Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 26 Tháng Năm, 2024, 12:34:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân - Tập 6  (Đọc 7230 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #190 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:31:08 am »

ANH HÙNG HỒ THỊ ĐƠM


Hồ Thị Đơm sinh năm 1940, dân tộc Pa-cô, quê ở xã Hồng Thượng, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế, tham gia cách mạng năm 1959, nhập ngũ năm 1966. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí là trợ lý dân quân quận 3, tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quân khu 4, đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.


Xuất thân từ gia đình là cơ sở cách mạng, năm 15 tuổi Hồ Thị Đơm đã tham gia hoạt động làm giao liên và mua hàng hóa, nắm địch giúp cán bộ ở địa phương.


Từ năm 1960 đến năm 1975 đồng chí là đội viên du kích rồi xã đội phó và cán bộ quân đội. Chiến đấu và công tác trên địa bàn rừng núi có truyền thống kháng chiến, bị địch thường xuyên càn quét đánh phá ác liệt. Hồ Thị Đơm luôn nêu cao quyết tâm vượt qua khó khăn gian khổ nguy hiểm để hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí đã làm tốt việc nuôi dưỡng chăm sóc cán bộ, bộ đội, tích cực công tác binh vận, đặc biệt đồng chí còn là một người chỉ huy chiến đấu mưu trí, dũng cảm, say mê đánh giặc, lập nhiều chiến công. Tính chung Hồ Thị Đơm đã tham gia chỉ huy 316 trận chiến đấu, 7 trận diệt 335 tên địch (riêng đồng chí diệt 176 tên, có 47 tên Mỹ và chư hầu, 5 sĩ quan từ trung úy trở lên), bắt 8 tên, bắn rơi 1 máy bay, thu 27 súng các loại; đã vận động nhân dân vót hàng vạn cây chông, đào hàng vạn hầm chông, rải truyền đơn, tuyên truyển vận động binh lính địch 167 lần; cùng gia đình đóng góp 218 thùng gạo, 1230 gùi ngô, khoai, sắn để nuôi gần 200 cán bộ, bộ đội...


Các trận đánh tiêu biểu của đồng chí là:

Trận ngày 20 tháng 4 năm 1960, khi du kích trong xã còn chưa có súng để đánh giặc, Hồ Thị Đơm đã có sáng kiến dùng lá cây độc thả vào nguồn nước, diệt 30 tên địch làm cho tiểu đoàn địch đang càn quét - gây nhiều tội ác ở địa phương - phải khiếp sợ bỏ chạy.


Tháng 9 năm 1961, Hồ Thị Đơm được giao nhiệm vụ bảo vệ mùa màng cho dân khi lúa đang chín, đồng chí đã mượn súng của bộ đội, một mình kịp thời chiến đấu đẩy lùi bọn địch đến phá lúa, diệt 6 tên.


Ngày 5 tháng 10 năm 1961, Hồ Thị Đơm được giao nhiệm vụ phục kích địch trên đường A Lưới đi A Co. Bất ngờ gặp địch xuất hiện đông gấp hàng chục lần dự kiến, phía ta chỉ có 2 tay súng, 40 viên đạn, 2 quả lựu đạn. Đồng chí vẫn quyết tâm đánh, vừa bắn vừa nhử địch đi lọt vào trận địa chông, bẫy đã bố trí sẵn. Kết quả sau một ngày chiến đấu, với 39 viên đạn súng trường, 2 người đã diệt 18 tên địch, làm bị thương 8 tên. Riêng Hồ Thị Đơm diệt 11 tên, làm bị thương 2 tên.


Ngày 5 tháng 5 năm 1962, đồng chí chỉ huy một tổ 3 du kích sử dụng trận địa chông, bẫy đánh cuộc càn của 1 đại đội tăng cường của địch. Hồ Thị Đơm mưu trí dũng cảm sử dụng linh hoạt các loại bẫy, vừa đánh vừa lừa địch. Kết quả tổ đồng chí diệt được 21 tên, làm bị thương 19 tên khác, thu 17 súng và 400 viên đạn cùng nhiều đồ dùng quân sự, ta không nổ một phát súng nào, vẫn chặn đánh cuộc càn mùa khô của địch.


Ngày 3 tháng 4 năm 1969, Hồ Thị Đơm chỉ huy một tổ bộ đội địa phương 4 người đánh vào căn cứ A Bia gồm 1 đại đội lính dù Mỹ, có máy bay và pháo yểm trợ. Suốt ngày, lợi dụng những địa hình có lợi, cả tổ diệt được 51 tên địch, thu 8 khẩu súng và nhiều đồ dùng quân sự, bắn rơi 2 máy bay lên thẳng. Riêng đồng chí diệt 17 tên Mỹ.


Từ năm 1975 vì sức khỏe yếu (mất sức 61%) Hồ Thị Đơm trở về xây dựng quê hương, đồng chí luôn phát huy tốt truyền thống từ kháng chiến, được nhân dân tín nhiệm bầu làm đại biểu hội đồng nhân dân xã từ khóa 2 đến khóa 7.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất, 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì, 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng ba, 1 lần là Chiến sĩ quyết thắng và Dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú, 5 lần là Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh và quân khu (1961 - 1965) và nhiều bằng khen, giấy khen.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Hồ Thị Đơm đã được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #191 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:31:43 am »

ANH HÙNG CHÂU THANH TRUYỀN


Châu Thanh Truyền sinh năm 1944, dân tộc Kinh, quê ở xã Tam Thăng, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, tham gia cách mạng năm 1959, nhập ngũ năm 1962. Trong kháng chiến chống Mỹ đồng chí là trung úy, huyện đội phó huyện đội Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Quân khu 5, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Xuất thân từ gia đình nông dân nghèo có truyền thống cách mạng (một em là liệt sĩ), Châu Thanh Truyền tham gia hoạt động cách mạng từ năm 15 tuổi, làm liên lạc, rồi vào bộ đội, trưởng thành từ chiến sĩ lên huyện đội phó.


Từ tháng 1 năm 1962 đến tháng 4 năm 1975, Châu Thanh Truyền chiến đấu trên địa bàn thị xã Tam Kỳ và vùng phụ cận là nơi địch thường xuyên vây ráp càn quét và đánh phá ác liệt. Đồng chí đã nêu cao quyết tâm vượt qua khó khăn ác liệt, ở cương vị nào Châu Thanh Tuyền cũng chiến đấu mưu trí, dũng cảm, đánh địch càn quét hoặc đánh địch trong căn cứ đều đạt hiệu xuất chiến đấu cao. Đồng chí đã trực tiếp chiến đấu và chỉ huy đánh 250 trận, cùng đơn vị diệt 561 tên (có 55 tên Mỹ), làm bị thương hơn 200 tên khác, bắt 58 tên (có 5 sĩ quan và ác ôn), diệt gọn 5 đại đội, 28 trung đội, 2 đoàn bình định nông thôn, thu 102 súng các loại, bắn cháy 12 xe quân sự (có 6 xe tăng, xe bọc thép), đánh sập 9 cầu cống, 97 lô cốt, 51 nhà lính, phá sập 42 khu đồn bốt, 22 ấp chiến lược đưa 5.000 lượt dân về vùng giải phóng. Riêng đồng chí đã diệt được 187 tên (có 45 tên Mỹ), bắt 29 tên (4 sĩ quan, 3 ác ôn), bắn cháy 3 xe tăng của địch.   


Ngày 10 tháng 4 năm 1965, khi đi công tác xuống xã Kỳ Anh được tin địch chuẩn bị càn vào xã, Châu Thanh Truyền đã cùng 3 du kích khiêng 2 quả bom tạ đã được cải tiến thành mìn điện, đặt vào hai nơi mà đồng chí dự đoán sẽ diệt nhiều địch. Kết quả đúng như dự đoán, Châu Thanh Truyền cho nổ mìn, diệt 182 tên địch - có cả ban chỉ huy tiểu đoàn - rất nhanh gọn. Trận đánh khởi đầu phong trào thi đua tìm bom đạn hỏng cải tiến thành mìn để đánh địch ở địa phương.


Ngày 15 tháng 4 năm 1969, đồng chí chỉ huy đánh cứ điểm Mỹ Cang phía bắc chi khu quân sự Quảng Tín, một cứ điểm lớn có 22 lô cốt công sự vững chắc, 14 hàng rào bao bọc, có 4 trung đội bảo an, 2 trung đội dân vệ, 1 đoàn bình định nông thôn với những tên chỉ huy khét tiếng gian ác. Lúc đầu đơn vị có 35 đồng chí định dùng chiến thuật tập kích bí mật, sau tình huống thay đổi phải chuyển sang đánh cường tập. Trận đánh diễn ra phức tạp, xạ thủ B41 bị thương, Châu Thanh Truyền bị thương nhưng vẫn cố gắng lấy B41 bắn diệt 4 lô cốt làm địch tháo chạy xuống ấp bị tổ đón lõng tiêu diệt. Kết quả đơn vị đã diệt gọn 1 đại đội bảo an (89 tên), 25 tên dân vệ và bình định, làm bị thương 25 tên, bắt 14 tên thu nhiều vũ khí đồ dùng quân sự. Trận thắng lớn đã hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá ấp chiến lược Mỹ Cang.


Đầu năm 1973, đồng chí chỉ huy 1 đại đội phối hợp với 2 đại đội bạn và du kích xã Kỳ Thịnh chiến đấu suốt 10 ngày đêm liền, giành giật với lực lượng địch đông gấp hàng chục lần, có xe tăng, máy bay yểm trợ ở thôn Ao Lầy, xã Kỳ Thịnh, diệt hơn 350 tên, làm bị thương hơn 50 tên khác, xóa phiên hiệu "tiểu đoàn biệt lập" tinh nhuệ nhất của quân ngụy tỉnh Quảng Tín, làm thất bại âm mưu lợi dụng Hiệp định Pa-ri để thực hiện "tràn ngập lãnh thổ" của địch, bảo vệ căn cứ "lõm" của ta gần tỉnh lỵ. Riêng đồng chí diệt 64 tên địch, phá hủy 10 khẩu cối, pháo, đại liên. Đồng chí và đơn vị cùng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Mùa Xuân 1975, Châu Thanh Truyền trực tiếp chỉ huy 1 đại đội có nhiệm vụ giải phóng các xã vùng đông thị xã Tam Kỳ. Đêm ngày 18 tháng 3 năm 1975, đơn vị vừa qua đường số 1 thì gặp địch phục kích. Đồng chí bình tĩnh tổ chức bộ đội đánh trả địch. Sau đó Châu Thanh Truyền chỉ huy đơn vị đánh tiếp một tiểu đoàn chủ lực có xe tăng, xe bọc thép yểm trợ. Chỉ trong 20 phút chiến đấu đơn vị do đồng chí chỉ huy đã bắn cháy và hỏng 5 xe tăng làm rối loạn đội hình buộc địch phải tháo chạy tạo thuận lợi cho các đơn vị bạn giữ vững trận địa, tiêu diệt các cánh quân khác của chúng, giải phóng vùng đông huyện Thăng Bình và thị xã Tam Kỳ, hình thành thế bao vây giải phóng thị xã. Trận này riêng đồng chí bắn cháy 2 xe bọc thép.


Châu Thanh Truyền đã cùng địa phương xây dựng 12 đội du kích chiến đấu giỏi và đưa hàng ngàn thanh niên nhập ngũ, tham gia làm hàng ngàn quả mìn, hàng vạn thủ pháo từ bom đạn hỏng.


Sau ngày đất nước thống nhất do sức khỏe yếu (hậu quả của các vết thương, sức ép trong chiến đấu), Châu Thanh Truyền được phục viên (năm 1977), đồng chí vẫn phát huy được bản chất truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ" trong cương vị xã đội trưởng và bí thư chi bộ.


Đồng chí đã được tặng thưởng 7 Huân chương Chiến công Giải phóng (có 2 Huân chương hạng nhất), 3 lần Dũng sĩ diệt Mỹ, 3 lần Dũng sĩ diệt xe cơ giới, 2 lần Chiến sĩ thi đua, 32 bằng khen và giấy khen.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Châu Thanh Truyền được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #192 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:32:20 am »

ANH HÙNG CHA MA LÉ CHÂU


Cha Ma Lé Châu sinh năm 1940, dân tộc Rắc Lây, quê ở xã Phước Trung, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận, tham gia cách mạng tháng 1 năm 1960, trong kháng chiến chống Mỹ đồng chí là chính trị viên xã đội (1965 - 1973) rồi bí thư Đảng ủy xã (1973 - 1985). Hiện nay là bí thư đảng ủy xã Phước Trung, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo, sớm giác ngộ cách mạng. Năm 1960 Cha Ma Lé Châu tham gia du kích xã, dù ở cương vị chiến sĩ hay ở vị trí lãnh đạo chủ chốt trong xã, đồng chí luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, nêu cao ý chí cách mạng, quyết tâm vượt qua hy sinh, gian khổ. Cha Ma Lé Châu phải trải qua cảnh đói rét, bệnh tật, thiếu thốn và sự ác liệt của chiến tranh, nhưng đồng chí vẫn vững vàng, luôn dũng cảm, mưu trí sáng tạo, chủ động đánh địch và xây dựng lực lượng. Đồng chí đã cùng đồng đội đánh địch nhiều trận bắn cháy 32 máy bay địch, trong đó đồng chí bắn rơi 7 chiếc (5 lên thẳng, 1 phản lực, 1 L19), diệt nhiều giặc lái. Cha Ma Lé Châu đã chỉ huy đội du kích và phối hợp với lực lượng đặc công của trên đánh hàng chục trận, diệt trên 100 tên địch, có cả lính Mỹ và lính Nam Triều Tiên, đốt cháy 7 bồn xăng dầu, phá sập nhiều nhà và vật tư chiến tranh của địch trong sân bay Thành Sơn.


Tháng 3 năm 1967, đồng chí tổ chức lực lượng đánh địch càn quét đổ bộ bằng máy bay, Cha Ma Lé Châu đã bắn cháy 4 máy bay (3 lên thẳng, 1 L19) tạo ra phong trào bắn máy bay bằng súng trường trong lực lượng vũ trang địa phương.


Tháng 7 năm 1967, địch mở cuộc càn lớn có máy bay và gần 400 tên (cả Mỹ và Nam Triều Tiên) vây kín hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng của xã để tạo thành vùng trắng bảo vệ sân bay. Đồng chí đã chỉ huy du kích dựa vào các hốc đá, cõng những cụ già, em nhỏ và dẫn 500 người dân ra khỏi vòng vây, đồng thời tổ chức du kích đánh sau lưng địch, diệt nhiều tên, buộc chúng phải rút ra khỏi xã. Đồng chí đã bắn rơi 3 máy bay khi chúng đổ quân xuống địa bàn.


Để ngăn chặn hoạt động đánh phá của không quân địch từ sân bay Thành Sơn ra các vùng phụ cận, Cha Ma Lé Châu tổ chức lực lượng du kích phục ém và bắn máy bay khi chúng cất và hạ cánh, gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc chúng phải thay đổi đường bay và chuyển hướng cất, hạ cánh, hạn chế sự đánh phá của địch.


Trong những năm 1968 đến năm 1975, đồng chí đá chủ động chỉ huy du kích và phối hợp dẫn đường cho lực lượng đặc công trên về đánh vào sân bay có kết qủa, đồng thời tổ chức chống càn, bảo vệ dân, bảo vệ sản xuất, diệt địch cho đến khi xã hoàn toàn giải phóng. Năm 1970, du kích xã được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.


Từ năm 1973 đến nay, với cương vị chủ chốt của xã Cha Ma Lé Châu đã tận tâm, tận lực gắn bó với địa phương, xây dựng phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh, đóng góp nhiều sức người cho cách mạng, bảo vệ được dân, bảo vệ căn cứ cách mạng ngay sát nách địch.


Hiện nay Cha Ma Lé Châu vẫn phát huy thành tích, luôn sống giản dị, gương mẫu, nêu cao vai trò trách nhiệm trong công việc được giao, tích cực cùng cấp ủy và chính quyền chăm lo đời sống của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng bộ xã Phước Trung thường xuyên vững mạnh toàn diện, đồng chí luôn được mọi người tin yên mến phục.


Cha Ma Lé Châu đã được tặng thưởng 1 Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất và nhiều bằng khen, giấy khen của Quân khu 6, tỉnh và huyện.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Cha Ma Lé Châu được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #193 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:32:49 am »

ANH HÙNG PHÙNG THỊ TÁM


Phùng Thị Tám sinh năm 1918, dân tộc Kinh, quê ở xã Phú Hựu, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, tham gia cách mạng năm 1958. Trong kháng chiến chống Mỹ, Phùng Thị Tám đã đảm nhiệm công tác giao liên vận tải thuyền thuộc phòng hậu cần tỉnh đội Vĩnh Long. Hiện nay nghỉ hưu tại quê nhà.


Với nhiệm vụ được giao là giao liên của phòng hậu cần tỉnh đội Vĩnh Long (từ năm 1958 - 1968), vận chuyển vũ khí từ đất bạn về phục vụ chiến trường (1969), đồng chí đã tỏ rõ bản chất kiên cường của một chiến sĩ bám trụ, hoạt động trong lòng địch, dũng cảm, mưu trí, linh hoạt hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Khi bị địch bắt Phùng Thị Tám đã giữ vững khí tiết của người cách mạng mặc dù bị kẻ thù tra tấn dã man và dùng nhiều cực hình kể cả việc bắn chết người chồng thân yêu ngay trước mặt.


Trong thời kỳ năm 1959 - 1968 chính quyền tay sai Mỹ kìm kẹp, khủng bố cách mạng, hòng uy hiếp tinh thần và ý chí cách mạng của nhân dân ta, phong trào cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động trong lòng địch rất nguy hiểm, Phùng Thị Tám đã mưu trí, kiên trì chuyển được hàng trăm thư từ, tài liệu một cách bí mật, an toàn.


Năm 1969 Phùng Thị Tám đã cùng chồng dùng thuyền 2 đáy các cỡ để vận chuyển vũ khí từ biên giới Cam-pu-chia về chiến trường Vĩnh Trà đảm bảo an toàn nhiều chuyến. Phùng Thị Tám là "người mở đường" cho phương thức vận tải công khai trước mắt địch, được Quân khu phát triển thành đoàn vận tải lớn để chuyên chở vũ khí.


Tháng 10 năm 1969, Phùng Thị Tám bị địch bắt tại Cần Thơ (cùng với chồng), đồng chí đã giữ vững khí tiết cách mạng, không một lời khai báo, chịu mọi cực hình tra tấn để bảo vệ tuyến vận tải vũ khí của Quân khu. Sau khi thoát khỏi nhà tù của địch (1973) đồng chí được về miền Bắc an dưỡng. Tháng 3 năm 1974 Phùng Thị Tám lại hăng hái trở lại chiến trường, phục vụ chiến đấu góp phần vào công cuộc giải phóng miền Nam. Từ tháng 1 năm 1979 đồng chí nghỉ hưu, vẫn tích cực tham gia công tác ở địa phương cho đến nay.


Phùng Thị Tám là một chiến sĩ cách mạng có những phẩm chất tốt đẹp, được đồng đội tin yêu, nhân dân quý mến.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhất và Huân chương chống Mỹ hạng nhất.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Phùng Thị Tám được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #194 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:33:54 am »

ANH HÙNG TRƯƠNG THỊ HOA


Trương Thị Hoa sinh năm 1933, dân tộc Kinh, quê ở xã Châu Thành C, thị trấn Phụng Hiệp (huyện Phụng Hiệp), tỉnh Cần Thơ, tham gia cách mạng năm 1956. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí là tổ trưởng công binh đánh cầu, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Trương Thị Hoa trong kháng chiến chống Mỹ là cán bộ cơ sở của công binh Quân khu 9, là người dũng cảm, mưu trí, bình tĩnh, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhiều lần tổ chức và trực tiếp đánh sập cầu cắt đứt giao thông của địch.


Ngoài những cầu bị sập: cầu Trắng Lớn, cầu Ban Thạch, cầu Xáng, cầu Kinh Cùng... tiêu biểu là 2 lần đánh cầu Phụng Hiệp và cầu Cái Tắc.


Trận đánh cầu Phụng Hiệp, Trương Thị Hoa treo bom dưới đáy ghe, khi đến mục tiêu định đánh sẽ cắt bom. Lần thứ nhất đồng chí cắt bom nhưng dây kẹt mối phải quay ghe lại lần thứ hai. Lần này bom rơi quá mạnh làm ghe quay tấp vào cột cầu. Tên lính bắt ghe phải đậu lại. Nếu đứng lâu, bom nổ thì rất nguy hiểm. Trương Thị Hoa đã nhanh trí quát mắng con nhỏ làm nó khóc thét kiếm cớ xin tên chỉ huy cho đi. Đêm đó, bom nổ, cầu Phụng Hiệp sập, 4 tên lính chết.


Trận đánh cầu Cái Tắc, Trương Thị Hoa mang bom ra tới lộ Ban Thạch thì có 4 tên lính đòi quá giang. Lúc đó nước dòng sát nếu đậu ghe lại thì quả bom treo dưới ghe bị cản, Trương Thị Hoa liền chọn chỗ khác cho chúng lên và lúc chúng xuống cũng thế. Đến gần cầu định đánh, gặp nước cạn đồng chí phải qua 2 chướng ngại vật mới tới cầu. Bọn lính định xuống đẩy ghe hộ, Trương Thị Hoa ngăn lại và tự mình xuống đẩy và cuối cùng bom được đưa tới mục tiêu đã định. Sáng hôm sau bom nổ, cầu sập chết 2 lính gác.


Trận đánh cầu lần thứ 9 (9-1972) Trương Thị Hoa bị bắt do có chỉ điểm. Địch tra tấn đồng chí dã man nhưng Trương Thị Hoa vẫn không khai báo. Địch giam đồng chí tại khám lớn Cần Thơ 5 tháng rồi phải thả. Sau đợt ấy tỉnh phân công Trương Thị Hoa đánh cầu Cái Răng. Mực nước chỉ sử dụng quả bom 500 kg vì thế tuy cắt bom trúng mục tiêu, bom nổ nhưng cầu chỉ sập một nhịp làm tắc nghẽn giao thông địch nhiều giờ.


Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trương Thị Hoa là trưởng ban chấp hành phụ nữ thị trấn, ủy viên ban chấp hành phụ nữ huyện Phụng Hiệp, trưởng ban thương binh xã hội thị trấn.


Tháng 10 năm 1982 sức khỏe yếu Trương Thị Hoa được nghỉ hưu.


Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương Kháng chiến và danh hiệu Dũng sĩ quyết thắng.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Trương Thị Hoa được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #195 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:34:28 am »

ANH HÙNG CAO VĂN ĐẠT


Cao Văn Đạt (tức Cao Văn Hồng); sinh năm 1930, dân tộc Kinh, quê ở xã Mỹ Ngãi, huyện Trà Cú; tỉnh Trà Vinh. Trú quán thôn Hưng Mỹ, xã Thạnh Mỹ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Tham gia cách mạng năm 1945. Trong kháng chiến chống Mỹ đồng chí là tổ trưởng sản xuất vũ khí xã Thạnh Mỹ, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo nhưng giầu lòng yêu nước, sớm được giác ngộ cách mạng, năm 1945 vào học thiếu sinh quân; năm 18 tuổi được vào đội du kích mật của xã, do công tác tốt, Cao Văn Đạt được đứng trong hàng ngũ của Đảng.


Năm 1960, đồng chí được xã cử đi học quân giới tỉnh. Tuy trình độ văn hóa thấp, nhưng với ý chí phấn đấu và quyết tâm cao, đồng chí đã vượt qua nhiều khó khăn, chịu khó học và đã nắm được những kiến thức cơ bản trở về đảm nhiệm tổ trưởng sản xuất vũ khí của xã. Trước yêu cầu đánh giặc khẩn trương, Cao Văn Đạt cùng anh em đã khắc phục khó khăn, tự tìm nguyên vật liệu, tự tạo phương tiện, dụng cụ, thu nhặt bom đạn lép của địch về nghiên cứu, cải tiến thành vũ khí đánh địch. Vũ khí sản xuất ra từ thô sơ đến phức tạp nhưng có tác dụng diệt địch đạt hiệu quả cao. Cao Văn Đạt và tổ đã sản xuất được 650 đầu đạn pháo tự tạo, 500 lựu đạn gài, 90 khẩu súng kíp, 70 khẩu súng ngắn và nhiều loại vũ khí thô sơ khác cung cấp cho nhu cầu chiến đấu của xã, ngoài ra còn cung cấp cho các xã bạn như Mỹ Hòa, Đốc Binh Kiều, Mỹ An, Thạnh Lợi... cung cấp cho cả bộ đội huyện Mỹ An, tiểu đoàn 502 của tỉnh. Nổi nhất là đội du kích của Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Che đã sử dụng toàn lựu đạn tự tạo của Cao Văn Đạt diệt trên 100 tên Mỹ ngụy. Trong những năm 1965 - 1967 là thời kỳ khó khăn, ác liệt, chủ trương của địa phương là phải tích cực sản xuất vũ khí để đánh giặc; nguyên liệu rất khan hiếm, Cao Văn Đạt và đồng đội phải lặn lội ngày đêm đi đào từng trái bom lép, đầu đạn pháo, hỏa tiễn của địch chưa nổ về để nghiên cứu, cải tiến. Một lần máy bay Mỹ ném một bệ bom "cam" bị lép, dù chưa hiểu hết về loại bom này, Cao Văn Đạt đã mày mò, dùng cây đẩy từng trái lấy trọn vẹn 125 trái trong bệ. Đồng chí nghiên cứu mở đầu, khoan bỏ bớt thuốc rồi gắn đầu lựu đạn tự chế để trở thành lựu đạn gài. Vũ khí này có tầm sát thương lớn. Trong một trận càn, địch vướng một trái bom cam, 8 tên chết tại chỗ.


Cao Văn Đạt đã nghiên cứu dùng đạn pháo 105 ly và đầu đạn pháo 155 ly lép của địch kết hợp với ngòi nổ tự tạo thành loại vũ khí đánh đồn có hiệu quả cao. Loại vũ khí này địch rất sợ vì không biết đạn bắn từ đâu tới.


Những loại vũ khí do đồng chí tạo ra được tỉnh, Quân khu phổ biến áp dụng rộng rãi.


Đồng chí đã trực tiếp tham gia chiến đấu chống địch càn vào nơi sản xuất, một mình chiến đấu nghi binh thu hút địch để đồng đội kịp thời cất giấu vũ khí và phương tiện sản xuất. Mặc dù bị thương cụt 1 chân, đồng chí ráng chịu đựng, đánh địch diệt 5 tên (có 1 tên đại úy), bảo vệ an toàn cơ sở sản xuất vũ khí. Sau thời gian điều trị vết thương, sức khỏe giảm, đi lại khó khăn, trên cho đồng chí nghỉ nhưng đồng chí vẫn kiên quyết xin được cùng tổ tiếp tục sản xuất vũ khí phục vụ chiến đấu, góp phần vào thắng lợi chung của xã, của huyện.


Cao Văn Đạt là một cán bộ dũng cảm, mưu trí, tận tụy, tích cực khắc phục khó khăn, tìm tòi và sáng tạo và đã sản xuất được nhiều loại vũ khí đánh địch có hiệu quả cao. Trong cuộc sống đồng chí luôn đoàn kết gắn bó thương yêu đồng đội.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công hạng nhất, 22 bằng và giấy khen.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Cao Văn Đạt được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #196 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:35:02 am »

ANH HÙNG NGUYỄN VĂN ÚT


Nguyễn Văn Út (tức Út Nồi) sinh năm 1948, dân tộc Kinh, quê ở thị trấn Cái Tầu Hạ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp, nhập ngũ tháng 6 năm 1964. Trong kháng chiến chống Mỹ, đồng chí là huyện đội trưởng huyện đội Châu Thành, tỉnh Vĩnh Long, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Nguyễn Văn Út là cán bộ chỉ huy, dũng cảm mưu trí, sáng tạo; có tư tưởng tiến công, táo bạo. Đồng chí đã trực tiếp chỉ huy và tham gia chiến đấu 55 trận, riêng Nguyễn Văn Út diệt 195 tên địch, thu 32 súng các loại. Nổi bật:


Đêm 30 Tết Mậu Thân (1968) Nguyễn Văn Út đã cùng 2 chiến sĩ đánh diệt 1 lô cốt ở bến phà Mỹ Thuận, sau đó đánh sập cầu Huyền Báo, cắt đứt giao thông quốc lộ 4 đoạn Mỹ Thuận - Vĩnh Long, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ đội tỉnh đánh chiếm sân bay và các mục tiêu trong thị xã Vĩnh Long. Đây là trận đánh có ý nghĩa then chốt, đạt hiệu quả cao và hiệp đồng tác chiến tốt giữa lực lượng địa phương và bộ đội tỉnh.


Tháng 12 năm 1968, một mình đồng chí bám lộ 80 dùng mìn đánh lật 1 xe GMC diệt 13 tên địch. Đây là trận đánh gây bất ngờ cho địch vì chỉ cách đồn Cái Đa 300 mét.


Tháng 5 năm 1969, sau nhiều lần lặn lội điều tra nghiên cứu tình hình địch ở Tân Xuân, ven lộ liên tỉnh 80 cửa ngõ vào thị xã Sa Đéc, Nguyễn Văn Út đã có sáng kiến đội bèo lục bình (bèo tây) theo sông, bất ngờ tấn công đội hình địch đóng tại cầu Bà Vạch, xã Tân Xuân tiêu diệt 1 trung đội địch, thu nhiều vũ khí.


Trong những năm địch bình địch ác liệt (1969-1972), vũ khí của huyện không đủ sức đánh diệt các đồn lớn, Út Nồi có sáng kiến dùng bộc phá đánh hất quả bom cay (lấy của địch) vào đồn. Cách đánh này rất hiệu quả, đánh đồn nào là đồn đó rút chạy như đồn ngã ba Tân Hựu, đồn Ông Đại... gây cho địch hoang mang lo sợ.


Tháng 2 năm 1971, đồng chí chỉ huy 1 tổ đặc công vượt sông qua cầu An Hòa, xã An Nhơn, giải tán toán thanh niên phòng vệ, đồng thời vận động số thanh niên này thoát ly bổ sung cho bộ đội huyện, thu hơn 20 súng các loại.


Tháng 7 năm 1972 Út Nồi chỉ huy đánh ụ gác ở xã Phú Hựu thu hơn 15 súng các loại, trong đó có 3 khẩu M72. Ngày 25 tháng 11 năm 1972, đồng chí trực tiếp chỉ huy đánh tập kích trung đội thám báo thuộc đại đội 834 (đơn vị khét tiếng gian ác) của tiểu khu Sa Đéc tại xã Tân Nhuận Đông, diệt 20 tên thu 16 súng các loại và 1 máy thông tin. Sau đó đánh 1 tầu tại xã Hòa Tân tiêu diệt 1 tiểu đội địch thu 2 súng ngắn và 4 khẩu M16, 1 máy thông tin, các trận này góp phần vào thắng lợi chung của tỉnh trong chiến dịch hè 1972.


Trong Mùa Xuân 1975, trên cương vị huyện đội trưởng Nguyễn Văn Út đã chỉ huy bao vây, đánh diệt, bức rút 20 đồn, 10 lô cốt, góp phần vào thắng lợi chung giải phóng hoàn toàn huyện Châu Thành B, tỉnh Vĩnh Long.


Nguyễn Văn Út, là một cán bộ trưởng thành từ cơ sở, có nhiều kinh nghiệm trong chiến đấu, là một cán bộ chỉ huy biết kết hợp hài hòa giữa xây dựng lực lượng và tổ chức thực hành chiến đấu. Là thương binh 2/4, từ khi về hưu đến nay đồng chí luôn phát huy tốt bản chất cách mạng của người cán bộ quân đội; xứng đáng là tấm gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Đồng chí đã được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua (cấp Quân khu) và nhiều bằng khen, giấy khen.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Nguyễn Văn Út được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #197 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:39:06 am »

ANH HÙNG HỒ THỊ BI


Hồ Thị Bi (tức Hồ Thị Hoa) sinh năm 1916, dân tộc Kinh, quê ở xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay là thành phố Hồ Chí Minh), trú quán 226/34 đường Lê Văn Sĩ quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, tham gia cách mạng năm 1936. Trong kháng chiến chống Pháp đồng chí là trưởng ban công tác đội 12 kiêm đại đội trưởng đại đội 2804 Hóc Môn, sau là tiểu đoàn phó tiểu đoàn 935, trung đoàn 312 Gia Định. Trong chống Mỹ Hồ Thị Bi công tác ở Cục Chính sách, Tổng cục Chính trị, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Xuất thân từ gia đình nghèo, chồng tham gia hoạt động cách mạng và đã hy sinh. Bản thân đồng chí liên tục tham gia công tác cách mạng từ năm 1936 đến nay, trải qua nhiều cương vị chiến đấu và công tác khác nhau, được giao nhiều nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, nguy hiểm... ở cương vị nào, làm việc gì Hồ Thị Bi cũng thể hiện trách nhiệm cao, chiến đấu mưu trí dũng cảm, công tác năng nổ sáng tạo, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Trong kháng chiến chống Pháp, thời kỳ lực lượng cách mạng còn nhỏ yếu, tình hình hết sức khó khăn, là một phụ nữ đang nuôi 2 con nhỏ, Hồ Thị Bi đã tự lực vận động thành lập được một đơn vị tự trang bị vũ khí, đánh vào nơi địch đang ráo riết tiến hành khủng bố cách mạng, bắn giết, cướp bóc đe dọa nhân dân. Đồng chí đã biết kết hợp binh vận với tác chiến, tổ chức đánh diệt được địch, thu được vũ khí, ta lại an toàn, gây được khí thế cho nhân dân, bảo vệ uy thế cho cách mạng và cảnh cáo răn đe bọn phản động ở vùng Hóc Môn, ngoại thành Sài Gòn.


Từ tháng 12 năm 1945 đến tháng 12 năm 1949, được giao nhiệm vụ vừa chỉ huy các đơn vị (từ ban công tác đến tiểu đoàn) chiến đấu trong lòng địch, vừa làm kinh tế lấy tiền nuôi trung đoàn 312, Hồ Thị Bi đã hoàn thành xuất sắc cả 2 nhiệm vụ, được Bác Hồ khen ngợi là: "Gương sáng tích cực kháng chiến cho các chị em phụ nữ".


Từ năm 1950 đến năm 1953, địch chủ trương giết trâu bò để triệt nguồn sức kéo của ta trong vùng kháng chiến, chúng từng tuyên bố: "Diệt 1 con trâu là diệt được 1 tiểu đội Vệ quốc đoàn", đã làm cho ta rất khó khăn. Hồ Thị Bi được giao tổ chức đường dây mua trâu bò từ Cam-pu-chia về cung cấp cho vùng kháng chiến, đồng thời mở hành lang ven theo Nam Trường Sơn nối ra miền Bắc. Đồng chí đã khắc phục mọi khó khăn, xây dựng đơn vị 999 luồn lỏi qua rất nhiều đồn bốt địch, mua được 300 con trâu đưa đến tận các nơi cần thiết, đồng thời đã mở thông được đường ra Bắc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.


Cuối năm 1973, với cương vị cán bộ cơ quan nghiên cứu chỉ đạo công tác chính sách ở Bộ Quốc phòng, được cử vào chiến trường miền Nam khảo sát tình hình thực hiện chính sách. Tuy tuổi đã cao (gần 60), sức khỏe yếu, đồng chí vẫn khẩn trương lên đường vào chiến trường và đã giải quyết được nhiều vấn đề ách tắc trong công tác này.


Trong thời kỳ chiến tranh biên giới Tây Nam, với cương vị Phó Chủ nhiệm chính trị Bộ tư lệnh thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Thị Bi đã không quản ngại khó khăn phức tạp, lặn lội nhiều nơi liên hệ giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của hậu phương quân đội để động viên cán bộ chiến sĩ chiến đấu phía trước, đã cấp phát nhiều vật tư sinh hoạt cho cán bộ, bảo đảm công bằng, đúng nguyên tắc chế độ.


Từ năm 1980, tuy đã nghỉ hưu, đồng chí vẫn tích cực phát huy tính năng động sáng tạo, tham gia công tác xã hội, đã góp phần quan trọng xây dựng được Nhà bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ ở thành phố Hồ Chí Minh và tích cực đóng góp giúp đỡ hoạt động xóa đói giảm nghèo cho nhiều gia đình cựu chiến binh.


Đồng chí đã được tặng thưởng 1 Huân chương Độc lập hạng nhì; Huân chương Kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hạng nhất; Huân chương Quân công hạng nhì, hạng ba; Huân chương Chiến công hạng nhất, hạng nhì, và nhiều phần thưởng cao quý khác.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Hồ Thị Bi được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #198 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:39:43 am »

ANH HÙNG NGUYỄN THÀNH TRUNG


Nguyễn Thành Trung (tức Đinh Khắc Chung) sinh năm 1947, dân tộc Kinh, quê ở xã An Khánh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Trú quán 324/7 Hoàng Văn Thụ, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh, nhập ngũ năm 1969. Đồng chí là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam đã chuyển ngành, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ năm 1960 đến năm 1968, Nguyễn Thành Trung là học sinh phổ thông và đại học tham gia phong trào học sinh, sinh viên đấu tranh, rồi làm cán bộ giao liên cho Ban binh vận T2 (Khu 8 ). Năm 1969, Nguyễn Thành Trung được kết nạp vào Đảng, rồi chuyển về công tác ở Ban binh vận Trung ương Cục, được phân công làm cơ sở nội tuyến trong không quân ngụy.


Nhận nhiệm vụ chiến đấu trong lòng địch trước mọi hiểm nguy rình rập bản thân và gia đình, song Nguyễn Thành Trung vẫn kiên định lập trường, xác định nhiệm vụ cách mạng Đảng giao. Đồng chí đã dũng cảm, mưu trí đánh bại sự theo dõi của kẻ thù, đảm bảo an toàn cho bản thân, gia đình, quyết tâm thực hiện mục đích vào được hàng ngũ không quân ngụy để được lái máy bay phản lực F5, loại máy bay tối tân của Mỹ. Nguyễn Thành Trung đã hoàn thành nhiệm vụ, lập được nhiều chiến công xuất sắc.


Hơn một năm học ở Nha Trang, Tân Sơn Nhất và gần 3 năm du học ở Mỹ, Nguyễn Thành Trung vẫn giữ nghiêm kỷ luật công tác, thường xuyên liên lạc với cán bộ Ban binh vận Trung ương Cục.


Cuộc tiến công Xuân 1975 nhằm giáng đòn tâm lý đối với ngụy quân, ngụy quyền trung ương, đẩy chúng đã hoang mang càng thêm lúng túng. Ngày 8 tháng 4 năm 1975 từ căn cứ không quân địch, Nguyễn Thành Trung chủ động tìm cách xuất kích bằng máy bay F5E ném bom bắn phá vào dinh Độc Lập. Lần đầu bom không trúng. Nguyễn Thành Trung kiên quyết bay trở lại cắt bom lần nữa trúng đích đồng thời quay lại lần thứ ba dùng súng 20 ly bắn vào kho xăng Nhà Bè rồi mới bay về hạ cánh an toàn trên đường băng ngắn (1.000 mét) ở sân bay Phước Long, vùng căn cứ cách mạng.


Ngày 16 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thành Trung, nhận nhiệm vụ mới do Binh chủng Không quân là cùng với anh em gấp rút sửa chữa, phục hồi 5 chiếc máy bay A37 lấy được của địch, tập luyện cho anh em phi công ta lái máy bay Mỹ. Nguyễn Thành Trung điều khiển phi đội A37 từ sân bay Phan Rang vào Sài Gòn ném bom bãi đỗ máy bay tại sân bay Tân Sơn Nhất rồi bay về căn cứ an toàn.


Từ sau ngày miền Nam giải phóng mặc đù hoàn cảnh gia đình khó khăn, Nguyễn Thành Trung vẫn phát huy tốt bản chất cách mạng, đã vượt qua mọi khó khăn lao vào nhiệm vụ xây dựng lực lượng không quân bằng những máy bay và vũ khí ta thu được của địch. Đồng chí đã cùng anh em kỹ thuật ngày đêm sửa chữa, phục hồi số máy bay A37, máy bay F5, trực tiếp lái thử từng chiếc để xác định chất lượng, đồng thời tập luyện cho anh em phi công và huấn luyện cho số người mới học làm phi công. Nguyễn Thành Trung đã có nhiều công lao đóng góp trong việc thành lập trung đoàn cường kích A37 và trung đoàn tiêm kích F5 - trung đoàn duy nhất của Không quân Việt Nam.


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Nguyễn Thành Trung được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
quansuvn
Moderator
*
Bài viết: 6619



WWW
« Trả lời #199 vào lúc: 10 Tháng Năm, 2023, 07:40:29 am »

ANH HÙNG VŨ XUÂN ĐÀI


Vũ Xuân Đài sinh năm 1946, dân tộc Kinh, quê ở xã Dương Quang, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng, nhập ngũ năm 1965. Trong kháng chiến chống Mỹ đồng chí là đại đội trưởng đại đội 1, súng máy cao xạ 12,7 ly, thuộc tiểu đoàn 14, sư đoàn 2, Quân khu 5. Khi được tuyên dương Anh hùng Vũ Xuân Đài là sĩ quan đã nghỉ hưu tại phường Nguyễn Trãi, thị xã Hải Dương, tỉnh Hải Hưng, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ tháng 3 năm 1966 đến tháng 3 năm 1969, Vũ Xuân Đài cùng đơn vị hoạt động trên các địa bàn thuộc Quân khu 5, là xạ thủ số 1 súng 12,7 ly. Đồng chí đã tham gia chiến đấu khi khống chế các điểm cao, chi viện cho bộ binh chiến đấu; khi cùng khẩu đội phục kích bắn máy bay địch nhiệm vụ nào Vũ Xuân Đài cũng nêu cao quyết tâm chiến đấu đạt hiệu xuất cao, bị thương cũng không rời trận địa.


Vũ Xuân Đài chịu khó nghiên cứu thủ đoạn của máy bay địch, tìm ra cách đánh có hiệu xuất cao nhất. Nhiều lần đồng chí đem súng lên điểm cao bất ngờ bắn rơi máy bay địch khi nghi binh lừa địch đến để diệt. Tính chung trong 3 năm Vũ Xuân Đài đã bắn rơi 37 máy bay các loại (C130, C47, CH47, HU1A, HU1B, CH06, T28).


Có trận đồng chí bắn rơi 1 chiếc C47, tiêu diệt nhiều sĩ quan cấp cao của địch đi trên chiếc máy bay này.


Trận ngày 17 tháng 9 năm 1967, tại xã Bình Trị, Quảng Nam, Vũ Xuân Đài, chỉ với 9 viên đạn đã diệt gọn cả tốp 3 chiếc HU1A.


Từ tháng 3 năm 1969 đến tháng 11 năm 1978, Vũ Xuân Đài bị thương nặng (thương tật 2/4) được chuyển về làm tài vụ tại Viện quân y 7, Quân khu 3, đồng chí đã phát huy tốt phẩm chất trong chiến đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.


Từ tháng 12 năm 1978, Vũ Xuân Đài về nghỉ hưu tại phường Nguyễn Trãi, thị xã Hải Dương, đồng chí vẫn phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia công tác địa phương được nhân dân tin yêu.


Đồng chí đã được tặng thưởng 4 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng nhì và hạng ba, 1 Huy hiệu Bác Hồ, 4 năm là Chiến sĩ thi đua (1965, 1966, 1967, 1968), 19 bằng khen, nhiều danh hiệu khác như: "Chim đầu đàn", "Kiện tướng diệt máy bay", "Dũng sĩ diệt máy bay", "Dũng sĩ quyết thắng".


Ngày 20 tháng 12 năm 1994, Vũ Xuân Đài được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Logged

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM