Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 02 Tháng Sáu, 2024, 02:26:49 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Truyện ngắn - Triệu Bôn  (Đọc 13246 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:11:46 pm »

Quán nhậu

Tiếng mành trúc lao xao một lát rồi chủ quán mới hiện ra. Thoáng trông, tôi ngỡ ông là dân vạn chài vùng biển. Cao lớn, quần áo bà ba nhuộm gụ, da đỏ au, để râu dài, và đi guốc. Ông nhìn hai chúng tôi từ đầu đến chân, hỏi:

- Các chú muốn gì?

Cậu Tuyến bạn tôi ấp úng:

- Đây có phải quán đặc sản rết?

- Phải. Nhưng ví các cậu có dày không mà đến đây?

Tôi chạnh tự ái:

- Theo ông, phải bao nhiêu mới gọi là dày?

- Tùy. Tiền triệu cũng gọi là dày, tiền trăm cũng gọi là dày. Mà tay không cũng gọi là dày.

- Thế thì ông cho chúng tôi thưởng thức đặc sản của ông đi. Nếu ví không đủ dày, đã có cái kia - tôi chỉ vào cái xe máy to lênh khênh như con lạc đà của bạn tôi dựng trước quán - được chưa?

Ông già vuốt chòm râu rủ xuống tới cái cúc áo thứ hai trước ngực, lẹp kẹp lê guốc quay vào. Tiếng mành trúc bên trong lại lao xao và tiếng ông già vọng ra: "Các chú vào đây. Quán này, ai cũng phải làm mới có ăn. Thích ngồi một chỗ gọi bồi bàn, thì đi nơi khác".

Tuyến đưa mắt nhìn tôi. Tôi cũng liếc sang nó. Hai đứa ngầm trao đổi với nhau một cảm giác rờn rợn như lạc vào một tửu quán nơi Lương Sơn Bạc. Có điều Lương Sơn Bạc này không hồ rộng núi cao, không đèo dốc hiểm trở, mà là bên một cánh đồng lúa vàng bát ngát trải dọc theo quốc lộ 6, ở phía tây thủ đô Hà Nội. Còn "Tụ nghĩa đường" chỉ là ngôi nhà tre lợp lá cọ, rộng mông mênh, ngoài cổng có giàn hoa giấy và một cây đại sù sì hình như đã sống cả nghìn năm.

Dưới gốc đại là cái cổng tre có hai thanh chốt ngang, thứ cổng cực kỳ "cổ điển" ở nông thôn. Và qua khỏi đó là con đường đất thẳng, dưới hai hàng nhãn, quét sạch như ly như lau.

Khi chúng tôi dắt xe qua cái cổng chốt, ông chủ quán ra chốt cửa lại. Vừa chốt ông vừa lẩm bẩm nói trống không, cốt giải thích cho chúng tôi hiểu:

- Quán Tư Hiền không bao giờ tiếp khách quá ba lần một ngày. Không bao giờ tiếp hai hội khách cùng một lúc.

Các thủ tục tiếp đón thế là đã xong. Không treo biển quán. Không trang trí lòe loẹt để mời chào. Vắng teo. Bốn bề lặng lẽ như tờ. Chỉ có gió sáng tháng chín se lạnh và lồng lộng nắng vàng cuối thu.

Rợn thật. Nhưng hãy dấn thân một lần xem thử. Nếu đây là chốn giang hồ, ắt có luật giang hồ của nó. Luật giang hồ cũng có nét phân minh dễ chịu, đâu phải tất cả đều hãi hùng kinh tởm như người đời vẫn tưởng.

ấy là theo lối suy luận bạt mạng của riêng tôi. Thằng Tuyến, không hiểu nó nghĩ thế nào mà mặt hơi tái đi. Nó sợ lõm túi chăng. Chắc là không. Nó từng sống ở thành phố Rôm bên ý mới về. Nghe đâu nó còn có cả đô la gửi nhà băng bên ấy nữa. Là "con nhà nòi", nó giàu có hơn tôi là chuyện hẳn nhiên. Nhưng tôi ngầm bất bình vì từ hôm về nước tới nay nó tỏ vẻ in hệt một ông kễnh bên Tây sang chơi xứ mọi, hễ mở miệng là bên ấy người ta thế này, bên ấy người ta thế nọ, chứ đâu lặt vặt tủn mủn như xứ mình. Tôi nổi cáu, xì một tiếng rõ dài:

- Cậu mới đi xa mấy năm mà khéo quên cả quê hương rồi. Tớ ấy à, đi chơi nước này nước nọ vài ba tuần lễ thì khoái, chứ phải ăn cơm Tây tới một tháng là ớn tận cổ. Tớ thích ăn cơm ngồi xếp bằng trên chiếu, dưa cay với cá rô rán dòn, với ốc nhồi nấu đậu phụ chuối xanh...

Cuộc khích bác lẫn nhau dẫn đến cuộc phiêu lưu quán nhậu Tư Hiền sáng nay. Thực tình, tôi mới nghe mấy tay nhà báo bẻm mép khoe về cái quán nhậu ngoại thành này chứ đâu dám mon men tới. Tại thằng Tuyến thách: "Đố cậu tìm được cửa hàng ăn nào sang trọng, sạch sẽ như bên ấy, nên tôi liều đưa nó đi, vừa đi vừa hỏi dò đường tới đây.

° ° °

Phòng tiệc quán Tư Hiền chỉ là một chái lợp lá, vẩy ra sau hồi nhà, bên cạnh con mương thủy lợi, và phải kể thêm cả cái phông vĩ đại là cánh đồng vàng cùng vòm trời mùa thu trong veo không một gợn mây. Nền không lát gạch, mà là thứ đất nện phẳng như mặt kính. Gần một nửa diện tích trong phòng dùng để dựng nên một phong cảnh núi non hùng vĩ, tất cả đều được đắp bằng đất sét. ở một "sườn núi đổ dốc xuống "dòng khe" cạn ngoằn ngoèo, có một cái lồng lưới sắt, bên trong lúc nhúc tới vài trăm con rết, không con nào thật to, chỉ sàn sàn cỡ cái bút chì, cái bút máy trở xuống; nhưng cũng không có con nào quá nhỏ.

Từ cái "trại rết" này, có chiếc cầu bắc qua "khe" cạn, bằng một thanh nứa dài uốn cong, để sang đám sân rộng chừng nửa tờ báo được quây kín ba phía bằng lưới thép. Ngay dưới cây cầu vồng nứa, trong lòng khe cạn, có ba ông đầu nhau đội một cái chảo nhôm rộng vành đựng nước.

ông Tư Hiền ném vào mảnh sân quây lưới thép một con gà giò đã mổ sạch sẽ; lại để cạnh con gà một cái nắp ga men đựng nước trong, ông bảo là rượu. Đoạn, ông đưa cho tôi và Tuyến mỗi đứa một cái que nhỏ, rồi mở cửa "trại" rết.

- Các chú thích ăn bao nhiêu con thì gạt chúng ra.

Bọn rết đói ngửi thấy mùi thịt gà sống liền nháo nhào dẫm đạp lên nhau. Chẳng đợi chúng tôi phải gạt, chúng kìn kìn kéo ra khỏi cửa lồng, chen chúc bò qua cầu... Ông Tư Hiền hỏi Tuyến "Thế đủ ăn chưa"? Tuyến gật đầu. Cái cửa lồng được sập lại. ở mảnh sân bên kia cầu có khoảng bốn, năm chục con rết đang ngấu nghiến bâu quanh con gà ăn rào rào. Không ngờ lũ rết phàm ăn đến thế. Con gà chừng bảy, tám lạng, mà mươi phút sau chỉ còn trơ lại bộ xương. ăn xong con nào con nấy bụng phình ra, lại vục đầu vào cái nắp ga men tranh nhau uống nước mà kỳ thực là uống rượu. Cha sinh mẹ đẻ ra lũ rết chưa bao giờ được nếm cái thứ nước kỳ quái ấy của loài người. Lại, từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi mới được thấy cảnh lũ rết say rượu ngất ngư bò qua thanh nứa uốn cong để về lồng. Nhưng chẳng con nào về được lồng. Chảo nước bên dưới cái cầu vồng kia đã sôi bùng bùng từ lúc nào. Lũ rết say qua đó gặp hơi nước xông lên đều lần lượt rơi lõm bõm xuống chảo.

Đợi hóa kiếp cho con rết cuối cùng xong, ông Tư Hiền cầm cái môi dùi lỗ như môi nhúng bánh phở, sục vào chảo vớt rết lên. Mỗi con ông cầm tuốt một nhát, xếp vào chiếc đĩa sứ. Thoắt cái, đĩa rết trắng ngần như đĩa ngó cần, đầy có ngọn.

Hóa ra trong quán còn một ông già nữa mà ông Tư Hiền giới thiệu là chú Năm úc. ông Năm úc người xương xương, cũng bận quần áo bà ba nhuộm gụ, cũng để râu dài nhưng khác với ông Tư Hiền là có mái tóc búi tó như quả bưởi treo sau ót.

Ông Năm úc chắp tay khiêm nhường chào khách, mỉm cười không nói. Ông xuất hiện với những công việc của người phục vụ: trải chiếu ra nền đất, xếp cây đèn cồn và mấy cái soong có cán bằng thép không rỉ vào một góc. Tiếp sau, ông bê một đĩa rau thơm, một đĩa ớt đỏ, một đĩa tôm chua cùng các thứ ăn kèm như bát gừng sắt chỉ, khế xanh, chuối chát, hành chẻ, thịt lợn ba chỉ,... món nào cũng được thái mỏng, xếp sắp hài hòa đẹp mắt chung quanh cái khay đựng bún lá, trông như bức tranh, lại như bông hoa mỗi cánh một mầu vừa nở trên mặt chiếu.

Ông Tư Hiền bê ra một hũ sành nút lá chuối. Cả chủ và khách cùng vào tiệc. Với cây đèn cồn, lọ dầu rán thực vật, mấy cái soong có cán, ai muốn ăn rết nướng, rết luộc, rết đảo dầu,... ông Năm úc vui vẻ chiều ý.

Thiết tưởng cũng nên kể thêm chi tiết này: những năm đánh Mỹ trong Nam bộ, chúng tôi vẫn từng suy tôn món thịt rết ngang hàng với món tôm sú, tôm nghệ, tôm gạo, tôm he ở các cửa biển miệt rừng đước ven bờ vịnh Thái-lan. Nhưng thảng hoặc lắm chúng tôi mới tóm được một con từ các ngách hầm, từ trong lá mục, có khi từ kho đạn và cả từ trong nòng súng B40 bò ra. Những dịp hiếm hoi ấy, việc đầu tiên là phải nhóm một đống lửa, gạt cho chú rết bò thẳng vào đó, rồi bẻ mấy khúc chia nhau. ăn kiểu lính mà. Bởi thế, với tôi dù không lạ món thịt rết, mà vẫn phải trố mắt trước đĩa rết ở quán nhậu Tư Hiền. Tôi chọn món rết nướng lửa đèn cồn, rất "truyền thống" con nhà lính. Tuyến đòi thưởng thức cả rết nướng, rết luộc, và rết đảo dầu. Ông Tư Hiền gật gù với ông Năm úc.

- Chú cho tôi món tái dấm.

Thế là cả Tuyến và tôi cùng đòi theo. Rết tái dấm, nghe đủ mê rồi . Chỉ nể ông Năm úc bận rộn thêm một lúc nữa. Rồi chúng tôi chuẩn bị nâng chén. Cái nút lá chuối trong tay ông Tư Hiền vừa bật khỏi miệng hũ, tôi và Tuyến cùng sững sờ. Rượu gì mà chưa uống đã thấy ấm ran người, và cứ ngỡ như mình đang được ngồi giữa ruộng lúa nếp cái trổ đòng đòng.

Tôi nhìn Tuyến, thay cho câu hỏi: ở bên ấy cậu uống rượu nho mấy trăm tuổi, uống Hênétsi, Uýtky, Napôlêông các loại thượng thặng của xứ Tây, đã được nếm loại "thánh tửu" này lần nào chưa?

Hình như Tuyến không hiểu ý tôi. Nó ngồi ngây như phỗng, hai cánh mũi phập phồng. Tay nâng chén rượu sáng long lanh từ tay ông Tư Hiền trao, cu cậu chỉ dám chạm ướt môi rồi lại ngẩng lên, đầu nghiêng nghiêng ra vẻ ngẫm ngợi, ra vẻ cố mà chiêm ngưỡng một kỳ tích vô tiền khoáng hậu trong cõi trời đất bao la. Bất ngờ, Tuyến buông một câu hỏi rất chi là thị trường:

- Rượu này bao nhiêu một lít. Bác?

Ông Tư Hiền cười rung cả chòm râu:

- Của đâu mà có lắm thế? Nhân thể tôi nói cho các chú hay: Rượu này không ở đâu có, ngoài quán Tư Hiền. Chính tay Tư Hiền lựa giống nếp cái hoa vàng, chính tay Tư Hiền ủ, cất. Do đó mà không bán, không tính tiền với khách. Nếu tính, chắc phải mười đô la một chén...

Tuyến nghe thế giật mình. Ông già càng cười to, chỉ đũa vào đĩa tôm chua:

- Món này là "độc chiêu" của chú Năm nhà tôi. Chú ấy phải xuống tận cửa sông Vân úc, đón tôm nước lợ, mua lúc còn búng tanh tách. Rồi phải muối ngay dưới đó mang về.

Thịt rết, tôm chua, khế xanh, chuối chát,... gắp sáu, bảy gắp mới vừa một miếng và thêm ngụm "thánh tửu" nữa bỗng như trời và đất, mây và nắng hòa nhập cả vào mình đưa mình bay đến tột cùng vũ trụ.


« Sửa lần cuối: 21 Tháng Năm, 2008, 02:13:41 pm gửi bởi hoacuc » Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #1 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:12:28 pm »

Đĩa thịt rết đã vơi. Có tiếng người gọi ngoài cổng. Tôi nhanh nhảu tình nguyện thay mặt chủ quán ra hẹn với khách 3 giờ chiều hẵng trở lại, nếu chiều không tiện thì hẹn 8 giờ tối.

Tốp khách lên xe ô-tô con phóng đi. Tôi trở vào, đã thấy ông Tư Hiền bế cậu Tuyến đặt nằm thẳng cẳng trên chiếc giường có đệm mút, phủ "ra" trắng. Ông Tư Hiền lần ngón tay bấm vào cái huyệt nào đó dưới gan bàn chân Tuyến, đắp cho cậu ta tấm chăn mỏng rồi mới trở lại chiếu tiệc.

- Chú này đi Tây đi Tàu mà tửu lượng xoàng - ông Tư Hiền nói - Nhưng yên chí. Ngủ một lúc dậy lại khỏe như không. Khách đến đây chẳng mấy tay về ngay được đâu.

Cũng nhờ cảnh báo ấy của ông chủ quán, tôi cố hết sức giữ cho đầu óc tỉnh táo. Trong lúc ông Năm úc thu dọn chiếu tiệc, tôi ngồi uống trà cùng ông Tư Hiền, bắt qua chuyện khác:

- Thưa bác - tôi gợi chuyện - Theo cháu biết người miền bắc ít khi gọi thứ thay tên?...

Ông già điềm nhiên gật đầu: "Đúng thế".

- Nhưng, vì sao tên của bác nghe lại rất miền nam?

- à... chú muốn biết chuyện đó hả?

- Thưa vâng.

Ông già trầm ngâm một lát.

- Tôi người tỉnh Hà Đông cũ. Còn cái thứ Tư, là cách gọi theo tôn ty trật tự của giới giang hồ. Trên giang hồ, tôi chỉ vào loại thứ tư thôi.

- Vậy thứ nhất là ai?

- Ông bị bọn Mỹ bắn chết rồi - đột nhiên ông già nói giọng miền nam - Bọn nầy tuy là giang hồ, nhưng ủng hộ Việt Cộng. Một lần đi diệt ác ôn, cả ổng và tui lọt vô ổ kích của mấy thằng cha cảnh sát. Vì có đứa phản...

Ông già ngồi im rất lâu, hai bàn tay hộ pháp mân mê hoài bộ râu muối tiêu, khiến tôi bối rối biết mình vừa vô tình chạm vào một quá khứ sâu kín của con người này. Nhưng rồi ông Tư lại kể tiếp:

- Bọn này vừa đỡ tay cho anh em biệt động thành, lại vừa sanh nhai bằng nghề đi cướp. Nhưng chú yên tâm heng. Tụi nầy chỉ cướp của, chớ không giết người. Cướp của người giàu, mà đều bao giờ cũng phải để lại cho họ ít nhiều đặng họ khỏi tuyệt đường làm ăn buôn bán.

Tôi ngập ngừng:

- Thưa bác. Bác đang nói chuyện trong nam?

- ủa. Tôi ngỡ chú hiểu rồi chớ! Cái giới tuyến Mỹ Diệm dựng lên, đối với giới giang hồ bọn tôi đâu có xá gì. Bà con ngoài mình nghèo khổ, lại còn giặc giã lu bu, mình sao nỡ tay. Vậy nên muốn mần ăn động trời, ắt phải vô trỏng.

- Nhưng thưa bác...

- Gì nữa?

- Bác... bác "giải nghệ" hồi nào?

- Ha ha ha. Chuyện đó dài, nhưng muốn thâu ngắn cũng thâu ngắn được. Cái dạo đằng mình tràn vô Quy Nhơn, chú ở đâu?

- Dạ, cháu đang cùng đơn vị hoạt động trên lộ Bốn.

- Vậy hả. Tôi thì từ Sài Gòn nhào ra Quy Nhơn. Giữa thời ly loạn, tính mần ăn một món lớn rồi thôi. Vậy là tôi nhằm trúng tiệm vàng "Âu- Mỹ", to nhứt Quy Nhơn hồi đó.

Ông Tư Hiền ngừng lại, vớ cái hũ rượu còn để cạnh bàn trà, rót đầy hai chén. Ông đưa cho tôi một chén, và giơ cao chén của mình lên:

- Sáng, là chuyện nhậu có khách có chủ, kẻ bán người mua sòng phẳng. Còn giờ này là chuyện bác cháu mình bộc bạch tâm tình với nhau. Nào, ta cụng ly!

Hai chén rượu được dốc cạn. Ông Tư Hiền rót thêm hai chén, nhưng bảo hai chén này đợi lúc kể xong câu chuyện:

- Có mở đầu, phải có kết thúc. Phải không?

Ông già trấn an sự nôn nóng lộ trên nét mặt tôi :

- Sắp xong rồi đấy. Tôi lựa lúc trời nhá nhem tối, súng đạn ì ùng, người chạy loạn ngập đường, bèn lẻn vào tiệm vàng Âu- Mỹ. Đang hốt nào cà rá, dây chuyền, hạt xoàn bỏ vô túi thì có người thình lình bẻ quặt cả hai tay mình ra sau. Người đó hỏi: "ăn trộm hay ăn cướp, cha nội?". Cơ sự đã đến nước đó, còn chối cãi mà làm chi. Mình đáp: "Cướp. Bộ không thấy sao còn hỏi?".

- Phải hỏi mới biết rõ trắng đen chớ. Ông định lấy hết tiệm của tui?

- Lấy một ít thôi.

- Còn một ít, để lại làm chi?

- Để lại cho anh làm vốn.

Hắn bật cười:

- Muốn lấy hết thì lấy, nhưng phải theo một điều kiện.

- Điều kiện gì?

Hắn buông tay mình ra, hai đứa nhìn dằn mặt nhau.

- Điều kiện là, ông phải đấu với tôi. Nếu ông thắng, tôi cho ông lấy cả.

- Còn nếu thua, anh nộp tôi cho cảnh sát chớ gì?

Hắn lại cười:

- Còn đâu cảnh sát nữa mà nộp. Tụi nó dông hết trơn rồi.

- Vậy thì sao?

- Nếu ông thua, tôi sẽ biếu ông chút ít rồi mời ông đi kiếm nơi khác mần ăn. Được chưa, cha nội?

Từ lâu tôi đã biết Bình Định là đất võ - lời ông Tư Hiền - Nhưng ngó bộ thằng cha này nhỏ con, người ốm nhách, mình gật đầu nhận đấu. Hai đứa đưa nhau ra vườn sau nhà hắn quần thảo một trận trời long đất lở. Lạ lùng một nỗi, mình tung ra độc chiêu nào là hắn đỡ lại dễ như không. Tới chừng mình thấm mệt, mồ hôi ướt lưng áo, hắn bảo:

- Thôi huề. Đừng đánh nhau nữa. Thế gian không nên để mất hai kẻ anh hùng trong một ngày. Mời anh vào nhà uống nước ta nói chuyện...

Tới đây, tôi như kẻ khát nước không sao dằn lòng được, đành lên tiếng giục ông Tư Hiền:

- Rồi sao nữa. Thưa bác?

Ông thong thả trả lời:

- Sau đó, tôi với hắn kết nghĩa anh em.

- Thật vậy ư?

- Hắn nói: "Từ thuở tìm thầy học võ, tôi chưa từng được thử sức với người nào võ nghệ cao cường như quý anh". Còn tôi thì mắc cỡ mà nhận rằng tôi chỉ đáng bậc học trò của hắn. Thế mới là sự đời. Chú!

- Nhưng, thưa bác. Cho cháu hỏi thêm một câu.

- Thì cứ hỏi. Sao khách khí thế?

- Thưa. Cái người nhận anh em kết nghĩa với bác, hiện giờ ra sao?

Thấy ông Tư chưa trả lời, tôi nhắc lại:

- Cái ông chủ tiệm vàng Âu - Mỹ ấy?

Ông Tư vẫn im lặng, vớ cái hũ sành rót thêm một chén rượu đầy tràn, rồi cất giọng oang oang gọi xuống nhà dưới:

- Chú Năm đâu rồi? Lên đây!

Hình như ông Năm úc đang rửa bát đĩa ngoài mương nước. Ông vừa chạy vào vừa dùng vạt áo bà ba lau vội đôi bàn tay ướt.

- Dạ. Anh Tư kêu em?

Ông Tư Hiền chia ba chén rượu cho ba người. Với ông Năm, ông bảo:

- Cụng ly đi. Rồi chú trả lời cậu này giùm tôi: Ông chủ tiệm vàng Âu - Mỹ giờ ở đâu?

Sau khi uống cạn chén rượu, ông Năm úc chắp hai bàn tay vào nhau.

- Dạ thưa cậu. Chủ tiệm Âu - Mỹ chính là tôi.

Tôi bàng hoàng không tin ở mắt mình:

- Trời đất! Sao lại có chuyện kỳ lạ này?

- Dạ thưa cậu - vẫn lời ông Năm úc - chia tay với anh Tư tôi hôm trước, hôm sau lính Cộng hòa kéo tới đập phá, cướp hết tài sản của tôi. Xong, tụi nó đem chiến xa tới bắn sập nhà tôi. Bỗng chốc tôi thành tay trắng, vợ con không còn. Điêu linh, tan nát. Đang lúc tôi tính chuyện xuống tóc quy y nơi cửa phật thì nhận được tin anh tôi đã ra ngoài này...


24-11-1996
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #2 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:14:10 pm »

Bến phà đen lặng gió

1.

Bà Đà thường đi làm từ sáng sớm, chiều chạng vạng mới về. Chiếc khăn thâm trùm cách nào đó mà bịt kín cả gáy cả cổ, ngoài cái khe rất nhỏ dành cho hai con mắt lấp loáng nhìn rạ

Dẫu là một người đẹp lộng lẫy mà trùm bịt như thế cũng thành khó hiểu, huống chi bà Đà là con người có thân hình cứng cỏi, vai ngang dáng đàn ông, mà tính nết cứ mưa, nắng, nắng mưa luân chuyển nhau không ngừng.

Chiều nào không thấy đồ nghề của ông Đà - chiếc gánh toòng teng một bên đựng bốn, năm hòn đá mài các loại, và một bên là cái chậu đồng sứt vành dùng đựng nước - để ngoài hè, bà Đà liền rít lên:

- Mất thây mất xác ở đâu giờ này chưa chịu vác mặt về!

Còn như, nếu thấy ông Đà ngồi hút thuốc lào trên cái giường do mấy tấm ván thùng kê sát nhau, việc đầu tiên của bà Đà là lấy từ chiếc túi xách ra chai rượu, thuồi xuống trước mặt ông, kèm theo một lời đay đả:

- Này mồ hồi của tôi đấỵ Nước mắt của tôi đấỵ Nốc đi!

Không mấy khi bà để cho ông uống rượu suông, mà thường có thêm vài thứ nhắm đạm bạc; miếng đậu phụ bôi nghệ nướng lem nhem, một miếng vó bò quăn queo như vỏ cây, năm thì mười họa còn có quả trứng vịt lộn hoặc bộ lòng gà.

Mỗi tội thức nhắm càng ngon, ông Đà càng phải nghe nhiều lời nhiếc móc của vợ.

- Đội thúng than từ xà lan lên bãi được mấy, ông biết không? Ba hào! Thế mà một quả trứng vịt lộn những năm đồng. Không nhờ cái đận phát tiền năng suất thì có khối ra đấy mà hốc. - Bà Đà vừa nói chồng sa sả vừa móc túi lên vách, cởi khăn trùm, nhen bếp, bắc nồi, lấy gạo đi vo... Công việc thoăn thoắt trôi chẩy qua đôi bàn tay ngấm bụi than đen kịt của bà.

Chai rượu trước mặt ông Đà cạn, vừa lúc bà Đà bưng mâm cơm lên, hai vợ chồng cùng ăn. Bấy giờ bà Đà dù có nói trời nói đất, ông Đà cũng không lấy làm điều, thậm chí ông còn thấy khoái nữạ Nhịn đói suốt ngày, mỏi rạc cẳng đi diễu qua các phố xá, được nhấm chút rượu là chất men chạy rần rật như kiến bò mười đầu ngón tay ngón chân và làm tê dại mang tai ông, khiến người ông lâng lâng.

Tuy vậy đã vài bận ông Đà xô cả mâm cơm xuống đất rồi xông vào bà vợ khốn khổ mà đấm đá túi bụị Đó là những lần bà Đà nhiếc ông là giết chết con để ăn một mình cho sướng mồm.

Cánh đàn ông hàng xóm tuy không phải là lũ ác bụng nhưng đều đồng thanh ủng hộ ông Đà thẳng tay trừng trị bà vợ tai quáị

- Thế! Giã nữa!

- Vợ tôi mà thế tôi tẩn nhừ xương!

- Đem mà trôi sông cái của nợ ấy đi!

Trước sự "chi viện" nhiệt tình ấy, ông Đà quắc mắt đáp lại:

- Việc nhà tôi, ai mượn các ông chõ vàỏ Người ta khổ quá rồi phải để người ta nói cho hả bớt cái khổ đi chứ!

Nói vậy nhưng sau mỗi lần xô xát, ông Đà sợ, không dám nhìn vào mặt vợ mấy ngày liền.

"... Cái năm Nhật kéo sang ta, ông Đà đương làm anh chân sào trên một chiếc thuyền đinh bề thế chẳng kém ngôi nhà ngói năm gian. Cứ bẩy ngày một lần ông chủ lại chất đầy gạo, muối, dầu tây, vải, lụa lên thuyền, cho nhổ sào ở bến Lục Dầu để ngược lên mạn Đồng Trâu, Hố Sếu, qua Ngàn Trâu Danh, lên tận Bãi Thảị Đến Bãi Thải, nhiều khi dỡ hàng xong không kịp nghỉ, đã nhận khách vội vàng để bắt con nước trở xuôi luôn.

Cánh chân sào thuyền gồm mười tay trai lực lưỡng, năm người chạy be tả, năm người chạy be hữụ Công việc bao giờ cũng bắt đầu từ phía mũi thuyền, hai hàng người nhất tề lao phập những cây sào trẩy dài đầu bịt sắt xuống lòng sông, đuôi sào tỳ vào hõm vai, một người cất giọng: "Bớ dô hò..." chín người kia "dô huậy", mặt nước trước mũi thuyền rẽ thành hai làn sóng trắng hình mũi tên, mấy người chân sào cúi gầm mặt, gò lưng bước xuôi để con thuyền nặng nề lao ngược dòng. Tới đuôi thuyền, tất cả lại nhất tề rút sào, trở về đằng mũi, và lại bắt đầu đúng y như thế.

Một buổi sáng thuyền về đến bến Lục Dầu, hành khách chen nhau qua mảnh ván cầu để lên chợ, có một cô gái cứ quẩn quanh dưới khoang. Đà bước lại gần cô, cất tiếng hỏi:

- Nhà chị này có hàng nặng, không ai đỡ, hử?

- Không không - Cô gái giật mình hoảng hốt - Tôi có hàng gì đâu!

- Sao còn loanh quanh mãỉ

Cô gái bỗng òa khóc:

- Tôi sợ...

- Sợ gì?

- Sợ người ta đón bắt tôi trên ấỵ..

Đà hiểu ngay ra tình thế của cô gái:

- à. Lại trốn chúa lộn chồng chứ gì? Phải thế cứ nói thật thì tôi giúp...

Việc nên vợ nên chồng giữa hai người đã bắt đầu một cách rất đơn sợ Tới năm giáp khởi nghĩa, gặp nạn đói khủng khiếp, khắp nơi người chết xếp chồng đống thì đứa con trai đầu lòng của vợ chồng ông Đà đã biết chạy lon ton theo bố mẹ đi xin ăn.

Vợ chồng ông Đà dẫn cu Thấn - tên đứa con - phiêu dạt từ Phả Lại lên Bắc Ninh, Bắc Giang, rồi quay xuống Hà Nộị Họ uống nước lã cầm hơi nằm ở sân ga một đêm, một ngàỵ

Tối hôm sau bà Đà nói với chồng:
« Sửa lần cuối: 21 Tháng Năm, 2008, 08:58:09 pm gửi bởi hoacuc » Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #3 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:14:37 pm »

- Cái chết là cầm chắc rồị Nhà xem còn cách nào cứu lấy con?

Ông Đà lẳng lặng đứng dậy bỏ đị Ông vào một cửa hàng ăn trước cửa ga đèn điện sáng trưng, đứng xòe hai bàn tay đợi hồi lâu không thấy ai cho mình chút gì. Ông đành liều thò tay vào thúng bún của chị chủ hàng, chộp một nắm. Nhưng ông vừa quay ra được vài bước, chưa xuống khỏi vỉa hè, đã ngã sấp mặt vì một cái ghế ném theo đúng giữa lưng. Vốc bún trên tay ông, không hiểu bị những người ăn mày chung quanh xô lại cướp hay bị chủ hàng giật lại lúc nào ông không haỵ

Lê lết về được chỗ vợ con nằm, ông Đà nghĩ ra được một kế để họa may cứu sống được bé Thấn. Ông bế nó đến giữa chỗ đông hàng quán nhất, cắn con một miếng chảy máu ở má rồi bỏ nó lại, vùng chạỵ

Suốt mấy chục năm, từ thời Nhật rồi Việt Minh, rồi Pháp tạm chiếm, tới ngày thủ đô được giải phóng và mãi tận bây giờ bà Đà trở thành công nhân ở cảng than, còn ông Đà vẫn chỉ làm độc một cái nghề đi mài dao thuệ

Chẳng ai nghĩ chuyện làm giầu bằng cái nghề nhỏ mọn nàỵ Nhưng với ông Đà thì lại không thể bỏ mà tìm công việc khác. Ngoài cơm gạo ra, vợ chồng ông còn phải nuôi sống lẫn nhau bằng một nguồn hy vọng. Sáng sáng, ông quẩy chiếc gánh nhẹ tênh, một bên đá mài một bên chậu nước, thả bước đến khắp mọi ngõ ngách trong thành phố, gặp bất kỳ người đàn ông trai tráng nào vào trạc tuổi bé Thấn năm xưa ông cũng nhìm chằm chằm vào bên má phải của họ.

Bé Thấn "khi xưa" giống mẹ nhiều nên nó cao lớn, vai hơi ngang, mắt lá răm, khi cười có một lúm đồng tiền ở bên má bị bố cắn, chắc là thành sẹọ

Hai mẹ con giống nhau ở cái dáng đi lúc nào cũng vội vàng "chân không bén đất".

Ông Đà tin vào câu tục ngữ "trai giống mẹ thì khó ba đời". Nếu trời để bé Thấn qua cái nạn đói kinh sợ ấy mà còn tới ngày nay, may mắn nó chỉ đủ tay vo miệng lốm như bố mẹ nó là cùng. Vì vậy, hễ thấy có người đàn ông nào ăn mặc sang trọng lại có chút gì hao hao giống vợ mình là ông run lẩy bẩy vì hồi hộp. Ông như bị thôi miên, chân chạy theo, mắt nhìn, miệng lắp bắp: "Lạy trời! Biết đâu!..." Dĩ nhiên lát sau ông Đà lại ỉu xìu và tự nhủ: mình mơ tưởng thế làm gì, nên để mắt vào đám làm thuê làm mướn, chữa xe đạp, đánh xe trâu, quạt bễ lò rèn, gác cổng, thợ nề, thợ mộc... thì hơn.

Chẳng bao lâu kể từ khi ông Đà cất tiếng rao "Mài dao, mài kéo đây", ông đã có cả một đội ngũ bạn "áo ngắn" rải rác từ Gia Lâm xuống tới Ngã Tư Vọng, từ dốc Vĩnh Tuy lên tới làng Láng, làng Cót. Ông lân la nhờ các "chiến hữu" tìm thằng cu Thấn hộ mình. Những đứa trẻ bị cha mẹ bán, hoặc bị cha mẹ bỏ đường bỏ chợ trong nạn đói ất Dậu tới nay còn nhiều lắm, họ đều đã phương trưởng và đã có bố mẹ anh em gặp lại nhaụ Duy có thằng cu Thấn màu da trắng, vai hơi ngang, và có nốt răng của bố để lại trên má, chưa ai gặp.

Ông Đà vẫn rong ruổi qua các phố xá nội thành, cả những làng ngoại ộ Buổi sáng, vợ chồng ông mỗi người mỗi ngả ra khỏi nhà với chút hy vọng cầu may, để rồi buổi chiều về thấy căn nhà lợp giấy dầu vẫn trống lạnh như xưa, làm bà Đà lại nổi tam bành, nhè ông chồng mà trút hết những lời cay độc.

Lâu dần hàng xóm đâm quen. Đám đàn ông thôi làm hậu thuẫn cho ông Đà "thi hành những biện pháp cứng rắn" đối với bà. Vài người phụ nữ vô công rồi nghề cũng thưa dần câu chuyện về bà trong những cuộc ngồi lê đôi mách. Mặc dù, khi tuổi mỗi ngày một nhiều thì sự căng thẳng giữa vợ chồng ông Đà lại càng ngày càng khó gỡ hơn.

Một ngày chủ nhật, bà Đà ở nhà một mình, ông vẫn quẩy gánh đi như mọi khị Thoạt tiên bà lẩm bẩm nhiếc móc cho riêng mình nghe, sau đó ngọn lửa ma quái xông lên ngực bà, thế là bà bỏ hết mọi việc ngồi ghé mép giường mặc sức réo tên ông ra mà nguyền rủạ

"Cứ vác mặt về đâỵ Chuyến này thì bà xé xác!" - Bà tuyên án vắng mặt ông như thế, và nhăm nhăm đợi mặt trời chóng lặn để ông "vác mặt" về.

Bà Đà chẳng phải đợi lâụ Xế chiều hôm ấy ông Đà đã lử khử quẩy cái gánh thợ mài dao về. Ném cho bà một nắm tiền lẻ toàn loại năm xu, một hào, rồi ông đi nằm. Bà Đà thấy chồng khang khác, không những đã quên những lời đay nghiến được mài dũa suốt từ sáng, bà còn sờ tay lên trán ông. Người ông Đà nóng chín, làm bà Đà cuống cuồng. Mấy chục năm nay, đây là lần đầu bà Đà nói ra những lời dịu dàng với chồng:

- Nhà ơị Tôi nấu cho nhà bát cháo đậu xanh ăn cho nó giã sốt, nhé?

Ông lắc đầu, mắt vẫn nhắm nghiền. Bà lại vuốt ve bộ râu lởm chởm bạc gần hết trên cằm ông.

- Dậy tôi bảo này! Chịu khó uống chén rượụ Nhé? Nhà bị cảm nắng đấy!

Ông Đà thương vợ, ứa hai hàng nước mắt. Ông muốn ngồi dậy nhích nhắc tay chân cho bà vui, nhưng sức ông đuối quá rồị

Sáng hôm sau thì ông "đi". Bà Đà bật ngọn điện tù mù ở giữa nhà, ôm lấy thi hài ông mà lay, lắc, nhày nhã như đang đánh vật. Lúc đã kiệt sức mà vẫn không sao làm cho chồng sống lại được, bà Đà rú lên:

- Ông ơi là ông! Chai rượu tôi mua còn kiạ Từ nay mua cho ai uống nữa hở trời!

Tiếng khóc xé ruột gan của bà Đà cất lên từ lúc còn tối đất. Nghe giọng bà, hàng xóm ngỡ ông bà lại xảy ra chuyện gì, nhiều người lẩm bẩm rủa bà vài tiếng rồi lại ngủ. Mãi lúc nghe kỹ, biết ông Đà đã chết, mọi người mới choàng dậy chạy túa sang.

Xưa nay cái cảnh góa bụa vẫn thường xảy ra cho loài ngườị Nỗi đau dội lên, uất lên một thời gian rồi dịu dần. Sự quên lãng là một trong những bản năng tự vệ giúp cho con người tồn tại được.

Nhưng hình như ở bà không có cái "bản năng tự vệ" ấỵ Liền mấy tháng, đêm nào bà cũng kêu thét gọi ông suốt từ đầu hôm đến sáng. Trời thì đã sang đông, gió lạnh từ mặt sông Hồng thổi thốc vào căn nhà giấy dầu thủng tan hoang do chính tay chủ nhân của nó xô, đập, cào, xé.

Sang tới mùa xuân, giữa lúc cỏ cây đến con người đều xanh tươi trở lại thì bà Đà chỉ còn da bọc xương. Một đêm không nghe tiếng bà kêu thét, sáng hôm sau hàng xóm chạy sang đã thấy bà nằm bất tỉnh giữa những mảnh chăn rách, trên mình chỉ một tấm áo dệt kim đã mốc meo và chiếc quần bảo hộ lao động bạc phếch.

ở bệnh viện người ta hết lòng cứu chữa cho bà Đà. Vài ngày sau, bà tỉnh lại biết thều thào cảm ơn những người hàng xóm đã mang cam, mang đường và luân phiên vào chăm sóc bà.

"Khổ đến thế. Con người cay cực suốt đờị Khi cái sung sướng nằm trong tay thì lại lăn ra chết" - Cả khu phố bờ sông tới nay mỗi khi nhớ đến bà Đà, bà con lại chép miệng nói thế.

Số là, ở nơi bệnh viện bà Đà nằm cấp cứu, có một bác sĩ trưởng khoa tên là Dũng, tuổi xấp xỉ bốn mươi, vai hơi ngang, nước da trắng và đôi mắt dài rất linh lợị Một lần, khi bà Đà đã qua khỏi cơn nguy kịch, bác sĩ Dũng đến khám bệnh cho bà theo thường lệ trong ngàỵ Bác sĩ bảo bà tháo áo để đặt ống nghe vào ngực bà. Anh đang chăm chú nghe tiếng tim dội thì thụp tự dưng bà già cứ nhổm người vừa nhìn sát mặt anh vừa sờ lên vết sẹo trên má anh. Bảo bà nằm yên mấy lần không được, bác sĩ Dũng phát bực gắt:

- Cụ làm sao thế!

Bà già không trả lời bác sĩ Dũng mà thét lên một tiếng: "Con!" làm cho cả phòng bệnh giật mình. Rồi bà tắt thở. Mọi cách cứu chữa của bệnh viện đều vô hiệụ

Khi phải tự thú nhận mình hoàn toàn bất lực, bác sĩ Dũng ngồi cạnh bà Đà, ôm mặt khóc rưng rức.

Dũng là con nuôi của một cán bộ trong quân độị Ông có tới sáu người con, thêm Dũng là bảỵ Những khi gia đình tụ hội, con cháu chật nhà, ông vẫn kín đáo dành riêng cho Dũng chút chăm sóc đặc biệt. Tuy nhiên, càng lớn lên Dũng càng thấy mình đang âm thầm ngóng đợi một con người, dù sớm muộn thế nào sẽ có một ngày con người ấy tìm ra anh...

Nhiều năm về sau, vào những ngày giỗ ông bà Đà, bác sĩ Dũng thường đưa vợ con về thăm những gia đình hàng xóm của ông bà, và thế nào anh cũng có quà đến thăm hỏi những người là bạn "hạt gạo cắn đôi" của bà Đà hiện đang nghỉ hưu trong khu tập thể của cảng.

Những người bạn của bà Đà đều gọi Dũng bằng con, và đối xử với anh đúng như cách xưng hộ Mặc dù bà Đà không còn, nhưng tình thương bầu bạn bà để lại vẫn còn khắp nơi nơị Ngày nay hễ nhắc đến bà là những người bạn già của bà lại nghẹn ngàọ

Họ kể rằng: vào tiết đông và tiết xuân, lòng sông Hồng cạn rặc, những cồn cát nổi vờ vờ bên dưới mặt nước lắng trong dần dần, ấy là những ngày trời đất gió thổi vô hồị Cứ sáng ra, những người công nhân phát khổ lên vì những ngọn gió lạnh như dao cắt vào da thịt. "ấy nhưng mà cháu ạ - Các bà già nói với bác sĩ Dũng - cái buổi sáng mẹ cháu "đi", trên mặt sông cũng như trên bến cảng, trời bỗng dưng lặng phắc, không một hồi gió.

Như thế là hồn thiêng lắm!".

19 - Hàng Buồm - Hà Nội
8-1985


2002-07-06 02:10:11
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #4 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:16:45 pm »

Cõi âm

Sáng hôm ấy mưa bụi bay mờ cánh đồng. Người làng Bôn có mặt gần đông đủ trong cuộc tiễn đưa cụ Miện về nơi yên nghỉ cuối cùng.

Ngoài dân làng Bôn, còn có đại diện của huyện, của xã, của đại diện các xã bạn trong đám tang. Đoàn người xếp dài từ khóm tre đầu làng ra tới bãi tha ma. Bởi cụ Miện là một nhà cách mạng lâu năm nhất vùng. Và bởi cụ là người liêm khiết, chân thật hiếm có trên đời, ai sai nói sai, ai đúng nói đúng, hết lòng cưu mang giúp đỡ người khác, nên trẻ già trai gái khắp vùng đều xem cái dáng thân mai vóc hạc của cụ Miện như cái trụ làm chỗ dựa cho mình. Ai muốn được lòng dân, trước hết hãy được lòng cụ Miện. Ngay như trong đám tang này, với vẻ mặt tiếc thương ủ dột dù thật lòng hay vờ vĩnh cũng có giá trị như một thế lực phù trợ riêng cho từng người.

Dẫn đầu đám tang là bó đuốc làm bằng những cây nứa dài đập dập, lửa reo phù phù và một rừng phướn, câu đối, cờ tang treo trên đầu sào, nhấp nhô như những cánh buồm trắng. Tiếp đến là phường bã lệnh gồm một trống, ba kèn, ba sáo, ba nhị, một não bạt. Rồi đến ông cụ Hảo râu tóc bạc phơ, bận chiếc áo quân phục sĩ quan sờn cũ, thắt khăn xanh ngang hông, miệng nhai trầu, tay xách chiêng, tay cầm dùi gõ từng tiếng chậm rãi.

Bài điếu văn dài gần nửa tiếng đồng hồ của ông bí thư đảng ủy xã, Lúc đó, hồn ma của cụ Miện lơ mơ nghe người ta nhắc đến mình, vừa đúng mình vừa không đúng mình. Ông bí thư tỷ mẩn kể từ chuyện ba đời là cố nông của gia đình cụ Miện, rằng cụ đã lớn lên bằng miếng cơm đi ở như thế nào, cụ đã đi theo Đảng như thế nào, đã cống hiến cho phong trào và cho địa phương quê nhà như thế nào, rằng ba người con trai của cụ đã lập công ngoài mặt trận như thế nào,... Cơn cớ gì người ta phải khuếch trương, phải tô vẽ cho mình lắm thứ thế nhỉ? Hồn ma cụ Miện ngơ ngác tự hỏi, và cụ gần như giật mình choàng tỉnh khi những lát đất đầu tiên hất rào rào xuống nắp quan tài.

Lúc sau nữa thì mọi người lục tục trở về làng, để lại một nấm đất cao vờ vờ và phủ kín những vòng hoa tươi. Dưới mộ, cụ Miện vừa hoảng sợ trước nỗi cô đơn trơ trọi vừa thấy khoan khoái vì được yên thân. Cụ nhỏm dậy đi xem xét ngôi nhà mới rất lạ mắt, chỗ nào cũng hăng mùi đất ẩm của mình. Cứ thế, bước chân cụ xa dần, nhẩn nha trước cuộc chu du bất tận vào cõi âm.

Đến trước một vùng sình lầy, cụ Miện dừng bước lắng nghe tiếng khóc oe oe đang vang lên sát bên mình. Cụ ngoảnh nhìn quanh quất giây lát liền thấy một hài nhi đang cựa quậy trong bùn. Cụ vội chạy lại, miệng nói "cháu ơi, ông bế dậy nào" tay vén áo. Nhưng đôi tay cụ Miện chững ngay lại khi nghe đứa hài nhi lên tiếng quát:

- Ông già kia, chớ hỗn. Sao dám gọi ta bằng cháu?

Cụ Miện sửng sốt chẳng hiểu đầu đuôi ra sao. Đứa hài nhi lại hỏi:

- Ông năm nay mấy tuổi rồi?

Cụ Miện hiền từ tỏ lời khuyên:

- Sao cháu lại hỏi ông "mấy tuổi". Ông đã 82 tuổi rồi đấy cháu.

- Hừ. Lại "cháu"! Ông có biết ta đây đã mấy nghìn tuổi rồi không?

- Sao. Mấy nghìn tuổi?

- Phải. Giặc nhà Ân tràn sang bắt mất mẹ ta. Còn ta thì chúng quẳng xuống hồ. Thử tính xem, đã thừa mấy nghìn năm rồi chưa?

Cụ Miện bủn rủn chân tay, sụp lạy:

- Thưa, tôi biết gọi người bằng gì đây?

- Cứ gọi ta bằng Hài nhi là được. Đáo giang tùy khúc - nhập gia tùy tục. Ông nên đi đây đi đó để "mở mắt ra" mới biết thế nào là cõi âm. Cái lũ có tý quyền tý chức trên trần lúc mới nhập cõi âm đứa nào cũng thích vênh váo ra vẻ ta đây. Nhưng vênh váo với ai cơ chứ? Bởi thế, chúng trở thành những cục đất tội nghiệp xấu xí nhất trong vô vàn những cục đất khác. Ông nên nhớ lấy điều ta dạy!

Vàng vó - những khối chữ nhật be bé làm bằng nan nứa mỏng, bọc giấy vàng, giấy đỏ - rải dọc đường, cũng là một thứ tiền tệ, để hồn ma đi đò đi giang mà về mỗi khi ngửi thấy mùi hương người thân thắp ở nhà. Với hồn ma, dù chỉ là cái rãnh, dù chỉ là một vũng nước mưa đọng trong lòng đường, cũng phải thuê đò mới qua được.

Té ra... - cụ Miện vừa lững thững đi vừa ngẫm nghĩ - trên trần nói sai bét. Âm phủ làm gì có cửa? Về chuyện bát cháo lú, cũng sai nốt. Cụ đã đưa mắt lùng tìm khắp nơi, vẫn không thấy người bán cháo lú ngồi ở đâu. Trước một cái chợ loáng thoáng bóng người, cụ Miện thấy một người đàn bà mặc váy nâu nhuộm bùn ngắn cỡn, áo cũng ngắn cỡn và không có cúc, để trễ hai vạt, lộ ra mảng yếm sồi màu vàng mỡ gà. Người đàn bà bê cái rá bên hông le te đi lại chỗ cụ Miện đứng. Cụ Miện nhận ra đó là người chị họ của mình.

- Chị Bường!

Người đàn bà giật mình bước lùi lại một bước.

- Cậu Miện! Cậu xuống bao giờ?

- Chị đi đâu đấy?

- Tôi đi gặt lúa may. Chứ mợ ấy đã biết cậu xuống chưa?

- Bà nhà tôi ở đâu hở chị?

- Rõ khéo! Cậu tự tay đặt nhà cho mợ ấy ở đằng kia kìa. Cạnh sông Lê...

Cụ Miện bật cười:

- à phải. Nhà tôi có hẹn về đón tôi đi, nhưng người ta lại chôn tôi ở chỗ khác thì biết làm thế nào. Tôi chả còn biết sông Lê ở đâu. Mà cái gì cũng lạ lùng quá.

Cụ Miện đi vài bước theo tay người đàn bà chỉ, bỗng quay lại hỏi:

- Này chị Bường. Chứ tình hình ở đây ra sao?

Bà Bường trố mắt nhìn, môi lắp bắp "tình hình, tình hình, là cái gì?". Cụ Miện sực nhớ bà Bường chết trẻ, từ hồi cụ còn đi ở đợ cho nhà Lý Quang: "Người hồi đó nói năng khác bây giờ. Cái lần đầu tiên cụ được nghe anh giáo viên trường Đảng nói "phương thức sản xuất", "quan hệ sản xuất", cụ suy nghĩ đến nỗi như có đàn ong bay trong đầu vẫn không sao hiểu được. Chắc bây giờ bà Bường nghe hai tiếng "tình hình", cũng lạ tai thế.

- Thôi. Chị đi đi.

Không ngờ cái khoảng cách từ làng ra tới bãi đất bồi dưới chân đê sông Lê, mới dạo nào cụ Miện vẫn ngày ngày vác cầy đi qua, mà dưới âm lại xa mù mịt. Xế chiều, tính theo giờ âm phủ, cụ Miện dừng lại nghỉ chân gần một quả núi nhỏ, chắc là núi Quỳnh. ở đó cụ gặp năm chàng bộ đội đang chụm đầu chơi tú lơ khơ. Cả năm anh bộ đội đều mừng rỡ nhận ra cụ Miện. Còn cụ thì không biết họ người xứ nào và là con cái nhà ai.

- Cụ không nhớ chúng cháu ư? Cái hồi máy bay Mỹ đến ném bom cầu Hàm Rồng, cụ chặt cả cây cam đang ra hoa ở vườn nhà, cho chúng cháu ngụy trang pháo...

- A... a... Nhớ rồi. Vậy ra các chú hy sinh trong trận ấy?

- Vâng đúng. Nhưng cụ ơi, cụ có biết thằng phi công Mỹ bị chúng cháu bắn rơi chôn ở đâu không?

- Có chứ. Máy bay của nó bốc cháy. Nó cố ngoi ra biển, nhưng tới ngang núi Rừng Thông thì nổ đánh ầm...

- Xa nhỉ. Giá cậu ấy ở gần đây, chúng cháu muốn đến thăm, xem mặt mũi cậu ấy như thế nào. Một thuở trên trần thế, cả hai phía đều ra sức bắn nhau, giết nhau, mà có biết mặt ngang mũi dọc của nhau ra sao đâu!

- Cái thằng xỏ lá! - một cậu khác nói chen ngang - Hắn lợi dụng hướng tây, chúng mình bị lóa nắng, để phóng tên lửa.

Một cậu khác xua tay:

- Thôi nào. Hắn có bổn phận của hắn, mình có bổn phận của mình... Hoài hơi mà nuôi tức giận nhau.

Càng nói chuyện, trí nhớ của cụ Miện càng hồi phục. Giờ thì cụ nhớ như in cái đêm họ kéo pháo về chân núi Quỳnh. Chính cụ đi triệu tập trai gái trong làng ra đào trận địa giúp họ. Sau rồi con bé Thìn phải lòng cái cậu thâm thấp người đang dở tay chia bài này đây. Cậu này hy sinh, mất một dạo con Thìn ốm xanh như tàu lá.

- Cụ ơi, cô Thìn hồi này thế nào?

- Nó đi lấy chồng rồi cháu ạ. Năm ngoái, giỗ cháu, vợ chồng nó vẫn sắp cơm canh cúng đấy. Cháu có biết không?

Anh bộ đội thấp người im lặng gật đầu, lâu sau mới nói thì thầm:

- Rất nên như thế. Cháu vẫn lo ở trên ấy Thìn phải đau khổ một mình.

- Nào các cháu... - Cụ Miện lái câu chuyện sang hướng khác bởi không đành lòng nhìn vẻ mặt âu sầu của anh lính trẻ - ở trên trần, bác có thể bảo ban các cháu điều này điều nọ, vì bác nhiều hơn các cháu cả nửa thế kỷ tuổi tác, bác đi theo cách mạng từ khi bố mẹ các cháu còn nhỏ kia. Nhưng xuống đây, xem ra mọi sự kiện đều khác lạ. Các cháu hãy cho bác lời khuyên nên làm gì?

Năm anh bộ bội dẹp hẳn ván bài đang chơi. Cậu khẩu đội trưởng nghiêng đầu ngẫm nghĩ rồi bằng giọng nói từ tốn:

- Thưa bác. Bác hỏi như thế là rất cần thiết. Dù ở trên trần hay dưới âm, đâu cũng trước lạ sau quen cả thôi. Bác sẽ phải chịu đựng một thời gian vì nhớ cuộc đời trên ấy, nhất là nhớ những công việc mình đang làm dở dang trên ấy. Sau rồi bác sẽ nhận ra, dưới này cũng là "đời". Mọi bóng dáng, khí chất, thói quen của một kiếp trần ai đều được in rõ ràng xuống đấy. Nhưng xã hội dưới này được xếp sắp hoàn toàn khác...

Im lặng.

Cụ Miện ngập ngừng hỏi:

- Khác là khác ở điểm nào?

- Khác ở chỗ xã hội dưới này không còn là quyền lực, không có khái niệm sang, hèn, giầu, nghèo. Do đó "con người" trở nên thanh thản hơn, bao dung hơn, hiểu biết có tầm khái quát và chính xác hơn.

- Vậy ra, chuyện địa ngục chỉ do con người trên trần đặt ra?

Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #5 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:17:14 pm »

Anh lính nhíu mày tìm cách diễn đạt:

- Cái đó thì không hẳn thế thưa bác. Tuy không còn tình trạng cạnh tranh, chèn ép, ức hiếp lẫn nhau, nhưng vẫn có sự phân biệt thiện và ác. Những ai trọng cõi trần trót gây nên nhiều lầm lỗi thì cái bóng của họ rất nặng, khiến đã xuống đây rồi mà họ vẫn rầu rĩ, lẻ loi, hổ thẹn với bạn bè. Cái đó, ở trên trần gọi là địa ngục. Chỉ khi nào con người trần gian thôi những lời nguyền rủa, căm hờn đối với họ, ở dưới này vong hồn họ mới được nhẹ nhõm thư thái như mọi người...

Cụ Miện thốt lên: "Đáng sợ thay!" Chàng trai ngạc nhiên nhìn cụ:

- Cái gì đáng sợ thưa bác?

- Bác đã từng nằm trong xà lim của giặc Pháp, rồi cả giặc Nhật. Bác biết. Không có một thứ lao tù tra tấn nào đáng sợ hơn sự đau đớn do chính mình trừng phạt mình, cháu ạ.

- Vâng. Vì thế, có người xuống đây đã mấy chục năm, nay vẫn chưa rũ bỏ hết tội lỗi, vẫn lủi thủi, ủ ê một mình.

Mải chuyện trò, chiều sập xuống từ lúc nào. Bốn phía từ từ dâng lên màn sương khói bảng lảng. Tiếng gà xao xác gáy đâu đây. Cụ Miện hỏi mấy anh bộ đội:

- Dưới âm phủ cũng nuôi được gà?

Các chàng lính tủm tỉm cười:

- Tiếng gà trên dương thế vọng xuống đây thưa cụ. Ngày của âm phủ chính là đêm trên trần gian mà. Có lẽ cụ nên lo đường về sơm sớm đi, kẻo đêm ở đây ghê gớm lắm, không ai ra khỏi nhà được đâu.

- Sao vậy?

- Là bởi tất cả các hồn ma chúng ta đều không chịu nổi ánh sáng mặt trời. Khí âm hễ gặp ánh sáng mặt trời là bị tan biến ngay. Dưới này ra khỏi nhà lúc "đêm" nguy hiểm hệt như trên kia nhẩy xuống sông tự tử vậy.

Nghe lời khuyên của mấy anh bộ đội, cụ Miện vội vã quay về ngôi nhà còn nguyên màu đất đỏ của mình, lòng quặn thắt vì nhớ gia đình trên dương thế. Đứa cháu đích tôn của cụ năm nay đang lo chuyện thi vào đại học. Sáng nào nó cũng phải dậy học bài từ lúc gà gáy. Chuyện tang ma xong rồi, con cái của cụ người lo làm ăn, người lo công việc nhà nước, công việc quân đội, chắc giờ này đã tứ tán mỗi người một ngả. "Mọi khi ông còn sống, ông đánh thức cháu dậy học sớm. Từ nay, cháu phải lo mà dậy, kẻo học không hết bài. Cháu nhé!..." Hai giọt nước mắt lăn trên má cụ Miện, rơi vào khoảng không âm phủ âm vang lên như hai tiếng chuông chùa. Cái cảnh âm dương cách biệt quên đi thì thôi chứ hễ nhớ đến là như muối xát trong lòng.

Cụ Miện đang loay hoay, ngó nghiêng, cố hiểu xem tại sao mình muốn quay về với những người thân trong gia đình mà không thể được, thì bỗng có bóng người từ phía sau vùn vụt đi tới. Cái bóng di chuyển không một tiếng động, và lướt nhanh thành một vệt màu vải kaki màu vàng. Khi nhận ra hai tròng mắt kính đen che gần kín khuôn mặt để ria của người đang đến gần, cụ Miện chợt giật tót, định chế độ chân chạy. Đó chính là gã mật thám mấy chục năm trước đã lằng nhằng bám theo cụ Miện trong suốt một phiên chợ tỉnh, rồi sau đã rút súng lục dí vào hông cụ, bắt cụ nhốt vào đề lao chính trị phạm.

Cái bóng gã mật thám tiến gần, chỉ còn cách cụ Miện trong gang tấc. Cụ Miện trông rõ cả cái báng súng lục giấu trong túi quần soóc vàng của gã. Nghĩ phen này mình khó lòng thoát khỏi tay gã, cụ Miện quyết định kháng cự tới cùng. Cụ chủ động dang tay chắn trước mặt gã mật thám, gằn giọng quát:

- Thằng bán nước hại dân kia. Mày muốn gì?

Cái bóng ma mặc quần soóc vải kaki im lặng né tránh sang bên đường để đi tiếp. Nhưng, gã len qua bên phải, cụ Miện đứng chắn bên phải; gã len qua bên trái, cụ Miện đứng chắn bên trái. Còn gã thì vẫn im lặng như người câm, mặt cúi gầm. Nhùng nhằng mất một lúc như thế rồi cụ Miện mới sực nhớ lời anh khẩu đội trưởng pháo cao xạ vừa nói, rằng những hồn ma nào chưa trút bỏ hết được tội lỗi trên trần thì vẫn phải lủi thủi, ủ ê một mình dưới cõi âm. Có lẽ gã mật thám này là một trong những linh hồn đang bị đầy đọa như thế, mặc dù chính cụ Miện đã chứng kiến cách mạng xử bắn hắn từ hồi tháng Tám năm 1945, tới nay vừa tròn nửa thế kỷ rồi.

Cụ Miện để mặc cho gã mật thám đi vượt lên. Chỉ chớp mắt gã đã mất hút. Cụ Miện nhìn theo gã. Và nhờ thế, cụ mới kinh ngạc kêu lên: Ôi chao, nhìn kỹ mới hay, sao cõi âm đông đúc quá thể. Tầng tầng lớp lớp. Nhìn vào bất cứ hướng nào cũng thấy bóng người đi lại dầy bịt bùng như cây trong rừng, nhưng tịnh không có cảnh chen lấn xô đẩy nhau, ngay chuyện người nọ động chạm vào người kia cũng

tịnh không.

Nghĩ ngợi và tò mò khiến cụ Miện quên mất hướng quay về mộ của mình. Cụ quẩn quanh đi tìm nhà mình, thì lại nghe tiếng đàn sáo, trống phách tấu lên vang lừng, cùng những tiếng hô "Quân bay đâu?" và tiếng "Dạ..." râm ran. Thoạt tiên cụ Miện ngỡ người ta đang diễn tuồng, như các phường tuồng vẫn dựng rạp diễn ra ở sân đình trên dương thế. Hóa ra không phải. Lần tới tận nơi, cụ Miện mới biết đó là cái lăng mộ sập sệ rêu phong nổi lên giữa cánh đồng hoang. Trong lăng chỉ vẻn vẹn có một người mặc triều phục, đi hia, đội mũ cánh chuồn, cái đai vàng chắn ngang bụng. Chẳng có ban nhạc, chẳng có quân hầu. Từ tiếng sáo, tiếng đàn, sênh phách, đến "Quân bay!" và "Dạ dạ", đều tự một mình ông ta làm nên tất. Thế mới tài! Cụ Miện thích thú đứng xem. Người dương gian có câu "Giỏi như thần" hoặc "Tài như ma", nghĩa là thế này đây. Nhưng ông ta làm cái trò cười này để làm gì nhỉ? Chắc là bởi nuối tiếc một thời vàng son lên voi xuống kiệu, tiền hộ hậu ủng, uy nghiêm ngợp trời mà nay thiên hạ chẳng ai thèm đoái hoài, buồn tình nên mới nghĩ ra thế cho đỡ nhớ?

Cụ Miện đi lạc lung tung, cuối cùng rồi cũng về đến mộ mình. Cửa rả chẳng có, then khóa cũng không. Cõi âm tuyệt nhiên không có thói tắt mắt, với lại suốt một đời lo việc dân việc đảng, không biết thế nào là tham ô hối lộ, cơ ngơi của họ trên trần sao thì dưới âm cũng vậy. Có gì đâu mà phải lo giữ gìn. Tuy nhiên nhà không có cửa nhả, cụ cứ thấy nó tềnh toàng cẩu thả đến là khó chịu. Nhưng cảm giác khó chịu trong người cụ Miện không lâu. Đúng lúc ấy cụ nghe có người gọi mình:

- Anh Miện! Vừa mới xuống, đã chạy luôn chân. Một đời chạy việc cho dân cho xã vẫn chưa chán ư?

- Ai đấy?

- Tôi đây. Thờn đây. Còn nhớ Thờn không?

Cụ Miện nhớ ngay đến một chuyện buồn khó lý giải diễn ra trên trần, cách đây gần 30 năm. Thờn là cố nông, đi ở cho nhà quan Hàn. Trong cải cách ruộng đất năm 1956, chính Miện là người giới thiệu Thờn vào Đảng. Đến đợt làm trong sạch nội bộ Đảng, đột nhiên Thờn tố cáo Miện là bí thư chi bộ Quốc dân đảng, có âm mưu lật đổ chính quyền ở địa phương. Miện bị đình chỉ sinh hoạt Đảng. Thờn lên làm bí thư chi bộ ở làng, rồi làm bí thư đảng ủy xã. Vài tháng sau, Miện bị đuổi ra khỏi Đảng. Thờn bồi cho Miện thêm một đòn. Anh ta lôi ở đâu ra một mảnh vải ba màu xanh, trắng, đỏ, nói xưng xưng rằng đó là lá cờ tam tài của nước Pháp lâu nay Miện giấu trong chum khoai ngô. Miện lập tức bị tống giam, chờ phiên tòa nông dân của đoàn cải cách đưa ra xét xử. Cái án tử hình treo lơ lửng trên đầu Miện. Thờn thì

ngấp nghé lên huyện ủy.

May sao, phiên tòa "cải cách" chưa kịp lập, trung ương đã có chỉ thị sửa sai cải cách ruộng đất. Không lên được huyện ủy. Thờn bất mãn bỏ luôn sinh hoạt đảng. Mấy gian nhà quả thực, anh ta bán dần để uống rượu. Miện lại trở lại công việc của đảng ủy.

- Còn nhớ không? - Tiếng người kia nhắc lại, nghe gần lắm nhưng không biết đích xác phát ra từ nơi nào.

Cụ Miện đắn đo giây lát mới trả lời:

- Có nhớ. Nhưng anh ở đâu?

- Tôi ở liền vách với anh thôi mà. Cái dạo hợp tác xã lấy bãi tha ma cũ làm trại chăn nuôi, mồ mả chuyển hết sang đây. Mấy đứa con tôi chẳng đứa nào ngó ngàng đến tôi, nên tôi thành mộ vô chủ. Người ta đưa tôi sang, lấp sơ sài, giờ thành bằng địa rồi, do đó họ mới đào huyệt anh suýt vỡ cả nhà tôi.

- Ra là thế. Mời anh sang chơi. Trời còn sáng mà.

- Tôi không sang được - Giọng ông Thờn rất buồn.

- Vì sao?

- Vì sao ấy à... - Cụ Miện nghe rõ cả tiếng người hàng xóm thở dài, hiềm nỗi không nhìn rõ mặt nhau - Luật âm nó thế. Chừng nào người làng Bôn trên cõi dương thôi bêu riếu tôi, không ai nhớ tới câu cửa miệng "cái loại thằng Thờn", dưới này tôi mới được quyền ngẩng mặt lên với mọi người.

- Tôi hiểu, tôi hiểu. Nhưng chuyện đã mấy chục năm, nhắc lại làm gì?

Người bên kia vách lại bật thở dài ảo não:

- Khốn khổ, nhưng nào cái bia miệng nó có chịu quên!

Đó là lúc trên cánh đồng làng Bôn vừa rạng ngày. Sau ngọn núi Quỳnh, những tia nắng đầu tiên đang nhuộm hồng chân mây. Chim chóc bắt đầu hót ríu ran trên ngọn tre, trên ngọn cau, dừa, thị, mít. Cuộc nói chuyện giữa cụ Miện và ông Thờn đành dừng lại giữa chừng.

Màn đêm dưới âm phủ đặc quánh, đến nỗi âm thanh cũng không thể thấm qua, và trí não của những hồn ma bị đông cứng lại. Cụ Miện chuẩn bị đi ngủ. Trước khi những ý nghĩ bị ngừng trệ trong đầu, cụ Miên chợt nhớ có một công việc rất quan trọng chưa kịp làm, là việc đến tìm cụ bà ở ngôi mộ bên bờ sông Lê.

- Mình thật tệ - Cụ Miện tự trách - Một kiếp người, mình đã trút hết gánh nặng cơm áo, con cái lên đôi vai gầy guộc liêu xiêu của bà ấy, để chạy đôn chạy đáo lo công việc chung của xã hội. Chẳng lẽ kiếp này, ta lại dẫm vào cái vết mòn đơn điệu của kiếp trước?
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #6 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:17:59 pm »

Tôi

Tôi giật trái ô môi trên tay con Hóa quăng vèo xuống sông. Nó bập bều khóc, gió chướng thổi lật cái mũ tai bèo đang quàng sau vai úp lên mặt, không thèm đội lại.

- Khóc cái gì? - Tôi quát - Bom đạn rầm rầm vậy mà cứ nhõng nhãnh trò trẻ con. Tôi ấn khẩu côn với băng đạn đủ 8 viên mới nạp vào tay con Hóa, giật lấy khẩu tiểu liên AR15 nó đang đeo, lại quát: Xuống hầm! Xuống đi! Còn phải ngụy trang nữa. Xuống đi!

Căn hầm bí mật của tôi và Hóa ở ngay dưới gốc cây ô môi chi chít hoa, do du kích ấp Thới Hòa Trung đào sẵn từ lâu dành làm hầm cho khách. Lúc bọn lính sư đoàn 14 càn tới, cậu ấp đội trưởng dẫn chú cháu tôi ra đây, kéo cái nắp hầm là tảng đất vuông vức bằng ba viên gạch vồ lên, rồi bỏ đi đâu mất tiêu.

Hầm bí mật xưa nay phải tuân thủ một nguyên tắc rất nghiêm ngặt ai đào nấy ở. Bạn bè thân thiết đến mấy cũng không được phép chỉ cho biết hầm của nhau. Thân thiết lúc thường, chén tạc chén thù lúc thường, nhưng lúc bị địch dí họng súng vào ngực, bị tra điện, bị cắm kim vào mười đầu ngón tay, bị... biết bao thứ cực hình man rợ, thì ai biết tình đồng chí bạn bè còn giữ lại được đến đâu. Bởi thế, phải nằm hầm khách tính mạng khác nào trứng để đầu đẳng. Trứng để đầu đẳng vẫn hơn trứng đập vào đá. Mặt đất đang chao đảo, đang nẩy lên bần bật, đang xô qua giật lại liên hồi. ào ào, ập ập, rồ rồ. Nhức buốt hai màng nhĩ trong tai. Trông ra cánh đồng cuối mùa khô mênh mông chỉ thấy chớp lửa, và mù mịt khói, không phân biệt đâu khói đạn đại bác, đâu khói đốt đồng chuẩn bị cho mùa gieo sạ, xe bọc thép M113 lổn ngổn như cua bò, chạy sau hàng xe M113 là lũ bộ binh lô nhô như đàn kiến mối. Đạn xé tơi tướp những rặng cây mắm, cây bần, bình bát, tràm, keo tai tượng, ô môi, xô rạp cả rừng dừa nước ngút ngát bên bờ sông Tiền. Chậc. Một căn hầm khách dù sao vẫn hơn phơi thân ra cho đạn xé.

Tôi nhặt trái ô môi khô đen xỉn, giắt vào thắt lưng, vơ một vốc hoa ô môi màu hồng hoa đào bị đạn bắn rụng để rắc lên mặt phía trên của tấm nắp hầm, rồi nâng bằng hai tay cho người tụt xuống tới đâu nắp hầm tụt xuống theo. Nếu còn sơ suất nào, đã có những tràng đạn cắc cùng cắc cùng của thiết xa M113 rũ hoa xuống nghi trang “hộ” mình.

Tấm cửa hầm sập xuống. Tôi rơi từ vô cùng vũ trụ vào lòng đất đen. Tiếng đạn réo bên trên thoắt xa lắc nhưng tiếng đại bác khiến lòng đất quanh tôi bỗng giật đùng đùng. Trong khối bóng tối hãi hùng màu hắc ín tôi như nhìn thấy con mãnh thú đang há miệng nhe nanh, một miếng ngoạm của nó là hết gọn người tôi. Tôi trấn tĩnh lại, quờ tay trao nó cho Hóa. Cô bé bẻ trái ô môi đánh tách: Mật đặc trong trái ô môi tỏa ra mùi nồng nồng mằn mặn của nước mắm cốt. Hóa lép nhép ăn, giờ đã kịp làm quen với bóng tối, nhờ vài tia sáng mỏng manh lọt qua lỗ thông hơi rọi xuống, tôi nhận ra Hóa đang ngồi tựa lưng vào vách đất ẩm rượt, tấm khăn rằn quàng lơi trước cổ, chân dạng ra, thè lưỡi liếm mật trong một trái ô môi, trông rất ngon lành. Không hiểu nó có bận tâm đang ở trong một tình huống thế nào hay không. Tôi phát ghen tỵ, phát thèm sự điềm tĩnh hồn nhiên ở đứa trẻ sinh ra trong khói lửa và mơn mởn lớn lên giữa chiến trường. Vầng trán phẳng hơi thâm thấp, đôi má bầu bĩnh, những nơi cổ tay cổ chân không được quần áo che khuất trên người Hóa cứ sáng lên như những mảnh trăng hết sức thanh bình, như tỏa ra mùi thơm ấm áp của da thịt tuổi trẻ, biến căn hầm bí mật tối tăm chật chội thành một thế giới riêng. Cái thế giới đang bị cày xé tanh ngòm cảnh đầu rơi máu chảy trên kia không được phép thâm nhập xuống đây.

Tiếng ai đang la trên mặt đất. Hóa và tôi cùng bò lại áp tai vào lỗ thông hơi cố nghe xem có chuyện gì. Tiếng động cơ M113 lùng bùng, tiếng đạn bay thun thút. ồn quá. Phải gạn lọc căng cả óc mới nhận ra được đôi ba âm điệu rất mỏng manh của tiếng người. Cái Hóa bỏ quên trái ô môi ở ngách hầm, miệng lẩm bẩm “người nào la đó ta?”. “Anh út, ráng nghe coi tiếng ai la đó? Phải bà Năm bán ghe tiệm không?...”. Kỳ thực là tôi không nghe được tiếng ai cả. Tôi chỉ nghe thấy tiếng thở của Hóa và tiếng thở của tôi. Cái chỏm tóc của Hóa đang làm một bên má tôi nhồn nhột. Tôi thầm rủa tôi là thằng vớ vẩn, là kẻ tầm thường nhất trên đời, không còn gì đáng khinh bỉ hơn là cái thằng tôi. Tôi cúi mặt xuống vì tự xấu hổ. Nhưng chính cái phút bấn loạn ấy tôi nhận ra hơi ấm rừng rực của hai bờ má đã áp chặt vào nhau. Một giọng nói thầm như vẳng tới từ trong mơ:

- Anh út... Hôn em đi...

Và tôi bừng tỉnh đẩy bộ ngực của Hóa ra xa một chút.

- Đừng... đừng...

- Sao lại “đừng”. Hôn em cho em hết sợ nào! Em thương anh quá xá mà mắt anh cứ lơ ngơ hoài?

- Hóa! - Cái kẻ đạo mạo cứng cỏi đã kịp trở lại trong con người tôi - Cho chú nói điều này hẵng...

- Anh là chú của em hồi nào? Không, không, không. Cô bé vồ vập hôn lên khắp mặt tôi, dụi cả đôi mắt ướt đẫm lên gò má của tôi, bật ra những tiếng nói trong cơn mơ sảng. Anh có vợ rồi, không dám thương em chứ gì? Thôi kệ. Thôi kệ sống được hay không mà sợ...

Tôi ôm tấm thân rạo rực trắng trong như bột lọc vào lòng mình. Cái kẻ đạo mạo trong tôi run rẩy, đang dấn thẳng tới giây phút chịu đầu hàng thì bất ngờ cửa hầm xịch mở trong vài giây. Tôi chưa kịp chĩa nòng khẩu AR15 về phía đó, đã thấy có vật gì ném xuống đánh tạch, rồi cửa hầm lại đóng sập, nguồn sáng phụt tắt. Tôi quờ tay chạm ngay vào cái vật nhỏ người bên trên vừa liệng xuống, là mấy củ tỏi khô.

- Nguy rồi anh út - Giọng Hóa không còn giấu nổi sợ hãi - Tụi nó mang theo bẹc giê tới xom hầm!

Tôi ậm ừ vỗ yên Hóa, đầu óc đang bận dồn hết vào một câu hỏi: Ai vừa ném tỏi chống béc giê xuống cho mình? Cậu Bẩy Thượng ấp đội trưởng chăng? Chính Bẩy Thượng chỉ cho Hóa và tôi xuống. Nhưng không hiểu sao tôi lại không nghĩ Bẩy Thượng làm việc này. Bẩy Thượng không có cái cách lo nghĩ cho người khác chu đáo đến thế.

Từ hôm tôi và Hóa nhận nhiệm vụ “điều nghiên” chi khu cả Trấp nằm thoi loi trên cái lằn ranh giới giữa Đồng Tháp Mười với tỉnh Bờ rây ven của Campuchia, sống với đội du kích ấp Thới Hòa Trung chừng ấy ngày có lẽ nào tôi không hiểu tính nết của họ.

Nhớ cái buổi trưa cô giao liên CK (giao liên công khai) của huyện đội Hồng Ngự bơi chiếc xuồng tam bản chở tôi và Hóa tạt vào lõm rừng tràm, chưa thấy người đã nghe tiếng quát.

- Coi chừng máng trái tiêu mạng đó ghen!

Cô giao liên đáp lời mà như nói với rừng:

- Ra rước khách.

- Đợi đó. Đợi đó.

Ba chúng tôi đứng chôn chân một chỗ. Dưới mỗi lá cây ngọn cỏ đều có thể là một trái mìn. Xê dịch dù chỉ một bàn chân đều có thể gặp cái chết bất tử. Không đồn bốt, không thành cao hào sâu, các khu căn cứ du kích vẫn trở nên “bất khả xâm phạm” là nhờ những vành đai bí mật chôn dày đặc các loại trái chết người như thế. Đêm đang ngủ, nghe trái nổ đánh ầm, choàng dậy chĩa súng chuẩn bị chiến đấu. Nhưng đâu phải giặc tới. Chột máng trái đấy. Chột máng trái. Rùa máng trái. Người lúi húi cài trái, ngoảnh lại sau lưng liền chết vì trái mìn do chính tay mình vừa cài.

Đứng đợi hoài làm cô giao liên nổi quạu, hét lên:

- Bộ chết hết rồi sao mấy cha. Đồ mắc dịch.

Một cậu du kích mặt đỏ tưng bừng nhô ra khỏi lùm cây cười nhăn nhở, tay chỉ chỉ mắt nheo nheo hướng về phía đồn cả Trấp có ý bảo khẽ miệng chớ kẻo bọn địch trên kia nghe thấy. Té ra là mấy cha đang nhậu. Bẩy Thượng không thèm đứng lên chào khách, tay đậy sập cái nắp thùng đạn đại liên Mỹ đựng rượu, ngoái cổ nhìn ba người chúng tôi:

- Công chuyện gì bàn sau. Nhậu đã, anh Hai!

Chuyện đánh giặc cứ như đùa như bỡn. Thế đó, mà đã cha truyền con nối cầm cây súng theo cách mạng. Thế đó mà nửa triệu lính Mỹ và một triệu lính Việt Nam Cộng hòa phải xất bất sang bang.

Cửa hầm lại xịch mở, tiếng súng tiểu liên tràn xuống thành cơn bão. Lần này thì rõ là Bẩy Thượng. Đầu Bẩy Thượng đã quấn một vành băng trắng như người chít khăn tang, máu đang ứa ra trước trán, Bẩy Thượng nói to như quát:

- Lẹ đi, lẹ lẹ lên!

Tôi ngạc nhiên hỏi:

- Sao rồi, anh Bẩy?

- Lẹ lẹ lên! Đ. má cái thằng Lịnh, nó nhảy ra chiêu hồi mất rồi. Hầm này không xài được nữa. Lẹ lẹ lên cha nội!

- Nhưng đi đâu bây giờ?

- Lẹ lẹ lên! Con Hóa chạy xuống bà Năm ghe tiệm. Còn anh, theo tôi. Lẹ lẹ chút coi. Bộ mấy người muốn chết hả!

Bẩy Thượng cắm đầu chạy, mỗi lúc có viên đạn bay qua, lại khựng lại chửi thề. Nhưng tới chỗ có cây xoài lão đổ nghiêng xuống bờ sông, anh bỗng nằm vật xuống thở dốc, bàn tay ấn vào đám băng thấm máu trên trán. Mấy giọt máu từ đám băng ướt phùi ra. Gương mặt rám nắng của Bẩy Thượng tái nhợt.

- Có sao không, anh Bẩy?

Tôi ái ngại hỏi. Bẩy Thượng không trả lời, lại chửi thề, nói lùng bùng:

- Trốn đâu giờ cha? Mấy đứa bên hầm thằng Lịnh chạy sang hầm tôi đầy nhóc rồi.

- Hay là... - Một tia sáng chợt lóe lên trong óc tôi - Nè Bẩy Thượng. Chỉ cho tôi cái hầm thằng Lịnh đi!

- Sao? - Bẩy Thượng như giật mình tròn mắt nhìn tôi - Bộ định nhào vô đó nộp mạng ha?

Không. Tôi suy tính. Cái thằng chiêu hồi kia thừa biết sau khi nó chạy sang đầu hàng giặc sẽ không còn ai dám ở lại căn hầm cũ của nó. Nơi lộ liễu nhất mới là nơi kín đáo nhất. Tôi quyết định chơi canh bạc cuối cùng với số phận, bảo Bẩy Thượng:

- Cứ chỉ cho tôi hầm thằng Lịnh! Chỉ ngay đi, lấn bấn lúc này là chết đấy.

Ngỡ đâu ông trời ban cho mình một phút thông minh đột xuất, nhưng hóa ra tôi đã nhầm. Lúc Bẩy Thượng kéo tấm nắp hầm bí mật của thằng Lịnh ra cho tôi lách mình chui xuống, tôi liền ngửi thấy mùi khói dầu hỏa lẫn trong mùi ẩm mốc và mùi người ngột ngạt. Ngạc nhiên hơn nữa là ngách hầm trong cùng đang phát ra quầng sáng yếu ớt của một ngọn đèn cầy, mấy cậu ở đây trước tôi chưa kịp tắt. Chiến tranh còn là thế này nữa đây. Khác với tôi, người lính của một sư đoàn chủ lực, từng được huấn luyện công kiên chiến, trận địa chiến, vận động chiến, tao ngộ chiến... trên thao trường, những người du kích lúc làm dân lúc làm lính đã quá quen thuộc với những căn hầm bí mật như thế này. Họ coi cái khoảng không tù túng trong hầm bí mật là một không gian của cuộc sống. Còn tôi thì coi nó như cái quả lắc lắc qua lắc lại hai bên một sợi tơ mỏng manh phân cách giữa sống và chết. Tôi chợt nhớ Hóa. Hóa từng là cõi sống cho tôi chỉ cách đây ít phút đồng hồ. Hóa đang xoay xở ra sao dưới chiếc ghe lường bán tiệm của bà Năm.

Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #7 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:18:27 pm »

Ôi Hóa! Hãy về đây với anh. Thay vì gọi em bằng cháu, anh sẽ gọi em bằng em. Anh chán ngấy cái gã đạo mạo vờ vĩnh trong anh rồi. Anh sẽ ôm em vào lòng, sẽ vuốt ve lên tấm thân ngọc ngà của em, sẽ vục đầu vào làn tóc em, sẽ vùi anh vào bộ ngực trinh trắng căng đầy của em, mặc thây lũ xe bọc thép M113 và những viên đạn đồng lớn như những trái nhót đang ào ạt bay tới nhằm xé nát tấm thân này. Anh thèm một giây được ngủ lịm trong đôi cánh tay của em, rồi sau đó là chết, là gọi nhau bằng vợ bằng chồng, là một gã đàn ông nào đó lại lọt vào vòng tay em như cái mà cô vợ Chi Mai của anh đang làm... Được tất. Chấp nhận tất... Tôi giật bắn người khi chợt phát hiện những tia sáng lấp lánh phát ra từ lớp bùn lép nhép nhàu nhò dấu chân người trong ngách hầm. Cái gì thế nhỉ. Cha cha, một sợi dây chuyền vàng! Sợi dây chuyền này hình như tôi đã thấy thằng Lịnh vẫn đeo sau lớp cổ áo bà ba đen của nó? Chắc là nó đã để lại trước khi chui lên khỏi hầm đi hàng giặc? Thế thì nguy rồi. Nguy lắm rồi. Nghe tiếng xích M113 rít ken két trên kia tôi như nhìn rõ cái bộ mặt dài lúc nào cũng men mét của thằng Lịnh đang quay lại tìm vàng. Bộ mặt thằng Lịnh nhòa nhòa, thoắt biến thành cái miệng con dã thú đỏ lòm sắp nuốt chửng tôi. Ngay từ lúc Bẩy Thượng dẫn tôi và Hóa chạy xuống căn hầm hồi nãy, tôi đã nhìn thấy miệng con dã thú trong bóng tối. Một điềm gở báo trước. Du kích Thới Hòa Trung đã đào căn hầm bí mật này trúng vào tử huyệt. Trên mặt tôi xối xả mồ hôi lạnh. Mấy lần tôi mở dây buộc cái túi bạt để lấy quả lựu đạn da láng ra không xong. Ơ hay thằng hèn! Tôi tự quát mắng xỉ vả tôi. Từ ngày vào mặt trận tôi đã ném hết một vòng lựu đạn móc ở chiếc dây lưng thắt quanh hông, nhưng bao giờ cũng để lại một quả dành cho mình. Cái quả được bỏ trong túi bạt, buộc dây cẩn thận ấy đây. Nghĩ đến cái chết từ lâu, nghĩ rất kỹ lưỡng, chuẩn bị cho nó chu đáo như chuẩn bị cho một công việc trước sau gì rồi cũng phải làm mà đã làm thì nhất định không được làm một cách lỡ dở. Thế mà tới lúc này bỗng sợ? Đồ hèn! Đồ hèn!

Tiếng xích sắt ngừng lại ngay sát trên đầu tôi. Một tiếng huỵch của cây xà beng làm tấm cửa hầm vỡ toác, đất lả tả lăn xuống tận chỗ tôi ngồi. “Nó” đã đến! Thằng Lịnh léo nhéo.

- Anh Tư Tiềm, anh Ba Ngôn, lên hàng Quốc gia không thôi chết uổng đó!

Im lặng rợn người, tôi nghe đất thở phào phào bên tai. Thằng Lịnh lại léo nhéo:

- Lẹ lên mấy anh. Mấy ông lính sắp chọi xuống đây nè! - Hình như thằng khốn kia nó đang khóc - Trời đất ơi mấy anh. Lên đi mà!... - giọng nó tắc nghẹn - Mấy anh ơi, không chống lại nổi đâu. Thằng Lịnh này chắp tay xá mấy anh...

Cái chốt quả lựu đạn trên tay tôi rút ra nửa chừng. Rút hết ra. Buông cái mỏ vịt cho nó bật đánh phựt. Tung qua cửa hầm. Rồi ôm cây AR15 này vọt lên, là trong chớp mắt có ngay một cái chết anh hùng! Nhưng - tiếng ai nói với tôi mà văng vẳng thế nhỉ - Chết anh hùng, hay sống anh hùng? Sao tới phút này mình mới đặt ra câu hỏi ấy? Anh hùng! Anh hùng!... cái chốt lựu đạn rút ra giữa chừng lại được cài trở lại. Tôi buông cho quả lựu đạn rơi xuống chân, rồi lên tiếng:

- Tư Tiềm với Ba Ngôn không có ở đây.

Tiếng thằng Lịnh:

- Ai đó?

- Tôi.

- A a. Anh Hai Giải Phóng phải không?

- Phải.

- Vậy lên đi anh Hai. Tôi lấy mạng tôi bảo lãnh cho anh Hai mà...

Thằng Lịnh còn lải nhải tôi đã ném sợi dây chuyền vàng lại phía nó.

- Của anh đấy. Cầm lấy! - và tôi quay sang đám lính sư đoàn 14 đang chĩa súng chạm vào tôi - các anh muốn gì thì làm đi.

Mấy tên lính rằn ri mặt non choẹt xông vào đấm đá, có đứa trở báng súng phang. Mấy người lính cứng tuổi đứng ngoài nhìn. Tôi không chống cự, vì biết chống cự vô ích, chỉ chống cự bằng những ý nghĩ trong đầu. Anh hùng, là thế này đây. Thương thay cho lũ sói người. Nếu họ rơi vào tay Quân Giải Phóng thì họ đã van lạy rối rít. Nào, bắn đi. Ta là quân Bắc Việt đây. Là Việt cộng đây. Hành hạ cho lắm, ta cũng chỉ đi đến cái chết là cùng. Nào... Hai quả đấm liên tiếp làm đôi mắt tôi tối sập. Tôi hét lên.

- Các anh hãy chừa một lối, đặng mai mốt còn được nhân dân tha tội cho!

Sau tiếng thét, tôi sẵn sàng nghe - đúng hơn là rất mong được nghe súng nổ. Nhưng không. Một người nào đã tới túm chặt vai tôi giật mạnh, rồi đẩy tôi ngã sấp mặt vào thùng xe M113. Chiếc M113 rùng rùng lao về hướng nào tôi không rõ. Đầu óc tôi lơ mơ, lịm đi. Trong lúc ngất lịm, tôi lại lơ mơ cảm thấy như có ai lật ngửa mình lên, đẩy cho đầu mình nghiêng sang bên này lại nghiêng sang bên kia. Tới lúc đèn máy ảnh nhoáng lên tôi mới choàng mở mắt. Tên sĩ quan ngụy đeo ba bông mai bạc trên cổ áo tay cầm máy ảnh, đang nhìn như xói vào mặt tôi. Hắn bấm thêm kiểu ảnh nữa, rồi đẩy tấm cửa sắt sau thùng xe rít lên một tiếng kéo dài, ra lệnh cho tên lái xe đỗ lại.

Không ngờ tên đại uý này phát âm đặc sệt giọng Bắc Kỳ.

- Ngồi dậy được không?

Tôi chưa kịp trả lời, hắn đã nói tiếp.

- Nằm cũng được. Tôi cần lấy cung của anh. Anh hãy thành thật khai cho đúng nhé. Anh ở đơn vị nào?

- Quân giải phóng.

- Biết rồi “Công trường” Bẩy (1) phải không?

Im lặng.

- Vùng này là địa bàn hoạt động của “công trường” Bẩy các anh. Hỏi vậy chứ chúng tôi biết rồi. Anh xuống đây với nhiệm vụ gì?

Im lặng.

Lại vẫn lời tên đại uý:

- Chuẩn bị đánh chi khu Vĩnh Trấp. Các anh đang rất cần nhổ cái chi khu này để đưa lực lượng lớn ép xuống lộ Bốn chứ gì?

Im lặng.

Và cứ thế, tên đại úy vẫn miệng hỏi tay ghi lia lịa vào cuốn sổ nhỏ, mà chẳng hiểu hắn ghi những gì. Lúc xe dừng lại, nắng chiều còn đỏ hoe bên trên khung cửa tháp súng hình tròn khiến tôi có cảm giác tôi và tên đại úy đang ngồi đối đáp nhau trong lòng một cái giếng hẹp. Giờ thì nắng đã tắt, trong thùng xe đang chuyển nhanh sang thứ ánh sáng mờ mờ sâm sẫm, tên lái xe phải bật đèn cho tên đại úy ghi.

Tên đại úy giơ cổ tay xem đồng hồ, gập sổ, hỏi:

- Anh ra hàng chính phủ Quốc gia chứ?

Tôi im lặng. Giọng gã chùng lại như dụ dỗ năn nỉ:

- Chịu hàng đi anh ạ. Hàng, anh sẽ được quân lực Việt Nam cộng hòa cho giữ nguyên cấp sĩ quan, như ở bên Giải Phóng đấy.

Tôi vẫn làm thinh.

- Anh suy nghĩ kĩ đi. Tới lúc về bộ tư lệnh của chúng tôi mọi việc sẽ khó khăn lắm, chứ không như ở chỗ này chỉ có tôi và anh. Với lại... Anh nghĩ lại xem. Nam hay Bắc cũng là người mình sao lại tiến hành xâm lược nhau nhỉ?...

Tới đây tôi không thể không dằn giọng nói với tên đại úy, bảo hắn đừng tốn công vô ích, bọn Mỹ mới là kẻ xâm lược, lũ hắn là tay sai cho giặc, và chỉ với những bộ óc ngu xuẩn mới cho là chúng tôi vào xâm lược miền Nam. Thế là tên đại úy đùng đùng nổi giận. Hắn đấm xuống sàn xe đánh rầm, hét:

- Câm mồm! Nói láo nữa là tao bắn bỏ!

- Bắn đi! Có gì lạ mà anh còn phải dọa?

- Thách hả. Thì thách này! Thách này!

Hắn đạp thốc tôi xuống khỏi thùng xe, hầm hầm lôi tôi ra cánh đồng bắt đầu mịt mùng bóng tối. Hắn đẩy sấp tôi vào dưới chân búi cỏ, một bàn chân đạp lên lưng tôi, xoạch một tiếng lên đạn và trước mắt tôi vàng lòe, tai tôi không nghe thấy gì nữa, chỉ có cảm giác kẻ nào đang đấm liên hồi vào đầu mình. Tôi muốn hét “vĩnh biệt” nhưng thực tế là hai hàm răng tôi đã cắn chặt vào nhau...

Tên đại úy xả trọn một băng đạn tiểu liên. Xong, lại có tiếng lựu đạn, hắn còn nã ba bốn viên đạn súng côn nữa mới chịu quay ngoắt bước về xa.

Cái đế giày của tên đại úy vừa cất khỏi lưng tôi là người tôi như bị lòng đất hất vút lên bay lơ lửng giữa trời. Ngọn gió chướng hay một trận bão làm người tôi quay tít chung quanh cái quầng sáng rờ rợ lạnh buốt của ngôi sao hôm mới mọc. Có tiếng ong ong vu vu từ đâu vọng tới. Một đàn ong vô hình cứ quấn quanh người tôi. Tôi bay tới đâu đàn ong quấn theo tới đó hay đàn ong đang lùa nhau đẩy tôi lên cao mãi tôi muốn dừng lại mà không được. Tôi bỗng thèm được nhìn lại trái đất một lần cuối cùng.

Nhưng trời ơi!... sao lạ lùng thế này? Tại sao tôi còn thấy được chiếc M113 chở tên đại úy vừa bật đèn chạy xuôi bờ sông Tiền về phía thị trấn Hồng Ngự? Có lẽ nào tôi vẫn sống? Hay đây là linh hồn tôi còn lưu lại chốc lát trên cõi dương gian? Thú vị quá. Té ra cái chết có gì đáng sợ đâu. Chỉ thế này thôi mà. Một cái ngã ba bước qua lúc nào không hay. Một cái trại tiền tiêu lột bỏ hộ mình khối thân xác nặng nề thô kệch, rũ bỏ hộ mình tất cả những nhu cầu ăn uống, tình ái ghen tuông, giải hóa cho mình những chặng đường trầy vây tróc vẩy ngoi lên ngụp xuống, kỳ vọng và chán chường, rồi đẩy vút mình vào một cõi thanh thản vô biên... Tôi đập bàn tay xuống mặt đồng nghe đánh bộp, nửa bàn tay lọt nghiêng vào kẽ đất nẻ thấy đau đau. Tiện thể tôi quơ luôn một ngọn cỏ gì thơm thơm ngai ngái bỏ vào miệng nhấm thử, nghe đất cát lạt sạt giữa hai hàm răng. Trong không khí vẫn khét lẹt mùi khói đạn. Gió chướng lồng lộn quét qua lành lạnh trên lưng áo lạ lùng! Thế này là thế nào? Hay là do tối trời tên đại úy không nhìn rõ mục tiêu xối đạn? Hay là tôi chỉ bị thương. Bị thương vào đâu? Tôi sờ nắn khắp người, sờ đi sờ lại vẫn không thấy chỗ nào có máu. Lúc sờ lên túi áo ngực thấy có gì cồm cộm, trơn trơn, giống như một xấp mỏng giấy bạc. Nhưng tôi nhớ mình không có tiền bỏ trong túi. Có tờ giấy giới thiệu của bộ tư lệnh sư đoàn gửi huyện đội Hồng Ngự, trước khi lên khỏi hầm bí mật tôi đã nhai nát và nuốt mất rồi cơ mà.

Tôi lật người nằm ngửa, nhìn vòm trời đêm Đồng Tháp Mười mùa khô chi chít sao, và rùng mình thấm cái lạnh đất phèn đang xông lên qua lần áo mỏng. Rất lâu như thế đầu óc tôi mới kịp hồi tỉnh trở lại. Tôi thì thầm thành tiếng:

“Hỡi con người kia. Anh là ai?”.

--------

(1) Công trường Bẩy: Mật danh Quân giải phóng miền Nam.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #8 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:21:01 pm »

Rừng áo trắng

Chẳng ai hiểu rừng áo Trắng bằng già Lâm. Già Lâm, con người khó đoán tuổi. Mái tóc đen nhánh chưa vương một sợi bạc. Đôi mắt hình quả đậu ván ngấm ngầm phát sáng gợi ta nghĩ tới một đôi cá đuôi cờ luôn luôn thay đổi mầu sắc, lúc óng ánh rực rỡ, lúc tím biếc, lúc vàng vàng mầu nghệ non. Vầng trán cao, hai má dài rộng, gò má nhọn, những đường nhăn chi chít xuất phát từ gò má, từ thái dương, kéo xuống tận cằm, giống như những dòng sông ngoằn ngoèo phát nguyên từ trong rừng sâu núi cao và kết thúc ở cửa biển. Với tầm vóc cao lớn bao giờ cũng dư thừa sức lực, và chút tật nguyền nằm bên chân phải khiến già Lâm bước tập tễnh làm giảm mất rất nhiều vẻ tráng kiện, tinh nhanh của già.

Căn nhà của già Lâm, một gian nhà hai chái đứng lẻ loi ở bìa rừng áo Trắng. Ngoài hai mái lợp tranh, từ kèo cột đến cửa, vách, tất tật đều bằng bương đẵn trong rừng ra. Căn nhà độc đáo ở chỗ có bốn khung cửa rộng mở ra bốn hướng. Sáng nắng rọi từ cửa bên đông sang bên tây. Chiều nắng rọi từ cửa bên tây sang cửa bên đông. Tuy chật hẹp như thế nhưng chả mấy khi già Lâm vắng khách. Khách của già đều là thợ trồng rừng, những người đàn ông xa nhà, hoặc đám con trai sống độc thân, ở khắp bốn đội trồng rừng của lâm trường, hễ có được vài ngày nghỉ là mò đến bù khú với già.

Cách tiếp khách của già Lâm cũng thật độc đáo. Ai muốn uống rượu, tự mua lấy, còn thức nhắm, già nuôi một đàn gà không thể biết mấy chục con, với một cây nỏ và chiếc ống tên treo trên vách. Khách đến, thích ăn con nào bắn con ấy. Hễ lớ ngớ bắn trật, xua gà bay táo tác, thì nhịn. Trong trường hợp hẩm hiu như thế, khách vừa phải ăn cơm suông với muối vừa phải nhận lỗi trước chủ. Khắp lâm trường đều biết già Lâm nuôi gà đầy đàn đầy đống nhưng nếu chỉ có mình già thì già không bao giờ động đến chúng. Phải có khách già mới "nhân thể kiếm được vài miếng" như già nói.

Già Lâm không có tính ky cóp dành dụm, nhưng già ngại cách rách. Từ hồi trai trẻ già đã nhiễm tính ấy, thích chăm sóc người khác, với mình tuềnh toàng thế nào cũng xong. Vả lại già Lâm rất bận. Cánh rừng ngót nghét trăm héc ta, một bề kéo dài từ chân núi Bò Liếm lên tới núi Ông Cọp, một bề chạy từ bờ vực áo Trắng tới sát sông Lung, bương mọc so đũa phải kể triệu cây, mà chỉ mỗi mình già coi sóc, canh giữ. Nhiều lần giám đốc lâm trường hỏi già có cần xin thêm người giúp việc, già đều lắc đầu nói không cần. Chừng nào già còn sống trên đời, già còn dành trọn vẹn thời gian và sức lực của mình cho rừng áo Trắng.

Già Lâm trở thành người bí ẩn.

Nhất là từ khi những người cùng lứa với già lần lượt nghỉ hưu rời khỏi lâm trường, những cô những cậu mới lớn, mới gia nhập đội ngũ của rừng thì chẳng mấy ai còn lưu tâm tới việc tại sao cánh rừng bương già Lâm hiện coi giữ lại mang tên là rừng áo Trắng, và tại sao sau khi nghỉ hưu già Lâm không đi đâu mà lại tình nguyện ở lại mãi mãi với nó.

*

...

Chuyện ở đời mình làm mình chịu mà cứ như có bàn tay bí mật nào xếp đặt.

Suốt chín năm đánh Pháp, già Lâm đi từ các chiến dịch Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám, Thượng Lào... tới chiến dịch Trần Đình - chiến dịch Điện Biên Phủ - xông pha kể biết mấy trận, chẳng hề bị một mảnh đạn làm chảy máu sầy da. ấy vậy mà tới dạo đại đoàn - tức sư đoàn bây giờ - kéo quân về đồng bằng Bắc Giang đánh mấy trận làm hậu thuẫn cho phái đoàn ta đàm phán bên Giơ-ne-vơ, đùng một cái già Lâm thành thương binh, chỉ vì một trái mìn rủi ro ấy già Lâm mới thật sự tin là mình không còn đủ điều kiện ở lại xây dựng quân đội tiến lên chính quy, hiện đại. Già về một nông trường, rồi chuyển qua lâm trường. Lâm trường Quyết Thắng bấy giờ chỉ gồm hai đội, một trồng cây, một khai thác. Đội trồng cây già Lâm ở có hơn năm mươi người, do một đại đội phó chuyển ngành làm đội trưởng, già Lâm làm tổ trưởng cai quản chín người.

Anh tổ phó của già Lâm bấy giờ cũng là bộ đội chuyển ngành, nhưng kém Lâm chục tuổi, một tay đàn giỏi hát hay, mặt trái xoan, mảnh mai trắng trẻo, lên sân khấu đóng giả con gái tài đến mức nhiều chàng trai phải xiêu lòng. Phú - tên anh tổ phó - trở thành "cây" dân vận rất được việc cho tổ. Họ về đóng ở đâu, khi cần tre nứa để dựng lán, cần rau, cần trứng cho anh em ăn tươi, hoặc cần bất cứ sự giúp đỡ nào của dân bản, chỉ cần cho Phú đi dạo một vòng là có ngay.

Một trong những lần đi dân vận như vậy Phú đã dẫn về chỗ đóng quân của tổ một cô gái bản Mường Lay, tên là Sim. Cô gái cao dong dỏng, môi đỏ, da trắng như thoa phấn, thoạt đầu không ai ngờ đã hai mốt tuổi, vì trông cô chỉ như một cô gái mới lớn, khoảng mười bảy mười tám là cùng. Dĩ nhiên mọi người đều nghĩ sở dĩ cô gái đẹp nõn nà này quyết chí xin vào ở lâm trường là vì cô ta đang chết mê chết mệt với thằng Phú.

Lâm cũng cho thế là phải. Anh nói với đồng chí đội trưởng:

- Đề nghị anh cho cô Sim ở tổ tôi, để hai đứa chúng nó được gần gũi nhau.

Đồng chí đội trưởng hỏi lại:

- Con bé đẹp thì đẹp thật, nhưng chắc gì thằng Phú đã chịu lấy? Cái thằng hay léng phéng thế thôi...

Lâm phản đối:

- Anh đừng nghĩ oan cho thằng Phú. Nó say cô bé như điếu đổ rồi.

- Chắc không?

- Chắc. Hễ léng phéng làm khổ con bé thì tôi cạo trọc đầu!

Thế là tổ Lâm có thêm một thành viên thứ mười. Sim vác cuốc đi trồng thông hôm trước, hôm sau tiếng đồn đã bay khắp lâm trường, lôi cuốn nhiều chàng trai dập dìu tới chiêm ngưỡng người đẹp. Phú càng cố gắng trổ hết tài hoa, và càng làm đỏm hơn. Bộ quần áo bảo hộ lao động của Phú bao giờ cũng sạch sẽ, đêm đêm được cởi ra vuốt phẳng và gối đầu giường để thay bàn là. Phú xin nghỉ phép về thăm quê dưới Thái Bình, nhưng chỉ về tới thị xã Hòa Bình vài ngày rồi trở lên. Người đầu tiên nhận ra sự khác lạ trên mái tóc của Phú chính là Sim. Hôm Phú từ thị xã lên mang tặng Sim chiếc khăn bông bay óng ánh như mạng nhện đính sương, Sim ngắm chiếc khăn tặng thì ít, ngắm mái tóc của Phú thì nhiều. Cô bất giác kêu lên:

- Tóc anh làm sao rồi. Anh Phú?

Phú đỏ mặt cúi xuống, trả lời lí nhí:

- Không sao đâu. Nhưng... Sim không thích à?

Sim che miệng cười:

- Cũng thích chứ. Nhưng giá anh cứ để tóc đen thì đẹp hơn.

Lúc đó mọi người mới kịp nhận ra mái tóc đen mượt của Phú trước kia giờ vàng hoe và gợn lên thành mấy lượn sóng trước trán. Công bằng mà nói, những lượn sóng vàng có làm cho gương mặt vốn nhẹ nhõm của Phú đẹp hơn lên chút ít, nhưng là vẻ đẹp của thứ cây được uốn tỉa trong bồn. Tệ hại hơn nữa, vì mái tóc ấy mà Phú không dám tắm gội tự nhiên như mọi khi. Mọi khi, sau ngày làm việc người nhễ nhại mồ hôi, Phú cùng anh em cởi quần áo vắt lên đá, nhảy ùm xuống suối thỏa sức quẫy đạp, ngụp lặn, la hét, nô nghịch. Còn bây giờ, Phú chỉ dám men men ở chỗ cạn, khẽ vốc nước lên người, thà chịu những lời chế nhạo của chúng bạn còn hơn bị ướt tóc.

Tuy nhiên sự đời trăm người trăm ý. Có người chê mái tóc của Phú nhưng cũng có người khen. Bên cạnh đám con trai mon men đến làm quen với Sim, có cả đám con gái liếc trộm không chán mắt bộ tóc vàng râu ngô của Phú.

Phú xốn xang trước những đôi mắt vụng trộm ấy. Có điều càng ngày anh càng khắc khoải chờ đợi một tia sáng lạ lóe lên từ đôi mắt xanh mầu trời của Sim. Hay là tại Phú thiếu chững chạc? Phú thèm khát có được sự chín chắn, điềm đạm của tổ trưởng Lâm. Sim thường hay trò chuyện với Lâm, đòi anh kể chuyện này chuyện nọ, khâu vá cho anh, chăm chút anh hơn những người khác, chỉ vì Lâm biết sống như một người anh cả đối với bầy em nhỏ trong nhà. Về phía ấy Phú tự biết mình không thể có được. Phú kiên nhẫn, rồi Phú đau khổ. Đôi mắt của Sim nhìn anh thì vẫn trong trẻo, hồn nhiên như thế. Chẳng lẽ Sim không nghe những câu nói bóng gió, chòng ghẹo của đám chị em bạn gái với cô? Cho đến một hôm từ cái dạo vừa trồng xong cánh rừng thông trên núi Phượng Hoàng và chuyển sang trồng bương dưới chân núi Bò Liếm, Phú và Sim mỗi người vác một chiếc cuốc chim, lững thững đi bên nhau trên đường về lán, Phú buộc lòng phải hỏi:

- Sim ơi!

- Dạ.

- Em có nghe người ta đồn đại về hai chúng mình không?

- Có.

- Em nghĩ sao?

- Em chả nghĩ sao. Mình không thế thì thôi chứ anh. Lo gì!

- Nhưng Sim có nghĩ đến anh không?

- Nghĩ chứ.

- Sim có thương anh không?

- Thương chứ.

Phú gần như phát điên trước những câu trả lời quá ngắn gọn và vô tâm của Sim. Anh nín thở lấy thêm can đảm, giống như người lính bắn đến viên đạn cuối cùng rồi sau đó hoặc là thắng trận hoặc là chết.

- Sim. Em có yêu anh không?

- Anh nói đùa!

- Không. Phú thét lên. Em phải nói cho anh rõ, em có muốn làm vợ anh không?

- ...

Phú cướp lời Sim để nói hết ý, môi lắp bắp, tái ngắt:

- Anh yêu em gần năm nay rồi, ngay từ hôm anh gặp em ở Mường Lay. Nếu em không yêu anh, anh sẽ chết. Sim ạ!

Lần đầu tiên Sim bối rối trước mặt Phú. Song thật tội nghiệp cho Phú. Đấy không phải là biểu hiện của tình yêu, mà là nỗi hoảng sợ của người con gái, Sim ù té chạy và luôn luôn có cảm giác một tiếng sét sắp giáng xuống đầu mình.

Tối hôm đó sáng trăng non. Lâm đi họp trên đội về chợt giật mình thấy một bóng người đứng vẩn vơ ở chỗ lội ngang con suối Nại: Sim. Sim níu chặt lấy cánh tay Lâm và òa khóc. Lâm lay gọi cô gái:

- Sim. Có chuyện gì? Có chuyện gì? Nói anh xem nào! Nói!...

Lâm chột dạ nghĩ đến Phú, rồi lại nghĩ lướt qua vẻ mặt của mấy chàng trai lâu nay vẫn theo đuổi cô bé. Đứa nào vừa mới "làm gì" Sim? Ngực Lâm bỗng nhói đau. Anh nổi giận quát:

- Nín! Nín!

Cô gái không nín. Sim càng ghì chặt cánh tay Lâm vào bộ ngực đang phập phồng của cô, giụi cả gương mặt ướt đầm vào tay áo, vào vai, vào ngực Lâm. Bất ngờ Sim lên tiếng:

- Anh không muốn lấy em à?

Lâm bàng hoàng, hoàn toàn không hiểu gì, đứng trơ.

- Anh không muốn lấy em à?

- Hả?

- Anh chê con gái Mường à?

- Hả? Cô nói gì thế cô Sim? Cô không ốm đấy chứ? Lâm vừa nói vừa đưa bàn tay còn được thả lỏng sờ lên trán Sim. Tỉnh lại đi Sim. Anh là Lâm đây mà!

Lúc sau hai người bình tĩnh lại, Sim thôi khóc, Lâm thôi cái cảm giác ù đặc trong tai như nằm dưới làn đại bác, thì trăng lên. Sau núi ông Cọp như có đám cháy lạnh lẽo vừa nhóm lên và loang rất nhanh. Lâm cùng Sim ngồi xuống một đoạn cây vứt cạnh lối đi.

- Sim ạ, Phú yêu em lắm. Sao em không yêu anh ấy?

- Em không biết.

- Phú tốt đấy. Lại trẻ và có tài...

- Anh ấy bảo anh ấy muốn ở rể. Em không đồng ý. Em chỉ muốn cho anh ở rể thôi.

- Tôi nhiều tuổi rồi. Sim biết không?

- Ai già ai trẻ em khắc biết. Anh không phải nói! Hay là anh đã có vợ dưới xuôi?

- Tôi chưa có vợ. Nhưng Sim hãy chịu khó mà nghe lời tôi. Nếu tôi lấy Sim, anh Phú sẽ nghĩ sao? Anh em trong tổ, trong đội, trong cả lâm trường sẽ nghĩ thế nào về tôi?

Giọng Sim đau đớn bất lực:

- Anh lấy vợ hay là lấy tiếng?

Gà rừng bắt đầu gáy sáng. Sương mù mới đó còn lảng bảng, thoắt cái đã đặc ngầm thành một vành đai bông trắng quấn quanh chân núi. Hai người đứng dậy đi về lán ở. Người nọ thấy cái bóng của người kia nhòe nhoẹt trong sương, buồn tê tái mà chẳng biết nói gì.

- Anh Lâm chờ em với, em bảo cái này.

- Sắp sáng rồi đấy Sim.

- Sáng cũng được. Mai em về rồi.

Lâm sửng sốt.

- Em về đâu?

- Mai có chợ Mường Vang, em ra đó theo người quen về nhà. Em không làm công nhân nữa đâu.
Logged
trachvandung
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 747



« Trả lời #9 vào lúc: 21 Tháng Năm, 2008, 02:21:39 pm »

Lâm rùng mình sởn gai ốc, khi cô gái nói tới đoạn này:

- Em trốn bố mẹ đi làm công nhân để khỏi phải lấy chồng. Chồng em là thầy cúng ở Mường Sinh. Nhà nó giàu, nó mua em bốn mươi nén bạc. Nó bắt em về nhà nó, em không về, nó lắp tên thuốc độc vào nỏ định bắn em chết, em cũng không về...

Đằng sau lời nói đơn giản là cả một câu chuyện dài.

Gã thầy cúng người xứ Mường Sinh cầm nỏ và cưỡi ngựa đến Mường Lay để đón Sim về. Sim không chịu. Gã đứng trên bậc cầu thang nhà sàn gọi Sim: "Lại đây bảo!". "Bảo gì?". Gã tì cán nỏ vào bụng, lên dây, rút mũi tên trong chiếc ống đeo vắt sau lưng, đặt vào rãnh nỏ, "Trông đây!". Gã ưỡn ngực giương nỏ lên nhằm con lợn khoang nhà Sim đang nằm cho con bú dưới gốc chuối. Phực. Mũi tên bay sợt qua đám lông gáy con lợn, cắp phập xuống đất. Lúc sau gã kéo tay Sim lôi tới, đã thấy con lợn mẹ nằm trợn mắt, máu ộc ra miệng, và nhễu giọt theo hai hàng núm vú dưới bụng. Sim bưng mặt rú lên. Gã thầy cúng cười hềnh hệch rút thêm một mũi tên giơ ra trước mặt Sim. Gã trừng mắt: "Phần cô đấy!".

Liền mấy ngày sau Sim mất ăn mất ngủ, bỏ nhà trốn lang thang trong rừng. Nhưng Sim đi khắp mấy cánh rừng mấy ngọn suối đất Mường Lay, cô vẫn không sao gạt bỏ được hình ảnh gớm ghiếc của mũi tên tẩm thuốc độc và đôi mắt nhìn trừng trừng của gã thầy cúng. Đó là những ngày trước lúc Sim gặp Phú.

- Sim định về ở với người ấy?

- Vâng. ở được thì ở. Không ở được, em ăn lá ngón em chết.

- Trời ơi. Sao không bắt cổ thằng ấy đi?

- Có bắt đấy. ủy ban bắt nó lên huyện học tập mấy tháng rồi lại thả cho nó về. Nó không dám đi cúng nhiều như trước. Nhưng tính ác thì vẫn...

Sim không kịp nói hết câu. Lâm đột ngột quay người lại, bằng tất cả sức mạnh của đôi cánh tay người lính, anh ôm ghì lấy Sim và nhấc bổng cô lên.

*

Công việc trồng bương dưới chân núi Bò Liếm được khởi sự từ đầu tháng giêng, những ngày sương mù lẫn mưa bụi, thỉnh thoảng mới thấy nắng hửng lên để liền sau đó bầu trời lại sùm sụp một mầu đá xám. Tình yêu thuần phác biến Sim thành một cô gái nhí nhảnh, bạo dạn, cười nói suốt ngày. Riêng Lâm, bên cạnh sự ban phát thần thánh mà anh được hưởng, anh còn phải chịu đựng biết bao điều tiếng. Mấy chàng trai sinh lòng ghen ghét rủ nhau đặt vè chế giễu Lâm, và để trả thù Sim, họ nhất loạt gán cho anh thêm một chữ già. Cái tên già Lâm sinh ra là như thế. Còn Phú, hàng tháng sau Phú vẫn chưa thể tin cô gái xinh đẹp kia lại yêu Lâm một cách mê say mà không hề yêu mình.

Công việc thì mỗi ngày một thêm vất vả. Mười con người cặm cụi suốt từ sáng sớm tới chiều tà để bấng từng nhò gốc bương non ra khỏi búi cũ, đem trồng vào khoảnh đất mới. Nguồn cây giống ở gần chẳng được bao lâu. Về sau họ phải cơm đùm cơm nắm ngược mãi lên tận nguồn suối Nại để đào bới, gồng gánh mang về. Khoảng đất trồng bương cứ thế được loang rộng ra một cách khá chật vật. Cái vạch đỏ trong tấm biểu đồ trồng rừng treo ở phòng giám đốc lâm trường nhiều ngày chỉ nhích được vài ly, nhiều ngày bị chững hẳn lại. Công việc theo kế hoạch phải kết thúc vào đầu mùa hạ, nhưng mãi tới đầu mùa xuân tổ của Lâm mới kéo được những hàng bương từ phía sông Lùng tiến đến sát bờ tới suối Nại. Những gốc bương cuối cùng được cắm xuống đất dưới bầu trời mưa dông sấm chớp đùng đùng, những hàng cây trồng đầu tiên thì đã tỏa cành và mọc măng tua tủa. Cái thung lũng hình chiếc lá bàng khô vênh xưa nay dành cho sỏi đá và cỏ dại nay khó lòng mà nhận ra.

Con người cũng có biết bao biến đổi. Trong khoảng thời gian từ khi tổ trồng rừng kéo về dựng lán tới nay, nhiều người đã đi từ quãng này sang quãng khác của cuộc đời.

Anh tổ phó đẹp trai giờ đã có "đối tượng" mới ở trường cấp hai huyện, một cô gái dưới xuôi mới lên. Phú dành dụm sắm được chiếc xe đạp sơn đỏ chót, thứ bảy nào cũng xin phép Lâm biến hút từ nửa buổi chiều. Một cô gái khác tên là Thảo lấy chồng bên đội khai thác, mới sinh con trai. Thằng bé chẳng những là con cưng của bố mẹ nó, mà còn là niềm vui chung của cả tổ, cả đội. Bấy giờ ngay cả những tác giả đặt vè châm chọc Lâm dạo nọ cũng không ai còn nghĩ việc Sim yêu Lâm là điều vô lý. Trước đây họ "cào ra", nay họ lại "vun vào". Anh tổ trưởng đã trải qua quá nửa đời người giờ mới hiểu thế nào là thời trai trẻ. Và cô gái bản Mường Lay như một chiến sĩ quả cảm vừa vượt ngục thoát ra khỏi những gông cùm của cả một xã hội nghìn năm vua quan, lang đạo, giờ mới tin rằng tình yêu là điều có thật trên đời.

Đời sống công nhân lâm trường chưa thể gọi là đầy đủ, song họ thật yên ổn và sung sướng. Những con người được yêu thương, được đổ mồ hôi nước mắt cho rừng, được mong đợi, và được tin cậy vào hạnh phúc...

Già Lâm cho tới những ngày này vẫn đinh ninh mình đã đi qua cái đỉnh cao tuyệt vời của hạnh phúc. Điều đó đã giúp già sống giữa cô đơn vắng lặng mà vẫn thấy thỏa mãn, dường như trên trái đất không thể có một ai khác từng được như già.

Vào một đêm... khi cánh rừng bương mới trồng nhích dần đến bên bờ suối Nại, tổ trưởng Lâm đã mua sẵn mấy con gà, chờ trồng nốt dăm bảy hàng cây nữa là phủi những bàn tay lấm đất, thay quần áo mới, mở tiệc ăn mừng xong công việc... Phải rồi... Vào một đêm sau trận mưa rào khắp trời trăng sao vằng vặc, Sim mang đến chỗ Lâm một dải vải chàm rộng bằng bàn tay và khá dài, ngồi mải miết thêu bên ngọn nến trám tỏa khói thơm hăng hắc.

- Em thêu khăn quàng đấy ư Sim?

Sim ngước lên nhìn Lâm khiến anh thảng thốt trước những tia sáng mầu than đá đang im lặng tưới lên người mình. Sim mủm mỉm cười, giọng nói rung lên vui sướng:

- Hôm cưới, anh có thích em mặc váy Mường không?

Lâm chăm chú nhìn chiếc sơ mi vải xanh trứng sáo trên người Sim, khẽ gật đầu.

- Thú thật, anh thích em mặc thế này hơn. Đẹp và gọn. Nhưng...

Sim ngừng thêu, lắng đợi.

- Nhưng thế nào. Anh?

Lâm gãi gáy, mặt thoáng đỏ biết mình nói quanh co.

- Nhưng nếu em thích mặc váy Mường, anh cũng đồng ý. Miễn em thấy là đẹp.

Sim lại ngẩng nhìn Lâm, cái nhìn vừa biết ơn vừa thương anh chan chứa.

- Phải chi em là người xuôi, chắc anh đỡ buồn?

- Sim. Sao em lại nói thế? Không khi nào anh phải cân nhắc em là người Mường hay người Kinh. Chỉ cần em yêu anh là đủ.

Sim cúi nhìn mấy ngón tay cầm kim của Sim nằm gọn trong bàn tay ấm nóng và ram ráp của Lâm. Sim khẽ cựa.

- Buông em ra cho em thêu. Nào! Nào!...

Lâm buông bàn tay bé nhỏ của Sim ra, nhưng chính cô lại ngả hẳn vào lòng anh. Sim giật vội mấy chiếc cúc trên tấm áo quân phục của Lâm rồi giấu mặt vào sau lớp vải, như thở hít mùi mồ hôi mặn của anh thấm nồng trong đó.

- Bao giờ chúng mình có con. Em? - Lâm thì thào.

Sim đáp lại càng nhỏ hơn, vừa đáp vừa dũi sâu mãi vào ngực người yêu:

- Anh đã muốn chưa? Anh muốn... thì...

Bầu trời trăng sao sà xuống thành một trận bão ngũ sắc quanh chỗ họ nằm. Cô gái khóc nghẹn ngào vì không có cách gì nói hết được niềm say đắm trong lòng. Người con trai thì biết chắc từ phút ấy mình đã là một con người khác, một cuộc đời khác - một con người của hai người, một cuộc đời của hai cuộc đời.

Hôm sau Lâm về họp ở ban chỉ huy đội. Buổi sáng nắng chói chang ngay từ lúc ngọn cỏ còn dính sương. Sim chạy theo đưa cho Lâm chiếc áo mưa. Lâm không muốn cầm. Sim trách anh bằng một câu tục ngữ đất Mường Lay:

"Người khôn sắm chăn giữa năm. Người dại gặp mưa mới đi tìm nón".

Lâm đành ngoan ngoãn nhận chiếc áo mưa, và nắm luôn cổ tay mát rợi của Sim, làm cô bật cười khanh khách.

- Người ta cười cho đấy!

- Ai thấy mà cười?

- Rừng thấy. Núi thấy. Suối thấy... Buông ra. Anh!...

Hơn một tiếng đồng hồ leo dốc, tiếng "anh" lúc nào cũng ngân vang bên tai Lâm. Lâm ngồi ở hàng ghế đầu trong phòng họp, cố tập trung đầu óc lắng nghe ông giám đốc lâm trường thuyết trình trên bục mà không sao được. Giám đốc lâm trường mọi khi thường nói vắn tắt, sao hôm nay ông nói lê thê đến thế! Lúc lúc Lâm lại ngoảnh nhìn bóng nắng sắp xiên vào thềm, người nóng như lửa đốt. Giá cuộc họp vắng mặt ông giám đốc, hẳn giờ này Lâm đã được chạy về với tổ, với Sim, để được nghe giọng nói dịu ngọt của tình yêu. Đôi mắt ấy, giọng nói ấy, cả lồng ngực ngọc ngà phát ra nó, hiện lên gần gũi trong vòng tay Lâm.

Vừa ra khỏi phòng họp, Lâm liền chạy như lao mình xuống con dốc dài, những tưởng chỉ sau chớp mắt là anh được ghì chặt Sim vào lòng. Nhưng. Hỡi ôi. Cái chớp mắt ấy. Ai ngờ...

Xế chiều. Anh chị em trong tổ trồng cây còn đang ngồi trốn nắng dưới bóng râm chợt vùng dậy nhớn nhác nhìn quanh. Có tiếng gì ầm ầm như gió bão. Mà trời thì vẫn không một gợn mây. Tắt gió. Nóng ngột. Một người sợ líu lưỡi chỉ tay lên đỉnh thác Nại, nơi vừa xuất hiện một khối trắng đục, lừng lững ngang ngọn cây, đang lao xuống vùn vụt. Nước! Trời ơi nước! Chẳng ai kịp nghe những tiếng kêu thất thanh nữa. Ngọn sóng đã cuộn réo, gầm thét kinh động trên khoảng rừng bương mới trồng...

Những người ít tuổi chưa biết gọi hiện tượng quái dị này là gì. Những người già thì gọi đó là họa vỡ con nước.

Họa vỡ con nước ở miền rừng nào cũng có, lâu lắm mới xảy ra, cả đời người chưa chắc gặp một lần. Song đó là công việc của những nhà khoa học chuyên nghiên cứu về thủy văn. Những hiểu biết về hiện tượng này dường như không dính dáng gì đến số phận của mười nhân vật trong tổ trồng rừng của già Lâm.

Sáu người trong họ may mắn thoát nạn. Một cô gái quá hoảng sợ đã trốn biệt trên đỉnh núi Ông Cọp, mặc dầu sau đó chỉ mươi phút đồng hồ nước đã rút hết mà cô vẫn không dám bén mảng xuống chân núi. Khi anh em tìm thấy cô trong một hang đá nhỏ, cô đã kiệt sức vì đói. Gần nửa tháng sau, Lâm leo hết tất cả những ngọn núi, anh sục sạo vào tất cả những cánh rừng trong vùng, chỉ với chút hy vọng le lói rằng Sim cũng có may mắn rơi vào trường hợp giống như cô gái nọ. Mấy tháng sau, Lâm tìm về tận đất Mường Lay quê hương Sim, xuống tận thị xã và rảo qua hầu khắp những xứ Mường Bi, Mường Vang, Mường Trắng, Mường Dốc... để cuối cùng Lâm tìm thấy dấu vết người vợ chưa cưới của anh ngay ở sát mép vực - vực áo Trắng bây giờ - Một mảnh áo sơ mi rách tướp còn mắc lại trên một nhò bương vừa kịp nảy măng! Chính là chiếc sơ mi mầu trứng sáo mà Sim mặc trong đêm cô ngồi thêu cạp váy, bên cạnh Lâm. Mầu trứng sáo chỉ riêng mình già Lâm biết. Sự thực, mưa nắng đã biến mảnh vải ấy thành mầu trắng.

*

Tôi không gọi Lâm bằng già Lâm, mà gọi bằng anh.

Sau đêm thức trắng với Lâm, sáng nay anh tiễn tôi đi dưới vòm trời không biết đâu là cao thấp, vì dày đặc sương mù. Tôi theo anh đi vào một lối mòn xuyên qua rừng áo Trắng. Anh đi trước, những bước chân vững chãi, nhanh nhẹn, con dao rừng giắt vào tấm phẻn vắt vẻo sau mông. Thỉnh thoảng Lâm dừng lại cạnh một khóm bương nào để phạt những dây sắn rừng quấn vào ngọn mưng, hoặc chặt một vài cây bương đổ mất trật tự làm ảnh hưởng tới sức vươn thẳng của bạn bè nó. Chúng tôi không nói chuyện, và cũng không có cảm giác ly biệt nặng nề trước lúc chia tay. Chi tiết cuối cùng Lâm kể cho tôi nghe là có vài người phụ nữ khác đã tự nguyện đến với Lâm, nhưng chẳng thành chuyện gì. Họ đều là những người tốt, cùng là công nhân lâm trường, và ai cũng nhẹ nhõm dễ ưa. Tuy nhiên, vẫn không một ai thay thế được hình bóng Sim trong cuộc sống của anh. Tôi không muốn hỏi thêm Lâm chuyện gì nữa. Lúc anh dừng lại bên bờ vực áo Trắng nhìn theo, tôi đã "nấp" vào sương mù để ngắm trộm anh khá lâu. Dáng đứng của anh quả thật rất ung dung, thư thái. Anh đang tựa vào cánh rừng của anh.

Chúng ta có ai không cần một chỗ tựa như thế để mà sống?

5-1-1983

Logged
Trang: 1   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM