: “trong vùng giáp ranh Hai Dương. Bắc Ninh - Hưng Yên có Đốc Sung, Đội Văn, Hai Kế”).

Tháng 7/1887 Đội Văn tấn công Phố Bạc nay là xã Bạch Sam, huyện Mỹ Hào (Hưng Yên). Trước sự truy kích ráo riết của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải, nghĩa quân do Đội Văn chỉ huy bị tổn thất nặng nề, một số thủ lĩnh dưới quyền ông và nhiều nghĩa quân hy sinh, dân chúng ở các làng ủng hộ nghĩa quân bị tàn sát, nhà cửa, đình chùa bị đốt phá. Hoàng Cao Khải biết Đội Văn lâm vào tình thế nguy ngập liền viết thư dụ hàng. Ngày 27/2/1889 Đội Văn viết thư cho Hoàng Cao Khải xin đầu hàng. Pháp và Hoàng Cao Khải rất mừng trao lại toàn bộ số vũ khí trên cho ông và cấp thêm 50 khẩu súng trường để ông đánh nghĩa quân.

Ngày 17-9- 1889, Đội Văn sau 8 tháng trá hàng, trong một trận quân Pháp sai ông đi đàn áp nghĩa quân ông đã ước hẹn trước với một số đồng chí rồi bí mật đem 200 quân, 100 tay súng vượt sông Đuống nhập với toán quân của Lãnh Đội đã chờ sẵn theo mật ước từ trước. Nghĩa quân mặc quần áo lính theo đường số 1 qua sông Cầu để lên Yên Thế gia nhập nghĩa quân Đề Nắm (Lương Văn Nắm) tiếp tục đánh Pháp. (Daufes, sách đã dẫn - Báo Le Courier d’ Hải Phòng năm 1889 viết là Đội Văn đem theo 40 súng. Thco chúng tôi, khi Đội Văn ra hàng, Pháp để nguyên số súng của đội quân của ông lại trang bị thêm 50 súng nữa, như vây số súng ông đem đi phải nhiều – VTS).

Trong một thông báo gửi nhân dân Bắc Ninh, Đội Văn tuyên bố rằng “mình đã trá hàng để tạo khả năng nghiên cứu kỹ càng hơn tổ chức và chiến thuật của quân đội Pháp, do đó sẽ bảo đảm đánh được họ khi thời cơ đến nhằm đánh đuổi bọn dã man phương Tây ra khỏi xứ sở Bắc Kỳ”.

Đội Văn trở lại hàng ngũ kháng chiến lại liên kết với nghĩa quân Yên Thế làm cho bọn xâm lược Pháp ở Bắc Kỳ rất hoảng sợ. Chúng phải kêu lên: “Lúc này Đội Văn lại hoạt động mạnh trong vùng rộng lớn giữa Phủ Lạng Thương Bắc Ninh và Tỉnh Đạo” và: “Cách đây 2 tháng người ta có thể ung dung đi lại trên con đường Hà Nội - Lạng Sơn, nhưng ngàv nay thì người ta sẽ phải “vũ trang đến tận răng” thế mà cũng phải là người táo bạo lắm mới dám đi từ Đáp Cầu đến Phủ Lạng Thương”.

Bọn chỉ huy quân sự Pháp ở Bắc Kỳ lập tức ra lệnh cho đồn binh Phủ Lạng Thương phải dò tìm đường hành quân của ông. Tên trung úy May e (Meyer) chỉ huy đồn Phủ Lạng Thương lập tức cho lính lùng sục vùng Phủ Khê, Liên Bộ, Lán Tranh. Đội Văn trở về Bắc Ninh. Trong một bức thư gửi nhân dân Yên Dũng. tỉnh Bắc Ninh đề ngày 25-8 âm lịch, năm Hàm Nghi thứ 5, Đội Văn nêu rõ: “mục đích chiến đấu của ông là nhằm để đánh đuổi giặc xâm lược Pháp, khôi phục lại đất nước, mang lại hòa bình, yên tĩnh thực sự cho nhân dân và chấm dứt những nỗi đau khổ đang đè nặng lên mọi người. Cũng để đạt được mục đích trên, Văn đã chiêu mộ nghĩa quân tổ chức lực lượng quân sự chống Pháp. Văn kêu gọi nhân dân tích cực ủng hộ nghĩa quân”.

Để diệt trừ Đội Văn, quân Pháp đã điều động một lực lượng lớn tràn lên Yên Thế để tiêu diệt lực lượng. Ngày 31-10-1889 cố đạo Tây Ban Nha Lê Vátcô làm trung gian, chúng đem nộp ông cho đồn binh Pháp ở Bắc Ninh. Mặc dù ông bị thương, bị ốm nặng chúng vẫn nhốt ông vào cũi, đeo gông cổ, xiềng tay chân giải về Hà Nội.

Bắt được Đội Văn, bọn xâm lược Pháp xử chém ông ngày 7 tháng 11 năm 1889 tại bãi đất trống cạnh hồ Hoàn Kiếm. Khi ông chết, giặc Pháp vẫn sợ, chúng chặt đầu ông đưa về bêu ở Bắc Ninh, còn xác ném xuống sông Hồng.




VŨ GIÁC

Vũ Giác hiệu Tùng Trai, sinh năm Mậu Tuất (1838) quê ở thôn Ngọc Quan, tên nôm là làng Sen, nay thuộc xã Lâm Theo, huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.

Vũ Giác là người thông minh, học rộng, nghe nhiều. Ông đỗ Cử nhân khoa thi Ất Sửu (1865) năm 27 tuổi. Năm sau khoa Bính Dần (1866), ông đỗ Phó bảng. Ông được cử giữ chức Bố chánh Thái Nguyên. Ông là người có uy đức, giàu lòng nhân hậu, yêu nước, thương dân. Trong cương vị làm quan đầu tỉnh, ông được triều đình tin dùng, quân dân trong hạt Thái Nguyên kính trọng. Vì vậy khi ông còn sống, nhân dân làng Quan Đào, huyện Yên Lãng đã xin húy hiệu của ông để thờ làm Thành hoàng làng.

Trước tình thế triều đình nhân nhượng với giặc Pháp, Vũ Giác từ quan về quê mở trường dạy học. Lúc này một số quan lại thân Pháp nhiều lần đến vận động ông và các con ông ra làm việc cho Pháp và Nam triều, nhưng ông kiên quyết từ chối. Ông mở trường dạy học, và liên hệ mật thiết với các thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa, các sĩ phu yêu nước ở các tỉnh Bắc Kỳ, Trung Kỳ. Đối với cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật ở Đông Triều, Chí Linh, ông hết lòng giúp đỡ bằng việc động viên con cháu, môn sinh, người làng tham gia nghĩa quân. Ông cũng đứng ra quyên góp tiền bạc, lương thực, áo quần gửi về Đông Triều cho nghĩa quân. Nhà ở và trường học của ông cũng là đầu mối liên lạc của quan lại trong triều ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật. Nhà ông cũng là nơi trú chân của gia đình Nguyễn Thiện Thuật bị chính quyền Nam triều khủng bố.

Ngay sau khi nhận lệnh trở về căn cứ Bãi Sậy, Nguyễn Thiện Thuật cùng với Cử nhân Ngô Quang Huy, Cử nhân Nguyễn Hữu Đức họp bàn và cho người mời Phó bảng Vũ Giác tới cùng xây dựng kế hoạch kháng chiến chống Pháp.

Nguyễn Thiện Thuật rất quan tâm đến đồn điền của Vũ Giác ở Bình Xuyên và đề nghị mở rộng diện tích, lập các ấp ở chung quanh để khi xảy ra chiến tranh thì biến thành các đồn tiền tiêu, chú ý đến đồn lũy phòng thủ. Nếu căn cứ Bãi Sậy bị uy hiếp thì nghĩa quân dồn lên đó dựa vào thế hiểm trở của miền núi để kháng chiến. Nguyễn Thiện Thuật cũng đề nghị ông Phó bảng tiếp tục giữ bí mật việc mình đứng ra lập đồn điền mà giao cho người tin cẩn đảm nhiệm như trước đây để mật thám Pháp không nhòm ngó.

Trong thời gian căn cứ Bãi Sậy tồn tại suốt từ năm 1885 đến năm 1888, đồn điền ở Bình Xuyên đã cung cấp nhiều lương thực, tiền bạc cho nghĩa quân. Đây cũng là nơi trú chân của các thủ lĩnh nghĩa quân bị giặc Pháp truy nã, hoặc bị thương, bị bệnh đến điều trị.

Hoài bão lớn lao của ông chưa được thực hiện, thì năm 1888 ông bị bạo bệnh qua đời khi mới 50 tuổi. Song đồn điền của ông vẫn được các thủ hạ duy trì, tiếp tục làm nhiệm vụ hậu cần cho căn cứ Bãi Sậy.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #117 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2012, 02:46:11 pm »

ĐỀ VINH

Cho tới nay các tài liệu của Pháp để lại cũng như truyền thuyết về các tướng lĩnh nghĩa quân Bãi Sậy chỉ biết Đề Vinh, quê ở vùng Ba Tổng, nay là các thôn Thanh Lâm, Cường Trang, An Thịnh huyện Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh.

Đề Vinh luôn luôn chiến đấu bên cạnh thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật và nhiều lần khi bị quân Pháp bao vây, ông đã dẫn đội cảm tử mở đường máu xông ra thu hút hỏa lực địch về phía mình.

Khi quân Pháp đánh chiếm thành Phả Lại đã huy động lực lượng 2 sư đoàn gồm 16.300 quân, 55 đại bác và nhiều pháo thuyền từ Hải Dương, sông Đuống bắn vào. Ngày 20-2- 1884 thành Phả Lại thất thủ, Nguyễn Thiện Thuật cùng Hai Kế, Đề Vinh hội quân với Hoàng Văn Hòe, Ba Báo hai lần tấn công Phả Lại. Đề Vinh dẫn đội quân cảm tử đi thuyền nhẹ lọt vào các căn cứ của Pháp nổ súng rồi từ trong đánh ra. Các tướng Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thiện Kế, Hoàng Văn Hòe đánh vào gây tổn thất lớn cho quân Pháp. Khi thành Bắc Ninh bị quân Pháp uy hiếp, Đề Vinh lại theo Nguyễn Thiện Thuật lên tham gia giữ thành Bắc Ninh. Thành Bắc Ninh lọt vào tay quân Pháp, ông lại theo Nguyễn Thiện Thuật lên giữ thành Hưng Hóa, thành Hưng Hóa mất, Đề Vinh lại theo Nguyễn Thiện Thuật đi đánh quân Pháp ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn.

Tháng 7/1885 vừa nhận được tin vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Trị, xuống chiếu Cần vương, Đề Vinh lập tức sang Long Châu đưa Nguyễn Thiện Thuật về căn cứ Tiên Động gặp Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích nhận chiếu Cần vương. Sau đó Đề Vinh lại cùng một số nghĩa quân hộ tống Nguyễn Thiện Thuật về căn cứ của Nguyễn Thiện Kế, Lãnh Giang ở vùng giáp ranh các tỉnh Hải Dương - Bắc Ninh - Hưng Yên bàn định kế hoạch khôi phục cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.

Sau lễ Tế cờ khởi nghĩa ở Văn chỉ Bình Dân, Đề Vinh luôn luôn ở bên Nguyễn Thiện Thuật bàn việc quân cơ. Những khi đi tấn công quân Pháp, Đề Vinh vẫn là người đi đầu, ông còn về vùng Tam Tổng (ở Quế Võ - Lang Tài, tỉnh Bắc Ninh) xây dựng làng chiến đấu.

Ngày 12/11/1888 Đề Vinh tham gia trận đánh Hoàng Cao Khải, Giám binh Louis Ney ở làng Liêu Trung.

Ngày 20/5/1889 Đề Vinh tấn công 30 vệ binh đóng ở đồn Hoàng Trạch, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu do cai Soler chỉ huy. Bọn chúng thua phải chạy về Bình Phú, tổng Khóa Nhu. Đề Vinh đuổi theo bao vây uy hiếp đồn Bình Phú. Quân Pháp đóng ở đồn Bần Yên Nhân và đồn Lực Điền phải vội vã cho quân đến cứu.

Trong suốt thời kỳ Nguyễn Thiện Kế chỉ huy nghĩa quân, Đề Vinh lại luôn luôn sát cánh bên ông, tổ chức nhiều trận đánh quân Pháp và phối hợp với Đề đốc Phạm Văn Ban, Lãnh Mỹ đánh các trận bảo vệ La Mát lần thứ nhất, lần thứ hai. Đề Vinh dẫn trên 70 quân rút qua làng Ngọc Trì, quân Pháp đuổi theo, Đề Vinh rút sang làng Ngô Phần (làng Ngò) cũng thuộc tổng Ngọc Trì. Quân Pháp đuổi theo bao vây làng Ngô Phần.

Nửa đêm trời mưa to, Đề Vinh liền dẫn nghĩa quân rút về làng Bích Khê cũng thuộc huyện Lang Tài chỉ cách Ngô Phần khoảng 4 cây số. Vài giờ sau, ngày 12/1/1892, quân Pháp lại kéo tới bao vây quanh làng, song nghĩa quân vẫn chiến đấu dũng cảm, quân Pháp không sao vào gần chiến lũy được. Mặc dù đang ốm nặng Đề Vinh vẫn quyết định nửa đêm đi ngược luồng đạn để thoát khỏi vòng vây. Nhưng trước luồng đạn dầy đặc của giặc phần lớn nghĩa quân đều hy sinh tới 30 người trong đó có Đề Vinh, Quan Bá Học.




ĐỐC TÍT

Đốc Tít còn có các tên khác như: Đốc Tích, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Đức Hiệu. Ông vốn dòng dõi họ Mạc, khi nhà Mạc thất thế, đổi sang họ Nguyễn nhưng vẫn thực hiện quy định “sinh Nguyễn, tử Mạc” nên khi ông qua đời, con cháu khấn là Mạc Đăng Tiết.

Đốc Tít sinh ngày 10 tháng chạp năm Mậu Thân (1851), quê làng Yên Lưu thượng, tổng Yên Lưu, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Đốc Tít có công trừ giặc Khách ở các phủ Kiến Thụy, Cẩm Giàng được Nguyễn Thiện Thuật phong chức Hiệp quản tinh binh suất đội. Sau ông lại lập được công lớn, Thống tướng Hoàng Tá Viêm và Phó tướng Nguyễn Thiện Thuật dâng sớ về triều, vua Tự Đức phong ông là Đốc binh, chính tay Hoàng Tá Viêm trao sắc phong cho ông.

Triều đình Huế ký Hòa ước với Pháp, ra lệnh triệt binh, Nguyễn Thiện Thuật chống lệnh, bỏ chức về Đông Triều mộ quân đánh Pháp. Đốc Tít hăng hái tham gia vào đội quân kháng chiến này.

Sau trận đánh thành Hải Dương không thành, Đốc Tít theo Nguyễn Thiện Thuật lên đánh Pháp ở Phủ Lạng Thương, Lạng Sơn. Ông được Tổng đốc Lạng Sơn - Cao Bằng Lã Xuân Oai cấp cho một số vũ khí, ông trở về Kinh Môn (Hải Dương) dựa vào vùng hang động ở thôn Tử Lạc, xã Minh Tâm và các hang động ở dãy núi Thiên Sơn, Trại Sơn (nay Trại Sơn thuộc xã An Sơn, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải phòng) xây dựng đồn lũy, trồng tre gai quanh Trại Sơn. Căn cứ này nằm ở chân núi Thiên Triều, xung quanh được nghĩa quân đào hào đắp lũy, đào hầm chông, đặt cạm bẫy, tổ chức các tuyến ném lao.

Trong năm tháng đầu năm 1889, nghĩa quân Đốc Tít gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại lớn, bộ chỉ huy quân sự Trung-Bắc Kỳ giao cho Thống sứ Bắc Kỳ phải tập trung binh lực tiêu diệt căn cứ Trại Sơn và Cù lao Hai Sông.

Báo chí Pháp cũng phải than phiền: “Đốc Tít ngày càng trở nên nguy hiểm. Mấy tháng trước thiếu tướng Nê gờ ri ê (De Négrier) đưa quân đến hỏi tội y, đã bị y làm vỡ kế hoạch. Một cuộc tiễu phạt mới được tổ chức, kết quả cũng chẳng tốt lành”.

Tuy phá được căn cứ Hai Sông buộc Đốc Tít và một số thủ lính khác phải ra hàng nhưng quân Pháp cũng bị thiệt hại khá lớn, tiêu tốn từ 600 đồng đến 7000 đồng. Giám binh Laune bị thương nặng, 2 viên quản bị chết, trên 100 lính bị chết bị thương.

Bọn xâm lược Pháp rút kinh nghiệm Đội Văn ra hàng vào tháng 3/1889 sau đó lại trở lại đánh Pháp, nên đã quyết định đày ông đi biệt xứ.

Đốc Tít mất ngày 19/12/1916. Con gái ông xin đem thi hài cha về đến Kinh Môn vào ngày 29/12/1917 (tức ngày 16 tháng 1 năm Đinh Tỵ).

Hàng nghìn nhân dân phủ Kinh Môn đã đi đón linh cữu của ông. ¤ng được táng tại nghĩa trang của dòng họ Mạc tại xã Yên Lưu Thượng (thị trấn Kinh Môn) tỉnh Hải Dương.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #118 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2012, 02:48:42 pm »

NGUYỄN TRUNG LAN

Nguyễn Trung Lan sinh trưởng trong một gia đình ở thôn Đống Liêu, xã Hạ Trường, tổng Hạ Vĩnh, huyện Thanh Hà, sau thuộc thôn Hà Trường, xã Thanh Bình, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, nay là thị trấn Thanh Hà.

Nhiệt liệt hưởng ứng phong trào mộ quân đánh Pháp của Nguyễn Thiện Thuật, năm anh em ông cùng chiêu mộ tráng đinh trong vùng thành lập đội nghĩa quân, các ông đã dấy quân ở chùa Minh Khánh và thế lực ngày càng mạnh. Nghĩa quân do các ông chỉ huy đã đánh bại nhiều trận càn quét của giặc Pháp vào căn cứ Phù Tình.

Ngày 12/12/1887, Nguyễn Trung Lan đem quân tập kích chợ Hệ, giết chánh tổng Hạ Vĩnh Lê Văn San, tay sai đắc lực của giặc Pháp điên cuồng đánh phá nghĩa quân. Ít ngày sau, Lê Văn Cơ, Lê Văn Thức là con trai tên San cùng Tuần Tiếu đưa lính về đánh căn cứ Phù Tình, bị nghĩa quân đánh cho đại bại phải tháo chạy. Trung Lan liên lạc được với nghĩa quân Bãi Sậy và trở thành bộ tướng của Nguyễn Thiện Thuật.
Trung Lan được nghĩa quân Bãi Sậy tăng viện, ngày 25 tháng chạp năm Đinh Hợi (1887) chia làm hai toán, một toán tiến theo đường sông núp dưới thuyền buôn vàng mã từ Hải Dương vượt qua cống Bá Hoàng vượt sông Hệ đổ quân lên vườn Vạn (Hạ Vĩnh) một toán đổ bộ qua Đò Bầu tiến vào chợ Hệ. Trung Lan nhận thấy vị trí xóm Liêu không có lợi liền rút sang thôn Phù Tình (nay thuộc xã Trường Thành) lập căn cứ. Chỉ trong một đêm nghĩa quân và nhân dân đã xây dựng xong bản doanh, đắp luỹ chiến đấu.

Trên toàn cục, cuối năm Mậu Tý (1888) cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã suy yếu. Nghĩa quân Trung Lan chỉ giữ được thôn Phù Tình, một phần thôn Nhan Bầu và một phần thôn Tiên Kiều.

Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 10 năm Mậu Tý (11/1888), Tuần Tiếu nhận lệnh của công sứ Pháp tỉnh Hải Dương và Tổng đốc Hoàng Cao Khải kiêm Tiễu phủ sứ đưa quân Pháp tấn công nghĩa quân Trung Lan, Đốc Đàm ở căn cứ Phù Tình. Đây là trận thứ 9 quân Pháp đánh vào Phù Tình. Sau tám trận thất bại nặng nề, lần này quân Pháp điều động cả lính lê dương, lính khố xanh, cảnh sát, lính thuỷ đánh bộ, công binh do tên Lê Văn Cơ con trai chánh tổng Lê Văn San dẫn đường. Bọn chúng từ Hải Dương đi trên những ca nô đổ bộ một toán quân xuống bến đò Mũi Gươm, qua thôn Ngọc Điểm tiến vào phía Tây bắc Phù Tình. Tuần Tiếu cùng bọn lính đồn trú ở đồn Đò Gùa, đồn Sòi tiến vào phía đông bắc Phù Tình.

Về phía nghĩa quân, sau tám trận chiến thắng, tuy lực lượng bị giảm sút, chưa kịp bổ sung, vẫn cùng nhân dân rào luỹ tre cho dầy, đắp luỹ đất cao thêm 1 mét, đào hào sâu thêm, cắm thêm chông, tổ chức canh gác nghiêm mật. Quân Pháp vừa nổ súng, Trung Lan đã chỉ huy nghĩa quân và cả làng đánh giặc, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công ào ạt của chúng. Nhiều tên bị bắn chết, bị sập hầm chông bị chém xả vai, máu giặc loang đỏ ngoài luỹ tre, bờ hào.

Nhiều thủ lĩnh và nghĩa quân bị bắt, bị giết. Trung Lan chạy sang vùng An Lão, Kiến An, sau cũng bị bắt bị giết.





LƯU KỲ

Bố Lưu Kỳ là người Hoa, mẹ là người Việt, quê ở huyện Lục Ngạn thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông là người giỏi võ nghệ, giao du rộng rãi trong giới quan lại người Việt và người Hoa. Ông có ý chí căm thù giặc Pháp.

Khi giặc Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873), Lưu Kỳ đã tập hợp các chiến hữu ở vùng Lục Ngạn, Đông Triều bàn kế đánh Pháp. Trong số các thủ lĩnh người Hoa, Nguyễn Thiện Thuật đặc biệt quan tâm đến Lưu Kỳ, ông đã đến Lục Ngạn bàn bạc với Lưu Kỳ về việc thành lập một đội quân hỗn hợp người Việt, người Hoa, người dân tộc thiểu số ở vùng Đông Bắc thành một đạo quân để chiến đấu chống Pháp ở địa bàn quan trọng này. Nguyễn Thiện Thuật biết rõ mối quan hệ mật thiết giữa Lưu Kỳ với các quan chức hai tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông và các thương nhân Trung Hoa nên đã bàn với ông thiết lập một đường dây mua vũ khí từ Hồng Kông, Quảng Đông, Quảng Tây về vùng biên giới Móng Cái - Tiên Yên - Lộc Bình rồi theo đường mòn vùng rừng núi đưa về Lục Ngạn để trang bị cho nghĩa quân. Nghĩa quân Lưu Kỳ là những người đã từng quen với chiến trận, biết võ thuật, thông thạo vùng rừng núi nên ngay từ khi mới thành lập đã tổ chức các trận tấn công quân Pháp.

Nhờ có nguồn súng mua từ Trung Quốc, đội vũ trang của ông được trang bị nhiều súng bắn nhanh. Địa bàn hoạt động của ông là vùng Đông Triều, Lục Ngạn. Trong đội quân của ông có nhiều tướng lĩnh xuất sắc như Hoàng Tài Ngạn, Hoàng Thái Nhân, Đề Kỳ, Đề đốc Quý... Trong buổi đầu xây dựng vũ trang Nguyễn Thiện Thuật đã cử các tướng lĩnh tới giúp Lưu Kỳ biên chế đơn vị, huấn luyện quân sự cho tân binh, giúp đỡ lương thực. Đội quân của Lưu Kỳ được tổ chức rất chặt chẽ, có kỷ luật, thiện chiến. Bọn xâm lược đã gán ghép cho đội quân của ông bao điều xấu xa như thổ phỉ, cướp, buôn đàn bà, con gái... nhưng vẫn phải thừa nhận: “Lưu Kỳ là một người có nghị lực và rất thông minh, đã làm cho đồng đội tin tưởng tuyệt đối” và “Quân của ông là đội quân có kỷ luật và thiện chiến, thông thạo sở trường đánh du kích”.

Nghĩa quân Lưu Kỳ hoạt động mạnh mẽ liên tục tấn công quân Pháp ở Lục Ngạn, Đông Triều. Ông đã xây dựng một số cứ điểm ở vùng Bảo Đài, Đông Triều, phía Đông tỉnh Bắc Giang. Hoạt động của Lưu Kỳ mạnh mẽ đến mức trong một bức điện của Trương Chí Đông (quan lại Trung Hoa) đề ngày 15 tháng 3 năm Quang Tự (nhà Thanh Trung Quốc) năm thứ 11 (1885) nêu rõ: “Vùng Đông bắc (Việt Nam) có hàng vạn nghĩa quân hoạt động” gửi cho nha môn tổng lý các quốc sự vụ ngày 10/8 năm Quang Tự (nhà Thanh) thứ 11 (1885) thừa nhận “Lưu Kỳ là thủ lĩnh đội nghĩa quân mạnh nhất vùng Đông Bắc (Việt Nam)”. Mã Trung Thừa (quan lại Trung Quốc) cũng xác nhận rằng: “Suốt năm này sang năm khác bọn du phỉ náu đất Việt luôn ở những xứ giáp nước ta (chỉ Trung Quốc)”.

Nhận được chiếu Cần vương, Nguyễn Thiện Thuật từ Long Châu (Trung Quốc) về nước. Lưu Kỳ được phong chức Đề đốc.

Tháng 9/1885 Lưu Kỳ nhận lệnh của Nguyễn Thiện Thuật về Văn chỉ Bình Dân dự cuộc họp tướng lĩnh và Tế cờ khởi nghĩa, Lưu Kỳ chính thức trở thành một thủ lĩnh xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy chiến đấu dưới ngọn cờ Cần vương. Với danh nghĩa Cần vương cứu nước bảo vệ vua Hàm Nghi, Lưu Kỳ đã tập hợp thêm được nhiều người dân tộc Hoa và dân tộc thiểu số dân tộc Việt ở vùng Đông bắc và cả quân lính, quan lại trong quân đội Pháp và Nam Triều vào hàng ngũ kháng chiến. Một số toán tàn dư của các phong trào nông dân khởi nghĩa ở Trong Quốc như Thiên Địa hội, Thái Bình Thiên quốc bị quân đội nhà Thanh đánh đuổi tràn sang Việt Nam cũng được ông thu nạp vào nghĩa quân. Được sự giúp đỡ tích cực của các thổ ty và nhân dân các dân tộc miền núi tỉnh Quảng Yên, tỉnh Lạng Sơn, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hải Dương, Lưu Kỳ đã xây dựng được đội quân mạnh, và có đủ lương thực cho đội quân đông đảo, Lưu Kỳ đã nhanh chóng tổ chức được đường dây mua, vận chuyển vũ khí từ đất Quảng Đông, Quảng Tây vượt qua đường biên vào hai tỉnh Quảng Yên, Lạng Sơn rồi từ đó chuyển về Lục Ngạn để cung cấp cho nghĩa quân. Lưu Kỳ còn tổ chức một đội quân hộ tống được trang bị mạnh để tiêu diệt các toán quân Pháp, thổ phỉ chặn đường cướp vũ khí.

Từ khi Nguyễn Thiện Thuật về nước, Lưu Kỳ tham gia vào cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, thì thế lực của Lưu Kỳ ngày càng lớn mạnh, quân Pháp phải thừa nhận: “Mặc dù khác dân tộc, khác khuynh hướng, hai người thủ lĩnh (Nguyễn Thiện Thuật và Lưu Kỳ) đã phối hợp chặt chẽ trong mọi hành động” và “Ông có mối liên hệ rất mật thiết với Tán Thuật và đã được Tán Thuật phong chức Đề đốc”.

Cuối tháng 7 đầu tháng 8/1889 quân Pháp liên tiếp mở chiến dịch lớn tấn công vào căn cứ của Lưu song đều bị bẻ gẫy hoàn toàn.

Để đối phó với nghĩa quân Lưu Kỳ từng gây bao nỗi kinh hoàng cho quân Pháp, bộ Chỉ huy quân sự Pháp ở Trung- Bắc Kỳ phải thiết lập hàng loạt đồn bốt ở Chi Ngãi, Lục Nam, Lầm, Biển Động, Vi Loại, Uông Bí, Đông Triều, đưa sáu pháo thuyền ngày đêm tuần tra trên sông Lục Nam để cắt đứt đường tiếp tế của nghĩa quân và mở nhiều cuộc hành quân càn quét. Lưu Kỳ chuyển địa bàn hoạt động về Đông Triều.

Ngày 9/7/1892 Nghĩa quân Lưu Kỳ lại đánh một trận lớn ở Bắc Lệ do Lưu Kỳ trực tiếp chỉ huy, có 1 8 xe chở vũ khí và một đạo quân hộ vệ do bốn viên sĩ quan chỉ huy: thiếu tá Bonnard, đại uý Sác păng chie (Charpentier) trung uý Van tông (Valton) và bác sĩ quân y Mơnie (Menier). Ngay loạt đạn đầu tên thiếu tá và tên đại uý đã tử trận. Trời còn sớm, sương mù bao phủ núi đồi và địch không ngờ Lưu Kỳ lại dám phục kích ở nay một địa điểm cũ và ngay sau khi chúng xuất phát lên đường. Trận đánh diễn ra ác liệt địch gần như hoàn toàn bị tiêu diệt, 2 sĩ quan, 30 lính bị giết. Nhưng không may Lưu Kỳ cũng trúng đạn hy sinh trong khi chỉ huy trận đánh.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #119 vào lúc: 22 Tháng Tám, 2012, 02:50:43 pm »

ĐỀ YÊM

Đề Yêm tên thật là Đinh Văn Nghiêm, sinh năm 1858 trong một gia đình điền chủ, nhà có tới gần 60 mẫu ruộng ở làng Đồng Lạc, tổng Kim Bảng, phủ Lỵ Nhân, tỉnh Hà Nội, nay thuộc xã Đồng Hoá, huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam. (Địa chí Hà Nam viết tên thật của ông là Đinh Quang Lý - Thắng cảnh Hương Sơn của Trần Lê Văn, Công ty phát hành sách Hà Tây xuất bản tháng 3/1999 viết chỉ huy cánh quân Bãi Sậy ở Hương Sơn là Đinh Vàn Thuận, ông còn có tên là Đề Yêm).

Đinh Văn Nghiêm tuy là lý trưởng, nhưng có lòng bao dung người nghèo, căm thù giặc Pháp cướp nước cùng bọn vua quan bán nước. Vì vậy, ngay từ năm 1883, khi Đổng Quế phát động cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy ở Khoái Châu, ông đã bí mật giúp đỡ lương thực. Đầu năm 1887 ông tập hợp những người bất mãn với bọn cầm quyền ở các xã Hoàng Tây, Văn Xá, Nhật Tân đi cướp thóc của nhà giàu chia cho dân đói. Ông đưa toàn bộ tiền thuế thu được ủng hộ nghĩa quân Bãi Sậy. Cuối năm 1887, tri phủ Phan Đình Hoè phát mại tài sản của ông để bù vào tiền thuế.

Đinh Văn Nghiêm cùng Tắc Vy vượt sông Hồng sang Khoái Châu gia nhập nghĩa quân Bãi Sậy. Chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật đổi tên ông là Yêm. Ông chiến đấu dũng cảm, mưu trí, lập nhiều chiến công, Nguyễn Thiện Thuật phong ông là Đề đốc quân vụ, quân sĩ gọi ông là Đề Yêm.
Cuối năm 1888, Nguyễn Thiện Thuật giao cho ông về xây dựng căn cứ ở Hà Nam. Đề Yêm xây dựng cơ sở thông tin liên lạc, trú quân ở các xã ven sông Hồng thuộc hai huyện Duy Tiên, Lý Nhân. Ông xây dựng tổng Kim Bảng vùng núi đá quê ông thành một cứ điểm quân sự vững chắc.

Tháng 9 năm 1889, quân Pháp liên tục tấn công Đề Yêm. Ông chuyển căn cứ kháng chiến đến chùa Tuyết Sơn nay thuộc xã Hương Sơn huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây. Đề Yêm giao cho Thượng toạ Thích Thanh Quyết cùng Lãnh Cường xây dựng đồn tiền tiêu ở chùa Bảo Đài. Từ khi xây dựng căn cứ Tuyết Sơn, Bảo Đài, Đề Yêm luôn luôn xuất kích, tấn công các đồn binh Pháp, chặn đứng nhiều cuộc càn quét của chúng.
Sau trận đánh ngày 14/10/1891 nghĩa quân Đề Yêm hao tổn, vì không còn căn cứ, đạn dược, lương thực cũng bị quân Pháp cướp và phá huỷ. Đề Yêm cùng hoà thượng Thích Thanh Quyết, mấy nghĩa quân tâm phúc lên Yên Thế. Ông hy sinh trong một trận đánh ác liệt ở đồn Phồn Xương, Yên Thế vào đầu năm 1912.

Nhận xét Yề Đề Yêm, sách Lịch sử Hà Nam Ninh tập II viết: “Đề Yêm tham gia cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật được phong Đề đốc. Năm 1889 đề Yêm cùng Tắc Vy đem quân vượt sông Hồng về Đồng Văn (Duy Tiên), Chợ Đại (Kim Bảng), xây dựng phòng tuyến chống Pháp, sau đó mở rộng địa bàn sang chợ Dầu, Tuyết Sơn (Mỹ Đức, Hà Đông) lấy Tuyết Sơn làm căn cứ. Nghĩa quân đã đánh những trận lớn ở Quang Thừa, Mã Não (huyện Kim Bảng). Nhiều cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra ở các huyện Thanh Liêm, Nam Xang và vùng núi Hà Đông, trong trận làng Đùng (Thanh Liêm) cả làng bị giặc giết sạch. Nghĩa quân chiến đấu anh dũng, sau phải rút lui vì tương quan lực lượng giữa địch và ta quá chênh lệch”.





LÃNH MẬU

Lãnh Mậu tên thực là Hoàng Văn Mậu, quê gốc ở làng Văn Kỵ, nay là xã Bối Khê, huyện Thường Tín, gần Vân Đình tỉnh Hà Tây. Sau tổ tiên về lập nghiệp ở xã Sài Trang, tổng Sài Trang, huyện Đường Hào tỉnh Hải Dương nay là thôn Ông Tố, thị trấn Yên Mỹ, huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên.

Năm 1883, Hoàng Văn Mậu 35 tuổi cũng là giặc Pháp hạ thành Hưng Yên, Hải Dương lần thứ hai, triều đình Huế ký hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh, Tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật chống lệnh, trao trả quan tước, về Chí Linh, Đông Triều xây dựng căn cứ chống Pháp. Cả huyện Mỹ Hào quê hương ông nhiệt liệt hưởng ứng. Ông đến chùa Xuân Nhân, xã Xuân Dục tổng Bạch Sam huyện Mỹ Hào, nơi đây vừa là quê hương và vừa là căn cứ của Tán tương quân vụ xin tòng quân. Rất nhiều người ở các xã trong tổng Sài Trang gia nhập nghĩa quân. Sau vụ ông tham gia giết tên cường hào ở thôn Đỗ Xá, cùng xã Sài Trang theo Tây thì Hoàng Văn Mậu cùng vợ và hai con gái là Từ Huỳnh, Từ Vát xuống làng Nguyễn Xá cùng tổng, vì dưới đó ông cũng có họ hàng. Một lý do nữa là vùng Nguyễn Xá, Tam Trạch có lực lượng nghĩa quân rất mạnh, do Đốc binh Vũ Văn Đồng quê ở Tam Trạch chỉ huy.

Từ khi xuống Nguyễn Xá, ông Mậu tổ chức nghĩa quân và nhân dân xây dựng làng chiến đấu. Ông trở thành trợ thủ đắc lực của Đốc binh Vũ Văn Đồng quê ở Tam Trạch. Đình Nguyễn Xá là nơi Hoàng Văn Mậu thường xuyên tập trung, huấn luyện võ nghệ cho nghĩa quân. Đền Cương ở cánh đồng gần làng hồi đó còn là rừng núi, rừng sậy, cây cối rậm rạp um tùm là nơi ông cùng các thủ lĩnh họp bàn việc quân cơ. Cây đề ở Tam Tầng nằm trên trục đường đất Cầu Treo- Cầu Hầu là trạm gác tiền tiêu của nghĩa quân. Do trong chiến đấu Hoàng Văn Mậu Mậu lập được nhiều chiến công, ông được phong là Lãnh binh (dân làng thường gọi ông là Lãnh Mậu).

Tháng 3 năm 1885 khi Nguyễn Thiện Thuật sang Long Châu (Trung Quốc) thì Đốc Đồng và Lãnh Mậu gia nhập cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Đổng quân vụ Đinh Gia Quế chỉ huy.

Tháng 7 năm 1885, Đổng quân vụ Đinh Gia Quế ốm, dưỡng bệnh ở làng Dương Trạch nằm trong căn cứ Bãi Sậy, thủ lĩnh Nguyễn Thiện Thuật về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã đưa cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy lên quy mô rộng lớn, chủ động tấn công quân Pháp ở các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên, đột nhập vào một số thành phố lớn...

Lãnh Mậu đã chỉ huy nghĩa quân đánh quân Pháp nhiều trận như trận đánh quân Pháp càn vào vùng Tam Trạch. Ông còn phối hợp với nghĩa quân ở Bối Khê, Ân Thi do Đề Ban chỉ huy tấn công đồn Mai Đường ở xã Đỗ Mỹ, trên đường 38 ở huyện Ân Thi. Lãnh Mậu đã giết Đô Tép quê ở xã Thuỵ Trang (nay là xã Trung Hưng, huyện Yên Mỹ) làm phản khi hắn từ Sặt theo bờ sông Hoan Ái về Lực Điền.

Lãnh Mậu cũng đã tham gia trận đánh lớn ngày 12/11/1888  tại Lưu Trung do đích thân Nguyễn Thiện Thuật và nhiều tướng lĩnh chỉ huy, giết chết tên Louis Ney, bang tá Nguyễn Hữu Hào cùng 31 tên Pháp, suýt bắt được Hoàng Cao Khải.

Sau trận đánh này Lãnh Mậu bị giặc Pháp bắt chặt đầu ở vực Nghĩa Xuyên gần xã Tam Trạch và Nguyễn Xá vào năm 1889. Ông mất khi vừa tròn 40 tuổi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM