Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 27 Tháng Năm, 2024, 01:43:45 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: 28 ngày đêm quyết định vận mệnh Trung Quốc  (Đọc 79279 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #60 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 10:23:51 am »

16. MAO VIỄN TÂN LÀ AI?


“Biết núi có hổ mà vẫn đi về phía núi đó”, được Mao Trạch Đông giao nhiệm vụ, Đặng Tiểu Bình đã chủ trì nhiều phiên họp của Bộ Chính trị phê bình Giang Thanh và nhóm Thượng Hải. Công việc này nói thì dễ nhưng bắt tay vào thực hiện thòi khó khăn, vì chẳng khác gì chọc vào tổ ong. Song nghĩ đến hành động hại dân, hại nước của Giang và phe phái, Đặng không thể không ra tay. Ngày 28 tháng 6 năm 1975, Giang Thanh đã phải viết kiểm điểm gửi cho Chủ tịch và các ủy viên Bộ Chính trị thú nhận “nhóm bốn người” sẽ dẫn đến sự phân liệt trong Đảng v.v...

Tuy vậy, Giang Thanh còn có một con bài khá lợi hại - ấy là Mao Viễn Tân, vậy người ấy là ai?

Tân là con trai của Mao Trạch Dân, gọi Mao Trạch Đông là bác ruột. Khi về sống vơi Mao, Viễn Tân còn là cậu bé quàng khăn đỏ, nhỏ thua Lý Nạp - con gái của Mao - một tuổi, và thấp hơn cô bé này một cái đầu, mọi người gọi cậu là  “bé hạt đậu”. Vào lúc thời kỳ đầu của Cách mạng văn hóa, đám Hồng vệ binh in phát tài liệu “Cuộc nói chuyện giữa Mao Chủ tịch với người cháu Viễn Tân”; từ đó, nhờ uy vọng của Mao, tên tuổi của Viễn Tân truyền khắp bốn biển.

Sau khi tốt nghiệp ở Học viện công trình quân sự Cáp Nhĩ Tân, Viễn Tân lập tức xung vào phái tạo phản, là đầu não của Ban tuyên huấn tỉnh Liêu Ninh, sau đó nhảy lên chức Phó chính ủy quân khu Thẩm Dương và Phó chủ tịch “ủy ban cách mạng” Liêu Ninh. Viễn Tân tôn thờ Mao Trạch Đông như vị thánh sống và tôn kính Giang Thanh như mẹ đẻ, hơn nữa, còn coi bà là thần hộ mệnh của mình. Năm 1973 Viễn Tân lập công với Giang Thanh bằng chiến tích “phản hồi triều” trong các trường học. Nhiều lần về kinh thăm hai bác, Viễn Tân được chăm nom như “Đông cung thái tử”. Tuy nhiệm sở ở Liêu Ninh, nhưng Viễn Tân vẫn thao túng, điều khiển cả hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang, người ta đã phong cho Viễn Tân là “Đông bắc thái thượng hoàng”. Viễn Tân cũng học cách nắm quyền, sai khiến người khác và theo đòi Giang Thanh trong cuộc sống cá nhân, thuốc lá thơm, phim ảnh nước ngoài v.v...

Từ ngày “ở riêng”, vợ con không ai được đến với Mao Trạch Đông khi ông chưa cho phép. Nay Mao lâm bệnh, không thể để ông “trống trải” như vậy, Giang Thanh bàn mãi với ba “đại thần” (Trương, Vương, Diêu) mới chọn được Mao Viễn Tân làm “liên lạc viên”. Kế sách này làm người ta nhớ lại Võ Tắc Thiên nhà Đường đã xem người cháu là Võ Tam Tư như thái tử.

10 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1975, Mao Viễn Tân về Trung Nam Hải nhậm chức “liên lạc viên” cho Mao Trạch Đông, tâu lên truyền xuống mọi việc giữa Mao và Trung ương, Quốc vụ viện. Sự kiện Viễn Tân được điều vào Trung Nam Hải làm việc bên cạnh Mao Trạch Đông gây ngạc nhiên cho nhiều người, vì đây là hiện tượng không bình thường trong sinh hoạt Đảng và cũng chưa có tiền lệ. Nhưng vì sức khỏe của Mao, mọi người đều tỏ thái độ kềm chế, từ đó Viễn Tân nói gì tức là lời của Mao Trạch Đông nói, cứ thế mà chấp hành!

Một ngày đầu mùa đông, gió lạnh tràn cả thành phố Bắc Kinh, Viễn Tân nhẹ nhàng vào phòng ngủ của Mao và làm ông tỉnh giấc.

- Bên ngoài chắc lạnh?... Gió thổi mạnh lắm... phải không...?

Giọng nói rất bé, lại chậm, nhưng vì nghe quen giọng nói Hồ Nam của Mao Trạch Đông nên Viễn Tân hiểu ngay. Anh không muốn báo cáo với ông về khí hậu thiên nhiên, mà tuân theo sự chỉ bảo của “mẹ” Giang Thanh, nhân cơ hội này bàn sang thời tiết chính trị.

- Dạ thưa Chủ tịch, gió cũng thường thổi, nhưng người ta cảm thấy hình như có luồng gió lạ.

- Gió gì?

Vì quen với phân tích, nên Mao rất nhạy với tình hình và lập tức “ngửi” thấy một động thái chính trị mới.

- Dạ thưa Chủ tịch, lúc còn làm việc dưới tỉnh, cháu đã cảm nhận được luồng gió này, đó là sự phủ định Cách mạng văn hóa.

Nghe đến mấy chữ “Cách mạng văn hóa”, Mao liền bật dậy nửa ngồi, nửa nằm bắt Viễn Tân tường trình cặn kẽ. Cách mạng văn hóa, một trong hai đại sự của đời ông, là tác phẩm đắc ý vào những năm cuối cùng, ông đã xem xét kỹ, công lớn hơn tội, đã kinh thiên động địa chưa từng có trong lịch sử, là một chiến tích phòng chống chủ nghĩa xét lại. Nếu có sai thì chỉ mình ông thừa nhận, không cho phép một ai được trách cứ, phê phán.

Còn Viễn Tân, anh cũng đắc ý vì đã đưa ông bác vào tròng của Giang Thanh, sẵn kịch bản trong tay, Viễn Tân trình bày 5 điểm phủ định Cách mạng văn hóa và cũng là phủ định Mao Trạch Đông. Nhưng quen với cách trừ tà đuổi gió, Mao muốn biết ngọn nguồn và sức mạnh của luồng gió lạ.

- Gió thổi có mạnh không, cháu?

- Dạ thưa bác, dạ thưa Chủ tịch, còn hơn cả hồi phê phán phái cực tả 72.

- À, còn mạnh hơn hồi năm 1972.

Lúc ấy ám chỉ Chu Ân Lai đã thổi lên luồng gió “phê cực tả”. Mao cau mày và bảo Viễn Tân nói tiếp.

- Cháu rất chú ý cách phát biểu của đồng chí Tiểu Bình, - Viễn Tân hạ giọng, vẻ mặt tỏ ra quan trọng. - Cháu thấy Tiểu Bình rất ít khi nhắc tới Cách mạng văn hóa, nhắc tới Lưu Thiếu Kỳ. Chủ tịch chỉ thị ba điều, nhưng... - Viễn Tân ngừng giây lát rồi nói nhỏ - Nhưng Tiểu Bình chỉ làm một, là sản xuất mà thôi. Bên ngoài đang lo lắng rằng trong Trung ương có kẻ phản phúc.

Không được, không thể chấp nhận một ai xuyên tạc hoặc phá hoại ba điều chỉ thị “học tập lý luận, tinh thông chủ nghĩa Mác Lê, phòng chống chủ nghĩa xét lại, đoàn kết ổn định, đưa kinh tế tiến lên”. Nhẽ nào Tiểu Bình chỉ lo kinh tế, chỉ lo sản xuất mà bỏ tất cả, không muốn đấu tranh giai cấp, phủ nhận Cách mạng văn hóa. Mao Trạch Đông nhớ lại lúc Khang Sinh lâm bệnh, cũng đã “cáo trạng” Đặng Tiểu Bình như vậy, sau đó Mao tiếp cận Đặng và thấy không có gì. Hôm nay nghe thằng cháu báo cáo, ông vừa tin cháu, lại vừa nuôi hy vọng là Đặng Tiểu Bình sẽ quay về “con đường chân chính”.

Ông nghĩ, có thể là sự bất mãn của Đặng đối với Cách mạng văn hóa, có thể là Đặng tính sổ, tính nợ mà Cách mạng văn hóa phải trả... biết lý do nào đây?

Mao ra lệnh cho Viễn Tân:

- Cháu gặp ngay Đặng Tiểu Bình, Uông Đông Hưng, Trần Tích Liên, nói là bác bảo họ nói rõ ra, không úp mở nữa, nói hết mọi ý kiến. À như thế này, cháu tìm Tiểu Bình, Tích Liên, Đông Hưng mở hội nghị nhỏ, cháu nói hết mọi phẽ, rồi báo cáo cho bác hay.

Liên lạc viên thực hiện chỉ thị mới nhất, nhưng Đặng Tiểu Bình vẫn kiên định quan điểm của mình, không nhận sai lầm gì cả. Viễn Tân trở về và lại “thêm mắm thêm muối” báo cáo với Mao Trạch Đông.

Hai hôm sau, Mao bảo Viễn Tân thông báo bố trí họp Bộ Chính trị.

Mao căn dặn:

- Đối với Cách mạng văn hóa, nhìn chung là đúng đắn, song còn có chỗ chưa đầy đủ, bây giờ cần nghiên cứu những chỗ chưa đầy đủ đó, phương pháp có thể khó nhất trí...

Viễn Tân lĩnh hội ý đồ của Mao, thỉnh thị trở lại, nhưng đã sửa chữa đôi điều:

- Mục tiêu của hội nghị lần này là tranh thủ sự thống nhất sơ bộ trên nhận thức về Cách mạng văn hóa, thông qua thảo luận mà đoàn kết, công tác tốt... Có phải như thế không, thưa Chủ tịch?

- Đúng, Mao gật đầu và nói thêm: Không cho Giang Thanh biết việc này nghe chưa?

Viễn Tân tiết lộ mọi cơ mật cho “mẹ” Giang Thanh, và phe phái “nhóm bốn người” như chết đuối vớ được cọc, ngày đêm bàn mưu tính kế đánh đổ Đặng Tiểu Bình một lần nữa, đánh cho cả đời không ngóc đầu lên được.

Bộ Chính trị căn cứ chỉ thị của Mao Trạch Đông do “liên lạc viên”“ truyền đạt, đã triệu tập hội nghị khẩn cấp phê phán sai lầm của Đặng Tiểu Bình. Dựa theo ý kiến của Mao, thì Cách mạng văn hóa bảy phần đúng, ba phần sai, Mao bảo Đặng chủ trì ra một quyết nghị như vậy để khẳng định thành tích của Cách mạng văn hóa, Đặng đã từ chối và với sự tấn công mãnh liệt của “nhóm bốn người”, Bộ Chính trị phải đình chỉ công tác của Đặng Tiểu Bình.

Đó là những ngày buồn bã vào cuối năm 1975, lại một bước ngoặt nữa trong đời của Đặng Tiểu Bình, về một khía cạnh nào đó, Giang Thanh thật ghê gớm.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #61 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 10:28:30 am »

17. NĂM 1976, LẦN THỨ HAI RA KHỎI TRUNG NAM HẢI


Cuối năm 1975, giá trị tổng sản lượng công nông nghiệp đạt 450, 4 tỷ nguyên, tăng 11, 9%, lương thực đạt 284, 5 triệu tấn, dầu thô 77, 06 triệu tấn, đầu tư xây dựng cơ bản 40, 93 tỷ nguyên, tổng thu nhập tài chính Quốc gia 81, 56 tỷ nguyên, tổng chi tiêu 82, 09 tỷ nguyên, chỉ bội chi có 530 triệu nguyên. Những con số thống kê như muốn dự báo tình hình kinh tế của nước nhà cơ hồ sẽ chuyển biến.

Nhưng niềm vui ngắn chẳng tày gang, Đặng Tiểu Bình bị đình chỉ công tác ở Bộ Chính trị, cuộc vận động “phê Đặng” đã công khai ra phạm vi toàn quốc, lúc bấy giờ người ta gọi cuộc vận động đó bằng một đại từ rất mỹ miều “thảo luận về cách diễn - đạt”.

Một năm 1976 u buồn bắt đầu khi Đài phát thanh nhân dân trung ương phát đi bản tin đau lòng: “9 giờ 57 phút ngày 8 tháng giêng năm 1976, Thủ tướng Chu Ân Lai tạ thế, hưởng thọ 78 tuổi”. 3 giờ chiều ngày 15, lễ truy điệu được cử hành tại Đại lễ đường nhân dân với trên 5000 người tham dự. Trong niềm thương tiếc vô hạn Thủ tướng Chu Ân Lai - người con của đất nước, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của nhân dân. Đặng Tiểu Bình đọc bản điếu văn lịch sử.

Khi Chu Ân Lai vừa nằm xuống, “ngôi báu” làm cho “nhóm bốn người” mờ mắt và họ bày mưu tính kế để chiếm đoạt cho kỳ được. Người ta tranh cãi về việc cử ai đọc điếu văn. Giang Thanh chủ trương là Vương Hồng Văn hoặc Trương Xuân Kiều, quá lắm mới đến Diệp Kiếm Anh, song thực tế vẫn là thực tế, còn ai xứng đáng hơn Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ - Phó chủ tịch Đảng, Phó thủ tướng thứ nhất thay Thủ tướng trong những ngày lâm bệnh, Phó chủ tịch Quân ủy kiêm Tổng tham mưu trưởng. Và cuối cùng trên màn ảnh nhỏ của hàng triệu máy thu hình, Đặng Tiểu Bình đã xuất hiện với âm thanh bi hùng, vĩnh biệt Chu Ân Lai, cũng là vĩnh biệt một chiến hữu thân thiết ngay từ hồi còn du học ở Pháp và hoạt động bí mật ở Thượng Hải. Hình ảnh của ông trên vô tuyến đã làm cho nỗi bực dọc “phê Đặng” của bao người bỗng chốc tan biến, nhưng liền sau đó ông chỉ còn là một đảng viên thường mà thôi.

Vì “ngôi báu”, người ta dựng lên những trò lừa bịp, cho xuất bản hoặc tuyên truyền những ấn phẩm hoang đường nào là “Tư tưởng Trương Xuân Kiều”, “Phát hiện mới”, “Quan điểm mới”, “vượt cả Lênin, là cột mốc thứ tư sau Mao Trạch Đông”, nào là “Tư tưởng văn nghệ Giang Thanh”, “Con đường Diêu Văn Nguyên”, “Vương Hồng Văn đại sự ký” v.v... Rồi tổ chức sinh viên Thượng Hải xuống đường hô hào, cổ vũ yêu cầu Trương Xuân Kiều làm thủ tướng. Lại ngập đường ngập phố là biểu ngữ như thuở nào tạo phản, “Kiên quyết yêu cầu Trương Xuân Kiều làm thủ tướng”, cũng có nơi bị kẻ ngộ chơi xỏ, cắt ba chữ Trương Xuân Kiều đặt lên đầu câu thành ra “Trương Xuân Kiều kiên quyết yêu cầu làm thủ tướng”.

Thế là một cái gai không cần nhổ mà đã bị hủy, cái gai thứ hai cũng sắp lung lay, chỉ còn mỗi lão súy họ Diệp nữa thôi, “nhóm bốn người” với “liên lạc viên” Viễn Tân đang cố sức giành phần thắng...

- Anh thấy tình hình hiện nay như thế nào? - Diệp Kiếm Anh hỏi Đặng.

- Không có gì phải sợ, tôi đã chuẩn bị tư tưởng rồi, quá lắm là bị đánh đổ lần thứ hai, chỉ tiếc là công việc còn dở dang, kinh tế chưa chuyển biến, nhiều đồng chí lão thành chưa được giải phóng.

- Vấn để lớn nhất hiện nay là Chủ tịch không nghe được ý kiến của chúng ta, Giang Thanh và bọn họ đã xúi Viễn Tân làm điều bậy bạ, án ngữ tất cả.

- Cũng có phần đúng, nhưng không hẳn thế, vì cuối năm ngoái mấy lần tôi đến chỗ Chủ tịch trao đổi công việc, có hôm tôi hỏi chính sách, phương châm lúc này nên ra sao, Chủ tịch vẫn khẳng định như thế, không có gì thay đổi. Sau đó Chủ tịch sai Viễn Tân gọi tôi đến, bảo tôi nghiên cứu xem lại Cách mạng văn hóa, tôi trình bày quan điểm của mình, giải thích năm lần bảy lượt mà vẫn không xuôi.

Mới đó thôi, chính Diệp Kiếm Anh vừa nghe Mao Trạch Đông nói: Đặng là “nhân tài hiếm có”, là “tư tưởng chính trị mạnh”, và thực tế Mao đã giao cho Đặng bao nhiêu là trọng trách, bản thân Đặng làm việc gì cũng thỉnh thị Mao trước khi thực hiện, thành tích xuất sắc, được lòng mọi người, ai cũng phải thừa nhận. Thế mà giờ đây quay ngược 180°, có lẽ vấn đề chính là cách đánh giá cách mạng văn hóa. Diệp Kiếm Anh suy nghĩ như vậy và hỏi lại Đặng:

- Hay để tôi đi gặp Chủ tịch lần nữa?

- Không cần, lão súy biết tính tôi, không khoan nhượng về nguyên tắc, còn một chút hy vọng là còn đấu tranh. Bộ Chính trị đã đình chỉ công tác của tôi, vậy là Chủ tịch quyết tâm “thay ngựa”.

Diệp Kiếm Anh thất vọng, những tưởng trách nhiệm của Chu Ân Lai sẽ được giao cho Đặng, nào ngờ mọi chuyện bỗng chốc lại đảo điên đến thế.

- Tôi không tại vị không thành vấn đề, chỉ mong lão súy còn là được.

- Xem tình thế, tôi cũng không còn lâu nữa, nhưng thôi, hễ còn hơi thở là còn đấu tranh.

Quả nhiên, nhổ xong Đặng là đến Diệp với một thông cáo “dưỡng bệnh” và quyền bính giao cho Trần Tích Liên, lão súy bị xuống ngựa một cách nhẹ nhàng.

Ngày 21 tháng giêng năm ấy, Mao Trạch Đông nói với Viễn Tân: “Mời Hoa Quốc Phong làm trưởng, anh ta cũng tự nhận mình trình độ chính trị không cao, nên Tiểu Bình sẽ lo phần ngoại vụ”. Ngày 2 tháng hai, Bộ Chính trị thông qua “văn kiện số 1”: Hoa Quốc Phong đảm nhiệm chức vụ quyền thủ tướng.

Tin bất ngờ này làm cho “nhóm bốn người” và cả Viễn Tân đều ngơ ngác và chứng tỏ Mao Trạch Đông còn cao tay ấn, con bài này ông đã bí mật chuẩn bị từ lâu, từ bí thư huyện Tương Đàm (quê của Mao), nâng dần, nâng dần cho đến chức phó thủ tướng để hôm nay bật lên thành quyền thủ tướng, và sau đó không lâu, vào tháng tư, chính thức là thủ tướng kiêm phó chủ tịch thứ nhất của Trung ương Đảng. Cùng một lúc Hoa Quốc Phong thăng quan thì Đặng Tiểu Bình bị giáng tất cả chức vụ Đảng và chính quyền, còn lại mỗi danh hiệu đảng viên và hộ khẩu Bắc Kinh, nguyên văn của quyết nghị là “bảo lưu đảng tịch, dĩ quan hậu hiệu” (để xem sau này ra sao).

Nhưng Mao Trạch Đông cũng không sống được bao lâu nữa để mà “yên tâm khi giao việc cho chú Hoa Quốc Phong”. Vào lúc 0 giờ 10 phút ngày 9 tháng chín năm 1976 ông qua đời. 1976, đó là năm Bính Thìn, năm con rồng với câu ca của dân chúng “nhị nguyệt nhị long đại đầu”. Đầu rồng chưa thấy ngẩng mà tai họa đã giáng xuống liên miên.

Chu Ân Lai, Trương Văn Thiên, Chu Đức, Mao Trạch Đông lần lượt ra đi, rồi máu đổ trên quảng trường Thiên An Môn ngày 5 tháng tư mà người ta đã nhân đó gán thêm tội cho Đặng Tiểu Bình, rồi mưa đá ở Cát Lâm, rồi động đất ở Trường Sơn. Thật là một năm hạn của lịch sử Trung Quốc, và Đặng Tiểu Bình lần thứ hai lại ra khỏi Trung Nam Hải.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #62 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 10:37:36 am »

18. SỰ BẤT QUÁ TAM


Mao Trạch Đông qua đời và chẳng bao lâu sau “bè lũ bốn tên” cũng bị đập tan, Trung Quốc đối mặt với tình hình kinh tế trên đường suy thoái, đời sống của nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong hoàn cảnh như vậy, có lẽ Đảng cộng sản Trung Quốc phải lo dẹp loạn và phục hồi, bắt tay vào công việc dẹp loạn và phục hồi, bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước nhằm thoát khỏi nguy cơ suy thoái, dần dần hướng lên hiện đại hóa, nhưng Hoa Quốc Phong - Chủ tịch Đảng, Thủ tướng Quốc vụ viện, Chủ tịch quân ủy trung ương và Uông Đông Hưng - Phó chủ tịch Đảng kiêm thêm 14 chức vụ khác nữa lại vẫn kiên trì đường lối sai lầm tả khuynh của “đại Cách mạng văn hóa”, đề ra phương châm “hai loại phàm là” - “Phàm là quyết sách mà Mao Chủ tịch đề ra, chúng ta đều kiên trì giữ vững. Phàm là chỉ thị mà Mao Chủ tịch hạ lệnh, chúng ta đều nghiêm túc thi hành”. Ngày 26 tháng mười năm 1976, Hoa Quốc Phong đề ra 4 điểm: tập trung phê phán “bè lũ bốn tên”, kể cả phê Đặng, phàm là những điều Mao Chủ tịch đã nói, đã gật đầu đồng ý đều không được phê bình, tránh không đả động đến sự kiện Thiên An Môn (5/4/1976).

Những ngày đầu năm 1977, trên đại lộ Trường An Bắc Kinh đã xuất hiện các biểu ngữ yêu cầu khôi phục Đặng Tiểu Bình, yêu cầu minh oan cho sự kiện Thiên An Môn. Hoa Quốc Phong đã ra lệnh bắt tất cả những ai dán biểu ngữ. Tháng ba năm đó, tại hội nghị công tác của Trung ương, Trần Vân đề xuất khôi phục công tác lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình và thay đổi nhận định về sự kiện Thiên An Môn. Chủ trì phiên họp, Hoa Quốc Phong giải thích: “Theo những kết quả điều tra, hiện nay đã hình thành một nhóm phản cách mạng, sách lược của chúng là giương cao ngọn cờ yêu cầu phục hồi cho Đặng Tiểu Bình, ép buộc Trung ương tỏ thái độ, sau đó sẽ công kích Trung ương phản bội di chúc của Mao Chủ tịch, lật đổ Trung ương, đưa Vương Hồng Văn trở lại vũ đài chính trị, nếu chúng ta vội vàng phục hồi Đặng là mắc âm mưu của địch”. Tất cả ý tứ của Hoa đều xuất phát từ phương châm “phàm là”, phê Đặng, chống hữu do Mao đề ra, là cứ phải phê, phải chống và đồng thời cũng ngăn chặn những lời nói, việc làm có tính phương hại đến hình tượng Mao Trạch Đông.

Tranh thủ thời gian bị giam lỏng ở Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình nghiên cứu lý luận tập trung phê phán phương châm “hai loại phàm là”. Tháng tư năm 1977 ông viết thư cho Trung ương, chỉ ra sự sai lầm của cái gọi là “phàm là”. Uông Đông Hưng, Hoa Quốc Phong gặp ông để trao đổi, ông đều trả lời: “Tất cả những điều Mao Chủ tịch đã nói, không phải đều đúng cả, vẫn có cái sai, cũng như các bản sơ thảo của Mác, Ăng ghen, Lê nin, Stalin phải qua sửa chữa nhiều lần, ban đầu chưa hẳn đã đúng, về hệ thống tư tưởng Mao Trạch Đông, tôi đã nghiên cứu nên học tập và vận dụng như thế nào và do đó tôi không tán thành “hai loại phàm là” của các đồng chí, làm như thế liệu có còn là duy vật biện chứng nữa hay không? Còn tôi, có trở lại làm việc hay không, vấn đề đó không quan trọng, quan trọng chính là ở chỗ phải khẳng định sự kiện Thiên An Môn là một hành động cách mạng”.

Tháng 7 năm 1977, tại hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ 3 khóa 10 đã nhất trí thông qua nghị quyết khôi phục tất cả các chức vụ của Đặng Tiểu Bình, trở lại là ủy viên Trung ương, ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, Phó chủ tịch đảng, Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó thủ tướng Quốc vụ viện, Tổng tham mưu trưởng quân giải phóng. Trong lời phát biểu của mình, Đặng Tiểu Bình đã trình bày cách học tập và vận dụng tư tưởng Mao Trạch Đông.

Tháng 8 năm đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc cử hành Đại hội khoá 11, tình hình vẫn chưa có gì thay đổi, vẫn bị ám ảnh, bồi hồi trong dư âm của cách mạng văn hóa và do  đó Đặng Tiểu Bình phải tập trung đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng và lý luận.

Theo tinh thần lời phát biểu của Đặng Tiểu Bình, ngày 11 tháng năm năm 1978, Quang Minh nhật báo đã cho đăng bài “Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý”. Bài báo nhấn mạnh, một loại lý luận nào đó có phản ánh chính xác thực tế khách quan hay không, có phải là chân lý hay không, chỉ có thể dựa vào thực tiễn để kiểm nghiệm, trả lời. Thời đại mới đối mặt với nhiều vấn đề mới, phải có tinh thần trách nhiệm và lòng dũng cảm của người cộng sản mà nghiên cứu tiếp cận.

Một hòn đá gây nên vạn trùng sóng, cuộc tranh luận “tiêu chuẩn chân lý” chẳng bao lâu đã dấy lên trong phạm vi cả nước, có người vui mừng ủng hộ, nhưng cũng có người thơ ơ, chống đối. Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng đã ngầm chỉ thị cho các địa phương im lặng, không tỏ thái độ, nhưng cuối cùng Hồ Nam, nơi Hoa thao túng, cũng phải lên tiếng hưởng ứng.

Ngày 13 tháng chạp năm đó, Đặng Tiểu Bình lại tiếp tục phát biểu ở hội nghị trung ương vấn đề giải phóng tư tưởng, dân chủ hóa, giao quyền tự chủ cho cơ sở, cải cách cơ chế kinh tế, cơ chế chính trị. Lần đầu tiên ở Trung Quốc người ta nghe một khái niệm kinh tế xã hội mới, đó là: “chấp nhận, cho phép một số địa phương, xí nghiệp, công nhân, nông dân qua lao động chân clúnh của mình mà thu nhập nhiều hơn, đời sống khá hơn so với các nơi khác, so với những người khác, các tấm gương làm giàu như vậy sẽ kích thích xóm giềng lân cận, bầu bạn xa gần cùng ra sức tranh đua mà giàu lên, khá lên”.

Và điểm ngoặt của lịch sử đã đến - bức màn cải cách mở cửa đã được kéo lên, đó là Hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ 3 khóa 11 cử hành tại Bắc Kinh từ ngày 18 đến ngày 22 tháng chạp năm 1978. Hội nghị chấm dứt sự bồi hồi trong hai năm sau khi đập tan “bè lũ bốn tên”, thực tiễn một lần nữa lại chứng minh là những sai lầm của chúng đã gây ra không biết bao nhiêu tai hại cho dân, cho Đảng. Hội nghị đình chỉ sử dụng thuật ngữ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” mà chuyển sang “đường lối chính trị của chúng ta là xây dựng hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội”.

Hội nghị thảo luận đánh giá những thiệt hại to lớn do “Cách mạng văn hóa” gây ra, những vấn đề lịch sử mà “Cách mạng văn hóa” còn để lại, tiến hành tổng kết kinh nghiệm, rút ra bài học. Chương trình nghị sự của hội nghị đã bàn đến những phác thảo cho cải cách mở cửa, đầu tiên là thay đổi phương thức quản lý, phương thức hành động, phương thức tư tưởng, không thể “đảng và chính quyền là một, lấy đảng thay chính quyền, lấy chính quyền thay xí nghiệp”, không thể không tôn trọng các quy luật kinh tế, nhất là quy luật giá trị, không thể tập trung quyền lực một cách cực đoan ở trung ương với nhiều tầng nấc trung gian và bó tay bó chân cơ sở, phải phân cấp, phân công, phân trách nhiệm, phải thi cử, thưởng phạt, thăng giáng một cách nghiêm chỉnh, và vấn đề nông nghiệp, vấn đề 900 trriệu nông dân là một trong những mục tiêu quan trọng cải cách. Đó là những phác thảo, nhưng thực chất là một cuộc cách mạng. Từ hội nghị này, từ điểm ngoặt này, vai trò của Đặng Tiểu Bình được xác lập như một kiến trúc sư trưởng xã hội. Hội nghị chọn thêm Trần Vân và Hồ Diệu Bang vào hàng ngũ lãnh đạo trung ương, minh oan cho Bành Đức Hoài và Đào Chú, còn Hoa Quốc Phong vẫn yên vị cho tới tháng chạp năm 1980, tại hội nghị mở rộng Bộ Chính trị thì mới chính thức thông qua việc hủy bỏ mọi vụ quân, chính, đảng của ông, kết thúc một “bước đệm” lịch sử.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #63 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 01:57:35 pm »

19. LẦN THỨ BA “RA” TRUNG NAM HẢI


Phải trải qua 21 năm, đến nay Đảng Cộng sản Trung Quốc mới sửa chữa toàn diện khuynh hướng “tả” sai lầm, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc đi vào quỹ đạo phát triển lành mạnh, xác định nguyên tắc lấy công tác kinh tế làm trung tâm, và đề ra phương châm tổng quát cho cải cách mở cửa. Đó là những gì mà Đặng Tiểu Bình đã phấn đấu, đã phải vào, rồi lại ra Trung Nam Hải. Từ nay - tháng chạp năm 1978, từ đây - Hội nghị toàn thể trung ương lần thứ 3 khóa 11, Trung Quốc chuyển sang một giai đoạn mới trong lịch sử.
Tất cả nói lên tài năng của Đặng Tiểu Bình. Nhưng công bằng mà nói, con người hùng này phải đợi đến lúc Mao Trạch Đông qua đời, rồi hai năm sau mới “bình được thiên hạ”. Đã có người ví quyền lực Trung Quốc như hình kim tự tháp và chỉ có một người hùng ngự trên đó mà thôi. Đặng Tiểu Bình có cách ngự của ông, ngự bằng cái uy hơn là cái chức, ông chủ trương “trẻ hóa” Trung Nam Hải, ông đề xướng thông qua nghị quyết xóa bỏ chế độ lãnh đạo suốt đời và tự mình rút dần, rút dần ra khỏi chính trường công khai, trao quyền cho các thế hệ sau như Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương, Giang Trạch Dân, chỉ còn mỗi một vị trí - Chủ tịch Quân ủy Trung ương, hình ảnh một “nguyên soái không có hàm” duyệt binh ngày 1 tháng 10 năm 1984, kỷ niệm 35 năm ngày lập nên chế độ cộng hòa nhân dân.

Năm 1984, Đặng Tiểu Bình 80 tuổi, những học sinh, sinh viên của thời kỳ mới đã không tung hô ông “vạn tuế” như các vị tiền nhiệm khác mà từ trên lễ đài Thiên An Môn, ông nhìn thấy bốn chữ vô cùng thân thiết “Tiểu Bình nín hảo” (Chào đồng chí Tiểu Bình) của đoàn Đại học Bắc Kinh. Nhớ lại năm nào 3 chữ Đặng Tiểu Bình bị viết ngược, chân lên trời đầu xuống đất, bị gạch chéo bởi nhiều sọc đen đỏ, mà giờ đây trở thành câu chào kính trọng của cả một dân tộc, phần thưởng đó cao quý biết chừng nào.

Năm 1989, Bộ Chính trị thảo luận và nhất trí chấp nhận đơn xin từ chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương của Đặng Tiểu Bình. Ngày 9 tháng mười một, mọi thủ tục hoàn tất, lần thứ ba Đặng Tiểu Bình “rời” Trung Nam Hải về nghỉ hưu, làm một người dân bình thường, năm ấy ông 85 tuổi.

Từ bình thường bước vào không bình thường, và từ không bình thường trở về bình thường, việc thứ nhất đã là chuyện của người phi phàm mới làm được, còn việc thứ hai lại càng không dễ dàng. Đặng Tiểu Bình là con người của cả hai.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #64 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 02:03:23 pm »

QUYỀN DIÊN XÍCH

CHU ÂN LAI - KHI NGƯỜI RỜI KHỎI THÁNH ĐÀN



KHÔNG PHẢI LÀ CHỦ SOÁI


Một độc giả Nhật Bản đọc xong cuốn sách của tôi - “Mao Trạch Đông, khi người rời khỏi thần đài” đã nói: hơn nửa thế kỷ qua, Trung Quốc quả thuộc về “thần thánh”, “thần” kia chính là Mao Trạch Đông, còn “thánh” nọ đích danh là Chu Ân Lai. Ông dám mời Mao Trạch Đông bước xuống thần đài, vậy đối với Chu Ân Lai? Ông có định mời người cũng rời khỏi thánh đàn hay không?

Cái gọi là “hạ đàn” ở đây kỳ thực là muốn ám chỉ họ trở về với nhân gian, trần thế, không những đáng kính mà còn khả thân, khả ái; sự vĩ đại, cao thượng, anh minh của họ vì vậy tuyệt không phải vời vợi xa xôi, nhìn và không bao giờ đến được. Bình sinh họ không từng tách khỏi nhân dân, thì nay sau khi qua đời tinh thần của họ há chỉ phiêu diêu đây đó, trở thành thần tượng phụng thờ mà không hòa quyện cùng nhân quần, dân chúng hay sao? Trong lịch sử văn minh, “thiền nhượng” là nghĩa cử của thánh nhân, đại công vô tư được tán dương cao nhất, hiếm ai làm nổi và vì vậy cũng chẳng bao người dám tự xưng là thánh.

Khi nghĩ về Chu Ân Lai, nhiều người hoặc một cách thông minh, hoặc một cách ẩn dụ, hàm súc mà nói rằng: Chu không làm cánh tay thứ nhất (chủ soái), cũng không làm cánh tay thứ hai (kế vị) mà cam chịu làm cánh tay thứ ba, thật khiêm tốn biết nhường nào! Những người này đưa ra bao dẫn chứng, như hội nghị Tuân Nghĩa, rằng vào thập niên 20 và 30, danh vọng và chức vụ của Chu Ân Lai cao hơn Mao Trạch Đông, nhưng ông đã dùng lợi thế ấy để ủng hộ Mao, xác lập vị trí lãnh đạo của Mao trong Hồng quân và Trung ương Đảng, còn mình cam chịu làm trợ thủ, tinh thần khiêm nhường ấy xuyên suốt cả một đời của Chu.

Quan niệm của tôi không như thế, đức tính khiêm tốn của Chu Ân Lai thì không còn phải nghi ngờ, bàn luận gì nữa, nó biểu thị ở hành vi không giấu dốt, thực sự học hỏi người khác, tác phong dân chủ, ham nghe ý kiến quần chúng và vui vẻ tự phê bình, chứ không phải là cánh tay thứ nhất, hai hay ba.

Lại có người gay gắt hơn, cho rằng Chu Ân Lai chịu ảnh hưởng “văn hóa Thiệu Hưng”, một vùng nổi danh của Triết Giang - Trung Quốc chuyên xuất hiện không phải người khoa cử, kẻ quan phương mà phần lớn là quân sư, tham mưu - “vô Thiệu bất thành nha”, nghĩa là không có quân sư hay tham mưu Thiệu Hưng thì không thể lập nên công đường nha môn. Người theo văn hóa Thiệu Hưng trí cao tài rộng, nhưng thiếu dũng khí, chỉ biết bảo toàn bổn mạng. Tác giả cuốn sách này không nghĩ như vậy, dù không làm cánh tay thứ nhất, cũng không làm cánh tay thứ hai, nhưng qua 27 năm “tể tướng” cúc cung tận tụy, Chu quả xứng đáng là “đại quân sư”, “tổng tham mưu trưởng”.

Chu Ân Lai từng nói một cách sáng suốt rằng: “Tôi không phải là chủ soái”. Sáng suốt không có nghĩa là “minh triết bảo thân”, chỉ khư khư lo cho bản thân mình, càng không lỗ mãng hung hăng, ngu đần mà chủ yếu nhìn rõ thực tiễn, hành động đúng. Lắm kẻ ham muốn chủ soái, nhưng tâm lực không đủ, kết cục thật bi thảm, hoặc trốn chạy hoặc hàng giặc. Mao Trạch Đông sở dĩ lãnh đạo được nhân dân Trung Quốc khai thiên phá thạch làm nên đại nghiệp, một trong những nguyên nhân quan trọng, ấy là “tri nhân thiện nhiệm”, biết người mà giao việc.
Hãy nghe Mao bình luận về lớp người lãnh đạo thượng đỉnh mà dân chúng hát thành vè “Mao, Lưu, Chu, Chu, Trần, Lâm, Đặng”, họ là chiến hữu, là cộng sự cùng ông.

Ba năm khốn đốn của kinh tế nước nhà, Mao Trạch Đông nghĩ đến Trần Vân và nói “Quốc loạn tư lương tướng, gia bần niệm hiền thê” (nước loạn lạc mới nghĩ về tướng giỏi, nhà túng bần lại nhớ tới vợ hiền), rồi kể câu chuyện sau khi thua ở trận Xích Bích, Tào Tháo đã tư niệm Quách Gia như thế nào.

Lúc giao cho Lâm Bưu làm người kế vị, Mao Trạch Đông đã nói “muốn trừ quỷ phải nhờ thần Chung Quỳ”.

Còn bốn chiến hữu khác? Tháng 11 năm 1957, trong một bữa tiệc cùng Khrusov ở Mạc Tư Khoa, không khí không mấy vui vẻ, đợi lúc tàn canh đi ra phòng khách. Mao Trạch Đông chuyển sang chủ đề khác: - Tôi chuẩn bị từ chức chủ tịch nhà nước - Mao nhìn Khrusov và nhấn giọng. Khrusov không lấy làm ngạc nhiên vì năm 1954 đã nghe Mao nói đến vấn đề hệ trọng này, Mao ghét cái trò đưa đón các nguyên thủ quốc gia, nhận trình quốc thư v.v... Đầu năm 1957, Volosilov từ Bắc Kinh trở về cũng báo tin Mao quyết tâm không làm chủ tịch nước nữa.

- Đã có người thay thế? - Khrusov hỏi.

- Có. Đảng chúng tôi có mấy đồng chí, họ không kém gì tôi, hoàn toàn đủ điều kiện. - Sau câu tổng bình luận đó, Mao bấm đốt ngón tay như thể đếm lại số gia bảo có ở trong nhà. Thứ nhất là Lưu Thiếu Kỳ, người này tham gia phong trào Ngũ Tứ tại Bắc Kinh và Bảo Định, sau đó sang nước các đồng chí học tập, năm 1921 gia nhập đảng Cộng sản, bất luận năng lực, kinh nghiệm hay thanh vọng đều đủ điều kiện, sở trường của Lưu là kiên định chính trị, tính nguyên tắc cao, nhưng có nhược điểm không đủ linh hoạt.

Hồi “văn cách” đả đảo Lưu Thiếu Kỳ, người Trung Quốc nghe đoạn bình luận này thật không biết nghĩ ra sao, còn ở nước ngoài lại hiểu rất rõ rằng, mâu thuẫn trước sau của câu nói là ở chỗ chính trị chứ hoàn toàn không thực sự cầu thị.

Người thứ hai, Đặng Tiểu Bình - tất cả ngạc nhiên tưởng đó là Chu Ân Lai, hóa ra lại Đặng - Người này mạnh về chính trị, suy nghĩ hành, động chín chắn, vừa cương quyết vừa linh hoạt, trong nhu có cương, trong bông có kim, tiền đồ rất phát triển.

Khrusov cười một cách đau khổ mà rằng: - Đúng vậy, tôi cũng có cảm giác con người này rất ghê gớm, khó gần, ông ta quan sát vấn đề thật sắc sảo - Khrusov ngừng lời và lấy tay làm điệu bộ rất kiên định quả đoán. Mao Trạch Đông cũng cười theo, ông biết rằng Đặng Tiểu Bình đã làm nhiều đồng chí Liên Xô khó chịu trong lần đàm phán này giữa hai đảng và nói tiếp:

- Từ nay, Đặng có sang đây, các đồng chí đã đối đãi tôi như thế nào, xin hãy cứ như vậy đối với đồng chí ấy.

Mao tiếp tục xòe ngón tay thứ ba:

- Người thứ ba, Chu Ân Lai, hoạt động quốc tế mạnh hơn tôi nhiều, thiện nghệ xử lý các mâu thuẫn phức tạp, tuy này nọ... nhưng vẫn là con người tốt. Còn Chu Đức, tuổi cao, đức trọng, uy tín, nhưng không thể đảm đương việc lớn được... Tuổi tác không chiều chúng ta đâu. Tóm lại, họ có sang đây các đồng chí hãy xem là bạn bè mà đối xử như đối với tôi vậy.

- Chúng tôi sẽ làm như thế và trên thực tế họ đã là bạn của chúng tôi rồi - Khrusov nhanh nhẹn đáp lại.

Một lần trong hội nghị bàn về nhân sự. Mao Trạch Đông quay nhìn Chu Ân Lai mà hỏi:

- Ân Lai, đồng chí làm có được không?

Chu Ân Lai vội vàng trả lời:

- Thưa Chủ tịch, không được đâu, Chủ tịch đã biết tôi, tôi đâu là chủ soái, chỉ quản gia mà thôi.

Đặng Tiểu Bình cũng rất trực ngôn mà rằng:

- Đồng chí Chu Ân Lai không thể kế vị làm chủ tịch, làm chủ soái được.

Vậy Chu Ân Lai là con người như thế nào? Theo Đổng Tất Vũ, là “một đại quản gia tài ba” và trong một lần trao đổi với Bạc Nhất Ba, - ủy viên tài chính trung ương, qua lời của Chu, ta càng hiểu ông hơn.

- Đồng chí Nhất Ba nhiều năm cùng Bá Thừa và Tiểu Bình công tác ở Tấn Kỳ Lỗ Dự (Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông, Hà Nam), đồng chí có nhận xét gì về họ? - Chu Ân Lai hỏi.

- Họ phối hợp rất ăn ý, thật là đồng tâm đồng đức.

- Tôi không hỏi về sự phối hợp công tác giữa họ với nhau, mà muốn đồng chí nhận xét về phương pháp công tác của hai người. - Chu cười và lắc đầu.

Bạc Nhất Ba im lặng và phản ứng rất thông minh:

- Thưa Thủ tướng, Thủ tướng là bậc tiền bối lão luyện, chắc phải có kiến giải độc đáo, dám xin...

- Anh khôn lắm, chuyển quả bóng trở lại cho tôi. Nhiều năm quan sát tôi thấy phương pháp làm việc của họ thật đặc sắc. Tiểu Bình - cử trọng nhược khinh, còn Bá Thừa - cử khinh nhược trọng, người việc nặng xem nhẹ tênh tênh, kẻ tỉ mỉ chu toàn, tuy bình thường mà lại thành quan trọng.

Chu Ân Lai tâm sự:

- Thực lòng tôi thích cách “cử trọng nhược khinh” của Tiểu Bình, nhưng không theo được, có lẽ tôi chỉ thuộc loại Bá Thừa - “cử khinh nhược trọng”, luôn luôn phụ trách những công việc cụ thể và mang tính thừa hành.

Đúng vậy, Chu Ân Lai như bận rộn suốt cuộc đời, là “tể tướng” ông chịu khó làm thêm ít nhiều công việc thường nhật, chi tiết, vi mô, thì “chủ soái” sẽ có điều kiện quản đại sự, nghĩ quyết sách, bàn việc vĩ mô. Tổng thống Indonesia Sukarno từng than với Mao Trạch Đông rằng “Tôi thật sự khâm phục thủ tướng của ngài, chúng tôi hoàn toàn thiếu một con người như vậy”. Còn Nixon tiếp xúc chưa nhiều nhưng đã nhận xét về Chu, quả là con người cử khinh nhược trọng, ông nói:

- Đêm thứ ba ở Bắc Kinh, chúng tôi được mời đi xem biểu diễn bóng bàn, hôm ấy tuyết rơi khá nhiều, và ngày mai là chương trình tham quan Vạn lí trường thành. Bỗng thấy Chu Ân Lai rời khỏi ghế ngồi, tưởng ông ra phòng nghỉ, nào ngờ lúc ấy ông thân hành nhắc nhở những người quét tuyết ở Trường thành làm việc, sáng hôm sau chúng tôi lên đó và quả nhiên đường sá sạch sẽ. Thật là một điển tích về Chu. Ông là người chọn nhạc phẩm “America mỹ lệ” để diễn tấu đón tiếp chúng tôi, hẳn ông biết khi tôi làm lễ nhậm chức Tổng thống, “America mỹ lệ” đã một lần âm vang. Và cứ mỗi buổi sáng trước khi hội đàm, những người tùy tùng của tôi lại thấy một thiếu nữ trình Chu Ân Lai xem bản in thử trang nhất của số báo hôm sau, ông là người vừa lo cho mỗi cây, lại vừa lo cho cả rừng.

Hiếm có ai mang trong mình đủ cả hai đức tính “cử trọng nhược khinh” và “cử khinh nhược trọng”, nhưng đối với một sự nghiệp thì lại rất cần hai loại nhân tài như vậy. Kỳ lạ thay, lúc từ Diên An bay về Trùng Khánh, Mao Trạch Đông múa bút cảm hoài Tần Hoàng Hán Vũ, Đường Tôn Tông Tổ và cả Thành Cát Tư Hãn, còn Chu Ân Lai thì lại dõi mắt nhìn miếu Trương Lương, đền Vũ Hầu mờ ảo dưới cánh phi cơ. Khi ở Mạc Tư Khoa, lần đàm phán với Stalin, Mao Trạch Đông đã dành thì giờ đọc hết “Pi-tơ đại đế” và “Nã Phá Luân”, Stalin nói với ông: “Những vấn đề cụ thể, đồng chí nên gọi Chu Ân Lai đến trình bày, rõ hơn...”

Xin bắt đầu câu chuyện Chu Ân Lai từ những tiểu tiết này, có điều người kể không phải là tôi mà là đồng chí Hà Thụ Anh - từng mấy chục năm làm việc bên cạnh Thủ tướng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #65 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 02:08:21 pm »

1. NHỮNG LỜI TIÊN TRI


Thủ tướng nói rằng, mình không phải là chủ soái, chị cả Đặng (Đặng Dĩnh Siêu - vợ của Chu ND.) cũng nói như vậy, chúng tôi nghe và cảm thấy khó chịu, nay Chủ tịch và Tiểu Bình nhắc lại lần nữa, và mấy chữ “không phải là chủ soái”, càng làm cho chúng tôi sỉ nhục. Bây giờ hồi tưởng mới hay đó là hậu quả của văn hóa truyền thống, quan niệm truyền thống đã ảnh hưởng sâu sắc đến chúng tôi, hễ ai địa vị là công dày đức trọng, hễ ai làm quan lớn ấy là nên đại nghiệp, cống hiến nhiều. Chứng bệnh đó của dân chúng tôi chữa mãi mà vẫn không lành, như Lôi Phong là một tiểu đội trưởng chẳng hạn, nhắc đến tên là cả nước đều biết, nhưng cũng phải chín mươi chín phần trăm nhân dân chẳng rõ trung đội trưởng, đại đội trưởng của Lôi Phong là ai? Mặc dù nhiều người cứ muốn làm trung đội trưởng, đại đội trưởng hơn là cái chân tiểu đội trưởng.

Thủ tướng nói ông không làm được “cử trọng nhược khinh”, thì tương tự Chủ tịch và Tiểu Bình cũng khó lòng mà “cử khinh nhược trọng”. Ngày 16 tháng 12 năm 1949, Mao Chủ tịch thăm Liên Xô, không bao lâu thì qua tháng giêng năm 1950, tin tức truyền về cho hay, đàm phán không mấy thuận lợi và yêu cầu Thủ tướng Chu Ân Lai lập tức lên đường đi Mạc Tư Khoa. Tôi làm tùy viên cho Thủ tướng nên may mắn được đi cùng ông. Khi đến Mãn Châu Lý, chúng tôi gặp đồng chí Tiêu Hoa vừa dẫn đoàn văn công tham dự liên hoan thanh niên thế giới trở về. Tiêu Hoa báo cáo tình hình liên hoan và hoạt động của đoàn ta, Thủ tướng nhìn ra phía sau rồi hỏi anh:

- Sao không thấy Duy Thế?

Tôn Duy Thế là con gái nuôi của Thủ tướng, cùng với Tiêu Hoa đi dự liên hoan thế giới, ông không thấy cô trở về nên tự nhiên quan tâm mà hỏi vậy.

- Khi qua Mạc Tư Khoa, Duy Thế bị Sư Triết giữ lại -Tiêu Hoa giải thích - Sư Triết bảo cô ấy giỏi tiếng Nga, cần giúp thêm cho nhóm phiên dịch.

- Chủ tịch và Stalin đàm phán đến đâu rồi?

- Hình như không thuận lợi lắm - Tiêu Hoa lắc đầu. - Sư Triết chỉ nói đơn giản vậy thôi.

- Thế nay Chủ tịch làm gì?

- Stalin nói phải đợi Thủ tướng sang rồi sẽ tiếp tục đàm phán trở lại, hiện sắp xếp để Chủ tịch tham quan, xem biểu diễn, nghe đâu sẽ đi Lêningrat.

Thủ tướng gật đầu và không hỏi gì thêm nữa. Chúng tôi đến Mạc Tư Khoa nghe Sư Triết báo cáo tình hình thì cũng tương tự như Tiêu Hoa đã nói ở Mãn Châu Lý. Thủ tướng bắt đầu vào công việc đàm phán thật căng thẳng, còn Chủ tịch tạm lui về “tuyến hai” chỉ quản những vấn đề thuộc về phương hướng, nguyên tắc; trừ các quyết sách quan trọng, mọi vấn đề cụ thể khác đều do Chu Ân Lai quyết định. Tôi nhớ rất rõ, hồi đó ở Mạc Tư Khoa chẳng có việc gì làm, Chủ tịch say sưa đọc sách, đọc đến quên ăn quên ngủ. Một hôm trong bàn ăn, Chủ tịch nhìn tôi chằm chằm, ngỡ mình có gì vướng trên mặt nên vội lấy khăn lau sạch và chú ý nhai nuốt từ tốn hơn, nhưng Chủ tịch vẫn không rời mắt, chỉ vào tôi và nói:

- Cậu giống Nã Phá Luân quá!

Tôi thẹn thùng xấu hổ không biết Nã Phá Luân mặt mũi ra sao mà Chủ tịch bảo mình giống ông ta. Mao Chủ tịch không biết họ tên tôi, nhưng chắc chắn tôi là người của Chu Ân Lai, ông quay sang Thủ tướng vui vẻ kể:

- Mấy hôm nay tôi xem nhiều phim lịch sử, vừa xong “Pi-tơ đại đế”“ và “Nã-Phá-Luân” - nói đoạn, ông cầm ly rượu và đến bên tôi:

- Nào, xin cạn chén cùng Nã Phá Luân!

Chủ tịch uống đâu nửa ly, còn “Nã-Phá-Luân” tôi là nhân viên thuộc hạ, theo phép tắc, một hơi cạn đáy, mặt đỏ bừng, và từ hôm đó tôi được mọi người gọi yêu “Nã-Phá-Luân đệ nhị”.

Trong khi Chủ tịch nghiền ngẫm cả phim lẫn sách về Pi-tơ của Nga và Nã Phá Luân của Pháp, thì một tay Thủ tướng chống chèo, đàm phán được ba văn kiện quan trọng: “Điều ước hỗ trợ, đồng minh và hữu hảo Trung-Xô”, “Hiệp định về đường sắt Trung Trường, cửa Lữ Thuận và Đại Liên”, “Hiệp định cho nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vay vốn”. Đương nhiên, tất cả nguyên tắc, chiến lược chính trị của cuộc đàm phán đều do Mao Trạch Đông quyết định, hồi ấy ông có câu nói trứ danh để xác định mục tiêu đàm phán, đó là “cần phải đẹp một tí, và cũng cần phải ngon một tí”, “đẹp” chính là “điều ước đồng minh”, còn “ngon” đích thị là “hiệp định cho vay vốn”.

Tình huống đàm phán Trung - Xô lúc bấy giờ đã chứng tỏ một cách rõ ràng quan hệ không thể thay thế vị trí cho nhau giữa Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Nhớ lại năm 1948, lúc còn ở căn cứ Tay Phá Ba (tỉnh Hà Bắc), Mikaian - ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô sang thăm Trung Quốc, đã hội đàm với Chu Ân Lai, sau buổi hội đàm ông tâm sự cùng Sư Triết: “Chu Ân Lai sẽ là một vị thủ tướng rất cừ khôi của Chính phủ Trung Quốc mới trong nay mai”. Khi trù bị cho việc ra đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Stalin phát biểu với đoàn đại biểu Trung Cộng rằng: “Trong tương lai, lúc các đồng chí lập nên nhà nước mới thì đã có ngay vị thủ tướng, đó là Chu Ân Lai”. Ba mươi năm sau, nhiều nhà chính trị quốc tế từng bình luận: “Nửa thế kỷ qua, Trung Quốc như nằm trong bộ óc của Mao Trạch Đông và đồng thời lại nằm trong bàn tay của Chu Ân Lai”. Stalin cao thủ hay các chính trị gia uyên thâm? Tôi nghĩ rằng Chu Ân Lai của chúng tôi cũng cao thủ, uyên thâm chẳng kém gì họ.

Ngày 4 tháng 5 năm 1940, tôi làm cảnh vệ bên cạnh Chu Ân Lai, một tuần sau được cùng ông đi từ Diên An về Trùng Khánh. Đoàn chúng tôi cả trăm người, ngồi chặt 3 xe ô tô, ngày đêm lăn bánh trên những con đường gập ghềnh của cao nguyên hoàng thổ vùng Thiểm Bắc. Khi đến địa phận thị trấn Miêu Đài Tử, Chu Ân Lai cho xe dừng lại và hạ lệnh “đi xem danh thắng cổ tích!”. Lạ thật, hồi ở Tây An, danh lam thắng cảnh nhiều như thế sao Chu Phó chủ tịch không nhắc chúng tôi đi tham quan, mà nay giữa chốn sơn cùng thủy tận này lại dừng xe du lãm. Chu Ân Lai vừa xuống xe, đám cảnh vệ chúng tôi đều sẵn sàng súng ống bao quanh ông.

Chu Phó chủ tịch đã đến đây? Lão Trung khẽ hỏi, Chu Ân Lai lắc đầu, không nói gì và tôi chỉ nhìn thấy đôi lông mày rậm của ông nhíu lại, hai con mắt tư lự, xa xăm. Đây là lần đầu tiên tôi cảm nhận một trạng thái tinh thần vô cùng xúc động lòng người. Tôi bất giác nhớ hôm qua đi Lạc Xuyên, một sĩ quan Quốc dân đảng ra chào Chu Ân Lai; viên sĩ quan này từng là học sinh trường quân sự Hoàng Phố, từng nghe Chu Ân Lai giảng bài, bao năm nội chiến, bao năm kháng Nhật, thầy trò cửu biệt, nay ngẫu nhiên trùng phùng, viên sĩ quan cảm động run run: “Thưa thầy!”, rồi bổ nhào đỡ lấy hai tay của Chu Ân Lai, trong khoảnh khắc đời người ấy tôi bị Chu Ân Lai mê hoặc, nhiệt tình mà không thất thường, thân thiết mà không biến thái, quan tâm mà không xởi lởi, ung dung ấm áp như mùa xuân, độ lượng tự tại như biển cả. Khi ấy tôi chưa hiểu rằng đó là sức mạnh của văn minh nhân loại, chỉ biết giữa ông và những người mà mình đã gặp có cái gì đó khang khác, khác như thế nào thì nói không ra, một ánh mắt, một nụ cười, một lời hỏi han ân cần, hay một cái bắt tay hoàn toàn chân thật v.v... Tất cả đều hấp dẫn vô cùng.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #66 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 02:10:48 pm »

Còn hôm nay giữa thiên nhiên bao la, Chu Phó chủ tịch của chúng tôi lại thì thầm điều gì đó rất xa xôi, chúng tôi lại càng không hiểu, “vứt hết mọi công hầu, khanh tướng, lợi lộc, vinh quang lại phía sau, để tuổi già về ở ẩn nơi đây...”. Chu vọng nhìn lên cao, nơi ấy chúng tôi thấy tám, chín tòa miếu đỏ, ông vung tay phải hướng dẫn cả đoàn tiến về phía đó, nhưng vì có tật nên cánh tay chỉ nhích ra một tí và hình như cả nửa người bên phải của ông đã cùng chuyển động theo. Cánh tay ông vừa gãy gần đây, có người nói ngã ngựa khi đua với Giang Thanh, có người nói ngựa đang phi phải tránh con chó chạy qua đường nên nó lồng lên hất ông ra sau. Chu Ân Lai phải sang Liên Xô chữa trị 3 tháng, nhưng vẫn không thể thẳng ra được, đành cong cong về phía trước như một dị tật. Ông bảo chúng tôi:

- Nào, chúng ta đi viếng miếu Trương Lương!

Trương Lương - ôi cái tên tôi đã nghe đâu đó mà vẫn không rõ là của ai, các bạn đừng cười nhé, xuất thân từ đứa trẻ chăn trâu, tôi đâu bằng các em nhỏ ngày nay được cắp sách tới trường. Quê tôi Tứ Xuyên nằm sâu trong lục địa, miền thượng du của Trường Giang. Tổ tiên mấy đời đều chân trần lội chốn bùn sâu, lên 12 tuổi tôi đã như anh lực điền, trên vai lúc nào cũng đất cũng đá. Nhưng rồi quân phiệt hỗn chiến, pháo hạm và hàng hóa của người Tây dương ngược dòng Trường Giang lên tận quê tôi, để mỗi năm trên 5 vạn lượng bạc trắng lần lượt chảy ra biển và đi về xứ người. Cuộc sống dân quê tôi cơ cực không bút mực nào tả xiết, 12 tuổi đầu tôi đã gươm đao, giáo mác vùng lên đòi quyền lợi, tôi tham gia Hồng quân và bắt đầu học văn hóa.

- Thưa Chu Phó chủ tịch, Trương Lương là ai ạ? - chiến hữu vừa hỏi hẳn cũng chung một số phận thất học như tôi.

- Trương Lương là một vị anh hùng cổ đại, giúp Lưu Bang đánh thiên hạ, thống nhất toàn Trung Quốc, lập nên Hán vương triều nổi tiếng trong lịch sử nước ta - Chu Ân Lai vừa trả lời vừa leo núi, và bằng những lời lẽ nôm na như vậy để giải thích - người đời sau lập miếu thờ ông và nay gọi là miếu Trương Lương.

Tôi đã hiểu đôi điều về cái ông Trương Lương gần mà xa là như vậy, ông chỉ giúp Hán cao tổ Lưu Bang đánh thiên hạ mà thôi. Ô hay, Chu Phó chủ tịch của chúng tôi hoài cổ, sao ông không đi viếng Hán Cao tổ, hay xa xưa hơn nữa là Tần Thủy Hoàng mà chỉ đến đây vì mỗi Trương Lương, tôi bạo dạn hỏi Chu Ân Lai: Thưa Phó chủ tịch, vì sao lại làm miếu thờ Trương Lương? Ông nhìn tôi chưa trả lời sao cả thì một cảnh vệ khác lại thốt lên:

- Ở quê cháu cũng nhiều miếu lắm, dân làng nói Quan Công mới là anh hùng ạ.

Chu cười khoái trá:

- Quan Công là anh hùng mà Trương Lương cũng là anh hùng, và công trạng của Trương Lương còn lớn hơn nhiều so với Quan Công, 40 tấm bia trong hành lang kia là những lời đánh giá về Trương.

Tiếp đó, Chu Ân Lai không quản khó nhọc phiền hà mà đã kể cho chúng tôi nghe nhiều câu chuyện về Trương Lương, ông nói: - Hán vương Lưu Bang thu toàn thiên hạ, chủ yếu nhờ 3 người: Hàn Tín, Tiêu Hà và Trương Lương.

- Thưa Phó chủ tịch, Trương Lương đã đánh những trận nào? - tôi tỏ vẻ chưa thỏa mãn về họ Trương và bèn hỏi ngang như vậy. Chu Ân Lai chợt thay đổi giọng nói, ông trầm ngâm giây lát rồi từ từ giảng giải:

- Trương Lương chưa hề một mình cầm quân đánh trận, ông ta không phải là chủ soái, nhưng Trương Lương luôn luôn có mặt bên cạnh Hán vương, trù mưu tính kế, làm một quân sư kiệt xuất. Xưa có câu: “Lo liệu nội trướng, chiến thắng ngàn phương”, các đồng chí hiểu không?

Cả đám chưng hửng, có anh gật đầu ra chiều đã rõ, nhưng đại đa số tuy không dám lắc đầu song hình như chưa biết mô tê ra sao. Chu Ân Lai suy nghĩ cách giải thích và lại tiếp tục:

- Lấy ví dụ nhé, các đồng chí đều biết chức vụ “thầy” nơi nha môn công đường, quan huyện thường mời những người có học hành, tri thức đến làm tham mưu tư vấn, đứng sau đề xuất chủ trương. Nói chung quan huyện đều phải dựa vào đám “thầy” tham mưu này mới làm được cái việc an dân trị nước. Quân sư chính là các “thầy”, tham mưu trong quân sự, giúp thống soái bày mưu tính kế đánh thắng trận. Tỷ như Hán vương thua trận, đến cả cha và vợ đều bị Sở bá vương bắt làm tù binh, Hán vương bó tay không biết xoay sở ra sao, thì Trương Lương hiến kế, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ Sở quốc để đánh lại Sở bá vương, cuối cùng định lấy “Hồng câu” phân vạch sơn hà và cho quân lính trở về, nhưng Trương Lương lại đề xuất chủ mưu, thả quân Sở thì chẳng khác nào như nuôi hổ gây nạn sau này, Hán vương nghe lời, truy kích Hạng Vũ, không cho kịp thở, tiêu diệt triệt để... đó gọi là “lo liệu nội trướng, chiến thắng ngàn phương”.

Chúng tôi nhìn tấm bia khắc bốn chữ “anh hùng thần tiên” và lại hỏi Chu Ân Lai ý nghĩa của nó, ông trả lời:

- Sau khi trị vì thiên hạ, Lưu Bang phong thưởng công thần, ban cho Trương Lương 3 vạn hộ phong điền, nhưng Trương chối từ, ông nói lần đầu tiên gặp hoàng thượng ở Lưu Huyện, nay chỉ xin Lưu Huyện là đủ, vì chiến loạn huyện này lúc ấy có khoảng một vạn hộ mà thôi. Trương Lương đưa Hán cao tổ Lưu Bang vào Hàm Cốc Quan, Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, còn Trương Lương tịch cư hành khí, không ăn không uống, đóng cửa náu thân một mình, ông nói: “Tôi được hoàng đế tín nhiệm, làm chức quân sư, tham mưu một ít ý kiến mà được cả vạn hộ dân hầu, thật là quá ư đãi ngộ, quá ư đầy đủ, nay chỉ muốn thoát khỏi chốn dân gian tục sự, phiêu diêu nơi Xích Tùng Tử của người tiên”, cho nên nhân dân truyền rằng, ông đã trở thành thần tiên.

Trương Lương là người phân rõ thị phi, thông hiểu lý sự, hoàn toàn biết thần tiên chỉ là hư ảo, nhưng ông vẫn làm như vậy vì thông minh phán đoán rằng, với chế độ phong kiến kẻ tôi thần khó bề đứng chân giữa công huân và danh vị. Quả vậy, Hàn Tín bị giết, Tiêu Hà bị bắt, chỉ có Trương Lương - ông vứt hết mọi công hầu, khanh tướng, lợi lộc, vinh quang lại phía sau làm người tiên. Ông chọn thái độ “minh triết bảo thân” (khôn ngoan giữ lấy mạng sống) là do những nguyên nhân hoàn cảnh, tình thế khách quan quyết định.

Tổ tiên Chu Ân Lai không ở vùng Hoài An - Tô Bắc, mặc dầu ông sinh ra tại cố thành này, nhưng nguồn gốc là Thiệu Hưng, Triết Giang. Trong dịp kỷ niệm 2 năm ngày Lỗ Tấn tạ thế, Chu Ân Lai từng phát biểu: “Về huyết thống cũng có thể tôi và Lỗ Tấn tiên sinh cùng xuất thân từ gia đình họ Chu thành Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang”. Họ Chu là một đại gia tộc quần tụ lâu đời ở Thiệu Hưng, đến đời ông nội của Chu Ân Lai thì mới dời khỏi đây chuyển về Hoài An, lần di cư ấy cũng có liên quan với nền văn hóa Thiệu Hưng.

Ở Thiệu Hưng, ngoài nhân dân lao động, tầng lớp trung lưu gồm hai loại: tri thức và thương nhân. Thông thường con đường lập nghiệp của tri thức là khoa cử, nhưng những nhà văn hóa Thiệu Hưng lại không như vậy, ít người đậu đạt làm quan, phần lớn theo nghề thầy, tham mưu, quân sư, tiếng Trung Quốc gọi là “sư gia”. Sư gia không phải là một hàm quan chức, ở nha môn công đường đám sư gia chẳng là chủ soái, cũng chẳng là kế vị, nhưng giải quyết mọi công việc nhà nước, trị quốc an dân đều trông cậy vào họ, xứng đáng là cánh tay thứ hai của bộ máy quan lại. Sư gia thông tuệ, lão luyện, nhiệt tình, cẩn thận, có tình có lý, thiện nghệ giải quyết những mâu thuẫn phức tạp nhất. Dần dà, người Thiệu Hưng làm sư gia thật xuất sắc và bách tính bèn gọi chung tất cả những ai hành nghề sư gia là “Sư gia Thiệu Hưng”, huyện quan nói chung đều phải dựa vào họ, vậy mới có câu “vô Thiệu bất thành nha” (không sư gia Thiệu Hưng thì không thể lập được công sở nhà nước). Ông nội Chu Ân Lai là Chu Điện Khôi đưa gia đình về Hoài An sinh sống là do ông làm sư gia nơi ấy, ông ngoại của Chu Ân Lai là Vạn Thanh Tuyển cũng xuất thân từ sư gia, có lẽ nhân cách của Chu đã được hình thành trong cái nôi văn hóa Thiệu Hưng - văn hóa sư gia.

Tất nhiên những điều trên đây đều là lời nói sau, còn lúc tham quan miếu Trương Lương thì chúng tôi chưa hề hay biết gì cả, và cũng không rõ vì sao Chu Ân Lai lại tôn sùng quý mến Trương Lương đến thế. Sau này tại nhiều hội nghị Trung ương, tôi nghe Thủ tướng thường nói “không phải chủ soái” và liên hệ lần leo núi nghe chuyện Trương Lương năm xưa, tôi mới thực lý giải “Trương Lương không phải là chủ soái, ông là một quân sư, một sư gia ưu tú nhất”...

Chu Ân Lai tiếp tục hướng dẫn chúng tôi xem di chỉ về truyền thuyết “Tiêu Hà đuổi Hàn Tín”. Ông hào hứng kể câu chuyện Lưu Bang được Hạng Vũ phong làm Hán vương, đến Nam Trịnh thì nhiều người trốn chạy. Hàn Tín tiếc tài bất dụng, cám cảnh vua tôi, cuối cùng bỏ Hán vương mà đi. Nghe tin, Tiêu Hà đang đêm lên ngựa đuổi theo. Người của Hán vương tưởng Tiêu Hà bỏ chạy đã tâu trình Hán vương, nhà vua hốt hoảng nổi trận lôi đình như bị cắt mất chân, tay. Hai ngày sau, Tiêu Hà trở về, Hán vương vừa giận vừa vui quát hỏi Tiêu Hà:

- Vì sao nhà ngươi lại bỏ chạy?

- Thần đâu dám chạy trốn, thần chỉ đuổi tìm người bỏ chạy mà thôi.

- Tìm ai?

- Dạ thưa Hàn Tín!

- Đã mấy chục tướng lĩnh bỏ đi, nhà ngươi không đi tìm, nay nhà ngươi lại nói truy tìm Hàn Tín, thật là xằng bậy!

Tiêu Hà vừa cười vừa giải thích:

- Những tướng lĩnh ấy trong thiên hạ này nhiều lắm, tìm đâu mà chẳng thấy, còn như Hàn Tín, mất đi một thì không có người thứ hai. Đại vương nếu chỉ muốn trị vì Hán Trung một thời thì hà tất phải trọng dụng Hàn Tín, còn muốn thâu tóm toàn thiên hạ? Dạ thưa: phi Hàn Tín bất thành thắng lợi, ngoài Hàn ra không ai có thể giúp đại vương bày mưu lập nên nghiệp lớn.

Lưu Bang nghe lời Tiêu Hà, dựng đàn bái Hàn Tín làm Đại tướng quân, thống lĩnh toàn bộ binh mã, quả nhiên đánh bại Hạng Vũ.

Chu Ân Lai kết luận:

- Lưu Bang bách chiến bách bại, nhưng chuyển bại thành thắng vì nhờ tài tể tướng của Tiêu Hà, chọn Quan Trung làm căn cứ địa, muốn người có người, muốn tiền có tiền, muốn gạo có gạo. Còn Hạng Vũ bách chiến bách thắng, nhưng không kham nổi một lần thất bại, thể như vết dầu loang, lan mãi cho đến lúc suy vong, một trong những nguyên nhân, ấy là thiếu người tể tướng kiểu Tiêu Hà, dù có đi nữa cũng không phát hiện ra, thậm chí phát hiện ra, thì rồi vẫn không trọng dụng.

Lần hoài cổ ấy, Chu Ân Lai kể khá tỉ mỉ về lịch sử Trương Lương, Tiêu Hà giúp Lưu Bang gây dựng cơ nghiệp nhà Hán, cuối cùng ông nói:

- Trương Lương, Tiêu Hà là những người có bản lĩnh, không có họ, nhà Hán không gây dựng được, họ biết điều ấy, và Lưu Bang cũng biết như vậy, nhưng vĩ đại ở chỗ là Trương, Tiêu đều sáng suốt phân định rõ sở trường sở đoản của bản thân mình. Trương Lương truyền binh pháp Thái công cho Lưu Bang, Lưu nghe và hiểu ngay, thường dùng kế đó, ngược lại ở người khác thì không hẳn như thế, vì vậy Trương phò Lưu, hai người bổ sung lẫn nhau và lập nên nghiệp lớn... Lịch sử Trung Quốc có không ít Trương Lương, Tiêu Hà, họ đều là anh hùng và từ nay về sau vẫn còn cần những con người như họ.

Về đến Thành Đô, Chu Ân Lai đưa chúng tôi viếng thăm đền thờ Gia Cát Lượng, ở đây ông giảng giải cho chúng tôi các bài học của Cát Lượng như “hòa Ngô”, “hòa Di”, “minh pháp”, “trị quân”, “chính thân”. Chu Ân Lai nói nhiều về phép “chính thân” của Cát Lượng, người một thời khiêm tốn, chí công vô tư, tự mình chủ trương trong nhà đã no ấm rồi hà tất phải kinh doanh kiếm lời và căn dặn: “Sau khi thần qua đời, nếu lục soát trong nhà có dôi ra vật gì, thì thần xin thành thật xin lỗi quốc gia”. Thuở ấy người viếng đền rất đông, không cách nào đứng lâu nói dài, Chu Ân Lai ngước nhìn lên pho tượng Gia Cát Lượng và kính cẩn cúi chào tiền nhân lỗi lạc rồi dẫn chúng tôi rời khỏi điện thờ.

- Các đồng chí biết không? - Chu Ân Lai vừa đi vừa giải thích, - sau khi Cát Lượng qua đời, dân chúng khắp nơi đều yêu cầu lập miếu thờ ông, nhưng vì lễ giáo nên không thành, vì vậy đâu đâu cũng dựng lên miếu tư nhân tưởng niệm Cát Lượng. Mãi đến năm Thục Hán diệt vong, A Đẩu mới cho lập miếu thờ Gia Cát Lượng tại Miến Dương, hủy bỏ các hình thức am miếu của tư nhân đã dựng lên để cúng bái ông. Cát Lượng thật sự đang sống trong lòng dân chúng, một chính trị gia của giai cấp phong kiến đã làm được điều đó, thế mà người cộng sản chúng ta?

Chu Ân Lai tạ thế, không để lại một tơ hào của cải cá nhân, đến như di thể cũng hiến cho khoa học giải phẫu nghiên cứu, sau đó hỏa táng và nhúm tro tàn cuối cùng vẫn không cần bảo quản. Ông từng căn dặn, xin đừng “lập miếu”, xây nhà kỷ niệm hay cố cư gì đó v.v... cho nên ngày ấy dân nước tôi truy điệu Chu Ân Lai ở đài liệt sĩ, ở mỗi đường phố, làng quê, trong mỗi căn hộ và tận trong những con tim.

Ngày ấy liên tục từ nước ngoài chuyển đến Trung Quốc ngàn vạn lời ca ngợi Chu Ân Lai - một vị tể tướng hiền tài, tôi bất giác nhớ chuyến đi Diên An về Trùng Khánh, trong khi Mao Trạch Đông cảm hoài với Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ, với Đường tôn Tống tổ, thì Chu Ân Lai lại động lòng trắc ẩn cùng Trương Lương, Tiêu Hà, Gia Cát Lượng... phải chăng ấy là lời tiên tri?

Tôi lại nhớ, ngày 8 tháng 4 năm 1946, khi nhận được điện báo tai nạn thảm khốc, Chu Ân Lai đã khóc than các chiến hữu liệt sĩ Diệp Đình, Vương Nhạc Phi, Đặng Phát, Tần Bang... “Ôi Nhược Phi, khó có một nhân tài và bạn bè như anh... giữa chúng ta gắn bó biết chừng nào, giá anh đừng sớm ra đi, thì nay mai kiến quốc, người Phó thủ tướng thường trực này sẽ san sẻ cho tôi bao phần khó nhọc.”

Stalin, Mikain khách quan nhận định rằng, Chu Ân Lai sẽ là Thủ tướng Trung Quốc, sự đánh giá ấy công bố sau hai năm, chậm thua Chu Ân Lai tự tiên tri cho bản thân mình! Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Chu Ân Lai quả nhiên trở thành thủ tướng nước Trung Hoa mới, cúc cung tận tụy 27 năm trong cương vị “sư gia” cho “huyện quan”, sáng danh như Trương Lương, Tiêu Hà, Gia Cát Lượng thuở xưa, con người văn hóa Thiệu Hưng ấy tuy “cử khinh nhược trọng” nhưng biết người biết ta, chọn cho mình một chỗ đứng không ai thay thế được tận đến hơi thở cuối cùng - ngày mồng 8 tháng 1 năm 1976. Kỳ lạ thay, năm ấy “huyện quan” của ông là Mao Trạch Đông cũng đã qua đời, họ thật như cặp bài trùng!
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #67 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 02:13:54 pm »

2. NGHỆ THUẬT ĐÀM PHÁN


Giờ đây xin bạn lại cho tôi kể tiếp lời tiên tri thứ hai của Chu Ân Lai, ngay sau khi kháng chiến chống Nhật giành được thắng lợi. Trước tiên cho phép tôi có đôi lời gọi là “tranh luận” với hai cách nói mà lâu nay vẫn thịnh hành ở đất nước quê hương tôi. Người ta nói Đảng Cộng sản đấu tranh kiên quyết cùng Quốc dân đảng, và cuối cùng đã chiến thắng. Theo tôi nên nói một cách chính xác rằng, trong cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng chính trị là Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng, nhân dân và lịch sử đã chọn Đảng Cộng sản, còn có nghĩa là “thiên thu”, chứ đâu chỉ “nhân cầu”. Người ta cũng thường nói “cuộc đại chiến quyết liệt giữa hai vận mệnh”, hoặc là Quốc dân đảng hắc ám, hoặc là Đảng Cộng sản quang minh, có lẽ lịch sử đã không quá giản đơn như vậy.

Là phó quan luôn sát cạnh Chu Ân Lai trong suốt quá trình đàm phán mà ông đã đại diện cho Trung Cộng, cùng với bên kia Quốc dân đảng, tôi nhận thấy Chu và Đảng của mình đầu tiên luôn luôn cố ý tranh thủ loại vận mệnh thứ nhất cho đất nước, không hắc ám mà cũng không quang minh. Tôi còn nhớ lúc bấy giờ bất luận là đồng chí trong đảng hay nhân sĩ đảng phái dân chủ hoặc không đảng phái khi phát biểu đều khẳng định rằng, cái gọi là loại vận mệnh thứ nhất mà Trung Cộng luôn luôn cố ý tranh thủ là hòa bình - dân chủ - kiến quốc. Phương châm xác định kiến quốc hồi ấy của chúng tôi chưa phải là thực hiện chủ nghĩa Mác - Lê mà đích thị chủ nghĩa tam dân, từng tuyên bố năm Dân quốc thứ 13 (tức năm 1924 - ND.) tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Quốc dân đảng do Tôn Trung Sơn sáng lập, người Trung Quốc thường gọi tắt là Nhất Toàn. Thậm chí chúng tôi còn biểu thị quan điểm “ủng hộ địa vị lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch”, nhưng đương nhiên yêu cầu Tưởng và Quốc dân đảng phải thừa nhận sự bình đẳng và hợp pháp của các đảng phái khác.

Kết quả như thế nào? Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã không công nhận sự bình đẳng của Trung Cộng cũng như tính hợp pháp của nó. Thiên hạ chỉ có một đảng là Quốc dân đảng, thiên hạ chỉ có một người là Tưởng Giới Thạch. Ngày nay phương Tây thường chỉ trích chúng tôi “độc tài” sao lúc ấy, lại im lặng trước sự độc tài của Tưởng?

Tiêu điểm của đàm phán Quốc - Cộng sau kháng Nhật là vấn đề quân đội. Có người nói, Cộng sản các anh giao quân đội, thì Quốc dân đảng sẽ cho các anh địa vị bình đẳng, hợp pháp. Thật là phi lý, bình đẳng hợp pháp là tương hỗ, đâu phải “ân huệ” mà đảng này cho đảng khác.

Chu Ân Lai và đảng của chúng tôi đồng ý giao quân đội, nhưng chỉ có thể giao cho tổ quốc, chứ không giao cho Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, cho nên trong đàm phán Chu một mực xuất “quốc gia hóa quân đội”, cũng có nghĩa là Tưởng và Mao đều cùng giao quân đội của mình cho đất nước Trung Hoa, dân chủ hóa chính trị trở thành tiền đề của tiêu điểm đàm phán về quân đội. Không có tiền đề ấy mà giao quân cho Tưởng tức là mất luôn dân chủ và bình đẳng. Cũng có người đưa ra ví dụ ở đâu đó đảng Cộng sản đã giao quân đội để đổi lấy cái ghế phó thủ tướng, vấn đề còn tùy thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi nước, riêng ở Trung Quốc thì chúng tôi nhận được câu trả lời sau hai vụ thảm sát “412” và “715”. Trần Độc Tú - từng là Tổng bí thư Trung Cộng, ông đã giao cả lực lượng vũ trang của đảng mình và đổi lại không bình đẳng cũng không hợp pháp mà chỉ chết chóc, hãy nghe người ta nói “thà giết sai cả ngàn còn hơn lọt lưới chỉ một”. Mao, Chu không như Trần Độc Tú, từ những cuộc tắm máu “412” và “715”, họ rút ra danh ngôn thiên cổ “họng súng đẻ ra chính quyền!”. Biết vậy nhưng Trung Cộng vẫn cố gắng tranh thủ vận mệnh thứ nhất: hòa bình, dân chủ, kiến quốc và càng nhân nhượng thì càng bị lấn ép. Chiều ngày 26 tháng 2 năm 1946, đoàn Trung Cộng do Chu Ân Lai dẫn đầu đã ký “Phương án cơ bản về việc biên chế lại quân đội và thống nhất biên chế bộ đội Trung Cộng thành Quốc quân”, lúc bấy giờ chúng tôi gọi tắt là “phương án chỉnh quân”. Tưởng Giới Thạch biết rằng, chữ “Quốc quân” là quân đội của Quốc gia, chứ không phải của Quốc dân đảng và do đó ông đã kiên quyết phản đối, ký thì ký, còn tấn công cứ vẫn tấn công, và không khí nội chiến ngày càng nâng cấp.

Trong tình hình như vậy, tổ quân sự 3 người bắt đầu hoạt động kiểm soát thực hiện hiệp định đình chiến ở các nơi để chuẩn bị biên chế lại quân đội. Tổ gồm: Chu Ân Lai - Trung Cộng, Trương Trị Trung - Quốc dân đảng và Marshall - phía Mỹ, họ đều mang quân hàm thượng tướng, cấp dưới là ban chấp hành cũng ba trung tướng: Diệp Kiếm Anh (Trung Cộng), Trịnh Giới Dân (Quốc dân đảng), và Browder (phía Mỹ). Ngày 28 tháng 2 năm 1946, tổ 3 người đáp chuyên cơ của Marshall từ Trùng Khánh đi Bắc Kinh, lần lượt thị sát tình hình đình chiến ở Trương Gia Khẩu, Tập Ninh, Tế Nam, Từ Châu, Tân Hương, Thái Nguyên, Quy Tuy, Diên An, Hán Khẩu, v.v... Bố trí một tuần làm việc khá căng thẳng, cả ngày lẫn đêm đều nghe báo cáo tình hình, lúc ấy chưa xảy ra tranh cãi gì, trong tiệc tùng đều đang khách khí chúc tụng nhau, nhưng mỗi bên đã có thể phán đoán động thái của tình hình.

Lúc bay từ Quy Tuy về Diên An, Chu Ân Lai khẽ gọi:

- “Văn Bạch ạ!”, Trương Trị Trung tướng quân đang trầm ngâm, quay lại: “Tôi đây”. Chu thong thả:

- Văn Bạch ạ, các anh không đánh thì mọi người cùng nhau xây dựng lại đất nước, còn các anh đánh, đầu tiên là mất nhân tâm, mà đã mất nhân tâm thời mất luôn thiên hạ đó. Đảng Cộng sản chúng tôi sẽ đoàn kết các đảng phái dân chủ cùng xây dựng nước Trung Hoa mới, và tình hình khi ấy sẽ hoàn toàn khác với bây giờ...

Ngày nay nghĩ lại, dễ dàng nhận thấy, trong khi tích cực tranh thủ vận mệnh thứ nhất - hòa bình dân chủ kiến quốc - Chu Ân Lai đã bắt đầu nghĩ tới khả năng không thể tránh khỏi vận mệnh thứ hai sẽ xảy ra. Tôi thấy Trương Trị Trung ngơ ngác, im lặng, muốn nói mà không sao nói được, ông trở lại trạng thái trầm ngâm ban đầu. Hôm ấy, tổ quân sự 3 người đến Diên An, Marshall và Trương Trị Trung bái kiến Mao Trạch Đông. Trương nhìn Mao và các vị lãnh đạo Trung Cộng và bỗng cao hứng mà rằng:

- Trương Trị Trung tôi đã 3 lần đến Diên An, sau này các ngài viết Trung Cộng đảng sử xin đừng quên 3 lần thăm viếng Diên An của Trương tôi.

- Tất nhiên là không thể quên được Trương tiên sinh - Mao Trạch Đông với khẩu âm Hồ Nam vui vẻ đáp lại.

Trên bàn tiệc thì như vậy, còn ngoài chiến trường, hiệp định ngừng bắn lại không thực hiện được nửa câu. Tuy cảm nhận rằng Tưởng Giới Thạch quyết tâm đánh cộng sản, hòa bình thật vô vọng, nhưng Chu Ân Lai vẫn bôn tẩu. Về sau Quốc dân đảng hoàn đô Nam Kinh và đo đó địa điểm đàm phán từ Trung Khánh cũng vì thế dời về nơi đó. Hôm chia tay với giới văn hóa Trùng Khánh, Chu Ân Lai lòng bịn rịn mà than rằng: “Trùng Khánh quả là một thành phố của đàm phán!”. Đôi mày rậm của Chu nhíu lại, ông suy ngẫm thế mà cũng gần mười năm bôn ba cho sự đoàn kết, đàm phán đã lấy mất của ta một phần năm cuộc đời, sự nghiệp dân chủ đâu có dễ dàng, nay đã ngũ thập rồi, thường “thán lão” rồi, nhưng dù sao ta cũng phải đi hết đoạn đường này. Chu Ân Lai nghĩ như vậy và đã làm như vậy, ông kiên trì cho tới lúc Quốc dân đảng đánh chiếm Trương Gia Khẩu, kiên trì cho tới lúc Tưởng Giới Thạch triệu tập “ngụy quốc đại”. “Những gì đáng nhân nhượng tôi đã nhân nhượng” - Chu Ân Lai đã nói với Marshall như vậy, ông bình tĩnh một cách lạ thường và viên tướng Hoa Kỳ nọ cũng phải công nhận chân lý mà Chu đã nêu. Tuy thiên về phía Tưởng, nhưng Marshall nhiều lúc không thể không thực hiện kiến nghị của Chu Ân Lai, ví như lúc Tưởng Giới Thạch huy động 30 vạn đại quân bao vây chia cắt hòng tiêu diệt 6 vạn binh lính Hồng quân thuộc quân khu Trung nguyên, Chu Ân Lai kịp bay về Nam Kinh gặp Marshall phản đối, Marshall đồng ý và phía Tưởng đành rút quân! Ngày 16 tháng 11 năm 1946, “ngụy quốc đại” đang họp, Chu Ân Lai đến chào từ biệt Marshall, bằng một giọng chân thành và cảm động, Marshall đã nói:

- Tôi lấy làm tiếc là đàm phán bị phân liệt. Tất cả tướng lĩnh cao cấp của Quốc dân đảng, kể cả Tưởng Giới Thạch, theo tôi, đều không phải là đối thủ đàm phán của Chu Ân Lai. Qua một thời gian quan sát, tôi nhận thấy phía Quốc dân đảng tìm không ra một con người thông tuệ, uyên bác, nhẫn nại mà kiên quyết như Chu.

Chiều 17 tháng 11 năm 1946, Chu Ân Lai họp báo tại Mai Viên Tân Thôn, ông nói:

- Sẽ có một ngày mà Quốc dân đảng đánh không nổi nữa, rất có thể lúc ấy lại đàm phán, nhưng tình thế, hình thức, nội dung v.v... đều hoàn toàn thay đổi, không giống như hôm nay... - Lời dự đoán ấy hai năm sau đã thành hiện thực.

Trước khi trở về Diên An, Chu Ân Lai hỏi tôi:

- Hà Thu Anh, đàm phán thất bại, nội chiến bắt đầu, chú nghĩ như thế nào?

- Dạ có Mao Chủ tịch lãnh đạo, chúng ta nhất định thắng ạ!

Chu trầm ngâm mà rằng: Sau khi đại cách mạng thất bại, năm 1931, tôi rời Thượng Hải, lúc ấy tâm trạng hoảng loạn, không biết khi nào mới được trở lại. Còn nay thì hoàn toàn khác, tôi tin rằng, nhanh thì nửa năm mà lâu cũng chỉ một năm, chiến trường sẽ trả lời tất cả.

Chu cười: “Sẽ trả lời” không có nghĩa là tiêu diệt được ông ta, điều đó cần phải 3 đến 5 năm nữa, nhưng chắc chắn là ông ta chỉ có thất bại mà thôi. Tưởng Giới Thạch đi sai nước cờ rồi, đã sai và kéo theo lịch sử đều thay đổi hết, ông ta không đánh, mọi người cùng nhau xây dựng đất nước, ông ta đánh như thế này, thì chính ông ta mất phần của mình trước tiên.

Ngày 19, chúng tôi cùng Chu Ân Lai bay về Diên An. Hai năm sau, Tưởng Giới Thạch công bố cầu hòa, Trung Cộng nêu ra 8 điều kiện đàm phán, điều kiện thứ tám ghi rõ: triệu tập hội nghị chính trị hiệp thương không có các phần tử phản động tham gia, thành lập chính phủ liên hợp dân chủ, và tiếp thu chính phủ Nam Kinh của Quốc dân đảng.

Trương Trị Trung lại dẫn đầu đoàn đại biểu Quốc dân đảng đến Bắc Kinh đàm phán, nhìn vẻ bẽn lẽn của các vị trong bữa tiệc do Chu Ân Lai thết đãi, bên tai tôi vọng lên lời tiên tri của Thủ tướng, rằng: ông ta không đánh... và ... ông ta đánh. Cùng lúc ấy đại quân của Mao - Chu đang chuẩn bị vượt sông Trường Giang tiến về giải phóng Nam Kinh, tất cả, âu cũng là sự chọn lựa của lịch sử.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #68 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 02:29:58 pm »

3. LẮM PHEN THOÁT HIỂM


Chu Ân Lai của chúng tôi đoan trang, văn nhã, tinh tế, luôn luôn xuất hiện trong phong thái đàng hoàng, lịch sự, ánh mắt ôn tồn, nụ cười hiền hậu và đầy ma lực khiến ngươi ta tưởng ông chỉ là một quan văn “trói gà không chặt”“, nào ngờ Chu còn có tính chất khá đặc trưng của viên quan võ - ưa khiêu chiến và thích hiểm nguy. Trong cuộc khởi nghĩa vũ trang lần thứ ba của công nhân Thượng Hải, cảnh sát phát hiện ngay ra Chu Ân Lai ở hàng đầu những người tham gia biểu tình thị uy, đạn nổ bên mình, nhưng Chu kịp nằm ẩn tránh và lại đứng dậy dẫn đoàn, đồng đội phải kêu lên: “Thủ lĩnh ở đây nguy hiểm quá!”, ông cười mà rằng: “Tôi thích như thế”. Hồi phong trào Ngũ Tứ, Chu xông lên gạt hàng rào quân cảnh, đấu tranh trực diện trước nha môn, công đường và đã qua cuộc sống sau song sắt nửa năm, “Tôi bắt đầu từ đó, và dần bước theo con đường của một nhà cách mạng chuyên nghiệp”, Chu Ân Lai từng hồi ức.

Những người có điều kiện gần gũi Thủ tướng, mấy năm trước đây đã gặp nhau, chúng tôi cũng nhớ lại và tính toán, đúng là Chu Ân Lai vào sinh ra tử phải đến 22 lần, phần lớn là quãng thời gian Chu đang đảm đương chức vụ quan trọng của Đảng và nhà nước. Có lẽ trong các nhân vật lãnh tụ của chúng tôi, Chu Ân Lai là người gặp hiểm nguy nhiều nhát và may sao đều thoát nạn. Ngay từ loạt đạn đầu tiên của quân cảnh Anh và Pháp trong vụ thảm sát Sa-cơ, hai người bên cạnh Chu đều gục ngã hy sinh, ông trời còn giữ lại cho nhân dân chúng tôi viên chủ nhiệm khoa chính trị trường quân sự Hoàng Phố Khi truy lùng hung thủ đã ám sát Liêu Trọng Khải - lãnh tụ của Quốc dân đảng, Tưởng Giới Thạch tự nhiên đổi khẩu lệnh, tuyên bố giới nghiêm thành Quảng Châu trước giờ quy định, khiến cho xe Chu Ân Lai trúng đạn của quân mình. Trong khoảnh khắc phát hiện ra phía trước lóe sáng, người tài xế quay vòng tay lái một cách rất bản năng, và những viên đạn dành cho Chu Ân Lai đã xuyên thẳng vào đầu anh, ông trời lần nữa giữ Chu cho chúng tôi. Lần thứ 4 Tưởng Giới Thạch chỉ huy vây tiễu Hồng quân - “phỉ đỏ”, Chu Ân Lai lãnh đạo phản công, thấy bộ binh không xong, Tưởng ra lệnh 6 phi cơ chiến đấu của Quốc dân đảng thả bom ngay trên đầu tổng chính ủy Cộng quân - Chu Ân Lai, người cán bộ chính trị ấy nhanh hơn cả Tổng Tư lệnh đã hô vang “tất cả nằm xuống”“ và kịp lấy thân mình đè lên chàng thanh niên 18 tuổi. Hồi ấy, ông trời cùng một lúc giữ lại Thủ tướng và Chủ nhiệm tổng cục chính trị quân đội - Tiêu Hoa cho Trung Quốc...

Trong lịch sử, nhiều nhân vật kiệt xuất từng lâm đại nạn mà vẫn thoát hiểm như không, khiến hậu thế chiêm ngưỡng họ như những bậc kỳ tài thần thông biến hóa và các giai thoại cũng được dệt nên từ ấy. Có người cho đó là vận khí, là ý trời, hẳn không phải như vậy vì nghe nói trong tính ngẫu nhiên đã ẩn tàng ít nhiều quy luật tất nhiên mà. Phải chăng trong những giờ phút nguy hiểm ấy, toàn bộ dũng khí, trí tuệ, lực lượng của các vị được huy dộng một cách tối đa và cực nhanh để ứng phó, thoát nạn. Có điều khiến người đời khâm phục, suy tôn các vị chính là thái độ xử sự ngay ở khoảnh khắc ngặt nghèo giữa cái sống và cái chết...

... Chiếc xe nhà binh mui trần xuất phát từ cửa Nam thành Diên An trườn bò trên con đường gập ghềnh của cao nguyên hoàng thổ, hướng về Tây An, hướng về thành phố đàm phán. Đó là thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ hai, chuẩn bị đi vào cuộc kháng chiến tám năm chống Nhật, Chu Ân Lai - Phó chủ tịch trung ương Trung Cộng đi Tây An dự đàm phán với Cố Chúc Đồng - đại diện Quốc dân đảng, một hoạt động có tính dọn đường cho cuộc gặp Tưởng - Chu ở Lư Sơn sau này. Trước khi lên đường, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã dành cả một ngày để trao đổi thống nhất chủ trương. Sứ mạng đặt lên vai Chu, tuy bên trong là rất quan trọng, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn luôn bị tiễu phạt, vây ráp, Mao cũng chỉ có ngần ấy vật chất cung cấp cho Chu. Chúng tôi 25 người - đều là những chiến sĩ trường chinh năm xưa, từng leo núi tuyết, vượt thảo nguyên, qua vạn lý, hành trình từ Hoa Nam lên đây lập chỗ đứng chân cho Hồng quân, cho Trung Cộng - có nhiệm vụ tháp tùng Chu Phó chủ tịch đi Tây An thực hiện sứ mạng lịch sử. Trong chuyến đi ấy có các danh tướng như Trương Vân Dật, Khổng Thạch Tuyển, có phó quân của Chu là Trần Hữu Tài - anh vận đồ Tây và đội mũ phớt y hệt như một nhà buôn nhiều vốn, có Trần Quốc Kiều - trung đội phó đặc công hộ tống Chu, và cảnh vệ, ký giả, thông dịch v.v... Vòng “luân tử” lúc bon bon, lúc lăn trườn nhẫn nại đưa chúng tôi về cố đô Tây An, ai nấy đều hãnh diện vì chuyến đi lịch sử trong đời của mình, nói cười như pháo nổ, át cả tiếng động cơ.

Nhưng chúng tôi nào ngờ quân thám báo của thổ phỉ Phùng Trường Đấu ẩn nấp ở Diên An đã phát hiện chiếc xe khởi hành, chở “ông chủ” vận đồ Tây dương và lính tráng “tiền hô hậu ủng”. Sau này khi giảng bài cho Hồng quân, Mao Trạch Đông thường lấy ví dụ này để phê bình lối cảnh vệ khoa trương, hình thức, thiếu cảnh giác. Hồi ấy ở vùng Diên An có hàng ngàn thổ phỉ, ban ngày phân tán cày ruộng, đêm lại mới tụ tập cướp phá, cầm dao cầm súng là trở nên tướng cướp, mà cất vũ khí nắm cuốc nắm liềm thì hoàn nguyên nông dân, rất khó truy quét, tiêu diệt. Lý Thanh Ngũ là một đầu lĩnh, y người Hà Nam theo cha mẹ lang bạt lên đây, từ nhỏ đã ham trò súng ống, lớn lên không an phận làm ăn và nhanh chóng trở thành thổ phỉ. Năm 1935, Hồng quân chiếm lĩnh Cam Tuyền đã thu phục đội ngũ của Lý cho thành lập một tiểu đoàn độc lập do y làm “giáo đạo viên” (tiểu đoàn trưởng). Viên quan họ Lý này không hiểu chủ nghĩa cộng sản và cũng không hiểu chủ nghĩa tam dân, nhưng rất tinh thông ăn nhậu, cờ bạc, ghiền hút và gái đĩ, thừa cơ quân Đông Bắc vây ráp tiễu khử Hồng quân, Lý Thanh Ngũ làm “binh biến”đã giết chết chủ tịch chính quyền xô-viết huyện Cam Tuyền - Thiểm Bắc, câu kết với Quốc dân đảng, về sau trở lại nguyên hình thổ phỉ, Cộng sản cũng đánh mà Quốc dân đảng cũng chẳng chừa, miễn là cướp được súng ống, tiền bạc và của cải. Nhận được mật báo của Phùng Trường Đấu, Lý Thanh Ngũ đang đêm thống lĩnh 100 thổ phỉ vượt núi Long Bàn Sơn lên mai phục tại đèo Lao Sơn. Lao Sơn chạy dài theo hướng đông tây, chắn ngang hai huyện Diên An và Cam Tuyền, tuy không cao lắm, nhưng là tuyến độc đạo Diên - Cam, địa hình hiểm trở nên chúng tôi bị lâm nạn trong vòng vây của Lý Thanh Ngũ. Chu Ân Lai trí dũng song toàn, vừa chỉ huy chống đỡ vừa chỉ huy phá vòng vây rút vào rừng chờ kỵ binh của Hồng quân ứng viện. “Ông chủ” vận đồ Tây, đội mũ phớt chủ động thu hút hỏa lực của địch và anh đã hy sinh, Lý Thanh Ngũ lục soát túi áo Trần Hữu Tài và chắc mẩm sẽ có vàng bạc châu báu, nào ngờ chỉ vẻn vẹn một tấm danh thiếp với ba chữ “Chu Ân Lai”, y thét lên: - Chết ta rồi, trốn mau! Sau đó không lâu, Hồng quân bắt được Lý, y bị trừng phạt và thổ phỉ tan rã.

Lần ấy trở lại Diên An, chúng tôi chỉ còn 14 người, trong đó có Lưu Cửu Châu - cận vệ của Chu phải nằm trên cáng, anh khóc: Thưa Phó chủ tịch, tôi đã không hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đồng chí đi Tây An...

Tháng 6 năm 1973, Chu Ân Lai về thăm đèo Lao Sơn, ông đi tảo mộ thắp hương cho Trần Hữu Tài và 10 liệt sĩ khác đã hy sinh trong trận chiến đấu ngày 25.4.1937, theo Chu, đây là lần hiểm nguy nhất trong đời...

Chu Ân Lai bình sinh bận rộn, cái mà ông thiếu thốn nhất là thời gian, chúng ta có thể nhận thấy Chu quý thời gian biết nhường nào, ông không đi thì thôi, chứ đã động chân là bước nhanh thoăn thoắt. Chụ Ân Lai không đồng ý bố trí để Mao Trạch Đông đi công tác bằng máy bay vì hồi ấy hệ số an toàn hàng không rất mong manh, nhưng bản thân ông lại cứ khăng khăng đáp phi cơ mỗi lần có công việc và giải thích rằng: “Tiết kiệm được nhiều thời gian, dù có mạo hiểm một chút cũng chẳng hề gì”. Những người già chúng tôi từng làm việc bên cạnh Thủ tướng ngồi lại với nhau và ngẫm ra một điều, hiểm nguy thường đến với Chu Ân Lai trong các chuyến bay. Lần bay từ Tây An về Diên An, phi cơ lạc đường, rất may không đâm vào vách núi như vụ không nạn “4 - 8”. Lần đi thăm A Rập, trong đêm tối mịt mù, chuyên cơ của Thủ tướng hạ cánh với những sự dẫn đường tồi tệ nhất. Lần đi dự hội nghị Bandung, chiếc máy bay có tên gọi “Công chúa Kát-sơ-mia” dự kiến chở Chu Ân Lai đã nổ tung sau khi rời khỏi không phận Hương Cảng v.v...

Đối với tôi, ấn tượng hãi hùng nhất vẫn là chuyến bay ngày 3 tháng 10 năm 1946 đưa Chu Ân Lai đi Trùng Khánh. Đó là thời kỳ tám năm kháng chiến chống Nhật vừa thu được thắng lợi, hội nghị chính trị hiệp thương sắp bế mạc, Chu Ân Lai phải trở về Diên An cùng Mao Trạch Đông và Trung ương bàn thảo sẽ phải nhượng bộ như thế nào nữa đối với Quốc dân đảng để đi đến một hiệp nghị. Ngày mai hội nghị sẽ đi vào phiên kết thúc, bằng mọi giá phải cất cánh hôm nay.

Phi trường Tây An lộng gió, ngoài trời lạnh thấu xương, cái lạnh lục địa trên cao nguyên hoàng thổ như thể mũi dao cắt từng mảng thịt... Đoàn chúng tôi gồm 10 người lớn và một cháu gái, ngoài những nhân viên tùy tùng, cảnh vệ của Chu Ân Lai, còn có Lục Đình Nhất, Đặng Phát, Giang Thanh và con gái Diệp Đình là Dương Mi. Giang Thanh quá giang đi Trùng Khánh để chữa răng tại phòng bệnh của nha sĩ trứ danh, người đã chữa trị cho Tưởng Giới Thạch lành chứng đau răng, nay được Chu Ân Lai giới thiệu với Chủ tịch phu nhân. Đây là chuyên cơ của Marshall, viên thượng tướng quân Mỹ trong tổ quân sự 3 người, phái cử phục vụ Chu Ân Lai. Tốp lái toàn là người Mỹ đứng nghiêm cùng hô “chào thượng tướng” khi Chu Ân Lai bước chân lên cầu thang.

Từ phi trường Tây An, máy bay phải theo đường xoắn ốc nâng lên độ cao khoảng 5000 mét, vượt qua đỉnh Tần Lĩnh thì mới hướng về Trùng Khánh được. Thời ấy máy bay cánh quạt còn thô thiển và cả đoàn chúng tôi như bị rang cà phê nhào lộn, rơi xuống và chịu cái lạnh trong không phần Tần Lĩnh. Đường bay từ Tây An đi Trùng Khánh chỉ cần 1 giờ, máy bay của chúng tôi cất cánh từ lâu, nhưng xem đồng hồ chỉ mới 10 phút, tròi ơi, Tần Lĩnh vẫn còn án ngự, và chúng tôi có cảm giác như diều đứt dây lượn lờ mất phương hướng...

Viên phụ tá phi công người Mỹ mặt mày rầu rĩ lễ phép mời Chu Ân Lai vào buồng lái, họ nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh. Thủ tướng của chúng tôi thông thạo 4 loại ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Nhật và am hiểu tiếng Nga, đó là điều làm tôi rất tự hào về vị lãnh tụ mà mình được vinh dự phục vụ. Chu Ân Lai gọi tôi, anh Lý Toàn Đức và giao nhiệm vụ, giọng ông rất nghiêm nghị:

- Tổ lái yêu cầu giảm trọng lượng, các đồng chí đem tất cả hành lý và hàng hóa nhanh chóng vứt ra ngoài, nhớ đừng nhầm các tài liệu.

Chúng tôi đang lâm nạn, sinh mạng ngàn cân treo đầu sợi tóc, tôi và anh Lý theo sự hướng dẫn của người lính Mỹ quăng hết các dụng cụ bằng kim loại của máy bay, hành lý của tổ lái, rồi đến đồ đạc của đoàn, kể cả quần áo của Giang Thanh và thùng tiền 20 vạn quan định lên Trùng Khánh mua thuốc cho y tế cơ quan. Những gì quăng được chúng tôi đều đã vứt, nghĩ thật đau xót, trong khi một điếu thuốc còn phải chuyền cho nhau rít từng hơi ấm, mà nay đành lòng ném tiền của, chung quy cũng vì mạng sống. Trọng lượng của máy bay giảm bớt chẳng được bao nhiêu, ngoài trời nhiệt độ không khí càng lúc càng giảm, hai cánh phi cơ băng đã đóng dày, tiếng động cơ vẫn nặng nề khó nhọc và viên phụ tá lại xin ý kiến Chu Ân Lai, chắc đến lúc phải quẳng người, Chu nhíu lông mày và im lặng gật đầu. Quẳng ai bây giờ? Đoàn người chỉ có 4 chúng tôi là không phải thủ trưởng: Qua Mao - nhà văn, thư ký Lý Toàn Đức, tham mưu quân sự Đồng Lục Sinh và tôi, hẳn là những người phải “vứt” đầu tiên. Nhưng không! Chu Ân Lai ra lệnh mọi người đều mang dù, sẵn sàng đợi sự chỉ huy của tổ lái và nhảy ra ngoài. Viên phụ tá hướng dẫn cách sử dụng dù, cửa máy bay đã mở, lạnh đến cùng cực, mọi người nhìn nhau không một lời qua lại, bỗng có tiếng khóc của Dương Mi: “Cháu chưa có dù”. Thật là vội vã dẫn đến sai lầm, Chu Ân Lai nhanh chóng cởi dù của mình mang vào lưng Dương Mi. Sự tích nhường dù này của Chu được người đời ca tụng và đưa vào sách giáo khoa dạy cho bao thế hệ sau này. Ông tình nguyện cùng tổ lái sống mái trên máy bay. Hồi chiến tranh thế giới lần thứ hai, quân đội Mỹ có quy định, phi công lái máy bay hành khách không trang bị dù, ràng buộc trách nhiệm của họ với mạng sống của người khác. Mọi cố gắng đã đến điểm cực đại, nhưng ngọn Tần Lĩnh vẫn ngạo nghễ sừng sững, cơ trưởng toát mồ hôi, xin Chu Ân Lai cho máy bay quay về Tây An. Chúng tôi hạ cánh trở lại Tây An và sau đó không lâu phải mạo hiểm lần nữa cho kịp vào hội nghị Trùng Khánh. Nhưng tiếc thay, chúng tôi càng nhân nhượng, Tưởng Giới Thạch càng lấn tới và cuối cùng “đánh đã thay cho đàm”, cuộc nội chiến một lần nữa lại xảy ra, mãi đến năm 1949 mới yên tiếng súng, nước Trung Hoa mới ra đời, Chu Ân Lai trở thành thủ tướng và ra sức hoạt động ngoại giao nhằm xác lập chỗ đứng của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Logged
hoi_ls
Thượng tá
*
Bài viết: 5098



« Trả lời #69 vào lúc: 14 Tháng Năm, 2014, 02:33:21 pm »

Năm 1960, tôi đã là thư ký cơ yếu của Thủ tướng, được cùng ông đi thăm các nước. Khi tới Việt Nam, đoàn được tin Quốc vương Campuchia vừa tạ thế, Chu Ân Lai chỉ thị chúng tôi chuẩn bị com-lê màu trắng vì sang đến Phnôm Pênh vẫn trong những ngày quốc tang của bạn. Hoàng thân Sihanouk vô cùng cảm động trước cử chỉ lễ nghĩa đó của đoàn và đưa chúng tôi về hoàng cung ăn ở trong những ngày viếng thăm Campuchia. Chu Ân Lai dặn chúng tôi hai câu “nhập gia tùy tục” và “khách tùy chủ biện”, nghĩa là khách phải nghe theo sự sắp xếp của chủ. Ngày đầu tiên Sihanouk bố trí chương trình để cả đoàn cùng đi với nhau, nhưng hôm sau thì hoàng thân tháp tùng Chu Ân Lai, còn ngoại trưởng Campuchia đi riêng với Trần Nghị. Sihanouk đưa Thủ tướng của chúng tôi ra phi trường và tuyên bố: “Hôm nay tôi xin thân hành lái máy bay phục vụ Thủ tướng Chu Ân Lai”.

Trời ơi! Hoàng thân Campuchia không đùa đấy chứ? Hồi ấy Sihanouk còn rất trẻ, đang độ hăng hái của một chàng trai, nhưng Thủ tướng của chúng tôi là ông cụ 62 tuổi, giá như Sihanouk cũng 60 tuổi thì chắc ông không hành động như vậy. Tôi phải thừa nhận là Sihanouk rất thông minh, đã vào chuyện là y như đủ khắp mọi lĩnh vực, hoàng thân còn làm thơ, vẽ tranh, sáng tác nhạc, biểu diễn văn nghệ, biết lái xe ô tô, nhưng còn máy bay thì thật bất ngờ, hôm nay mới rõ “lý lịch” và cũng lần đầu tiên vào những năm 60 nghe tin một nguyên thủ quốc gia lái được cả phi cơ. Lúc này có nguyên soái Trần Nghị thì nhất định ông sẽ ngăn cản, nhưng Sihanouk thông minh đã “tách” ông đi nơi khác và bây giờ Chu Ân Lai hoàn toàn “khách tùy chủ biện”. Chu gật đầu mỉm cười, còn tôi thì hồn vía lên tận mây xanh. Sihanouk lái máy bay đưa Chu Ân Lai đến một hòn đảo mà lúc bấy giờ luôn bị quân Mỹ và quân đội Sài Gòn uy hiếp, hoàng thân giới thiệu với dân chúng “Đây là Thủ tướng của nước Trung Hoa”, mọi người hò reo cám ơn Trung Quốc đã đến với họ. Về phương diện chính trị, Sihanouk cũng thật khôn ngoan, mặc dù hồi ấy ông còn rất trẻ, đang độ hăng hái của một chàng trai. Tôi hú vía sau chuyến bay lịch sử ấy, âu cũng là một lần thoát hiểm về mặt tâm lý.

Chu Ân Lai vào sinh ra tử, lắm phen thoát hiểm giữa mưa bom bão đạn hoặc nhiều lúc hồn vía treo chín tầng mây. Thủ tướng của chúng tôi còn kinh qua không biết bao lần giao tranh chính trị và nhờ đại trí đại dũng mà chuyển bại thành thắng, biến nguy nan thành an toàn. Tôi nhớ, vào mùa hè năm 1931, những ngày u ám của Trung Cộng, Cố Thuận Chương - cán bộ của Cục Đặc vụ Trung ương đưa Trương Quốc Đào về căn cứ địa Ngạc Dự Hoản (3 tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, An Huy), không ai ngờ hai con người này lại là hai dòng tai họa đổ xuống đầu những người cộng sản chúng tôi. Lợi dụng chủ trương “túc phản”, thanh lọc, tại căn cứ địa này Trương Quốc Đào đã cơ hồ diệt sạch hàng ngũ tướng lĩnh ưu tú của Hồng quân, mức độ tàn khốc và đen tối của cụộc thảm sát cho đến nav sau hơn 60 năm mà vẫn chưa vạch trần ra hết. Sau đó Trương phát triển tới mức phân liệt đảng, lập riêng một cơ quan trung ương, tội ác của y dân chúng tôi đều đã rõ, hà tất phải tốn nhiều lời kể lể. Còn Cố Thuận Chương tuy thời gian tác oai của hắn cực ngắn, nhưng đã gây nên sự uy hiếp cực lớn đối với an toàn của trung ương Trung Cộng mà từ trước chưa hề có.

Cố Thuận Chương là công nhân Thượng Hải, sau khi gia nhập Trung Cộng, y đã leo lên vị trí ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, lãnh đạo công tác đặc vụ, bảo vệ, nắm hết mọi địa chỉ bí mật của Đảng và những người đứng đầu lúc bấy giờ. Hộ tống Trương Quốc Đào đến căn cứ địa Ngạc Dư Hoản xong, trên đường về y bị Quốc dân đảng bắt ở Vũ Hán và đầu hàng ngay từ những đòn tra tấn mở màn. Cố Thuận Chương rắp tâm hiến kế cho Quốc dân đảng một mẻ tóm gọn đầu não của Trung Cộng. Chu Ân Lai là người chỉ huy trận phản kích này, cùng với Trần Vân, Nhiếp Vinh Trăn, Lý Khắc Nông, Lý Cường v.v... ông cho sơ tán toàn bộ địa chỉ của trung ương Trung Cộng tại Thượng Hải, nhanh chóng cắt đứt các hòm thư liên lạc với Cố Thuận Chương mà trước đây đã thiết lập. Thủ tướng của chúng tôi lúc bấy giờ thật là một con người có mưu lược, bình tĩnh nhưng rất quả cảm, nhanh nhẹn nhưng rất chín chắn.

Đặng Dĩnh Siêu - vợ của Thủ tướng, người mà chúng tôi thường gọi với cái tên yêu “chị cả Đặng”, đã kể lại câu chuyện xảy ra năm 1928, lúc chị và Chu Ân Lai cùng đi sang Mạc Tư Khoa dự đại hội đại biểu toàn Quốc lần thứ 6 của Trung Cộng, Chu là đại biểu chính thức còn chị là đại biểu dự thính. Đầu tháng 5, hai vợ chồng đáp tàu biển của Nhật rời Thượng Hải. Đến Thanh Đảo, tàu cập bến cho khách lên bờ ăn cơm, Chu Ân Lai mua đủ các loại báo bán ở thành phố đem xuống tàu ngồi đọc say sưa. Lúc bấy giờ ở Tế Nam tỉnh Sơn Đông, quân Nhật vừa gây nên vụ thảm sát mồng 3 tháng 5, giết và làm bị thương hàng ngàn người Trung Quốc, và hôm nay sự kiện bị các báo vạch mặt. Cảnh sát Nhật chăm chú theo dõi hành vi đọc báo của Chu Ân Lai, một hành khách đặc biệt, cho nên khi tàu cập bến Đại Liên, bọn chúng ngăn hai vợ chồng lại.

Chu Ân Lai bình tĩnh hỏi:

- Chuyện gì thế này, thưa các ông ?

- Anh làm nghề gì? - cảnh sát Nhật chất vấn.

- Mua bán đồ cổ - Chu Ân Lai không ngập ngừng trả lời, mặc dù trong va li của ông chẳng có lấy một mẫu vật cổ nào, nhưng từ lúc nhỏ Chu đã thành thạo, am tường về món hàng này nên có lẽ vì thế mà ông nhanh chóng đối đáp trôi chảy.

- Thế anh mua báo làm gì mà nhiều vậy?

- Trên tàu chẳng có việc gì làm, mua báo đọc tiêu khiển.

- Anh chị đi đâu?

- Cát Lâm?

- Lên Đông Bắc có việc gì?

- Thăm người cậu!

- Anh đi theo chúng tôi - viên cảnh sát trưởng hạ lệnh.

- Đi đâu?

- Về đồn cảnh sát!

Đặng Dĩnh Siêu hốt hoảng:

- Cho em đi với.

Chu Ân Lai quắc mắt quyền uy như bao đức ông chồng lúc bấy giờ, quay sang quát “Tiểu Siêu”:

- Nhà nó chẳng phải đi đâu cả, đến đó để làm gì? - Đoạn, ông trình bày lại với cảnh sát:

- Tôi sẽ đi theo các ông, nhưng trước tiên xin các ông thuê giùm cho chúng tôi phòng trọ, nhà tôi sẽ tạm trú ở đó, xong việc tôi còn biết chỗ mà tìm cô ta.

Ba tên cảnh sát nhìn nhau, khá khen cho con người khôn ngoan và tự tin này, chúng đành thuê phòng trọ cho Đặng Dĩnh Siêu, rồi mới đưa Chu Ân Lai về đồn.

- Cậu anh họ gì?

- Họ Chu.

- Tên gì?

- Mạn Thanh.

- Làm gì?

- Chuyên viên sở tài chính của tỉnh.

Chu Ân Lai trả lời lưu loát, dứt khoát, nhưng viên cảnh sát vẫn giảo hoạt khiêu khích:

- Chắc bây giờ anh đã quên mất họ tên của mình rồi?

- Tôi họ Vương như đã trình bày ông lúc nãy.

- Cậu anh họ Chu, sao anh lại là họ Vương?

Chu Ân Lai cười to:

- Thưa tiên sinh, ngài vẫn chưa phân biệt được cậu và chú ở nước chúng tôi hay sao, chú là em cha, cậu là em mẹ, nên họ hàng khác nhau bên Vương bên Chu, không giống như người Tây dương đều xưng mình là “uncle”.

- Nhưng tôi xem anh không phải là họ Vương mà là Chu, không phải đi buôn đồ cổ mà làm lính.

- Ông trông đôi bàn tay tôi, có đúng là lính không?

Viên cảnh sát rút hộc bàn nhìn vào một tấm cạc và lẩm bẩm ba chữ: Chu Ân Lai, rồi quát lớn:

- Anh là Chu Ân Lai!

- Tôi không rõ ông nói gì, tôi họ Vương, người Hoài An, các ông có căn cứ gì bảo tôi là Chu Ân Lai.

Viên cảnh sát im lặng, và dùng thủ đoạn tra hỏi lần nữa, nhưng Chu Ân Lai trả lời không sai một chữ, khớp với ban đầu. Cuối cùng hắn đành thả Chu:

- Xin lỗi tiên sinh, chúng tôi nhầm.

Chu Ân Lai bình tĩnh xem đồng hồ:

- Trễ của chúng tôi gần hai giờ rồi, dám phiền ông mua giúp cho hai vé xe lửa đi Trường Xuân.

- Vâng, làm ông bà vất vả quá.

- Cám ơn, chúng tôi chờ vé ở phòng trọ.

Lần ấy, Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu an toàn rời khỏi Đại Liên, tiếp tục hành trình sang Mạc Tư Khoa dự đại hội 6 của Trung Cộng.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM