Thế cái bác này thì có đánh cái đoạn bác nói không?
15 ngày ở quê trôi rất nhanh, nhiều chuyện chưa kịp nói, chưa kịp hỏi thì Thiều phải trở về đơn vị mang phiên hiệu mới 2202. Anh lại lên xe lửa vào Vinh rồi theo đường Hồ Chí Minh thẳng tiến về Nam. Đường rộng hơn song máy bay địch hoạt động ráo riết hơn. Vô số các xe ô tô của ta ngổn ngang bên đường. Những vạt núi trơ đá xám, những dòng suối không còn bụi lá... Các anh cứ đi ba ngày thì nghỉ một ngày, ăn uống trên đường dây giao liên không như hồi còn huấn luyện. Bệnh sốt rét không buông tha bất cứ cán bộ, chiến sĩ nào hành quân trên đường Hồ Chí Minh. Một số đồng đội sốt nặng không theo kịp đơn vị, phải gửi lại các trạm dọc đường. Hễ cắt cơn sốt, anh em lại lò dò chống gậy đi từng bước trên con đường ngàn dặm. Tháng 6 năm 1971, Thiều vào tới C40 ở biên giới Lộc Ninh; chờ thêm một tháng, những người rớt dọc đường mới vào đủ. Cũng may. tổn thất vì bệnh tật, bom pháo địch dọc đường không đáng kể (trong khi đó có những đơn vị gần như bị xóa sổ vì bệnh, vì bom pháo đánh trúng đội hình...)
Quân số của Đoàn 2202 vào đủ, chia làm ba đội. Đội 22 của Thiều có gần 30 chiến sĩ, đội trưởng là đồng chí Thu, đội phó chính trị là đồng chí Khanh được lệnh qua tỉnh Kông pông Chàm, phiên chế vào Lữ đoàn 367 của đồng chí Tống Viết Dương (sau này được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân). Căn cứ của đội đặc công nước 22 ở vùng căn cứ an toàn. Đó là nơi có Việt kiều cư ngụ thành xóm nhỏ, cuộc sống không nghèo nhưng cũng không giàu. Một số làm ruộng, song ít ruộng một số đánh cá trên sông MêKông. Từ thời Xi-ha-núc, nhà cầm quyền Cam-pu-chia cấm người nước ngoài làm nhiều nghề, vì thế số Việt kiều mà Thiều sống gần chỉ đủ ăn. Cũng có lúc chiến sĩ ta sống với dân Khơme, cuộc sống của họ khá giả hơn. Quân với dân như cá với nước, đó không phải là khẩu hiệu chính trị mà là phương châm chiến lược của bộ đội ta. Huyền thoại Hi-la cổ kể: thần Ăngtê đánh nhau với dũng sĩ Hécquyn khi bị chết, vừa ngã xuống đất là được thần Đất Mẹ làm hồi sinh, tiếp tục chiến đấu bình thường. Sống chung với nhân dân, dù là dân Việt hay Khơme, bộ đội ta giống như thần Ăngtê đứng chân trên Đất Mẹ.
Thiều được đề bạt lên trung đội phó sau khi tới căn cứ của đơn vị đặt ở đất bạn. Ngày 5 tháng 8 năm 1971, theo chỉ đạo của cấp trên, anh Khanh nói:
– Thiều là đảng viên, khi huấn luyện ở ngoài Bắc đạt loại giỏi, hãy đi đánh trận đầu thử sức để kỷ niệm ngày truyền thống của bộ đội hải quân...
Mục tiêu là chiếc xà lan chở lính Lon – non đậu ở cạnh bót địch. Cơ sở từ bên trong báo ra, lại gởi kèm sơ đồ khá tỉ mỉ. Một tổ trinh sát dẫn đường cho Thiều và Long ra tới bờ sông Mê Kông, phía thượng nguồn, cách bót giặc hơn một cây số. Các anh ôm trái mìn rùa 18 kg, (mìn nam châm mang từ miền Bắc vào) gắn phao (để trái mìn nổi lập lờ dưới mặt nước chừng bốn tấc), miệng ngậm ống thở, bơi xuôi theo dòng nước chảy mạnh. Các anh đi đánh đầy khí thế, tin tưởng ở kỹ thuật đã học. Đèn trong bót sáng trưng, bờ sông đoạn đó thoai thoải nên mép nước ra tới chiếc xà lan khá xa, bóng xà lan đổ ra phía giữa sông. Khác với sông Mã quê hương, sông MêKông có vô số đám lục bình to nhỏ trôi theo dòng nước. Vì thế, lính địch càng khó quan sát đầu ống thở chỉ nhô khỏi mặt nước hơn gang tay. Thiều bơi trước giong trái mìn, Long bơi sau cầm cuối sợi dây buộc mìn; cả hai chẳng mất sức mấy vì nước đẩy các anh cùng trái mìn tiến dần về phía mục tiêu. Khi áp mạnh xà lan, Thiều đặt trái mìn giữa hông tàu rồi điểm hỏa ngòi nổ hẹn 2 tiếng. Hai người rời mục tiêu, tiếp tục thả trôi theo dòng khoảng vài cây số thì tấp vào điểm cơ sở hẹn đón. Rồi một tổ khác dẫn về căn cứ. Hôm sau, cơ sở mật trong lòng địch báo: chiếc xà lan bị đánh chìm. Đài phát thanh Phnôm-pênh cũng loan tin: Việt cộng đánh chìm một xà lan quân sự của quân đội Cộng hòa Cam-pu-chia. Thiều được tặng giấy khen của chỉ huy Lữ đoàn 367. Trận này giống như một lần tập dượt bình thường trước kia, không có gì nguy hiểm. Rồi anh lại nằm chờ để các đồng đội lần lượt ra trận thử lửa.
Sau đó mấy tháng, đến lượt Thiều được cử đi đánh một trận ở cảng sông Kông-pông-chàm. Cơ sở mật báo tin ra đồng thời kèm sơ đồ vị trí chiếc tàu địch ở khúc sông đó. Hai anh ôm mìn, bơi theo dòng nước âm ấm, chảy chậm hơn vì đã vào mùa khô. Bầu trời đêm quang mây, hàng trăm ngôi sao lấp lánh, ánh điện từ trên cảng chiếu sáng dọc chiều dài mấy trăm mét. Trên sông, ca nô tuần tra của lính chạy một vòng ngắn rồi tấp bến nghỉ. Thiều và Long căng mắt quan sát, song không có chiếc tàu nào. Không thấy mục tiêu, các anh tiếp tục thả trôi dòng rồi đến điểm hẹn của cơ sở thì lên bờ về căn cứ. Trận đánh hụt này làm các Yết Kiêu của chúng ta buồn cười, đó cũng là dịp để anh tập dượt thêm.
Phối hợp với chiến dịch Chenla, lập thành tích kỷ niệm ngày sinh của Bác (19 tháng 5 năm 1972), nhóm ba chiến sĩ đặc công thủy: Thiều, Thoan, Long được lệnh đánh một chiếc tàu chở hàng quân sự hai ngàn tấn đậu ở giữa sông MêKông thuộc cảng Phnompênh. Cơ sở tình báo cho biết địa điểm tàu đậu, gửi cả sơ đồ ra. Đội hình: Long bơi đầu cầm một đầu sợi dây nilông chịu trách nhiệm cột đầu dây đó vào neo mũi tàu. Thiều là tổ trưởng, ôm trái mìn 12 ki-lô-gam C.4 (loại thuốc nổ cực mạnh) bơi giữa, Thoan bơi cuối cầm cuối đoạn dây. 1 giờ đêm, ba anh xuống nước, bơi đội hình hàng dọc. Thực ra dòng nước đầu mùa mưa chảy với vận tốc 2 mét/giây đẩy cả nhóm trôi xuôi. Miệng các anh đều ngậm ống thở, lúc mới xuất phát thì bơi nhái nổi trên mặt nước. Nghe tiếng xuồng cao tốc (gọi là Bo – bo) chở lính tuần tra trên sông hoặc ánh đèn pha quét gần tới, các anh mới lặn xuống thở bằng ống. Cứ thế nhóm ba người tiếp cận tàu giặc êm ru. Lính gác trên tàu tuy vẫn thức, đèn tàu sáng trưng, nhưng chỉ canh ra xa chứ không nhìn thẳng theo sườn tàu vát được. Long thành thạo buộc đầu sợi dây nilông vào dây neo mũi, rồi giật giật làm hiệu đã hoàn thành công việc. Thiều bơi sát sườn tàu, đoán định đã ở đúng khoang máy thì dừng lại. Do nước chảy đẩy Thiều và mìn ép sát vỏ tàu, Thoan nhanh chóng cột đoạn cuối dây vào chân vịt rồi giật dây báo hiệu làm xong. Thiều điểm hỏa hẹn kíp 1 giờ sau sẽ kích nổ. Cả ba ngậm ống thở, thả trôi ngầm một quãng xa, ngoài tầm quan sát của địch mới trồi lên. Các anh bơi xuôi chừng 4 cây số thì gặp đồng đội đón ở một địa điểm định trước. Đúng 3 giờ khuya, một quầng lửa đỏ rực sáng rồi một tiếng nổ phá tan bầu không khí yên tĩnh trên sông... Sau trận này, Thiều được thưởng Huân chương Chiến công giải phóng hạng ba, hai đồng đội được bằng khen của thủ trưởng Lữ đoàn 367.
Đêm 5 tháng 8 năm 1972, chỉ huy đội 22 cử Thiều và Long đi đánh một tàu Nam Hàn cỡ lớn đầy súng đạn, bột mì và quân trang quân dụng tiếp tế cho quân Lon-non, nghe nói tàu có sức chở tới 8000 tấn. Tin tình báo và sơ đồ cho biết tàu neo đậu ở gần cầu lộ 6 (cầu Chui Chàng Hoa). Địch canh gác rất cẩn mật: xuồng Bo bo lượn lờ tuần tra liên tục trên sông MêKông, đèn pha trên bờ quét qua quét lại sáng trưng tưởng chừng có thể thấy rõ từng con muỗi. Hai anh bơi dưới sông, thành phố rực sáng đèn, nhìn rõ cả nóc hoàng cung với những đầu mái cong vút như mũi ghe ngo. Nước lũ đục ngầu, bèo lục bình trôi từng cụm làm tầm nhìn của địch kém. Tàu đậu ở gần ngã ba sông MêKông chảy từ Bắc xuống Nam, ở đây chảy cuộn xoáy khiến hai anh tiếp cận tàu khó khăn. Long cột được đầu dây vào xích neo mũi thì do hiệu ứng của nước đẩy, nước dìm Thiều và trái mìn 18 ki-lô-gam C.4 xuống. Nước lọt vào ống thở khiến Thiều suýt ngộp. Long vội trườn tới, nâng Thiều lên rồi nhanh chóng cột cuối đoạn dây vào bánh lái chân vịt tàu. Thiều điểm hỏa kíp hẹn nổ sau một giờ nữa. Theo cái giật làm hiệu lệnh, hai anh rời xa con tàu, bơi xuôi theo dòng Tônglê Xáp khoảng 5, 6 cây số ngang qua một số đồn bót địch thì đồng đội đón. 4 giờ sáng, trái mìn phát nổ... Đài Phnômpênh la lối om sòm, xác nhận thành tích của cặp Yết Kiêu – Dã Tượng hiện đại phá hỏng nặng tàu địch.
Người chiến sĩ quân đội cách mạng hàng ngày chạm trán với cái chết do kẻ địch gieo rắc, không ai không có lúc nghĩ đến. Nhưng nếu cần hy sinh, anh quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
Tháng 2 năm 1973, đội 22 được lệnh đánh sập cầu lộ 6 (cầu Chui Chàng Hoa). Lính Lon – non bảo vệ cầu này rất kỹ sau vụ chiếc tàu Nam Hàn bị đánh hỏng nặng, phải kéo ra nước ngoài sửa chữa tốn kém. Phương án đề ra: muốn chắc ăn, đội sẽ dùng hai chiếc ghe, mỗi chiếc chở 600 ki-lô-gam thuốc nổ (một người lái, một người điểm hỏa) chạy song song tới chân cầu giữa sông thì cho mìn nổ. Anh Khanh – chính trị viên gợi ý Thiều:
– Trận này để lữ đoàn quyết định làm thành tích đề nghị phong tặng em danh hiệu Anh hùng, ý em thế nào?
– Nếu tiểu đoàn giao nhiệm vụ thì em làm chứ em không sợ gì. Vấn đề là đơn vị lập chiến công lớn, cái hy sinh xảy ra trong khoảnh khắc có gì đáng kể!
Thiều nghĩ tới vô số trường hợp hy sinh khác: có trận ta chết không phải chỉ vài người. Gương các anh hùng chiến sĩ cách mạng mà anh đã đọc hoặc nghe nói thoáng hiện rất nhanh. Con người ta chỉ sống có một lần, phải sống sao cho ra sống để khỏi có lúc ân hận, xót xa... Nhưng phương án này không được lữ đoàn thông qua vì tổn thất quá lớn. (sau đó, một tổ ba người: Long, Thoan, Khuê đánh kiểu người nhái thắng lợi mà không hy sinh ai).
Năm 1972, Lữ đoàn 367 chỉ đạo Trịnh Xuân Thiều viết bản thành tích cá nhân. Tổng cộng Trịnh Xuân Thiều đánh 15 trận lớn nhỏ trên đất bạn Cam-pu-chia, gây nhiều tổn thất cho địch. Với những thành tích đã lập trong quá trình chiến đấu, anh đã được Chủ tịch nước ký quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân tháng 6 năm 1978.
L.Y