Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 02:23:51 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Tảng sáng  (Đọc 38622 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 02:56:26 pm »

Nguồn: http://vuontaodan.net/thuviensach/?vtd=tacpham&tid=00414&pid=968&tacgia=V%C3%B5%20Qu%E1%BA%A3ng

1

Thằng Cù Lao theo anh Sáu ra ở ngoài Đà Nẵng để học tập. Nhưng Đà Nẵng lại không yên. Hết bọn lính của Tưởng Giới Thạch đến đóng, lại đến lính Pháp đến kiểm soát việc rút lui của quân đội Nhật. Chúng có nhiều âm mưu đen tối. Anh Sáu phải cho thằng Cù Lao về lại Hoà Phước ở với anh Bốn Linh để tiếp tục việc học tập. Chú Năm Mùi gặp nó cười hì hì:

- Về đó hả? Hay lắm! Đang cần có chú!

Chú Năm Mùi nhìn sang phía tôi:

- Cả thằng Cục nữa, cũng đang cần mày. Cách mạng đổi đời, chúng mày thăng chức mau đã dữ! Trước đây là chăn trâu, sau được thăng chức làm học trò. Sẽ được thăng làm thầy! Sướng chưa!

Trước đây bốn tháng, tôi chăn con trâu Bĩnh. Mọi người gọi tôi bằng thằng, thằng Cục. Sau đó, tôi được đi học, mọi người gọi tôi bằng trò, trò Nguyễn Văn Cục. Nay lại được làm thầy, thầy Nguyễn Văn Cục! Tôi ngờ ngợ, không tin ở lỗ tai mình. Tôi hỏi chú Năm Mùi:

- Thầy chi chú?

Chú Năm Mùi nói lơ lửng:

- Thầy, chớ còn thầy chi nữa! Thôi biết vậy cái đã. Tao đang búi xồm xồm! Còn phải đi họp, còn phải xuống lò rèn, còn phải lên xã... đi cái đã...

Nói xong, chú Năm Mùi vội vàng rút cái xắc quàng lên vai, quày quả bước ra ngõ.

Thằng Cù Lao cũng không tin mình có thể tiến bộ một cách vượt bậc như vậy. Ở ngoài hải đảo nó đi bắt cá. Mọi người gọi nó bằng thằng. Về làng nó được đi học. Mọi người gọi nó bằng trò, trò Cù Lao. Nay được làm thầy! Tôi và thằng Cù Lao không dám nghĩ được làm thầy dạy học, một vinh dự quá lớn! Muốn được làm thầy dạy học, phải hiểu nhiều biết rộng, đi đứng phải nghiêm trang. Thằng Cù Lao hỏi tôi:

- Không biết bọn mình làm thầy chi? Ở ngoài cù lao Chàm cũng có người làm thầy. Ông lang làm cao đơn
hoàn tán được gọi bằng thầy...

Tôi cố nhớ những người làm thầy:

- Ở đây cũng có nhiều thầy. Thầy bói xem quẻ biết được tiền của, vợ con, công danh, tôi tớ thế nào. Thầy tướng xem mặt mũi biết được người nói láo hay không nói láo. Thầy cúng đuổi được ma quỷ. Thầy đồng làm vong hồn người chết được nhập cốt. Nhưng tất cả đều láo toét! Uỷ ban sẽ cấm hết, cả mấy ông thầy kiện hay đâm thọc cũng phải bỏ nghề. Chúng ta không làm những thầy đó!

Tôi chợt nhớ đến mấy ông thầy chùa vẫn còn tụng kinh gõ mõ. Các ông thầy chùa phải bị cạo trọc. Nhớ đến cái đầu trọc là tôi hoảng kinh. Chính con dao cạo của ông Bảy Hoá đã gây cho tôi biết bao đau khổ! Ông Bảy Hoá có cái thú được cạo trọc đầu người khác, hoặc ông không thích người ta có tóc. Thỉnh thoảng, ông đi ngang qua nhà tôi, nói thật to, cốt để mẹ và chị Ba tôi nghe rõ:

- Ơ kìa! Cái tóc của thằng Cục tốt như rừng rậm kìa!

Mẹ và chị Ba cũng kêu lên:

- Tóc mày tốt rồi đó, để ông Bảy cạo đi!

Tôi vùng vằng:

- Không cạo đâu!

Ông Bảy Hoá cười khẹc khẹc:

- Có cạo thì tốt cho mày chớ có tốt cho tao đâu. Để vậy cũng được! Nhưng cái gương đây, soi thử coi.
Ông Bảy Hoá móc trong hầu bao ra một cái gương tí xíu chìa cho tôi. Tôi soi gương. Tóc của tôi có dài, nhưng chưa dài lắm. Tôi tản đi nơi khác, giả vờ bận đưa trâu Bĩnh ra sông uống nước.

Lần sau gặp tôi, ông kêu to hơn:

- Tóc mày búi được rồi đó! Búi lên một cục như đứa con gái! Cạo hay không cạo kệ mày. Nhưng cái gương đây cho mày soi thử, coi!
« Sửa lần cuối: 16 Tháng Ba, 2021, 12:25:51 pm gửi bởi ptlinh » Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #1 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 02:58:16 pm »

Cái gương chỉ thẳng tôi thấy tóc đã phủ xuống cổ. Tóc dài nom kì quá! Tôi đành ngồi xuống. Ông Bảy Hoá cười hì hì, lấy nước vỗ vào đầu tôi. Ông rút con dao cạo trong bao, liếc liếc vài cái vào ống quần rồi bắt đầu cạo. Mỗi nhát dao cạo làm tôi cứ tưởng mỗi miếng da đầu của tôi bị lóc. Xót quá, tôi co rúm người lại.

Ông Bảy ngừng tay:

- Thằng nhát như cáy!

Tôi nghiến răng, ngồi yên. Nhưng xót quá, tôi đẩy tay ông Bảy ra, đứng dậy. Ông Bảy cười to nắm chắc phần thắng:

- Mặc kệ mày! Để vậy cũng được! Tao cũng chẳng muốn cạo nữa đâu. – Ông vừa nói vừa xếp con dao cạo.

Tôi lấy gương dòm vào. Còn lại một mảng tóc ở ngay bên tai, nom kì quặc quá! Tôi đành ngồi lại để ông
Bảy cạo nốt. Cái đầu tôi trắng hếu.

Sau ngày cướp chính quyền, một hôm, chị Ba tôi nói với mẹ:

- Thằng Cục cạo trọc, thấy nó hoá dữ. Cách mạng lên rồi. Phải đi cúp tóc để ngó cho văn minh mới được!
Tôi được đến hiệu để cắt tóc. Thằng Cù Lao bảo nó cũng được cách mạng giải phóng, khỏi bị cạo trọc đầu. Khi cạo trọc xong, nó xuống biển tắm. Nước mặn dưới biển ngấm vào nghe xót như cắt.

*

*   *

Tôi và thằng Cù Lao đến nhà chú Năm Mùi để hỏi thăm về việc làm thầy. Nhưng anh Bốn Linh và thầy Lê Hảo đã ngồi ở đó. Chú Năm Mùi tiếp tục câu chuyện đang trao đổi:

- Anh Bốn là chỉ huy tự vệ. Đã là quân sự thì phải lo dẹp cho hết các thứ giặc. Nay Cụ Hồ chỉ cho dân thấy có ba thứ giặc: giặc dốt, giặc đói, giặc xâm lăng. Giặc xâm lăng chiếm nước ta tám mươi năm, giặc đói cũng vậy. Riêng giặc dốt chiếm nước ta đã nghìn năm. Vua chúa ngày trước đều bó tay, nay cách mạng về mới dám cử đại binh để tiêu diệt.

Thầy Lê Hảo gật gù:

- Chí lí! Chí lí!

Anh Bốn Linh hỏi:

- Vậy đánh đâu trước? Đánh thế nào đây?

Chú Năm Mùi quả quyết:

- Đánh hết và đánh mạnh! Ở đất này mọi người đều dốt đặc, nhưng lại làm biếng nổ trời.

Làm biếng kiếm chuyện nói quanh. Bà Bảy Đá hỏi tôi: Học để làm chi? Chữ nghĩa không làm no bụng. Lắm người, dạ đầy chữ, bụng lại đói meo. Chỉ có tiền! Tiền mới làm no bụng. Tiền là ông chủ, có tiền mới sai khiến được thiên hạ. Bà nói tiền là cái địa bàn, hết tiền là mất phương hướng. Ông Kiểm Lài lại nói khác. Cái gì cũng không qua cái số. Được cái số thì không học cũng giỏi. Không được cái số thì học mấy cũng u mê. Thánh nhân giỏi từ trong bụng mẹ. Cái số ông dốt, ông đành chịu dốt.

Anh Bốn Linh tiếp theo:

- Chín người mười cuống họng!

Ông Nguyên dạy thế võ cho đội tự vệ lại nói: Đã là thầy thì cái chi cũng phải hơn trò. Thầy dạy cho ông học phải giỏi võ, vì ông Nguyên giỏi võ. Văn võ kiêm toàn mới làm thầy ông được. Thầy dạy lớp bình dân ở thôn ông chỉ là thằng con nít. Như vậy chướng quá, ông không thèm học!

Mọi người cười hà hà. Thầy Lê Hảo cắt nghĩa:

- Cũng vì ta chưa nói cho bà con nghe rõ sự lí. Phải khai thông cái “trí” thì tai nghe mới thuận. Nghĩ vậy, tôi có làm bài thơ, nói sự lí đó.

Thầy Lê Hảo đã xuất khẩu là thành thơ. Thầy nói đọc ê a: “Nay Cách mạng thành công, sông núi xuất anh hùng, giang sơn liền một mối. Ống thiên lí xa soi nghìn dặm, muôn trí khôn dồn lại một bầu. Vậy nên già trẻ nghèo giàu, ai cũng phải diệt loài giặc dốt”!
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #2 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 02:59:00 pm »

Chú Năm Mùi và anh Bốn Linh đề chép miệng khen hay. Chỉ có câu “Muôn trí khôn dồn lại một bầu”, nghe chưa sướng. Vì khi cách mạng đã thành công, phải để trí khôn toả ra, không nên bắt trí khôn dồn lại.
Anh Sáu đã giảng giải: nước ta trước đây là một nhà tù lớn. Mọi người đều bị giam hãm trong dốt nát, trong áp bức, trong nghèo nàn, trong mê tín dị đoan. Nay cách mạng đã về, cách mạng phải mở rộng ra, phải giải phóng, không nên dồn lại. Anh Bốn xin bỏ câu “Muôn trí khôn dồn lại một bầu” và thế vào bằng câu “Mang trí khôn mở rộng cuộc đời”, thay chữ “dồn” bằng chữ “mở”.

Chú Năm Mùi, cả thầy Lê Hảo đều gật gù khen chữ “mở” đã làm cho bài thơ càng tuyệt diệu.

Anh Bốn Linh ra dáng suy nghĩ:

- Nhưng còn thầy dạy, lấy đâu cho đủ?

Chú Năm Mùi như đã sắp xếp từ trước:

- Thầy giỏi đã có anh Bảy Hoành. Anh có cả một thùng sách. Thầy xóm dưới đã có thằng Tân, nó là đội
viên, vừa siêng năng vừa thông thái...

Chú Năm Mùi nhìn về phía tôi và thằng Cù Lao:

- Ta đã sẵn hai chiến sĩ diệt dốt kia. Chú Cù Lao học đã thành tài, nay sung vào đội quân diệt dốt là đúng!
Chú Cục kia nữa, đã tốt nghiệp lớp ba tháng. Hai chú đều văn hay chữ tốt. Địa lí, lịch sử, cái chi cũng đều giỏi cả. Nay được thăng làm thầy là phải.

Anh Bốn Linh nhìn thẳng vào tôi và thằng Cù Lao:

- Đánh giặc ngoại xâm thì chưa đến tuổi tòng quân. Đánh giặc đói thì cầm cày chưa vững. Đưa đi đánh
giặc dốt là đúng lập trường!

Chú Năm Mùi như sực nhớ một việc quan trọng:

- Còn như bà Hiến, ban đêm cứ thấy một bóng đèn thành hai bóng đèn, đến lớp không được. Hoặc ông Bốn
Rị ban đêm phải làm thịt chó. Phải có thầy đến dạy tại nhà, làm vậy mới diệt được hết ổ giặc.

Anh Bốn Linh kêu lên:

- Phải! Rất phải! Tôi cứ quên Bà Hiến suốt đời đói khổ, ông Bốn Rị cực chẳng đã mới bán thịt chó. Chú Năm
nói phải! Cách mạng phải nhớ đến họ... Ta phải cử thày đến dạy...

Anh Bốn Linh nói xong vội vã cùng thầy Lê Hảo ra về. Chú Năm Mùi ngồi lại phân công ngay cho thằng Cù
Lao ban ngày phải đến dạy bà Hiến học, còn tôi ban ngày phải đến dạy ông Bốn Rị học. Vừa nghe chú Năm
phân công tôi phải dạy ông Bốn Rị, tôi giật nảy:

- Ối! Cái ông Bốn Rị...

- Ông Bốn Rị, thì sao?

- Người ta cười tôi đó! Tôi đi dạy một lão bán thịt chó!

Tôi khịt mạnh:

- Lão nghe hôi lắm!

Chú Năm Mùi nhìn thẳng vào mắt tôi:

- Lạ hè! Tao ngồi gần ông, tao chẳng nghe có hôi hám chi cả, nghe thơm là khác. Mày đến bên ông hít hít vài cái thử coi. Người ta tưởng bậy đó thôi. Mày đã là chiến sĩ diệt dốt. Đã là chiến sĩ thì dù giặc dữ cũng phải xông vào, sợ chi cái hôi hám!

Tôi đang phân vân, chợt thằng Cù Lao cười nói:

- Cục không quen mùi thịt chó, cứ để ông Bốn Rị tôi lo. Còn Cục lo cho bà Hiến.

Tôi thở phào.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #3 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 03:01:26 pm »

2

Vùng tôi trước đây không ai thèm ăn thịt chó, không phải vì có nhiều thịt. Không ăn thịt chó vì một thành kiến, thành kiến đó sau ngày Tổng khởi nghĩa còn khá nặng nề. Người ta có thể ăn thịt rắn, thịt chuột, thịt cóc, ăn cả những gì dạ dày không cho phép, cũng chẳng ai dị nghị gì cả. Nhưng nếu ăn thịt chó thì, ôi thôi, tất cả uy tín đều tiêu tan! Người đó bị xem là đứa phàm ăn. Mọi người đều tin thịt chó là loại thịt ô uế. Thịt chó vào bụng sẽ làm mất hết cái tinh khiết của con người. Nguy hại nhất là lúc chết! Người ăn thịt cho khi chết phải xuống địa ngục, phải qua mười cửa điện Diêm Vương, phải chịu những nhục hình ghê rợn. Chỉ một lát thịt cho trôi vào bụng thì cửa ngõ chốn âm ti đã sẵn sàng chờ đón, dù lòng từ bi của Phật tổ có rộng như biển cũng không phương cứu xét. Có người thoáng nghe mùi thịt chó đã nổi nôn oẹ, cơm canh đã nuốt vào bụng đều tuôn ra hết. Những người như vậy được xem như có cốt tiên cốt Phật, sau này chết đi sẽ được lên ở cõi thần tiên vô cùng sung sướng.

Làng tôi trước kia có ông Bốn Rị làm nghề bán thịt chó, ông ăn thịt chó, lại còn giết chó lấy thịt đem đi bán. Lũ chó bị ông giết biến thành ma chó quay lại báo thù.

Ông Bốn sống thui thủi một mình. Mọi người tin ở ông toát ra một mùi thịt chó rất lợm. Tôi và lũ chăn trâu trong làng khi gặp ông Bốn Rị liền tránh xa ra một bên. Khi ông vừa đi qua, chúng tôi ù té bỏ chạy, vừa chạy vừa khạc nhổ: Ôi! Hôi lắm! Hôi lắm!

*

*   *

Bọn chó đánh mùi ông Bốn Rị rất giỏi, ông vừa đến đầu làng, chó giữa làng đã nổi sủa. Ông đến giữa làng, cho cuối làng nổi sủa. Tiếng chó sủa dấy lên từ xóm này sang xóm khác. Chúng tru tréo, gào thét, cố khạc cho hết mật đắng vào người ông. Từ những con chó chỉ biết yêu thương, chỉ biết trả lại những gậy suýt chết bằng những cái ngoắc đuôi đầy tình nghĩa, cho đến những con chó siêng năng suốt ngày đêm để lo giữ trộm, hễ nghe tăm ông Bốn đều nhảy xổ ra sủa. Từ những chó già gầy guộc, rụng lông, giơ xương, cả rận và bọ chét cũng không thèm ở chung với chúng, cho đến những con chó tròn trĩnh, béo tốt, khi đánh hơi có ông Bốn đều nổi giận, nhảy xổ qua rào, vừa phóng vừa sủa. Những con chó sủa không đâu, những con chó biết giấu kín sự căm giận, biết nép mình trong xó bụi để cắn trộm tất cả, khi đánh hơi biết có ông Bốn Rị đều vụt chạy, sủa toáng lên như bị gậy nện vào đít. Con Mốc nhà bác Úc biết ngủ có chỗ, biết sủa có lúc, bác Úc thường nói: “Con Mốc nhà tao đã sủa thì nhất định có trộm”, khôn ngoan đến vậy, khi nghe có ông Bốn Rị cũng hoá điên, phóng cả vào cọc, ngã lăn kềnh, ra sức chạy để sủa. Con Mun nhà ông Kiểm Lài, suốt ngày sục sạo tìm kiếm, khi nghe tăm hơi ông Bốn đều vứt hết, phóng qua bờ tre gai, đuổi cho kì được ông Bốn. Con Vá nhà bà Hiến, chăm đuổi gà, không gây sự, khi có chó lớn chạy đến, nó ngoắc đuôi nằm rạp len lén bỏ đi, khi có ông Bốn bỗng hoá mãnh liệt, chân choãi về trước, đuôi kẹp vào chân sau, gào rống. Tất cả rượt đến, vây quanh ông Bốn, như muốn ngoặm cổ, xé xác ông ra mới hả dạ. Chúng nhảy tới, thụt lui, lồng lộn tru tréo làm náo động cả làng. Ai cũng lầu bầu:

- Lại ông Bốn Rị bán thịt chó!

Bọn trẻ con đang chăn trâu ngoài bãi cũng vụt chạy:

- Lão Bốn Rị bay ơi! Mau đến coi!

Tôi gọi thằng Cù Lao cùng thả trâu vụt chạy. Tất cả vừa chạy vừa nhặt đất. Chúng tôi nép vào một bụi kín. Ông Bốn từ xa tiến đến, tay cầm một roi tre, tay xách một rổ thịt chó. Ông bước thủng thỉnh, vẻ im lìm như một bóng ma. Tôi với mấy thằng mất dạy tung đất. Đất rơi ào ào. Ông thét to:

- Ốí, ối! Bể đầu tao rồi, chúng bay ơi!

Tôi và lũ trẻ bỏ chạy. Tôi chạy đến nép sau cây duối đứng nhìn lại. Ông Bốn vứt rổ, ngồi bệt xuống đất, hai tay ôm lấy trán. Thằng Cù Lao chạy lại bên ông. Nó đang nói gì với ông. Nó cúi nhìn vào trán, vào mặt của ông, lấy tay phủi phủi. Tôi gọi to:

- Cù Lao ơi!

Nhưng thằng Cù Lao đã cúi xuống xách rổ thịt. Nó cùng ông Bốn đi về một phía.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #4 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 03:02:11 pm »

*

*   *

Theo sự phân công của chú Năm Mùi, tôi dạy cho bà Hiến là chính, thằng Cù Lao dạy cho ông Bốn Rị là chính, nhưng hai đứa phải giúp nhau.

Ai cũng biết tôi và thằng Cù Lao sẽ đi dạy học, sẽ làm chiến sĩ diệt dốt. Chị Ba, anh Bốn gặp chúng tôi đều có lời khuyên bảo, nhất là chị Ba. Chị dạy:

- Em của chị đã làm cán bộ rồi đó! Không còn là con nít nữa đâu. Từ nay đi đứng phải nghiêm trang, nói năng phải từ tốn. Chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là không làm thầy được đâu. Phải nói cho bà Hiến hiểu về chủ trương diệt dốt. Phải biết tuyên truyền giải thích, tập làm cán bộ cho quen. Nói như thế này: Kẻ không học cũng như người mù. Kẻ mù khi đi phải bị vấp ngã, có lúc rơi tõm xuống sông chết nhăn nanh!

Nói đến đây, chị Ba thấy cách giải thích như vậy nghe hơi quá, chị chữa lại:

- Hay nói thế này: Học một chữ đáng nghìn vàng, dù không chức phận cũng nhàn tấm thân!

Chị Ba chỉ vào tôi, vẻ quan trọng:

- Nhớ phải dọn dẹp nhà cửa, gánh nước nấu cơm cho bà Hiến và ông Bốn Rị nghe chưa? Đó gọi là “làm công tác quần chúng”. Còn phải biết kể chuyện thời sự để làm cho họ nhìn xa thấy rộng, nghe chưa? Phải làm cho họ không còn bị “giam hãm” như trước đây, nghe chưa?

Về chuyện thời sự, chuyện ở năm châu bốn bể, anh Bốn Linh và chú Năm Mùi rất quan tâm, vì chính những chuyện đó là những “ống thiên lí xa soi nghìn dặm, mang trí khôn mở rộng cuộc đời” như lời thơ của thầy Lê Hảo đã nói. Chị Ba nhìn tôi một loạt từ đầu đến chân:

- Mặt mày phải nhớ rửa cho sạch. Này cái gương đây, chị cho mượn. Mặt bị vết nhọ phải soi gương mới biết.

Chị Ba hồ hởi:

- Phải công tác cho giỏi để trở thành cán bộ, đứng giữa hội nghị diễn thuyết làu làu mới thiệt là thích!
Tôi và thằng Cù Lao đã sẵn sàng mọi việc.

Chiều bắt đầu xuống. Ráng chiều làm đỏ ối cả dòng sông Thu Bồn. Về phía tây, cây sung đầu làng như ngập trong lửa. Bãi dâu sẫm lại, nhoà dần vào bóng tối. Tôi vội đánh trâu Bĩnh về chuồng. Còn phải đến nhà bà Hiến để... giải thích và khai giảng. Chú Năm Mùi đã bảo: Phải tập giải thích cho quen.

Thằng Cù Lao tối nay cũng đến gặp ông Bốn Rị. Tôi sang nhà anh Bốn Linh rủ nó cùng đi. Ra đến ngõ gặp chú Năm Mùi. Chú chắp tay chào:

- Chào thầy Cục! Chào thầy Cù Lao! Hai thầy đi khai giảng phải không?

Tất cả cùng cười. Tôi rẽ sang nhà bà Hiến. Bà Hiến đang ngồi kéo vải. Nghe tiếng động, bà ngước lên:

- Ai đó?

- Tôi đây!

Tôi khệ nệ bước vào. Chị Ba đã dặn tôi đi đứng phải nghiêm trang. Trước tiên, phải tuyên truyền giải thích. Tôi định lặp lại lời chị Ba: Bà phải học cho biết chữ, vì “một chữ đáng nghìn vàng, dù không chức phận cũng nhàn tấm thân”. Nhưng chợt tôi thấy cách nói như vậy nghe đột ngột và thấy lôi thôi! Tôi nghĩ phải tìm một câu nói hay hơn. Tôi nhớ đến câu của thầy Lê Hảo: “Học hành cũng như cái ống thiên lí xa soi nghìn lối”. Nhưng câu đó chợt thấy khó hiểu. Tôi cố tìm một câu khác, nhưng loay hoay mãi không tìm ra. Một phút, rồi năm ba phút trôi qua. Tôi nhìn bà Hiến. Trước mặt tôi là một người học trò già, da bà đã bắt đầu nhăn nheo. Tôi hơi ngượng. Lạ thật! Khi đến chơi nhà bà Hiến để tán phét thì tôi ba hoa đến mấy cũng được. Đến khi có ý đồ, tôi lại ngượng ngập, nói không ra hơi. Mới hay đi làm cán bộ như anh Bốn Linh cũng không phải dễ.

Bà Hiến thấy tôi cứ im lặng mãi, ngước lên hỏi:

- Có việc chi đó?

Đang lúc bí, tôi nói vu vơ:

- Chơi thôi!
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #5 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 03:02:59 pm »

Nói xong, tôi mới biết mình nói láo. Tôi không có ý trả lời như vậy. Tôi càng ngượng, cứ ngồi im, đưa mắt nhìn lên trên giàn.

Bà Hiến nhìn theo lên giàn:

- Có mấy trái bồ quân để trên giàn, muốn ăn cứ lấy mà ăn.

Có lẽ bà Hiến tưởng tôi muốn vòi bồ quân, nhưng không dám nói nên cứ ngồi im. Tôi nghe giận, cũng không biết giận bà Hiến hay giận mình. Tôi trả lời gọn lỏn:

- Không thèm ăn đâu!

Bà Hiến ngạc nhiên lại ngước nhìn tôi. Bà nói khe khẽ như chỉ để mình bà nghe:

- Làm lành với nhau thì hơn. Cũng bạn bè với nhau cả. Rủi có bị nện, cũng nên xí xoá!

Thì ra bà Hiến tưởng tôi vừa bị bọn chăn trâu đánh đau nên vẻ mặt sa sầm. Quả thật dạo đó tôi hay vật lộn với bọn chăn trâu. Khi nổi khùng có tặng nhau những đấm đá.

*

*   *

Tôi đem việc bà Hiến nói với thằng Cù Lao. Thường lúc tôi bị xẹp, nó giúp tôi lên dây cót. Nó với tôi nhất trí phải dồn tất cả những câu hay nhất của chị Ba, chú Năm Mùi để nói bà Hiến hiểu. Thằng Cù Lao sẽ theo tôi đến nhà bà Hiến để trợ lực.

Chiều xuống, ếch nhái bắt đầu kêu ran. Tôi và thằng Cù Lao kéo đến bà Hiến. Vào nhà, vừa ngồi xuống, tôi đọc liền một hơi những câu đã thuộc. Cuối cùng, tôi kết luận là nhất định bà Hiến phải học, vì học một chữ đáng giá nghìn vàng... Tôi đã nói xong, nhưng nét mặt bà Hiến vẫn thản nhiên. Một nếp nhăn nhỏ nhất trên trán bà cũng không động đậy. Cái xa kéo sợi vẫn quay rè rè, sợi chỉ vẫn tòi ra từ đầu con cúi. Một chốc sau, bà Hiến đủng đỉnh nói:

- Học một chữ đáng giá nghìn vàng, nếu vậy bà có đến mấy triệu bạc. Bà biết đến mấy ngàn chữ.

Chợt bà dừng xa kéo sợi:

- Nếu các trò không tin, bà đọc cho mà nghe. Này, thiên nghĩa là trời, địa nghĩa là đất, cử là cất, tốn là còn, tử là con, tôn là cháu, lục là sáu, tam là ba, gia là nhà, quốc là nước, tiền là trước, hậu là sau...

Bà Hiến cứ đọc thao thao bất tuyệt:

- Thấy chưa? Bà không chỉ biết một chữ mà biết đến ba ngàn chữ. Đó là chữ của thánh hiền, chữ của ông bà để lại. Cứ mỗi chữ đáng giá nghìn vàng tính ra bà có ba triệu đồng vàng. Thế sao không có một xu dính túi? Suốt đời cực khổ, nay cách mạng về, bà mới có cái nhà, cái xa kéo sợi.

Tôi cãi lại:

- Đó mới là biết chữ một, chữ nào nghĩa ấy. Thầy Lê Hảo nói: Biết chữ là phải biết đọc cả câu. Mỗi câu phải là lời lẽ của thánh hiền. Còn phải biết viết nữa.

Bà Hiến cười:

- Ừ, bà cũng viết được đây này. Chữ nhất là một thì ngang một ngang. Chữ nhị là hai thì ngang hai ngang.
Chữ tam là ba thì ngang ba ngang. Chữ thập là mười thì ngang ngay sổ thẳng này...

Bà Hiến vừa nói vừa lấy ngón tay trỏ vạch trên chiếc mủng.

- Còn lời lẽ thánh hiền?

- Lời lẽ thánh hiền, bà cũng học hết.

Nói xong, bà Hiến nổi lên đọc ê a, giống những ông đồ ê a lúc giảng sách: “Quan quan thư cưu. Tại Hà chi châu. Yểu điệu thục nữ. Quân tử hảo cầu”. Nghĩa là đức thánh ngài nói rằng: “Oà, oà! Con chim thơ cưu! Tại chưng doi sông Hà. Yểu điệu người con gái nhà lành. Người quân tử hảo cầu...”
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #6 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 03:03:45 pm »

Tôi cãi lại:

- Chẳng có nghĩa lí chi cả! Chim chi là chim thư cưu? Bà đi hỏi khắp thiên hạ thử có chim chi là chim thư cưu! Thục nữ nghĩa là chi? Phụ nữ mới đúng. Đó không phải là chữ nghĩa thánh hiền.

Bà Hiến nhìn thẳng vào tôi:

- Thế đây có phải là chữ nghĩa thánh hiền không hả? “Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ? Nhơn bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ?” Đức thánh ngài nói rằng: “Có bạn hữu từ phương xa đến, lại không vui ôi? Người không biết mình mà mình không giận, cũng chẳng phải là kẻ quân tử ôi?” Nghĩa lí thánh hiền rành rành như đó. Trò Cù Lao từ xa ngoài biển về, trò Cục há chẳng vui sao? Bọn chăn trâu không biết trò Cục, chẳng thèm coi trọng, đã nện cho trò Cục một cục u! Nhưng trò Cục không giận. Đó chẳng phải là kẻ quân tử ôi?

Tôi không ngờ bà Hiến lại giỏi chữ nghĩa thánh hiền đến vậy! Tôi đuối lí, đưa mắt nhìn thằng Cù Lao, ra hiệu để nó giúp đỡ. Thằng Cù Lao đang nhìn bà Hiến đầy vẻ thán phục. Bà Hiến tiếp tục tấn công:

- Bà không chỉ thuộc sách thánh hiền mà còn thuộc cả tiếng Tây nữa. Này, nghe đây: Toa với moa gá nghĩa a-mi, tình bạn hữu đờ-puy lông-tấn, sau những buổi cô-dê dài ngắn, đã biết rằng vu-đết bông cai...

Tôi kêu lên:

- Tây không ra tây, ta không ra ta! Đã là chữ Tây, răng lại có chữ “gá nghĩa”, chữ “bạn hữu”, chữ “dài ngắn”? Chẳng có nghĩa lí chi cả!

Bà Hiến cười:

- Nghĩa lí là thế này: Mày với tao gá nghĩa bạn bè. Tình bạn hữu đã lâu rồi đó. Sau những buổi chuyện trò dài ngắn. Đã biết rằng tốt bụng với nhau... Có phải giữa trò Cục và trò Cù Lao đã gá nghĩa bạn bè, có củ khoai trái bắp đều chia nhau...

- Nhưng cũng không phải tiếng Tây!

Cột sống bà Hiến chợt dựng thẳng lên, giọng quả quyết:

- Toàn chữ Tây, bà đây cũng không thiếu – Bà Hiến nói giòn tan: - Ma-đam vớ-nê đơ Hoà Phước.
Ma-cà-bông. Moa-xi-nhan me-xừ lơ côm-mít-xe. Nghĩa là: Mụ này ở Hoà Phước đến. Đi lang thang. Tôi trình quan cẩm.

Tôi và thằng Cù Lao nhìn bà Hiến, mồm há hốc. Ví thử bà Hiến đột ngột biến thành một nàng tiên, hai vai mọc cánh bay vút lên cao cũng không làm chúng tôi ngạc nhiên đến thế! Tiếng nói bà Hiến như từ xa vang lại:

- Hai trò cứ mời người giỏi tiếng Tây đến đây sát hạch, coi phải đúng tiếng Tây không?

Bà cười thắng trận:

- Thế còn chi phải học nữa đâu!

Thằng Cù Lao không chịu rút lui:

- Đó mới là chữ nho và chữ Tây. Phải học chữ quốc ngữ kia. Chữ quốc ngữ bà chưa biết.

- Hồi trước, ông bà mình có ai thèm học chữ quốc ngữ đó đâu! Nó có móc, có gai lòng thòng coi dễ sợ!
Không như chữ nho của ông bà mình, mềm mại. Cái bút lông của mình như cái búp măng, có đâu như cây bút sắt đâm lủng bụng!
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #7 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 03:04:27 pm »

Bà giảng tiếp:

- Chữ quốc ngữ là chữ hồi thằng Tây đến. Ông bà ngày trước chỉ học với cây bút lông. Các trò cứ hỏi thầy Lê Hảo, có phải bà nói có chứng có cớ không?

Tôi đợi thằng Cù Lao cho ra cái gì thật sắc bén, đánh gục bà Hiến bắt phải quy hàng. Nó vẫn lặng thinh, chẳng có lí lẽ gì chọi lại.

Ngoài sông chợt vang lên tiếng đò gọi khách xuôi phố: “Ai xuôi đò ò...?”. Tiếng gọi đò vang vọng tràn khắp bãi dâu. Tôi nháy thằng Cù Lao, lặng lẽ rút lui.

*

*   *

Tôi và thằng Cù Lao gặp chú Năm Mùi nói tất cả những việc vừa xảy ra: Nào là bà Hiến biết đến ba ngàn chữ, đọc một lèo. Nào là bà Hiến thuộc hết sách vở thánh hiền, nghĩa lí vô cùng thâm thuý. Bà còn nói tiếng Tây như bắp rang...

Tôi và thằng Cù Lao càng trầm trồ bao nhiêu thì chú Năm Mùi càng phớt lờ bấy nhiêu.

Chú nói:

- Có chi đâu lạ! Bà Hiến ở đợ cho nhà giàu, nhà giàu rước thầy dạy chữ nho cho con cháu học. Nghe học trò ê a đọc sách, bà nhớ hết. Bà nhớ tài lắm. Trước đây bị đói bà mò ra ngoài Đà Nẵng kiếm ăn. Đi lang thang bị lính cu-lít bắt nộp thằng cò. Chúng nó nói tiếng Tây, bà cũng nhớ được. Bà nói như thế này chớ chi: “Ma-đam vớ-nê đờ Hoà Phước. Ma-cà-bông. Moa xi-nhan me-xừ lơ côm-mít-xe”. Bà chưa chịu học là vì bọn bay chưa biết cách nói. Chỉ nói thế này: - Nay mai, người ta sẽ ngăn cổng vào chợ. Người nào biết đọc chữ quốc ngữ họ mới để vào. Nói vậy là bà học ngay. Việc dễ như chơi, sao rối lên vậy?

Tôi và thằng Cù Lao lại đến nhà bà Hiến. Tôi cho ra ngay câu nói của chú Năm Mùi:

- Nay mai người ta ngăn chợ. Ai biết chữ quốc ngữ mới được vào chợ!

Bà Hiến ngừng xa kéo sợi:

- Ai nói đó?

- Lệnh trên đó! Chú Năm Mùi cho biết. Ai dám nói sai. Bà cứ hỏi chú Năm coi.

- Người không đọc được chữ quốc ngữ thì răng?

- Thì đứng ngoài cổng rồi về thôi! Lệnh nghiêm lắm!

Bà Hiến ngồi thừ ra. Môn thuốc của chú Năm đã công phạt. Tôi hỏi dò:

- Bà đi chợ không?

Tiếng bà Hiến nhỏ hẳn:

- Đi chợ để mua đồng mắm, đồng muối... Thôi bà phải học! Tội chi không học. Kiếm vài chữ bỏ bụng cũng sướng!

Tôi và thằng Cù Lao bật dậy reo lên, phóng một mạch chạy gặp chú Năm Mùi. Vừa gặp chú, tôi thét to:

- Bà Hiến chịu phép rồi! Sao chú tài vậy chú?

Chú Năm Mùi vẻ thản nhiên:

- Tại bọn bay không biết bắt mạch. Tao bắt mạch biết bà Hiến mê đi chợ. Không một xu nhỏ cũng mò đến chợ. Bà đi chợ một vòng còn thích hơn xem hát bội. Cũng như mày mê vật lộn, thằng Cù Lao mê lội bơi, tao trước đây, tao mê hát bội. Ở đời ai cũng có cái mê cả!
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #8 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 03:05:21 pm »

*

*   *

Tôi hỏi thằng Cù Lao về ông Bốn Rị. Ông có biếng học như bà Hiến không? Ông có hôi lắm không? Nhà của ông thấy có rợn không?

Tôi với ông Bốn Rị ở cùng làng, tôi ở đầu xóm trên, ông ở xóm giữa. Thỉnh thoảng, tôi đi qua nhà, nhưng chưa bao giờ ghé lại. Nhà ông có bức rèm tre che trước cửa, đằng sau có bóng người thập thò. Có tiếng cốc, cốc như mõ khua và tiếng kêu ăng ẳng. Nhưng lái làm tôi rợn nhất là tiếng rú của chó bị cắt tiết. Tiếng rú vang dội, đâm thủng màn sương, át tiếng gọi đò và tiếng gàu khua ở các giếng nước. Mỗi khi tiếng rú vang lên, lũ chó trong làng nổi lên sủa rộ. Ông Bảy Hoá ngồi trước cửa chùa, đập đập cái quạt mo vào chân:

- Lại một con chó hoá kiếp! Mong mày đầu thai trở lại làm người. Làm người không xong thì phải hoá kiếp trở lại làm chó!

Thằng Cù Lao cho tôi biết ông Bốn chẳng có mùi hôi thối gì cả. Ông sạch sẽ như mọi người. Ở ngoài cù lao Chàm, cũng có người bán thịt chó, người đó cũng không hôi thối. Cũng chẳng nghe ai nói ăn thịt chó sẽ xuống địa ngục, sẽ bị rút lưỡi moi gan. Nhà ông Bốn không có gì rùng rợn cả, nhà rất mát mẻ, có cây bông trang, có con bướm đậu. Ông Bốn có nuôi nhiều chó, nhưng toàn là chó con. Ông xin chúng ở đâu về, nhốt sau chuồng. Chúng kêu ăng ẳng. Có con chưa biết ăn, ông phải vạch mồm tọng nước hồ vào họng. Có lúc một chó mẹ đến gào rống sau vườn đòi con. Ông xách gậy ra đuổi. Cuối cùng, chó mẹ bỏ đi nơi khác. Thằng Cù Lao còn cho biết khi ông Bốn mổ xong một con chó, ông cắt một miếng thịt ở chóp đùi đem xào.
Mùi thơm bay ra ngào ngạt.

Tôi kêu lên:

- Ôi! Thịt chó thơm răng được? Thịt chó làm tao nôn oẹ. Thôi kể tiếp đi, rồi ông Bốn làm chi nữa?

- Sau đó, ông nướng bánh tráng có rải mè, múc thịt đặt lên mâm, mời tôi ngồi lại.

- Mời ai?

- Mời tôi!

- Ấy! Mời mày? Thế mày nói sao?

- Tôi nói tôi không ăn.

- Ừ, được đó!

- Nhưng... ông mời mãi. Ông nói hễ tôi không ăn thì ông không học. Với lại cái mùi thịt bay thơm, tôi cầm lòng không đậu...

- Làm sao?

- Tôi ăn.

- Ối! Trời ơi! Nguy to rồi! Mày ăn đồ ô uế rồi! Có nôn oẹ không?

Vừa nói tôi vừa oẹ lên mấy cái.

Thằng Cù Lao lặng thinh. Tôi lên giọng:

- Ở đây đưa phàm phu mới ăn thịt chó. Đã ăn thịt chó, khi chết phải xuống địa ngục. Bọn chó đánh hơi, xông ra cắn mày chết!

Thằng Cù Lao hạ thấp giọng:

- Hôm kia đến nhà ông Bốn, tôi thấy chú Năm Mùi ở đó.

- Chú Năm đi kiểm tra học tập. Chú có hỏi chi không?

- Không hỏi chi cả. Chú đang ăn...

- Ăn chi?

Thằng Cù Lao nói khẽ vào tai tôi:

-Ăn một đĩa nấu nhừ.

Tôi giật thót:

- Thiệt không?

- Chú khen đĩa nhừ nấu khá! Chú còn bảo giống thịt chó thế mà mát, ăn thịt chó ngủ ngon.
Logged
the_samsara
Thành viên
*
Bài viết: 1017



« Trả lời #9 vào lúc: 12 Tháng Tư, 2011, 03:06:03 pm »

Tôi không ngờ chú Năm Mùi lại ăn thịt chó! Từ ngày cách mạng thành công, chú tiến bộ rất nhanh. Chú không còn mê cô đào hát bội, không hát bài chòi. Chú vừa nhận chân lãnh đạo tự vệ xã, kiêm chính trị viên tiểu đội dân quân của thôn, phụ trách đội thiếu niên. Nay lại đi ăn thịt chó!

Thằng Cù Lao lấy tay che mồm, nói chỉ vừa đủ tôi nghe:

- Cả ông Bảy Hoá nữa!...

Tôi suýt ngã ngửa, nổi cười to. Thằng Cù Lao cũng nổi cười. Chính trước kia ông Bảy Hoá cho mình có cốt tiên cốt phật. Đã là tiên phật thì hít mùi hương hoa cũng đủ sống, không cần ăn. Nếu có ăn cũng chỉ ăn tương cà dưa muối. Ai nói đến thịt chó thì ông nôn oẹ.

Tôi hỏi:

- Thế ông có mắc cỡ không?

- Chẳng mắc cỡ chi hết. Ông tréo chân ngồi giữa nhà, húp rất to. Ông khen ông Bốn Rị bán rẻ thịt chó. Có
vậy mới đông khách, nhiều người sẽ khoẻ ra. Nay ông đã nhập bạch đầu quân, ông cũng muốn khoẻ thêm; luyện tập quân sự càng dai sức, đánh thằng giặc. Như vậy mới gọi là tu. Ông thét to: Phật là cái tâm của ta. Cái tâm ta ngay thẳng, trung thực, đó là Phật. Cái tâm ta gian nịnh xảo trá, đó là ma quỷ. Tôi coi làng mình mọi người trở nên tốt. Trộm cắp bỏ nghề, thuế chợ, thuế đò đều bãi bỏ, đâu có phải vì không ăn thịt chó, mà vì có người làm cách mạng.

Tôi hỏi thêm:

- Thế ông có bị nôn oẹ không? Chị Ba nghe mùi thịt chó cứ bị buồn nôn, không phải chị giả đò đâu!
Thằng Cù Lao cho biết cả đội tự vệ cũng có ăn thịt chó. Thỉnh thoảng, ông Bốn Rị mang một nồi bún với thịt đem thết toàn đội ở chòm đa Lý.

*

*   *

Bà Hiến có một trí nhớ rất tốt. Tôi nói gì bà nhớ nấy, nhớ rành mạch, chính xác. Không ngờ dưới lớp da nhăn nhúm lại giấu một đầu óc minh mẫn. Đầu óc của bà không phải như cái rổ lủng như bà nói. Bà nhớ giỏi bằng mười tôi, nhưng tôi cứ chê. Tôi chê bà viết tồi, đọc chậm. Khi tôi còn làm học trò, tôi thích được khen. Nhưng khi làm thầy tôi cứ thích chê. Tôi viết lia lịa một loạt chữ O bảo bà Hiến bắt chước kẻ theo.
Bà méo mồm cố kẻ theo thật đúng. Tôi bắt bẻ:

- Viết bằng tay, sao mồm lại méo xệch?

Bà Hiến vừa viết vừa thở hổn hển. Tôi uốn nắn:

- Chớ thở ào ào! Bay mất sách vở! Thở vậy nên chữ viết như gà bới.
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM