Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Năm, 2024, 03:57:02 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Thày Tăng mở nước  (Đọc 33346 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #50 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:24:44 pm »

Lý Công Uẩn le lưỡi nói :

- Sao đắt quá như vậy ?

- Đó là gồm cả các khoản chi phí ngoại phụ nữa.

- Còn các khoản chi nào ?

- Bẩm, khách dùng cổ được tiếp đãi trên lầu có đào nương chuốc rượu, đàn ngọt hát hay. Suốt đêm thâu, các tửu bảo ăn mặc lịch sự thay phiên nhau hầu hạ. Chúng tôi thiển nghĩ chỉ mất có 20 lượng bạc mà được hưởng một lạc thú độc nhất trên đời, cũng không phải là đắt.

Trẩm Tam cười nói :

- Được rồi, người đi sửa soạn lầu để chúng tôi nghỉ một đêm. Sâm sẫm tối ta xem đua thuyền xong sẽ dùng cơm cũng được. Còn đào nương thì thôi, đừng gọi làm gì.

Chủ quán vâng lời lui ra. Hai người xách hành lý lên lầu, sai tửu bảo pha trà, vừa uống vừa ngắm phong cảnh.

Thành cao hơn hai trượng và dài non hai nghìn trượng, ngoài đắp một con đê rất dầy trông kiên cố và hùng dũng lắm. Dưới chân đê, con sông Tô Lịch lờ đờ chảy, thuyền bè đậu như lá tre. Người đi lại như mắc cửi. Công Uẩn chỉ tay bảo Trẩm Tam :

- Thành Đại La không những là một thắng cảnh của nước nhà, mà lại là một địa điểm rất tốt về quân sự nữa. Phía bắc có hồ rộng để tập thuỷ quân, gần đấy mấy ngọn núi đứng làm bức bình phong, chỉ cần một toán quân nhỏ đóng trên núi cũng giữ nổi thành. Nếu giặc Bắc tràn sang, quân đội đóng ở đây có thể ngăn giữ được mấy mặt, nhờ có con sông Hồng hà.

- Giặc có thể dùng thuyền cho quân sang sông được.

- Trên bờ sông cho đắp nhũng ụ đất để ngăn phòng, chọn những quân thiện xạ ngày đêm thay phiên nhau để ứng chiến. Sự chuyển vận quân đội sẽ do các đường hầm đào sẵn ăn thông vào các nơi tập trung của binh lính. Ta tuy không kềm chế nổi lực lượng rất hùng hậu của địch, nhưng cũng cầm cự được trong một thời gian, để chờ cho viện binh các nơi đến.

- Một cái thành xoàng xỉnh này thì cần gì phải phòng thủ cẩn thận thế ?

- Lão trượng có lẻ không nhận thấy rằng thành Đại La này là nơi trung tâm điểm của sự giao thông trong
nước. Để cho giặc chiếm mất Đại La, và do đấy tung quân đi chiếm các nơi khác, thì khó lòng ngăn cản được sức tiến như vũ bão của địch quân.

Trẩm Tam mỉm cười đáp :

- Nếu mai sau hiền điệt được cầm quân chống cự giặc Bắc, thì chắc hẳn phải nghĩ ngay đến sự tổ chức
một hệ thống phòng thủ cực kỳ chu đáo ở thành Đại La. Có lẽ hiền điệt là hậu thân của Cao Vương cũng nên.

Lý Công Uẩn cũng cười nói :

- Làm tướng phải thông hiểu thiên văn địa lý. Chỗ nào nên giữ, chỗ nào nên bỏ. Tiến lui nhanh chậm phải
tuỳ cơ mà ứng biến. Nếu được như lời của lão trượng mong cho tôi, thì nhất định thành Đại La phải được mở mang và phòng thủ như một đô thị quan trọng bậc nhất vậy.

Hai người đang mãi nói chuyện, bỗng một tiếng pháo lệnh nổ vang trời. Trông về phía đền thờ Cao Vương, đoàn thuyền đang đậu yên lặng cạnh đám lau sậy, tự nhiên chuyển mình, cựa quậy chớp mắt đã tản ra tứ phía, lượn lờ một lúc, rồi xếp hàng ba trước đền. Tiếng pháo nổ lần thứ hai, ba chiếc đều vùn vụt lướt trên mặt nước. Rồi đến ba chiếc sau, tiếp đến ba chiếc nữa, rồi cả đoàn thuyền chuyển động rất đều. Hàng nọ cách hàng kia độ vài ba trượng, nhẹ nhàng tiến thẳng, giữa những tiếng reo hò ầm ĩ của dân chúng. Tiếng mái chèo đập xuống nước làm nổi những đợt sóng, hết lớp nọ đến lớp kia, toả rộng ra, và đẩy những đám bọt trắng xoá lên bờ.

Tiếp theo là chiếc hoa thuyền của quan tổng đốc trên mui treo đèn kết hoa, bốn mặt mành buông kín mít. Sau nữa là những thuyền của nha lại và quân lính đi hộ vệ.

Đang lúc ấy, chợt thấy một luồng gió lốc cuộn từ mặt sông bốc lên, thổi dạt đoàn thuyền vào bờ. Rồi một tiếng sấm nổ chuyển động cả đất, lưng trời bỗng hiện ra một đám mây ngũ sắc, hào quang sáng rực át cả ánh nắng của mặt trời.

Giữa đám mây một con rồng vàng năm móng quẩy khúc phun ra những làn khói hồng bả lả bay về phương đông. Một lát sau, con rồng biến mất, đám mây ngũ sắc cũng dần dần trôi theo chiều gió, tản mác trong không trung.

Dân chúng xôn xao bàn tán cho là một sự lạ. Hai người ở trên lầu được nhìn rõ hơn ai hết, vì con rồng bay cách mái nhà độ mười trượng lại lượn một vòng rồi mới biến đi.

Trẩm Tam xoa tay cười :

- Rồng là một con vật đứng đầu tứ linh, tượng trưng uy quyền của thiên tử. Thành Đại La cũng là một quý
địa nên linh vật mới xuất hiện. Chúng ta lần đầu đi cầu công danh, gặp điềm tốt chắc không đến nổi phải về tay không.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #51 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:25:46 pm »

Công Uẩn cũng hưởng ứng nói :

- Sư phụ tôi thường nói khí thiêng của đất nước đều tụ cả ở đây. Thành Đại La dẫu được một vị đế vương chọn làm kinh đô cũng xứng đáng.

Đến tối, cơm nước xong, hai người đi dạo chơi một lúc, rồi đi ngủ để lấy sức hôm sau đi.

Ròng rả hơn nửa tháng trèo đèo lặn suối, hai người đã tới Hoa Lư. Trẩm Tam bàn rằng :

- Chúng ta tìm chỗ nghỉ ngơi, tắm rửa sạch sẽ, thay đổi quần áo cho tề chỉnh, rồi hãy ra mắt Đào Đề Đốc.
Nếu ta lôi thôi, lam lũ quá, vừa mất giá trị với kẻ hầu người hạ, vừa bị họ khinh rẻ.Công Uẩn ngẩn người đáp :

- Có ít tiền ăn đường thì vừa đủ, còn đâu mà sắm sửa y phục nữa.

Trẩm Tam vỗ vào hành lý nói :

- Trong này còn một nén vàng cũng thừa, chỉ dụng ở đất đế kinh này.

- Trẩm lão lấy ở đâu thế ?

- Tiền của ta buôn bán, dành dùm được hơn chục năm.

- Định trọ ở đâu ?

- Hàng quán đông người ra vào, nhỡ có kẻ gian phi, dò biết ta lắm vàng bạc, sẽ tìm cách chiếm đoạt thì phiền cho ta phải canh giữ đêm ngày. Hơn hết là tìm xem có ngôi chùa nào sạch sẽ ở tạm ít lâu, rồi sẽ liệu.
Hai người hỏi dò dân cư mới biết cách kinh thành độ nửa dặm đường, về phía nam có chùa Cảnh Tỉnh rộng rãi, mát mẻ. Đi khỏi ngã ba đường thì tới một dãy đồi trồng toàn thông. Dưới chân đồi, hiện ra giữa rặng cây một ngôi chùa nguy nga, tráng lệ, có khắc ba chữ : “Cảnh Tỉnh Tự” ở cổng. Hai người bước vào chùa, vừa đến sân thì gặp một sư già chóng gậy trúc đi ra.

- A di đà phật, bạch cụ.

- A di đà phật.

Trẩm Tam thưa :

- Bạch cụ, chúng tôi ở An Phong về kinh đô có chút việc, nhân qua đây thấy phong cảnh u nhã, ưa nhìn, ý
muốn ở nhờ cảnh phật trong ít lâu. Ngày hai bữa cơm nhờ nhà chùa chu tất và dành cho một căn phòng tỉnh mịch. Ngoài ra, tiền dầu đèn, xin tính toán phân minh, không dám để nhà chùa thiệt thòi.

Sư già nhìn hai người một lúc rồi hỏi :

- Khách ở An Phong có quen sư đệ Vạn Hạnh không ?

Lý Công Uẩn cúi đầu thưa :

- Bạch cụ, con là đệ tử của người.

- Bần tăng thấy Vạn Hạnh nói có tên cao đồ là Lý Công Uẩn, phải chăng là quý danh của công tử ?

- Bạch cụ, chính là đệ tử.

Sư già cầm tay Công Uẩn, cười nói :

- Đã là bạn đồng đạo, thì nhà chùa tất phải tiếp đãi chu đáo. Xin mời hai vị lên phòng khách nói chuyện.

Hai người theo lên nhà trên. Sư già mới uống nước rồi hỏi Công Uẩn :

- Sư đệ Vạn Hạnh độ này có mạnh giỏi không ?

- Bạch cụ, sư phụ của đệ tử nhờ Phật tổ vẫn được bình an.

- Công tử về đây có việc gì ?

Công Uẩn cứ thật thà bày tỏ với sư già ý muốn của mình đi cầu công danh.

Sư già gật đầu nói :

- Đề Đốc Đào Cam Mộc đang được hoàng đế tin dùng. Công tử đã có lời giới thiệu của Vạn Hạnh ắt được
trọng dụng. Bần tăng xem tướng công tử, thấy hồng phúc vượng lắm, sau này danh giá trùm cả thiên hạ sự nghiệp lừng lẫy không biết thế nào mà nói được.

- Nếu được như vậy, cũng là nhờ ở công lao trời bể của sư phụ đệ tử.

- Công tử đã không quên gốc, xin hứa cho một điều.

- Bạch cụ, xin chỉ giáo.

- Mai hậu khi công tử được dự vào quyền chính trong triều thì nên tìm trong Thiền môn những nhân vật
siêu phàm bạt tuỵ để giúp việc cai trị thần dân. Ngoài ra lại cho lập thêm nhiều chùa, tô tượng đúc chuông, chọn các vị đạo đức cao tăng đi khai trường thuyết pháp để hoằng dương đạo Phật. Nếu biết lấy tôn giáo làm hậu thuẫn cho chính quyền, thì chính quyền mới vững vàng được. Và cũng nhờ có chính quyền mà tôn giáo được củng cố vững chắc và có cơ hội phổ biến trong dân chúng.

Lý Công Uẩn cúi đầu tạ ơn.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #52 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:26:27 pm »

Hôm sau Trẩm Tam ra chợ mua vài bộ quần áo, giầy mũ rất lịch sự. Bấy giờ đang tiết mùa đông, mưa phùn rơi rả rích lạnh buốt thấu xương. Trong chùa sư già sai đốt lửa sưởi, ngày ngày uống trà đàm luận với Công Uẩn. Vừa nửa tháng mưa mới ngớt hạt. Một buổi sáng nhìn về phương đông thấy vầng mây hồng rồi dần dần ánh nắng toả ra ấm áp và dễ chịu.

Sư già xoa tay mừng rỡ nói :

- Hôm nay trời tạnh ráo, nhị vị có thể đi được rồi.

Trẩm Tam ăn vận như một viên ngoại. Công Uẩn thì mặc binh phục lưng đeo bảo đao, lộ ra một khí phách anh hùng.

Hai người về Hoa Lư hỏi thăm nhà quan Cửu Môn Đề Đốc. Lính canh thấy ăn mặc lịch sự, có ý nể liền hồi trống báo hiệu. Một lúc có quân ra nói :

- Quan đề đốc bận việc không tiếp khách hôm nay. Xin quý vị để danh thiếp lại.

Trẩm Tam lấy phong thư đưa cho tên quân và nói :

- Chúng tôi là người nhà quan đề đốc, phiền chú đưa giúp lá thư này.

Tên lính cầm lấy đi vào, đưa cho viên quản gia để chuyển lên phòng thư lại. Nguyên trong phủ Đề Đốc vẫn
có riêng một phòng để nhận các thư từ ở các nơi đưa về, nhất là về dạo này, dân Mường ở 49 động Hà Man nổi loạn, nên ở biên thuỳ, các công văn cấp báo về như bươm bướm, công việc bận rộn suốt ngày đêm. Vua Đại Hành uỷ cho Cam Mộc việc sửa soạn lương thực, may sắm các chinh y để đợi ngày xuất quân. Ngày ngày các tướng sĩ phải ra giáo trường luyện tập các trận đồ. Ở các châu, huyện đều yết bảng chiêu mộ hiền tài, người, ngựa tấp nập về Hoa Lư đông như hội. Hôm ấy, Cam Mộc đang ngồi ở tư thất xem xét các giấy tờ, bỗng thấy lính vào trình phong thư. Vị lão tướng xem xong sai người gọi Đào Tiến Thành lên hỏi :

- Hồi con học ở chùa Tiêu Sơn có quen biết người nào tên Lý Công Uẩn không ?

- Thưa cha, hắn là bạn học của con.

- Lý Công Uẩn là người thế nào ?

- Thưa, hắn ở với ai cũng lấy tín nghĩa làm đầu. Cư xử với thầy, với bạn thuỷ chung rất mực. Tuy hắn ít tuổi hơn con, nhưng tài nghệ thì gấp mười con.

Cam Mộc cả mừng nói :

- Nếu quả như lời con nói thì quốc gia lại thêm một vị trung thần lương tướng nữa. Cha sẽ thu nạp hắn ở dưới trướng để cho đi lập chiến công.

Tiến Thành cũng hớn hở nói :

- Thưa cha, hiện nay Công Uẩn ở đâu ?

- Hắn được Vạn Hạnh cho đi đầu quân hiện đang đợi ngoài dinh.

Tiến Thành reo lên một tiếng toan chạy ra thì Cam Mộc đã ngăn lại nói :

- Nhưng cha khó nghĩ quá.

Tiến Thành ngạc nhiên hỏi :

- Cha có việc gì khó nghĩ ?

- Hắn cùng đi với một tên tướng giặc là Trẩm Tam. Trước kia, hồi cha còn là Huyện Lệnh ở Đông Ngàn thì Trẩm Tam đang hoành hành ở vùng núi Tiên Du, gây nhiều vụ án mạng kinh khủng, cha cho quân đi truy tầm nhưng không sao bắt được. Ngày nay theo như lời Vạn Hạnh thì Trẩm Tam đã bỏ nghề lạc thảo mà trở về cuộc đời lương thiện. Dùng Trẩm Tam sợ có sự lo ngại về sau, đuổi hắn đi e mất lòng sư trưởng, con nghĩ thế nào ?

- Sư trưởng đã xét người tất không sai bao giờ. Trong bọn lục lâm có nhiều tay tài giỏi, nếu đã quy thuận triều đình mà không được trọng dụng, có thể phẩn chí làm liều, lại càng đáng sợ lắm. Cha nên lấy nhân nghĩa mà xử với thiên hạ thì bốn phương nhân tài mới chịu xuất đầu lộ diện. Nếu họ có bụng dạ phản trắc thì thân cô, thế cô, liệu làm gì nỗi mà sợ !

Cam Mộc gật đầu đáp :

- Con ra gọi họ vào cho cha xem mặt.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #53 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:27:04 pm »

Tiến Thành mừng rỡ ra tìm Thiên Tường rủ đi đón Công Uẩn. Hai người ra ngoài dinh thấy Công Uẩn và Trẩm Tam đang chờ tin tức, mừng nhẩy lên chạy lại ôm lấy Công Uẩn. Anh em gặp nhau tưởng như giấc chiêm bao. Tiến Thành chảy nước mắt nói :

- Anh em xa cách, chốc đã 10 năm trời. Chúng em tuy vui cảnh gia đình, nhưng lòng vẫn canh cánh mong biết tin anh. Nay gặp nhau thật là lòng trời.

Công Uẩn ngậm ngùi nói :

- Chốc đã 10 năm, biết bao sự biến cải trong đời. Các anh đã lập gia đình chưa ?

Thiên Tường vừa cười vừa nói :

- Anh Thành đã lấy vợ rồi, còn tôi thì chẳng có ma nào nó thèm hỏi đến.

Mọi người đều cười ầm lên. Tiến Thành chợt nhớ ra vội hỏi :

- À, còn Quách Chí, Lâm Đồng, và Hoàng Công Nghĩa đâu ?

Công Uẩn thở dài đáp :

- Công Nghĩa đi không biết tin tức gì cả. Còn Lâm Đồng và Quách Chí thì về quê trông nom vường ruộng.

Thiên Tường cầm tay Công Uẩn nói :

- Anh và Trẩm lão hãy vào chào Đào bá phụ đã, sau sẽ nói chuyện nhiều.

Công Uẩn theo mọi người vào dinh trong, giữ lễ, quỳ xuống lạy chào. Cam Mộc nhìn thấy Công Uẩn trạng
mạo khôi ngô, đi đứng uy nghiêm đường bệ, trong bụng rất vui vẻ, gật đầu đáp lễ, rồi hỏi :

- Cháu đến kinh đô trọ ở đâu ?

- Thưa bá phụ, cháu trọ ở chùa Cảnh Tỉnh.

- Sao cháu không đến tìm ta ngay, lại đến chùa làm gì ?

- Cháu đi đường ròng rả nửa tháng trời, người thấy mỏi mệt, nên phải đến chùa để tỉnh dưỡng ít lâu cho lại sức khoẻ, rồi mới dám đến hầu bá phụ.

Cam Mộc gọi Trẩm Tam uỷ lạo vài câu :

- Nhà ngươi có thiện chí phụng sự chính nghĩa, đáng khen lắm thay ! Sau này nếu nhà ngươi lập được
chiến công, ta sẽ dành cho một địa vị xứng đáng với tài năng. Nhưng chớ có hai lòng để khỏi phụ tấm lòng
tốt của ta đối với ngươi.

Trẩm Tam cúi đầu vâng lời.

Tiến Thành chạy lại ghé vào tai cha nói nhỏ mấy câu. Cam Mộc gật đầu mỉm cười nói :

- Ta xem cháu ở chùa cũng không được tiện lắm. Thỉnh thoảng có việc cần, lại phải cho người đi gọi. Thật
là phiền phức và mất thời giờ ! Cháu và Trẩm lão vào ở trong này cho vui, bạn bè sớm tối hàn huyên, ôn nhuần võ nghệ chả bổ ích lắm sao ?

Công Uẩn lạy tạ ơn.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #54 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:27:31 pm »

Hôm ấy, Tiến Thành giữ Công Uẩn ở dinh, sai một tên lính đi với Trẩm Tam về chùa lấy hành lý, và cho gia nhân cầm thiệp mời các bạn lại chơi.

Buổi tối, chung quanh bàn tiệc ở hậu dinh quan Đề Đốc, có tới hơn hai mươi vị anh hùng hội họp. Hàng trăm ngọn bạch lạp đốt cháy sáng rực như ban ngày. Những người dự tiệc phần nhiều là con cháu các quan đại thần trong triều như Phạm Thiên Long, con trai của Thái sư Phạm Cự Lượng. Ngô Tử Hàn, con Ngô Tử An, Thượng thư lệnh. Từ Thạch, con Từ Mục, sau đến Nguyễn Diệu Thành, Phạm Hạc, Lê Nhân, vân…vân…

Tiến Thành đứng lên giới thiệu Lý Công Uẩn với mọi người rồi nói :

- Chúng ta cùng là anh em, tình thân thiết như ruột thịt, xin lấy sự chân thành đối đãi với nhau. Nếu ta căn cứ ở chức tước của ông cha, để ấn định sự tôn ti trật tự trong buổi hội họp thì thật là một sự nhầm lẫn vô cùng. Trừ Lý huynh là tân khách, và tôi là chủ nhân, còn các vị đều xếp theo niên canh cả. Các bạn nghĩ sao ?

Mọi người đều vỗ tay tán thưởng. Gia nhân rót rượu. Tiến Thành nâng cốc rượu mời. Đang lúc chuyện trò
thân mật, bỗng thấy một tên lính bưng một cái khay trên có một bình rượu trắng và con dao, đặt ở giữa bàn. Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, Tiến Thành đứng lên vòng tay nói :

- Chúng ta kết bạn, hàng ngày lui tới bàn chuyện cổ kim đã hiểu rõ hành vi, tư tưởng của nhau, và dẹp tan được hết mối ngờ vực từ trước đến nay. Cổ nhân có người coi trọng tình bằng hữu như bỏ cả chức tước, hy sinh cả thân thế và gia đình, lăn lưng vào vòng nguy hiểm để cứu bạn. Chúng ta ngày nay cũng nên noi gương tiền bối, gạt bỏ hết tính đố kỵ. Không vì những quyền lợi nhỏ nhen mà chia rẻ nhau. Một sự phản bội bất cứ ở trong trường hợp nào cũng không thể tha thứ được. Tôi xin bày một cái lễ “trích máu” cho mọi người cùng dự. Chúng tôi không bắt buộc một ai, nhưng kẻ nào đã uống máu ăn thề mà còn tráo trở hai lòng thì nguyện có thần linh chứng giám.

Đoạn chàng vén tay áo, cầm dao sẽ thích vào cánh tay làm chảy mấy giọt máu vào bình rượu. Rồi lần lượt đến các người khác, không một ai từ chối.

Tiến Thành cầm bình rượu lúc bấy giờ đã ra màu đỏ nhạt, thân hành đi rót cho mỗi người một cốc.

Bữa tiệc kéo dài mãi đến khuya mới tan.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #55 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:28:38 pm »

LÝ CÔNG UẨN (b)

Mùa đông năm ấy, quan đề đốc Đào Cam Mộc thấy quân sĩ đã luyện tập thành thục, lương thực dồi dào liền vào bệ kiến xin đi dẹp giặc Mường, đang nổi loạn ở Thạch Thành (thuộc về tỉnh Thanh Hoá bây giờ). Vua Đại Hành hội họp bách quan lại nghĩ kế. Thái sư Phạm Cự Lượng bàn rằng :

- Kể từ khi Ngô Vương Quyền khởi binh ở Á Châu ra đánh quân Nam Hán thống nhất giang sơn, cho tới nay có ngoài 40 năm. Tuy trong khoảng thời gian đó, chính quyền đã thiết lập vững chắc, nhưng ở vài nơi dân chúng vẫn không chịu tôn trọng mệnh lệnh của triều đình. Với những tập quán, phong tục lạc hậu, lại thêm chiến tranh tàn khốc làm kiệt quệ điều kiện sinh hoạt của họ, dân ở những nơi này bị bỏ rơi, đâm oán thù các nhà cầm quyền bất lực không ban hành được những biện pháp cần thiết khả dĩ bảo đảm được tài sản và tính mạng của họ, nên kèn cựa muốn thoát khỏi thế lực của triều đình và thiết lập một giang sơn tự chủ mặc sức vẫy vùng. Tỉ như dân Mường ở 49 động Hà Man, trải qua các triều đình bị ức hiếp, đè nén bóc lột đến xương tuỷ, nhưng vì thế yếu nên nuốt hờn tạm qui phục. Bị bóc lột, ức hiếp là một cái khổ trong thời bình, nhưng đến khi loạn lạc thì triều đình lại không nhìn nhận đến, “sống chết mặc bây”, dân “dã man”, “dị chủng”, làm cho họ uất ức mà làm liều. Quân đội anh dũng của ta có sợ gì một nhóm quân phiến loạn đó.
Chỉ một trận là quét sạch hết, nhưng chiếm đất thì dễ, mà cai trị thì khó.

Một nơi như 49 động Hà Man, núi non trùng điệp điệp, khí hậu nặng nề dễ sinh ra nhiều bệnh tật hiểm nghèo. Một nắm quân ốm yếu, với một số ít quan lại không phải là một lực lượng hùng hậu có thể áp đảo được chúng. Không lẻ mỗi lần có nổi loạn, triều đình lại cử binh đi tiểu trừ, như thế chỉ thêm hao người tốn của rút cuộc về phương diện chính trị, ta vẫn không thu được kết quả gì.

Vua Đại Hành gật đầu phán hỏi :

- Vậy theo như ý khanh thì nên xử thế nào cho phải ?

- Thần xin hiến một kế mọn : Ta cho người đi phao tin rằng Hoàng Thượng về kinh lý hạt Thạch Thành để phủ dụ trăm họ, phân phát thóc gạo cho người nghèo, chứ không có ý gây chiến tranh với dân. Như thế thì dân sẽ không sợ ta mà lại muốn gần ta, giặc không có dân ủng hộ thì không đủ sức mà đánh lâu, dần cũng phải tan. Thảng hoặc có nơi nào ra mặt chống cự thì ta hãy trừng trị. Bắt được giặc, hãy cho ăn uống tử tế, cấp quần áo, rồi tha cho về, lại chiêu dụ những kẻ có thế lực ở vùng đó về hàng, phong quan tước cho. Đó là những lợi khí rất hiệu nghiệm để thu phục nhân tâm một cách rất nhanh chóng. Khi nào bình định xong đất Hà Man, ta sẽ chọn một người nào có tín nhiệm của dân, lập lên làm chủ, đặt vươnglễ, lập triều nghi, trả lại sự tự do cho họ, chỉ bắt hàng năm phải triều cống và chịu nhận làm thần tử suốt đời. Có như thế thì triều đình mới không lo có sự âm mưu phản nghịch, và nếu các dư đảng của nhà Đinh có muốn hoạt động trong dân chúng cũng không đủ điều kiện để bành trướng thế lực được.

Vua cả mừng phán :

- Khanh bàn rất hợp ý trẫm. Nếu được ngày hoàng đạo, trẫm sẽ thân xuất binh đi chinh phạt. Trong khi vắng mặt, khanh giúp thái tử Long Việt trông nom việc triều chính, trừ có việc gì khẩn cấp hãy phi báo, còn ngoài ra, trẫm cho phép khanh được giải quyết lấy.

Văn quan là Từ Mục can rằng :

- Nay đang tiết mùa đông giá lạnh, lại thêm hiểm trở, sự vận chuyển quân đội và lương thực gặp nhiều điều trở ngại. Xin để sang xuân ấm áp sẽ xuất quân cũng vừa.

Mặt rồng bỗng cau lại, vua tiếp lời :

- Cứu binh như cứu hoả. Dân chúng ngoài biên giới bị giặc quấy nhiễu đang đỏ mắt đợi binh tiếp viện, mà ta cứ trùng trình chưa chịu xuất quân, tỏ ra thái độ nhút nhát thì còn gây thế nào được uy tín với dân nữa. Giặc dẫu đông nhưng toàn quân ô hợp, tuy có đánh chiếm một vài nơi, nhưng chưa tổ chức xong việc cai trị, nếu ta để chúng lập thành cơ ngũ hẳn hoi, thì sau này khó đánh. Xưa nay trẫm với quân sĩ gian nan từng trải, thanh gươm yên ngựa tung hoành ở bãi sa trường, coi cái chết nhẹ như lông hồng, có sợ gì rét mướt đâu. Ý trẫm đã quyết, các khanh chớ có nhiều lời.

Bách quan đều lặng thinh, không ai dám nói nữa.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #56 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:29:06 pm »

Ngày mồng năm tháng một năm ấy, Đại Hành hoàng đế phong Cam Mộc làm tiền tướng quân mang năm nghìn quân đi trước mở đường, lại sai Lý Nhân cùng bọn Phạm Thiên Long, Ngô Tử Hàn, vận tải lương thực, còn mình tự thống lĩnh năm vạn quân cùng bọn mưu sĩ Ngô Tử An, Lê Tâm, Lê Trực Minh, kéo binh ra khỏi thành.

Đào Cam Mộc đi tiên phong trống rong cờ mở, qua các châu quận, truyền hịch chiêu an, dân chúng đón rước tỏ lòng quy thuận. Thấm thoát đã đến huyện An Đồng cách Thạch Thành mười dặm. Viên huyện lệnh ở An Đồng là Phùng Tất mang nha lại ra nghênh tiếp bên vệ đường.

Phùng Tất thưa rằng :

- Toàn thể huyện Thạch Thành đều lọt vào tay quân phiến loạn. Huyện lệnh là Cao Duy bị tử trận. Cách mấy hôm nay, bá quan được thám tử cho biết giặc đã tập trung cả bên kia dãy núi Phi Long, ý muốn chiếm huyện An Đồng.

- Chủ tướng của chúng là ai ?

- Bẩm là Bạch Công Thắng, một tay rất được tín nhiệm của dân Mường.

- Quân giặc thiện chiến về môn gì ?

- Chúng bắn tên nỏ rất tài, luồn rừng rất giỏi, can đảm và dũng mãnh vô cùng.

- Quân ta đã có lần nào giáp chiến chưa ?

- Bẩm, quân lính ở An Đồng ít quá, so với địch như trứng chọi với đá, nên chỉ phòng thủ ở biên giới, chưa dám giáp chiến với giặc.

- Biết vậy, mai ra quân sẽ hay.

Tối hôm ấy, Cam Mộc hội các tướng lại bàn.

Tiến Thành hiến kế.

- Giặc đóng bên kia dãy núi, mà hơn tháng nay chưa hề động tĩnh là không có ý chiếm huyện An Đồng. Một là vì thế lực chưa đủ, hai là chúng thu hẹp phạm vi hoạt động, lấy Thạch Thành làm thế “ỷ dốc” rồi dần dà chiếm các vùng lân cận. Nếu ta muốn thắng ngay thì phải đánh mạnh vào Thạch Thành là nơi xương sống của giặc. Con xin đem ba trăm quân cảm tử, luồng rừng vào quấy rối hậu tuyến của đối phương, đợi đại binh kéo đến, sẽ trong đánh ra ngoài đánh vào, chỉ một trận là thắng.

Cam Mộc nói :

- Xem cách bố trí và hành quân của giặc thì đủ biết chúng không phải hạng vô mưu. Rừng núi đều có quân canh giữ. Nếu ta mạo hiểm cho ba trăm quân đi, nhỡ bị mai phục thì chống cự làm sao. Khác nào như xua đàn dê vào miệng cọp.

Phùng Tất giở bản đồ chỉ tay nói :

- Đây có một con đường lớn chạy vòng chân núi Phi Long, đến Lãng Trung là địa phận Thạch Thành. Con đường này bị phá huỷ hết. Một con đường nữa nhỏ hẹp vắt qua đèo Hải Long, cây cối rậm rạp, thì hình như có quân canh giữ vì suốt ngày thấy khói lửa chập chùng, cờ xí cắm la liệt.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #57 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:29:32 pm »

Tư Chiềng lắc đầu tiếp lời :

- Địa thế hiểm trở quá, một người khó qua. Nếu giặc dùng lối đánh ẩn hiện không chừng thì nguy hiểm vô cùng.

Cam Mộc ngồi lặng thinh không nói . Một không khí nặng nề bao phủ cả mọi người. Họ đưa mắt nhìn nhau, nét buồn thoáng hiện trên những bộ mặt quả cảm, vụt đỏ bừng dưới ánh ngọn bạch lạp. Hình như trong giờ phút này, họ đều nhận thấy mình bất lực trước tình thế cực kỳ nghiêm trọng, và một sự lầm lỡ trong việc hành quân có thể đưa ra một đạo quân tinh nhuệ đến chỗ diệt vong.

Lý Công Uẩn phá tan sự yên lặng :

- Nếu đúng như lời huyện quan vừa nói, thì giặc thất bại đến nơi rồi.

Mọi người đều ngạc nhiên. Cam Mộc hỏi luôn :

- Hiền điệt cho biết ý kiến.

- Tướng giặc cũng thông hiểu binh pháp, lắm mưu nhiều trí, nhưng không đánh lừa nổi ta. Chúng phá huỷ hết con đường lớn để tỏ cho biết chúng không dùng con đường ấy nữa, nhưng kỳ thực chúng đã mai phục cả chung quanh rồi. Nơi mà ta thấy khói lửa, cờ xí, chỉ là một cách nghi binh thôi. Nếu bây giờ ta cho một toán quân đi chiếm đèo Hải Long rồi đại quân lặng lẽ kéo đi sau thì có thể vào Thạch Thành dễ như bỡn.

Thiên Tường tiếp lời :

- Lý huynh bàn cũng phải, nhưng trên núi thế nào cũng có quân canh gác, nếu ta trèo lên, giặc lăn gỗ đá xuống rồi nổi trống báo hiệu, viện binh của giặc kéo đến thì mình có cánh cũng chưa chắc thoát khỏi được.

- Ta chỉ cần vài trăm quân ăn mặc giả làm dân Mường, ban ngày tản mác đi kiếm củi. Đến tối vượt qua đèo, chẹn tụi quân tiên phong canh gác rồi đốt hoả hiệu. Đạo quân của ta sẽ cho một nửa vượt núi chiếm trại Lãng Trung, còn một nửa đến đóng gần con đường lớn, giả vờ sửa chữa đường để cho giặc chỉ chú trọng về mặt này mà lãng bỏ mặt kia. Chiếm Lãng Trung rồi sẽ vòng lại đánh con đường núi Phi Long để tiếp ứng cho toán quân kia. Giặc bị đánh bất ngờ tất phải thua.

Cam Mộc cả mừng nói :

- Thật là diệu kế. Trong hàng tướng sĩ ai dám xung phong lấy đèo Hải Long không ?

Công Uẩn đứng lên xin đi.

Đầu canh ba, Cam Mộc cho quân sĩ thổi cơm ăn no rồi truyền cho các tướng phải tập trung ở dưới trướng để nhận huấn lệnh.

- Công Uẩn, Phùng Tất đem hai trăm quân mặc trá hình thường dân Mường vượt đèo Hải Long bắt hết đám quân gác đừng để tên nào chạy thoát. Chiếm đóng xong sẽ đốt lửa làm hiệu để viện binh đến. Đào Tiến Thành, Thiên Tường mang hai nghìn quân tiếp ứng cho toán xung phong rồi thẳng đường đến chiếm lấy Lãng Trung. Tư Chiềng, Cù Vân lãnh hai nghìn quân đến đóng gần con đường núi Phi Long, nhưng cấm không được giao chiến với giặc. Khi có tin báo Lãng Trung chiếm được rồi thì đánh vào núi Phi Long phá huỷ hết các cơ quan phòng thủ của giặc rồi hợp lực với Công Uẩn đi lấy Thạch Thành.

Các tướng vâng lệnh điểm quân ra đi.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #58 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:30:04 pm »

Huyện Thạch Thành vốn là một cái thung lũng đất cát phì nhiêu, diện tích ước độ hơn năm nghìn mẫu, bốn mặt núi non hiểm trở. Dân cư phần nhiều là người Mường ở rải rác trong các động (cũng như thôn xóm), dưới quyền cai trị của viên tù trưởng Bạch Công Diên. Khi Ngô Vương Quyền đuổi được quân Nam Hán lên ngôi cửu ngũ, thì Bạch Công Diên sợ bị đánh chiếm, bèn mang phẩm vật qui thuận nhà Ngô. Qua thời Thập Nhị Sứ Quân, họ Bạch thấy nhà Ngô đã đổ, lợi dụng cơ hội hùng cứ một phương, ý muốn tuyệt giao với triều đình.

Đến đời Đinh Tiên Hoàng thì dân Mường thế lực đã đủ nhưng còn gườm sức mạnh của Vạn Thắng Vương, nên ngoài mặt thì thần phục, mà trong lòng vẫn ngấm ngầm gieo rắc mầm phản nghịch giữa dân chúng, và đợi thời để khởi sự. Khi Lê Đại Hành cướp ngôi nhà Đinh thì Công Diên mất, con là Bạch Công Thắng thay quyền cha.
Bạch Công Thắng tuy còn ít tuổi, nhưng có chí khí cao, nhất định không thần phục nhà Lê, nên hội với quân của 49 động Hà Man cướp huyện Thạch Thành, ra mặt chống nhau với vua Đại Hành. Công Thắng tự xưng là Thiên Oai tướng quân, phong cho em là Bạch Công Hàm làm phó tướng, Hoàng Công Nghĩa làm tiên phong, chia quân đi án ngữ các nơi hiểm yếu. Công Thắng nghe lời quân sư là Hoàng Phủ Nhâm dùng kế nghi binh ở đèo Hải Long, và sai con của Phủ Nhâm là Hoàng Phủ Thiềm mai phục ở con đường núi Phi Long để nhử quân Lê vào cạm bẫy.

Hoàng Phủ Nhâm là ai ? Chắc các độc giả cũng biết rồi. Nguyên Phủ Nhâm, Trần Hoà và Lưu Tấn Đường thấy cơ nghiệp đã bị thiêu huỷ cả, nên bỏ đất An Phong mang nhau đi kiếm ăn nơi khác. Trần Hoà và Lưu Tấn Đường lâm bệnh chết ở dọc đường. Còn một mình Phủ Nhâm theo bọn lái buôn về Hoa Lư ở được ít lâu. Một hôm chàng thấy nói miền trong sinh hoạt dễ dàng, liền lần mò vào huyện Thạch Thành, xin làm gia nhân cho họ Bạch. Chàng có tài ứng đối nhanh nhẹn lại thêm mặt mũi xinh đẹp nên được Bạch Công Diên yêu quí và cất lên địa vị thượng khách trong nhà.

Đến đời Bạch Công Thắng thì Phủ Nhâm càng được trọng vọng, và nghiễm nhiên trở nên một vai trò quan trọng trong cuộc tranh chấp của hai dân tộc.

Lại nói Công Uẩn, cùng với Trẩm Tam và Phùng Tất cho quân sĩ tản mát ở chân đèo Hải Long, mặc trá hình làm tiều phu. Sâm sẩm tối thì trèo lên núi. Hơn hai chục quân Mường đang ngồi sưởi ở dưới những chòi canh. Bị đánh bất ngờ, trở tay không kịp, đành chịu để bắt sống. Công Uẩn cho quân đi lục soát các hang núi thấy không có gì khả nghi, mới cắm cờ hiệu nhà Lê.

Đến nửa đêm thì đốt lửa. Đào Tiến Thành ở đằng xa thấy lửa, biết quân mình đã thắng, liền ra lệnh cho sĩ tốt tiến thẳng lên đèo. Trong đêm tối, rét lạnh thấu xương, toán quân như những bóng ma nín hơi ngậm miệng, dò dẫm từng bước nối đuôi nhau đi. Đến sáng rõ thì cả ngọn đèo Hải Long hoàn toàn bị chiếm đóng.

Lý Công Uẩn một mặt sai nổ pháo lệnh và đánh trống thị uy, một mặt sai Tiến Thành cấp tốc đi chiếm trại Lãng Trung. Tướng giữ trại Lãng Trung là Quách Phùng thấy quân Lê ầm ầm kéo đến, vội lên ngựa truyền sắp cung nỏ phòng thủ, cẩn thận đem ba trăm quân ra dàn mặt trận. Tiến Thành đi đầu, tay cầm trường thương quát to :

- Loài giặc cỏ ! Chết đến nơi vẫn chưa biết.

Quách Phùng đáp :

- Hai nước xưa nay vẫn không có điều gì xích mích, tự nhiên vô cớ lại gây việc chiến tranh là tại làm sao ? Chúa (vua) mày quen thói xâm lấn nước người, phen này ắt phải bỏ xương ở đây.

Tiến Thành cười nói :

- Tống binh hùng dũng là thế mà cũng phải quăng giáp mà chạy. Chiêm quốc hiểm trở đến đâu cũng còn bị quân ta dày xéo. Một cái huyện nhỏ xíu này thì giữ sao nổi. Biết điều thì hàng ngay đi, dân chúng đỡ khổ mà các người cũng không mất phần phú quý.

Quách Phùng cả giận phóng gươm đâm. Hai bên đánh nhau được mười hiệp thì Quách Phùng bỗng thúc ngựa quay về trại. Tiến Thành thấy hắn chưa hẳn thua mà đã rút lui, ngờ có ám toán nhưng tin ở tài nghệ của mình, vững tâm phóng ngựa đuổi. Quách Phùng thấy địch trúng kế, cả mừng liền giơ gươm vẫy, tức thì một loạt tên ở trại bắn ra. Tiến Thành vẫn để ý đề phòng, khi thấy Quách Phùng làm ám hiệu, liền múa tít ngọn thương che đỡ cho mình và cho ngựa. Tên bắn ra rơi lả tả xuống đất như lá rụng. Lý Công Uẩn đi sau thấy thế, nghĩ ra được một mẹo, cho năm trăm quân cầm mộc và đoản đao xông vào, còn tự mình đem một nghìn quân vòng ra đằng sau trại đánh tập hậu. Tiến Thành thấy có quân tiếp viện cả mừng, liền hô quân thắt chặt vòng vây.
Logged
Uragan
Thành viên
*
Bài viết: 860


« Trả lời #59 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2010, 09:30:59 pm »

Quách Phùng thấy hai mặt bị đánh, mặt sau đã bị quân Lê phá vỡ hai lần rào tre, đang phóng hoả đốt mấy căn nhà lá chứa lương thực, mặt trước quân xung phong đã chiếm được cổng trại, khí thế hăng hái vô cùng. Nhìn lên núi, quân Lê hằng hà sa số đổ xuống như nước lũ, cờ xí bay phất phới, trống đánh inh ỏi. Quách Phùng biết không giữ được, liền bỏ dinh trại phóng ngựa chạy. Lý Công Uẩn đang đốc chiến ở mặt sau sợ tướng giặc chạy thoát, liền giương cung bắn theo. Mũi tên cắm giữa lưng, thủng hai lần giáp, Quách Phùng suýt nữa ngã ngựa, cố nhịn đau, đeo cả mũi tên chạy thoát. Quân giặc thấy mất chủ tướng, liền bỏ khí giới xin hàng. Công Uẩn vào chiếm trại để Tiến Thành và Thiên Tường giữ Lãng Trung, còn tự mình mang một nghìn quân cùng Trẩm Tam, Phùng Tất đi đánh núi Phi Long.

*
* *

Đây nói về Hoàng Phủ Thiềm đang án ngữ con đường núi Phi Long, thấy quân Lê kéo đến sửa chữa những quãng đường bị phá huỷ, trong bụng cả mừng. Suốt ngày hôm ấy đoàn công binh chỉ đào xới qua loa, làm việc một cách uể oải, tắc trách, cười đùa ngã nghiêng mất cả trật tự. Phủ Thiềm chỉ tay nói với Ngô Ban :

- Quân sĩ như thế kia mà dám đi cướp nước người. Phen này ta sẽ làm cho uy danh Lê Đại Hành sớm tan như mây khói.

Ngô Ban đáp :

- Tôi ngờ có mưu mẹo chi đây, dù là một toán quân ô hợp cũng không đến nỗi vô kỷ luật như thế, huống hồ là quân đội của vua Lê Đại Hành. Ta nên coi chừng kẻo bị lừa.

Phủ Thiềm cười, nói :

- Dù có mưu mẹo ta cũng không sợ.

Vừa nói xong thì có tin thám tử ở Thạch Thành về có việc khẩn cấp, và đệ trình phong thơ của quân sư. Phủ Thiềm bóc thơ, xem chỉ thấy vỏn vẹn có mấy câu :

- “ Con,

Con phải luôn luôn liên lạc với trại Lãng Trung, và phòng bị quân Lê đánh úp. Đừng để mất Lãng Trung. Nếu có nguy cấp phải phi báo ngay.”

Thiềm cười nhạt nói với Ngô Ban :

- Phụ thân ta hay lo xa quá.

- Quân sư đoán việc không sai, tướng quân phải cẩn thận. Nếu sơ xuất thì mang tội với chúa công.

Thiềm không nói, cho thám tử lui ra.

Trưa hôm sau thì có tin Lãng Trung bị chiếm. Quách Phùng bị thương trốn mất, quân Lê sắp kéo đến nơi. Thiềm giật mình nói :

- Ta mắc lừa giặc rồi.

Đang lúc ấy, chợt thấy pháo nổ ầm trời, hai mặt quân Lê đổ vào, mạnh như vũ bão.

Thiềm cả giận nói với Ngô Ban :

- Đại huynh cho quân rút lui về Thạch Thành để bảo vệ toàn lực lượng, chớ có ham chiến mà nguy. Tôi có
chết cũng làm cho chúng khốn đốn một phen.

Ngô Ban đáp :

- Đại Trượng Phu có sợ gì chết, chúng ta hãy giáp chiến với giặc, xem tài nghệ của họ ra sao.

Nguyên Ngô Ban và Phủ Thiềm là hai tay danh tướng của Bạch Công Thắng, nên được giữ trọng trách án ngữ đường núi Phi Long là cổ họng của Thạch Thành. Nhất là Phủ Thiềm mới có 19 tuổi, nhưng sức mạnh trùm cả một đội quân, sử dụng đôi chuỳ nặng 80 cân, xưa nay vẫn tự nhủ là anh hùng vô địch. Lúc ấy, Ngô Ban sai quân sĩ phóng hoả đốt hết dinh trại, rồi chia ra làm hai đường kéo ra ứng chiến. Vừa hay Công Uẩn kéo binh tới, Ngô Ban múa đao xông vào. Hai tướng giao chiến được vài chục hiệp, bất phân thắng bại, thì Phủ Thiềm đến. Phùng Tất đón đánh, Thiềm quát to một tiếng, giáng xuống một chuỳ. Phùng Tất đỡ không nổi, vộc thúc ngựa chạy. Trẩm Tam đến cứu, giao chiến được vài hiệp cũng chạy nốt. Thiềm không thèm đuổi, dừng ngựa lại xem hai tướng kia đánh nhau, thấy đường thương của Công Uẩn rất tài tình, trong bụng khen thầm. Công Uẩn càng đánh, tinh thần càng phấn khởi, đường thương biến hoá mỗi lúc một khác, làm cho Ngô Ban đỡ gạt không nổi, ý muốn tìm đường tháo lui. Thiềm sợ Ngô Ban bị bại, liền vung đôi chuỳ xông vào. Công Uẩn đánh với hai người độ vài chục hiệp nữa thì đã thấy núng, hơi thở hồng hộc. Đang lúc nguy cấp, bỗng thấy hậu quân bên địch rối loạn, một tướng phi ngựa tới, đi đến đâu giặc tản ra đến đấy, hung dữ như thiên thần.

Nguyên Tư Chiềng và Cù Vân được tin báo Công Uẩn đã chiếm được Lãng Trung và kéo quân đến đánh núi Phi Long. Đang khi giao chiến với giặc, bèn cho quân đánh thẳng vào tiếp ứng cho Công Uẩn. Lúc kéo qua rừng thấy hầm hố rất nhiều, dịnh trại đã bị đốt sạch, xa xa tiếng ngựa hí, quân reo nghe đinh tai nhức óc. Cù Vân nóng ruột thúc quân đi mau, thì vừa hay gặp lúc Công Uẩn bị vòng vây rất nguy cấp. Cù Vân rút cặp roi sắt xung sát quân giặc. Tư Chiềng vung búa nhắm đầu Phủ Thiềm giáng xuống. Thiềm khinh thường giơ chuỳ lên đỡ, thấy chói tay, suýt rơi mất binh khí. Chàng gắng sức giao chiến được mươi hiệp thì kiệt lực, tìm đường thoát thân. Ngô Ban cũng phóng bậy một gươm chạy nốt. Quân giặc vứt cờ, quẳng giáo đùng đùng kéo nhau chạy như ong vỡ tổ.

Tư Chiềng, Công Uẩn họp hai đạo binh làm một, rồi đánh thẳng về Thạch Thành, không gặp một sức kháng chiến nào của địch cả. Đến tối, thì tới nơi, thấy dinh trại còn nguyên vẹn nhưng quân giặc thì đã rút lui từ lâu rồi.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM