GÀ HOA MƠ CÁNH TIÊN
Nguyễn Như Thìn
“Truyện của anh kinh bỏ mẹ, toàn chết chóc..” Thằng Định bảo tôi thế. Đáng ra tôi, còn kể tiếp anh Tẹo, hy sinh ra sao hay thằng Ngọ chết cháy trước cửa ngõ Phan Rang năm 75 thế nào, nhưng thôi tôi kể chuyện sống vậy. Một mầm sống hẳn hoi .
Hồi ấy tiểu đội tôi được bổ sung một lính mới, quê Thái Bình, tên Toản. Anh khá đẹp trai, tóc lúc nào cũng chải ngược ra sau, nom rất điệu. Khi anh cười, hai mắt tít lại, miệng ngoác tận mang tai, phô hai hàm răng... không được trắng. Nó vàng, xỉn, lại không đều, trông như đứa trẻ lên năm bị sún vậy. Vì thế, tôi gọi anh là Toản
“Sún”. Anh Toản đã có vợ con đàng hoàng, anh hơn chúng tôi chừng vài tuổi. ( Có lần nghe thằng Mộc kể lại, anh hận tôi lắm, vì ngần này tuổi rồi mà vẫn bị tôi gán cho cái tên là
“Sún”) Thực tình, tôi rất ân hận muốn sửa sai, mà không được. Là bởi, cái tên ấy quá quen thuộc với tiểu đội mất rồi, như mũi tên đã buông khỏi dây cung, làm sao giữ lại được nữa. Anh Toản cũng hay chuyện. Lúc hứng chí anh kể chuyện vợ chồng cho lũ trai tơ. Chúng tôi cứ há hốc mồm ra nghe.
“… Chúng mày biết không? Con vợ tao, cái khoản ấy nó máu lắm. Cái lần tiễn tao đi bộ đội, chỗ khuất người, nó túm lấy cái ấy của tao bảo, giá anh để lại cho em cái này thì tốt quá. Tao nóng bừng cả người. Mãi đến khi xe sắp chạy mới hạ hoả”.
Mà anh Toản máu cũng không kém. Có bận ra cửa hàng mua bán, sờ tấm vải lụa đen, nhớ đến vợ, mặt anh lại đần thối ra, đứng chết trân hàng nửa tiếng đồng hồ. Tôi bực quá, thây kệ anh bỏ về. Chả trách hồi năm 73 sau Hiệp Định Pari, đóng chốt giáp ranh, một lần bên kia hàng rào, một thằng lính Sài Gòn chửi :
" Đ mẹ Việt cộng thèm l … chết nửa đại đội ". Số là, bên địch hôm ấy, thấy thấp thoáng bóng áo dài xanh, đỏ, lính mình tò mò ngó xem.
Lại nói hồi đóng chốt giáp ranh ven biển. Có một lần bão to, tấm tôn lợp trên mái lán không chịu nổi sức gió bay vèo, chém một nhát ngang mặt anh Toản. Chúng tôi vội vàng khiêng anh đi cấp cứu phẫu trung đoàn. Nửa tháng sau anh về, một con rết dài cỡ gang tay vắt ngang mặt, nom rất gớm ghiếc. Có lẽ Chí Phèo cũng phải tôn anh làm đại ca. Sẹo trên mặt Chí, chỉ bởi mảnh chai, mảnh sành, sánh làm sao được với tôn hoa Cửa Việt.
Dạo ấy, sau hiệp đinh Paris, mặt trận phía đông khá yên bình, đơn vi tổ chức anh em liên hoan văn nghệ cho đời sồng tinh thần thêm vui vẻ. Là dân Thái Bình nổi tiếng hát chèo, anh Toản trổ tài khiến chúng tôi phục sát đất. Anh hát hay, múa cũng dẻo. Tiết mục của anh được chọn đi thi cấp tiểu đoàn. Cần phải tập thêm. Nhưng tập ở đâu ? Giữa lán mà múa may quay cuồng thì cũng lố. Một lần thằng Tác và Tân
“vịt”, bắt gặp anh đang biểu diễn trong… nhà vệ sinh. Chuyện là, dạo ấy, hậu cần cũng khá. Mỗi tháng mỗi lính được cấp một tập giấy năm hào hai để viết thư. Tôi viết đủ thứ còn chẳng hết nữa là Tân
“Vịt”. Hắn chẳng viết bao giờ. Hỏi tại sao hắn nói ngại. Hắn sử dụng luôn tập giấy làm cái việc cần thiết mỗi buổi sáng. Thằng Tác tiếc lắm, thế là, mỗi sáng, hắn đón Tân
“Vịt” gần nhà vệ sinh, tay cầm tập giấy báo cũ cắt vuông vức hẳn hoi, gạ đổi cho Tân
“Vịt”. Có bận giở chứng, thằng Tân không đổi, hai đứa đôi co, chính là hôm chúng bắt gặp anh Toản đang biểu diễn. Tôi vội lôi hai đứa ra xa, kẻo anh ngượng không tập tiếp.
Mấy hôm sau, anh nhận được thư nhà, buồn rười rượi, chẳng hát hò gì nữa. Hỏi gì cũng không nói. Tôi tỉ tê mãi, anh mới kể:
“Con vợ tao ở nhà lăng nhăng với thằng hàng xóm. Mẹ chồng nàng dâu lủng củng không ai giải quyết được, nhắn tao về” Một lần, nhân trực ban, tôi báo cáo với chính trị viên đại đội chuyện nhà anh Toản:
“Gay lắm, độ này anh ấy làm sao ấy, múa hát như điên trong nhà vệ sinh, không cho ai vào. Không tin anh hỏi thằng Tân mà xem. Anh xem thế nào, xin tiểu đoàn cho anh ấy về phép…” Hai tuần sau anh Toản được về phép thật. Hết phép, anh về đơn vị rất đúng hạn, mặt mũi phởn phơ, tay xách theo đôi gà làm giống, gà hoa mơ cánh tiên, tuyệt đẹp. Tôi hỏi anh, giải quyết chuyện gia đình thế nào. Anh cười:
“Trông thấy cái mặt tao, cả anh, cả ả lậy như tế sao, hứa đến chết cũng không dám ăn vụng. Chi bộ thôn, thanh niên, phụ nữ, coi tao như anh hùng. Bắt tao kể truyện chiến đấu. Rồi cái sẹo thế nào. Tao chẳng dám nói bị tôn chém, cứ phét lác lung tung. Còn vợ tao, thôi thì tha cho nó. Nói thực nhé, mình mà có điều kiện thì cũng ăn vụng chẳng kém ai”
Đầu năm 74, chúng tôi chuyển quân về Triệu Độ. Đôi gà anh Toản mang về, lớn nhanh như thổi, chẳng mấy chốc, trước lán tiểu đội, có hẳn một đàn gà. Mà đến lạ, đi đâu quanh thôn cũng gặp, gà hoa mơ cánh tiên. Giống của anh tốt thật. Tháng đầu mới về thôn, chưa làm được lán, chúng tôi phải chia nhau ở nhờ nhà dân. Tôi anh Toản, Tân
“ Vịt” ở nhờ một gia đình. Anh chị chủ không còn trẻ, lấy nhau gần chục năm không có con. Chị chủ trông tràn đầy nhựa sống, còn anh chủ ngược lại, rất thiếu sinh lực. Chị chăm sóc chúng tôi thật chu đáo, đặc biệt với anh Toản, có lẽ vì anh hát hay chăng?. Mấy tháng sau, nghe nói, chị có tin vui. Khỏi phải nói, anh chị vô cùng sung sướng. Tôi nghi ngờ anh Toản là tác giả của tác phẩm ấy. Có lần trực chiến, chỉ có tôi với anh, nửa đùa, nửa thật, tôi trêu. Anh vội mắng át đi
“..vớ vẩn…”. Nhưng có lúc lại nói:
"mất gì của bọ” Cuối năm chị chủ nhà, sinh đựơc một thằng cu bụ bẫm. Cả thôn chúc mừng. Còn chúng tôi, lên miền tây đón tết và chuẩn bị chiến dịch xuân hè năm 75.
Thế mà, thoắt một cái đã hơn 30 năm. Tháng 10 năm 2005 tổng công ty VIETTEL, tài trợ cho các anh em từng chiến đấu ở Quảng Tri về thăm lại chiến trường xưa. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi trở về Triệu Độ. Cảnh vật thay đổi rất nhiều. Tìm về ngôi nhà xưa, không còn nữa. Hỏi chị hàng xóm, chị kể:
“ Quãng mươi năm trước cũng có một chú bộ đội có cái sẹo to về chơi, chẳng hiểu sao, sau đó vợ chồng con cái bán hết nhà cửa, dắt díu nhau vào Nam làm ăn, từ đấy bặt tin tức”. Hỏi đến anh con trai, chị mau miệng :
“ Anh ấy đẹp trai lắm, chẳng giống ông chủ chút nào. Phải cái răng hơi xấu” Ôi ! Đích thị là Toản
con rồi.
Lại một con gà trống hoa mơ cánh tiên...
Mấy lời cuối truyện. Để không làm ảnh hưởng tới cuộc sống riêng tư của các nhân vật trong truyện, tôi đã thay tên, địa danh. Tuy nhiên, khó tránh khỏi liên tưởng,
“ nếu có điều gì sơ xuất xin hãy lượng thứ” Tháng 3 năm 2011
N.N.T