Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 08:39:31 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chân lý thuộc về ai  (Đọc 80980 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #90 vào lúc: 27 Tháng Mười Một, 2007, 05:40:06 pm »

Có thể ngay trong những năm 1979-1980, đa số lãnh đạo Trung Quốc tán thành việc giảm bớt sự tranh cãi của họ với người Xôviết, nhưng còn những bất đồng quan trọng giữa họ với nhau (nhất là giữa Đặng và Hoa, như chúng ta đã thấy trong chương 5) trong vấn đề thời điểm. Tuy nhiên, trong khi người Việt Nam và Khmer đỏ đánh cuộc chiến tranh mà Brejinski thích tưởng như một “cuộc chiến tranh uỷ nhiệm” giữa người Xôviết và Trung Quốc, thì Bắc Kinh khởi xướng một sự tan giã nhỏ trong các quan hệ Trung-Xô. Tháng 4 năm 1979, Bắc Kinh công bố rằng hiệp ước hữu nghị năm 1950 giữa hai nước sẽ không được kéo dài thêm. Trong khi khi việc đó không làm cho ai ngạc nhiên cả, Bắc Kinh cũng nhân cơ hội đó đề nghị thương lượng bình thường hoá các quan hệ với Liên Xô. Cuộc nói chuyện bắt đầu trong tháng 9, nhưng bị Trung Quốc cắt đứt tháng giêng năm 1980 sau khi người Xôviết can thiệp vào Apghanistan. Các quan hệ Trung-Xô từ đó tiếp tục băng giá thêm 18 tháng nữa.


Chính sách của Trung Quốc bắt đầu thay đổi một lần nữa giữa năm 1981. Khi A-léc-xan-đơ He-gơ thăm Bắc Kinh tháng 6, ông ta đã ủng hộ mạnh mẽ Trung Quốc về vấn đề Đông Dương và cho Trung Quốc vũ khí. Nhưng, đáng lẽ phải đền đáp lại thì người Trung Quốc đã làm cho ông ta rất gay cấn về vấn đề Đài Loan. Rồi, đến ngày ông ta rời thủ đô Trung Quốc, Nhân dân nhật báo đăng một bài của Li Huichuan về cuộc tranh chấp biên giới Trung-Xô, nhưng nó cũng kêu gọi mở lại đàm phán mà Trung Quốc đã đình chỉ năm 1980. Thêm vào đó, người Trung Quốc rõ ràng không chịu tham gia bản hợp xướng phối hợp lên án người Xôviết đối với cuộc khủng hoảng Ba Lan. Từ đó trở đi, những tuyên bố của Trung Quốc bắt đầu nhấn mạnh “sự độc lập” của chính sách Trung Quốc.


Những ngụ ý này không phải không ảnh hưởng đến người Xôviết. Tháng 2 năm 1982, họ đề nghị mở lại các cuộc thương lượng về biên giới. Rồi, trong một diễn văn quan trọng tại Taskhent ngày 24 tháng 4, Brezhnev kêu gọi Bắc Kinh bình thường hoá quan hệ Trung-Xô. Ông ta cho rằng, mặc dù người Xôviết đã công khai chỉ trích các chính sách của Trung Quốc, “đã không có và hiện không có đe doạ nào của Liên Xô đối với Cộng hoà nhân dân Trung Hoa”. Ông ta cũng tìm cách lợi dụng những bất đồng Trung-Mỹ bằng cách nhấn mạnh rằng Liên Xô “hoàn toàn thừa nhận” chủ quyền của Trung Quốc đối với “đảo Đài Loan”. Việc này chắc chắn làm cho người Trung Quốc vừa lòng, nhưng họ vẫn trả lời rằng họ muốn Matxcơva “hành động chứ không phải lời nói”.


Đợt đàm phán đầu tiên giữa người Trung Quốc và người Xôviết được tiến hành vào tháng 10 năm 1982 và đợt thứ hai vào tháng 3 năm 1983. Người Trung Quốc đòi Liên Xô chấm dứt bá quyền đối với Mông Cổ (một nước mà Bắc Kinh xem như thuộc một cách chính đáng vào khu vực ảnh hưởng của họ), đòi rút các lực lượng của Liên Xô ra khỏi Apghanistan và chấm dứt mọi viện trợ cho Việt Nam cho đến lúc Việt Nam rút tất cả các lực lượng của họ ra khỏi Campuchia. Người Xôviết nhấn mạnh rằng các cuộc hội đàm tập trung vào các vấn đề song phương, nhất là biên giới Trung-Xô và không chịu nhượng bộ nào đối với các quan hệ với các nước thứ ba.


Tuy nhiên, sự thay đổi thái độ ở Bắc Kinh là một điều rất rõ ràng. Cũng giống như ý muốn của Matxcơva khuyến khích sự thay đổi đó. Các trao đổi buôn bán, văn hoá và thể dục thể thao giữa hai nước đã tăng lên, mặc dù chưa có tiến bộ trên mặt trận ngoại giao. Khi người Mỹ rêu rao rằng Liên Xô đang gây ra một mối đe dọa mới bằng việc xây dựng quân sự ở Thái Bình Dương thì Bắc Kinh làm ngơ đi, chứ không phải như trước kia, Bắc Kinh đã chộp ngay lấy cơ hội để phun ra những lời chửi rủa “chủ nghĩa đế quốc xã hội". Khi người Xôviết bắn hạ chiếc máy bay KAL-007 của Nam Triều Tiên tháng 9 năm 1983 người Trung Quốc cố tình tránh tham gia dòng thác lên án.


Trước khi bay đi Matxcơva dự đám tang Brezhnev tháng 11 năm 1982, Hoàng Hoa tuyên bố: “Chủ tịch Brezhnev là một con người nổi tiếng”. Hoa là nhà lãnh đạo Trung Quốc kỳ cựu nhất thăm Matxcơva kể từ đầu những năm 1960 và Andropop đã vượt ra ngoài lệ thường để nói rõ rằng Hoa được hoan nghênh. Trước khi trở lại Bắc Kinh, Hoa nói rằng ông ta mong cải thiện từng bước nhưng vững chắc các quan hệ Trung-Xô. Vào cuối năm 1983, đó chính là điều đã xảy ra, không hơn, không kém.


Còn quá sớm để nói những hậu quả gì mà sự thay đổi trong nền chính trị toàn cầu đó sẽ đưa lại cho Đông Dương và ASEAN. Nhưng chắc chắn những hậu quả đó sẽ tỏ ra là lớn. Paul Quin Judge đưa tin từ Băng Cốc cuối năm 1982 rằng: “Tuy kết quả duy nhất của hiệp ước thương lượng đầu tiên giữa Trung Quốc và Liên Xô trong tháng 10 vừa qua chỉ mới là một hoạt động ngoại giao kín đáo, nhưng tin tức về cuộc họp đã có một tác động rung chuyển của một cuộc động đất trong phần này của thế giới. Sự thù địch Trung-Xô đã là một trong những cơ sở mà nền chính trị khu vực đã dựa vào để hình thành trong những năm gần đây. Bây giờ những cơ sở đó đang thay đổi cho nên người ta đang chờ xem liệu tình hình sẽ trở lại bình thường hay là các chính sách sẽ bị đổ nát thành tro bụi” (xem bài “Tan băng Trung-Xô” của Paul Quin Judge đăng trong Indochina Issues  số 33, tháng giêng 1983-ND).


Cho đến nay, dù sao đi nữa, những sắp xếp liên kết hiện nay còn nguyên vẹn. Tất nhiên người Trung Quốc đang hy vọng đóng được một cái nêm vào giữa Matxcơva và Hà Nội. Việt Nam đã hoan nghênh sự tan băng Trung-Xô như là một việc làm giảm căng thẳng trong khu vực và đã bày tỏ lòng tin rằng Liên Xô sẽ không bỏ họ. Thứ trưởng ngoại giao Xôviết, Mikhail Capitxca đã được hoan nghênh đặc biệt nồng nhiệt ở Băng Cốc tháng 2 năm 1983. Còn quá sớm để biết liệu đó chỉ là một sự đi theo sáng kiến của Trung Quốc hay là người Thái đã nhân cơ hội mà chuyển một lần nữa trở lại chính sách đối ngoại “cân bằng”. Tuy nhiên trong khi đó thì cuộc chiến tranh lạnh giữa ASEAN và Đông Dương vẫn tiếp tục.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #91 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2007, 07:35:36 pm »

8.Khối liên hiệp của những sự nghiệp nhất định thất bại

Campuchia trở thành tiêu điểm của một cuộc đối đầu giữa Việt Nam, kiên quyết giữ chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia tiếp tục tồn tại và các nước ASEAN tìm cách khôi phục Campuchia dân chủ của Pol Pot. Trùm lên trên cuộc xung đột là quyết tâm của Trung Quốc, được Mỹ tiếp tay nhằm khai thác tình hình để “làm chảy máu” Việt Nam. Chìa khoá cho các chiến lược của cả ASEAN lẫn Trung Quốc là sự phát triển các khả năng quân sự của các lực lượng kháng chiến chống Việt Nam trên biên giới Thái-Campuchia. Các nhóm không cộng sản cũng hoạt động ở đây, nhưng Khmer đỏ rõ ràng là có hiệu quả nhất.


Sự sinh lại của Khmer đỏ

Các lực lượng Pol Pot ở trong tình trạng tuyệt vọng vào những tháng cuối của năm 1979. Những cuộc tiến công của Việt Nam đã chiếm và phá hủy phần lớn các trại căn cứ của họ và số người của họ đã bị giảm xuống thành một cuộc sống di cư trên rừng núi, không biết bữa cơm tiếp theo sẽ ăn ở đâu. Nạn đói và bệnh tật đã giảm nhanh chóng con số của họ và các tổ chức của họ đang tan rã. Quân đội đã giảm xuống con số khoảng 20.000, nhưng một nửa bọn họ bị cô lập và phân tán, hoàn toàn cắt đứt khỏi lực lượng chủ lực. Một số đơn vị của quân chủ lực đã bị phân tán thành những nhóm tên cướp vũ trang lang thang. Trong một lực lượng đã từng tự hào về kỷ luật của mình, bây giờ trộm cướp, hiếp dâm và thảm sát đã trở thành như cơm bữa. Trong một tình hình tan rã xã hội chung như vậy, chỉ có một kỷ luật cứng rắn mới mong giữ được mọi việc lại với nhau, nhưng ngay tổ chức của Đảng Cộng sản Campuchia cũng bị xâu xé vì những cuộc tranh giành lương thực tuyệt vọng và vì những tố cáo chua cay lẫn nhau về tội phản bội. Những nhà lãnh đạo Đảng còn đổ mọi thất bại của họ cho những “kẻ phản bội trong hàng ngũ Đảng, quân đội và nhân dân". Nhiều người sống trong nỗi sợ hãi rằng, trên tất cả mọi điều, các nhà thống trị của họ lại sẽ đưa ra một hiệp thanh trừng mới để loại bỏ những “kẻ phản bội” và lập lại uy quyền sụp đổ của họ.


Chính sự ủng hộ của nước ngoài đã làm giảm nhẹ sức ép đối với các lực lượng Pol Pot. Với ự bắt đầu phân phối lương thực quy mô lớn qua biên giới Thái-Campuchia tháng 10 năm 1979, các nhà lãnh đạo Khmer đỏ được đảm bảo, ít ra là trong thời gian đó, về một sự cung cấp thường xuyên lương thực cho những người ủng hộ họ. Khi sức khoẻ của lực lượng xây dựng các trại căn cứ vĩnh viễn hơn, phá rừng và trồng lúa cùng rau quả. Khi chúng tôi thăm làng kiểu mẫu của họ ở Nong Pru tháng giêng năm 1981, các cán bộ Khmer đỏ có thể cho chúng tôi thấy những ruộng rau và rêu rao rằng trại với khoảng nghìn người đó đã tự túc nói chung, trừ gạo. Những lời rêu rao đó đúng đến đâu và trại này điển hình cho toàn bộ căn cứ của Khmer đỏ như thế nào, chúng tôi không thể đánh giá. Nhưng điều chắc chắn là tình hình này đã cơ bản khác tình hình mà các phóng viên thấy tại cùng khu vực này năm 1979.


Việc phục hồi kinh tế có những hậu quả chính trị quan trọng. Các cơ quan viện trợ giao việc phân phối lương thực cho cán bộ và như vậy có nghĩa là trong các khu vực Khmer đỏ chính tổ chức đảng đã kiểm soát sự phân phối đó. Chế độ Khmer đỏ lợi dụng sự kiểm soát lương thực để kiểm soát nhân dân và sự ổn định kinh tế có nghĩa là củng cố chính quyền Campuchia dân chủ một lần nữa.


Viện trợ quân sự mà Khmer đỏ nhận từ Trung Quốc cũng vậy. Viện trợ đó đã bắt đầu đổ qua Thái Lan từ tháng giêng năm 1979 liền sau khi Phnôm Pênh bị đổ. Viện trợ đó gồm có đạn dược, súng trường, súng máy, súng cối, rốc-két và mìn, thuốc men và trang phục. Mặc dù Thái Lan chính thức tuyên bố trung lập trong cuộc xung đột, nhưng giới quân sự Thái chịu trách nhiệm chuyển những hàng cung cấp cho Trung Quốc đến biên giới (và các cán bộ Khmer đỏ phàn nàn về mức độ ăn cắp hàng hoá của bình lính Thái).


Vào nửa đầu năm 1980 các nhà lãnh đạo Khmer đỏ đã cố gắng lớn để xây dựng lại lực lượng vũ trang của họ. Vào giữa năm, họ rêu rao có 60.000 quân tại ngũ (cộng với nhêìu đơn vị không chính quy khác). Các nguồn tình báo Thái Lan đưa ra con số 40.000 nhưng các nhà quan sát phương Tây thì cho rằng con số 25.000 đến 30.000 là con số thực tế hơn. Ngay con số thấp nhất trên đây cũng cho thấy là Khmer đỏ đã thu được một số tiến bộ so với tháng 10 năm 1979, tuy rằng chưa đủ để trở thành một đe doạ nghiêm trọng cho quân Việt Nam.


Tuy vậy, các nhà lãnh đạo Khmer đỏ biết rằng sự ủng hộ mà họ nhận được không phải là từ sự nhiệt tình nào đối với họ và chính sách của họ, mà chính là vì hy vọng họ trở thành một đe doạ quân sự cho chính phủ Phnôm Pênh. Vào cuối năm phóng viên Thời báo New York Henry Kammm tổng hợp tình hình như sau: “… quân chiếm đóng Việt Nam kiểm soát tất cả các vùng đông dân của Campuchia, thành thị và làng xã, cũng như kiểm soát các đường bộ, đường xe lửa và đường sông nối các vùng đó với nhau… Các lực lượng Pol Pot chỉ kiểm soát các khu lõm trong các vùng không có dân cư… Họ không kiểm soát đường sá và không có xe hơi. Các nhà lãnh đạo của họ vượt qua Thái Lan để đi lại từ khu lõm này đến khu lõm khác” (xem Thời báo New York 25-11-1980-ND). Nhà báo kết luận rằng hoạt động chủ yếu của Pol Pot là để tỏ ra là có hoạt động ở Campuchia nhằm bào chữa cho sức ép chính trị để ngăn chặn sự thừa nhận ngoại giao đối với chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia. Một sự giả tạo quân sự là cần thiết để duy trì một sự giả tạo ngoại giao.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #92 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2007, 07:36:14 pm »

Tuy nhiên, do cuộc “tiến công mùa mưa” của họ không đưa lại kết quả gì, cho nên có thể thấy rằng Khmer đỏ không thể tranh thủ được sự ủng hộ của giai cấp nông dân vốn là cơ sở quần chúng của họ trong cuộc chiến tranh 1970-1975. Đa số nhân dân sống yên lành dưới chế độ Cộng hoà nhân dân Campuchia và luôn luôn nhớ đến sự khủng khiếp của những năm dưới chế độ Pol Pot. Tuyên truyền của Khmer đỏ về những “kẻ huỷ diệt chủng tộc” Việt Nam do đó không có tác dụng. Trong các thôn xã, Khmer đỏ nhận thấy rằng quần chúng nhân dân chống lại họ và tệ hơn nữa, một bộ phận lớn sẵn sàng hợp tác với các nhà chức trách mới. Qua một số cuộc phỏng vấn, Stephen Heder kết luận lúc đó rằng “phần lớn vùng nông thôn đông dân trở thành nơi cấm địa đối với binh lính và tay chân của Campuchia dân chủ”. Do đó không có điều kiện để tiến hành chiến tranh du kích chống lại sự chiếm đóng của Việt Nam.


Một hậu quả của tình hình đó là các nhà lãnh đạo Khmer đỏ có rất ít khả năng mở rộng lực lượng của họ kể từ sau giữa năm 1980. Không thể tuyển quân được ở các vùng đông dân bên trong Campuchia, các lực lượng vũ trang của họ chỉ trông mong vào nhân lực ở các trại căn cứ trên biên giới Thái và ở các trại tị nạn bên trong Thái Lan. Một khi số nhân lực ở đó đã được tận dụng thì việc mở rộng lực lượng phải bị chấm dứt, và vào cuối năm 1981 các lực lượng vũ trang Khmer đỏ vẫn không tăng được gì so với 18 tháng trước đó, nghĩa là vào khoảng 25.000 đến 30.000.


Nhóm Pol Pot biết rõ do không được lòng dân cho nên hoạt động của họ ít có hiệu quả, vì thế họ muốn mở rộng khả năng tranh thủ củ họ qua việc liên kết với các nhóm khác. Trong một cuộc phỏng vấn tháng 6 năm 1979, Ieng Sary nói rằng Khmer đỏ sẵn sàng hợp tác với Sihanouk, nhóm Khmer Xơ-rây cánh hữu, Lon Non và thậm chí Heng Samrin để đẩy người Việt Nam ra ngoài. Trong một cuộc phỏng vấn khác, Ieng Sary thừa nhận rằng đã có một số “hành động quá đáng” trong quá khứ, nhưng hứa một “chế độ hoà nhã và tự do”, nếu Khmer đỏ trở lại nắm quyền lần nữa. Ông ta nói “Chúng tôi sẵn sàng quên quá khứ để tham gia một mặt trận thống nhất yêu nước toàn quốc”. Tháng 9 năm 1979, Khmer đỏ đưa ra một “Mặt trận yêu nước và dân chủ” mới mà dự thảo cương lĩnh hứa tuyển cử tự do, tự do thành lập các chính đảng, tự do ngôn luận, báo chí và tôn giáo. Nền kinh tế sẽ dựa vào hoạt động sản xuất cá nhân hoặc gia đình và quyền tư hữuu tài sản sẽ được bảo đảm. Tuy nhiên, không có nhân vật nào có ý nghĩa về mặt chính trị tham gia mặt trận mới đó. Sihanouk đã từ chối khi được Khieu Samphan mời làm chủ tịch mặt trận.


Tháng 12 năm 1979 Pol Pot thôi không làm thủ tướng và được Khieu Samphan thay. Sau đó không thấy Pol Pot xuất hiện công khai, nhưng vẫn giữ chức vụ tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Khmer đỏ và tổng bí thư Đảng cộng sản Campuchia. Với việc Pol Pot còn kiểm soát quân đội và Đảng, Khieu Samphan tuy với chức vụ là thủ tướng, nhưng chẳng gì hơn là mọt bung sung. Phần đông các nhà quan sát kết luận rằng việc Pol Pot rút lui chỉ là một hành động có tính chất trang điểm, có thể là do Trung Quốc buộc ban lãnh đạo Khmer đỏ phải làm.


Tuy nhiên, đó cũng không phải chỉ là một hành động tô điểm đơn thuần. Nó còn báo hiệu một sự thay đổi chính trị quan trọng trong đường lối chính trị của các lãnh đạo Khmer đỏ. Họ đồng thời công bố rằng họ “thôi thi hành” hiến pháp 1975 và chấp nhận cương lĩnh dự thảo của “Mặt trận yêu nước và dân chủ” như là pháp luật cơ bản của đất nước. Trong tình hình mới, họ công bố “nhiệm vụ hiện nay của chúng tôi không còn là làm cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ hiện này của chúng tôi không phải là mọt nhiệm vụ về hệ tư tưởng, nó là cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ lãnh thổ và nòi giống Campuchia thân yêu của chúng tôi”. Những người Campuchia thuộc tất cả các giai cấp và tín ngưỡng sẽ được “nhiệt liệt hoan nghênh” trong mặt trận mới. Khi chúng tôi hỏi Khieu Samphan về vấn đề đó tháng giêng năm 1981, ông ta nhấn mạnh rằng hệ tư tưởng quốc gia chứ không phải là cộng sản luôn luôn là lực lượng thúc đẩy phong trào: “Không còn chủ nghĩa xã hội nữa. Không còn cách mạng xã hội chủ nghĩa… Lý tưởng của chúng tôi là sự sống còn của Campuchia. Còn đối với chủ nghĩa cộng sản, chúng tôi xem nó như một biện pháp đưa Campuchia đến độc lập và sống còn, chỉ là một biện pháp thôi, chứ không phải là lý tưởng. Bây giờ, qua thịt và máu của nhân dân, chúng tôi đã có kinh nghiệm để hiểu rõ rằng chúng tôi không thể theo con đường đó”.


Việc bác bỏ chủ nghĩa xã hội chắc chắn là nhằm chủ yếu mở đường cho một liên minh của Khmer đỏ với các lực lượng cánh hữu để chống lại người Việt Nam. Nhưng nó cũng có nghĩa là thay đổi các chính sách cực đoan đã được theo đuổi trước đây trong các khu vực của Khmer đỏ. Tập thể hoá hoàn toàn đã được huỷ bỏ và nhân dân tại các khu căn cứ được tổ chức thành những hợp tác xã cấp thấp. Việc làm vườn cá nhân được cho phép và cuộc sống gia đình được phục hồi. Những biện pháp này, cộng với việc đời sống được cải thiện do viện trợ quốc tế làm cho những người còn ủng hộ Khmer đỏ tin tưởng hơn và tăng thêm tinh thần. Tháng 8 năm 1980, một nhà trí thức cũ, nói với Heder về đời sống ở căn cứ: “Cuộc sông ở đây không đến nỗi quá xấu. Chúng tôi không thể làm điều mà chúng tôi muốn nhưng chúng tôi có thể dùng khối óc của mình và đóng góp. Chúng tôi không phải để tất cả thì giờ để trồng rau, chỉ trích lẫn nhau và lo ngại ai sẽ là người biến mất tiếp theo, như chúng tôi đã làm sau năm 1975. Đây là một kiểu chế độ chúng tôi có thể ủng hộ. Không có ai có thể ủng hộ chế độ đã tồn tại sau năm 1975”.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #93 vào lúc: 29 Tháng Mười Một, 2007, 07:36:56 pm »

Tuy nhiên trong những người trung thành với Đảng, có nhiều người lo âu vì họ cảm thấy không có bảo đảm rằng tình hình rồi sẽ không đi chệch hướng lần nữa. Một người trốn thoát đã nói lên cảm giác chung ở các trại căn cứ: “Những cán bộ chịu trách nhiệm về các đường lối cực tả và về những cuộc chém giết trước đây vẫn còn nắm tất cả các quyền hành. Bây giờ bất thình lình họ thay đổi 100 phần trăm… Nhưng những gã đó vẫn làm điều mà họ muốn theo sự đánh giá tình hình một cách chủ quan của họ. Họ lại có thể đột ngột thay đổi để trở lại như trước kia. Hơn nữa, không ai có thể hỏi họ về điều đã làm sai trước kia. Họ chẳng nhận một sự phê bình nào hoặc thừa nhận rằng họ đã sai. Họ đổ mọi điều cho người khác. Làm thế nào chúng tôi tin họ được? Họ nói rằng mọi việc đều phụ thuộc vào tình hình cụ thể và họ là kẻ duy nhất kết luận tình hình cụ thể là gì và đôi khi, thậm chí còn tạo ra tình hình cụ thể, như sau năm 1975, họ siết vít tất cả mọi thứ. Có thể lại sẽ giống như vậy. Không ai có thể ngăn chặn họ” (xem Trích của Heder trong quyển “giới quân sự của Campuchia dân chủ”-ND). Nếu những nỗi lo sợ này xảy ra một cách thông thường cho những người đã từng gắn bó với nhóm Pol Pot, thì người ta có thể tưởng tượng những vấn đề mà họ phải đối phó khi họ tìm cách tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi hơn. Rất ít người Khmer sẵn sàng chấp nhận đề nghị “quên quá khứ” của Ieng Sary.


Về mặt quân sự, các thất bại của Khmer đỏ trong các mùa khô, nhất là mùa khô 1981-1982 đưa các nhà phân tích quân sự đến chỗ kết luận rằng những ước tính về số quaâ của Khmer đỏ trước kìa là quá cao. Trong khi con số đưa ra trước kia là 45.000, phần lớn thừa nhận rằng con số 25.000 là con số hợp lý vào tháng 12 năm 1981. Do thương vong của họ trong giai đoạn đó, có lẽ số quân của họ chỉ còn lại 20.000 hoặc ít hơn vào cuối mùa khô 1982. Thương vong nặng nề làm cho việc tuyển quân của Khmer đỏ trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Như một nhà phân tích Băng Cốc nói lúc đó: “Mỗi một binh lính bị mất đi là không thể thay thế được”.


Trong mùa mưa 1982, Khmer đỏ thực hiện một số hoạt động du kích, phần lớn ở phía Tây Campuchia. Một nhà bình luận tổng hợp lại như sau: “Những tiến công của Khmer đỏ là dùng để tỏ ra rằng họ chưa phải đã tắt hẳn với tư cách là một lực lượng quân sự, nhưng không gây ra mọt đe doạ nào cho sự tồn tại của chế độ Heng Samrin” (xem Asia 1983 Yearbook, Hong Kong 1983, tr.127-128-ND).


Sự ủng hộ từ bên ngoài có thể xây dựng lại sức mạnh quân sự của Khmer đỏ đến một mức độ nhất định sau năm 1979. Tuy nhiên, nó không thể tạo những điều kiện chính trị cho chiến tranh du kích có hiệu quả ở Campuchia được. Những người ủng hộ Pol Pot bị nhân dân Campuchia ghét vì cách xử sự của họ trong thời gian 1975-1978, và không số lượng viện trợ nào từ bên ngoài có thể bù cho sự thiệt thòi cơ bản đó. Trong khu cảnh quốc tế hiện nay, có thể sẽ khó cho người Việt Nam tiêu diệt hoàn toàn các lực lượng Pol Pot, nhưng rõ ràng các lực lượng đó hầu như không có triển vọng giành lại chính quyền ở Campuchia.


Trong 18 tháng sau khi người Việt Nam lật đổ Pol Pot, các nước ASEAN, Trung Quốc và Mỹ tất cả đều đưa chính sách của họ vào giả định rằng chủ nghĩa quốc gia của Khmer đỏ và khả năng chiến đấu của họ sẽ làm cho họ trở thành một lực lượng chống đối hùng mạnh, bất chấp sự nổi tiếng tàn bạo của họ. Nhưng sự tán loạn của “cuộc tiến công màu mưa” năm 1980 đã cho thấy các nhà lãnh đạo Khmer đỏ đã bị yếu và cô lập về chính trị như thế nào. Trung Quốc cứ bám vào các đồng minh Campuchia của mình, nhưng các nước ASEAN luôn luôn tự thấy lúng túng khi liên minh với một tên độc tài cộng sản đã bị phế truất, và họ biết rõ rằng nếu thất bại của Khmer đỏ có tính chất vĩnh viễn chứ không phải là tạm thời, thì Cộng hoà nhân dân Campuchia sẽ ngày càng được công nhận rộng rãi. Trừ khi có thể tạo ra được một bộ mặt công khai hấp dẫn hơn là bộ mặt của nhóm Pol Pot hiện nay, nếu không sự ủng hộ ngoại giao đối với Campuchia dân chủ sẽ sụp đổ. Trong hoàn cảnh như vậy sự chú ý của ASEAN ngày càng chuyển về các nhóm kháng chiến không cộng sản đang hoạt động trên biên giới Thái-Campuchia, về Khmer Xơ-rây.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #94 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2007, 08:47:54 am »

Khmer Xơ-rây và sự nổi dậy của Mặt trận giải phóng dân tộc nhân dân Khmer (KPNLF)

Cướp bóc và buôn lậu đã từng là việc bình thường dọc theo biên giới Thái-Campuchia, và du kích Khmer Xơ-rây (”Khmer tự do”) đã hoạt động ở đó trong những năm 1960. Trong những năm 1970, Khmer Xơ-ray đi với chế độ Lon Non, nhưng sau năm 1975 nhiều người còn sống sót đã trở lại buôn lậu và tiến hành những hoạt động du kích lẻ trẻ trên biên giới Thái. Họ được thêm một sức sống mới bằng việc những người tị nạn chống cộng, có đầu óc chính trị chạy sang sau cuộc lật đổ chế độ Pol Pot. Phần đông các nhóm mới xuất hiện đó đã do các người theo Lon Non trước đây cầm đầu, nhưng cái tên Khmer Xơ-rây vẫn còn được giữ lại.


Nhóm mạnh nhất, được tổ chức tốt nhất là Mặt trận giải phóng dân tộc nhân dân Khmer (KPNLF). Mặt trận được thành lập tại Paris tháng 3 năm 1979, mãi đến ngày 9 tháng 10 năm 1979 mới được công bố, sau khi đã tìm cách đưa những nhóm chống cộng lẻ tẻ khác vào hàng ngũ của mình. Nhà lãnh đạo của KPNLF là Son San, một con người mảnh khảnh, đeo kính, đang khoảng tủôi 70. Thuộc dòng Khmer-Việt Nam. San học ở Paris trong những năm 1930, và là một trong số ít người Khmer phục vụ trong chính quyền Đông Dương của Pháp (trong đó ông ta lên đến chức tỉnh trưởng). Dưới chế độ Sihanouk, ông ta đã thành lập ngân hàng quốc gia Campuchia năm 1955 và làm thủ tướng trong chính phủ cánh hữu của những năm 1967-1968. Khi Sihanouk bị lật đổ năm 1970, San sống lưu vong ở Paris, ở đó ông cố gắng nhưng không thành công thành lập một “lực lượng thứ ba” chống lại cả chế độ Lon Non lẫn mặt trận thống nhất dân tộc Khmer.


Hầu hết công việc chuẩn bị cho ra đời KPNLF là do Dien Del làm trên biên giới Thái-Campuchia. Thuộc dòng dõi Việt Nam, Del đã chạy sang Campuchia khi tuổi dưới 20 và phục vụ trong quân đội Lon Non với chức chỉ huy sư đoàn. San cử ông ta làm tổng tư lệnh các lực lượng quân sự của KPNLF và được giới quân sự Thái Lan đánh giá cao và ủng hộ.


Trong khi KPNLF mạnh nhất về quân sự trong các nhóm Khmer Xơ-rây với số quân tại ngũ khoảng 2.000 năm 1980, Son San và Dien Del biết rõ rằng lực lượng nhỏ của họ không có khả năng thách thức quân sự trực tiếp đối với người Việt Nam. Họ tập trung năng lực của họ vào việc thiết lập sự kiểm soát của mình trên các trại biên giới, đang nhanh chóng tăng số dân, vào việc tuyên truyền chống Việt Nam và vào việc xây dựng một mạng lưới người ủng hộ và chỉ điểm bên trong Campuchia. Đường lối chính trị của họ là chống Pol Pot và Sihanouk cũng như chống người Việt Nam và Heng Samrin. Họ cũng thuyết phục các nhà lãnh đạo Khmer Xơ-rây khác tránh vướng víu vào hoạt động chợ đen đáng ngờ, nhưng họ đã không thành công.


Về mặt chính trị, đối thủ quan trọng nhất của họ là Phong trào giải phóng dân tộc Campuchia, thường được gọi là “Mulinaca”. Phong trào này là một nhóm nhỏ hơn một ít nhưng rất hoạt động, được thành lập tháng 8 năm 1979 bởi Kong Sileah một đại uý hải quân của Lon Non trước đây. Với khoảng 2.000 người nhưng chỉ có vũ khí cho một vài trăm, Mulinaca cho rằng cuộc đấu tranh chống Việt Nam có thể tập hợp được sự ủng hộ rộng rãi chỉ khi nào được Sihanouk lãnh đạo và nếu các nhóm không cộng sản sẵn sàng hợp tác với Khmer đỏ để tiến hành hoạt động quân sự chống lại người Việt Nam. Mặt khác, KPNLF xem Khmer đỏ với sự kinh tởm và xem Sihanouk với sự nghi ngờ. Tuy nhiên, cả hai nhóm đều đồng ý rằng Khmer Xơ-rây nên tập trung vào cuộc đấu tranh chống người Việt Nam hơn là hoạt động buôn lậu, chợ đen và trộm cướp.


Nhìn toàn bộ, các lực lượng cánh hữu vẫn yếu trong năm 1981, mặc dù có những cơ hội tốt do sự sụp đổ của chế độ Pol Pot đưa lại. Các nhóm Khmer Xơ-rây tàn dư của chế độ Lon Non không những thừa kế những nhược điểm của chế độ đó như sư tan rã kinh niên, sự đồi truỵ một cách kinh khủng và sự thiếu phương hướng chính trị tích cực, mà còn tăng các nhược điểm đó lên một cách quá mức. Nguồn ủng hộ chính của họ là giai cấp trung gian Campuchia bị truất quyền, nhưng sự ủng hộ này là rất nhỏ từ ban đầu và còn bị tiêu hao vì sự khủng bố của Pol Pot. Một số ít thành viên sống sót của các nhóm này không còn tâm trí để đấu tranh chống cách mạng nữa. Họ hy vọng có một vé đi Mỹ, Pháp hoặc Australia hơn là một khẩu súng hoặc một cơ hội đánh bại cộng sản. Nông dân tỏ ra bàng quan đối với kêu gọi chính trị của Khmer Xơ-rây, tuy rằng những đợt tị nạn chạy qua biên giới để kiếm ăn đã đưa hàng nghìn người vào sự kiểm soát và ảnh hưởng của Khmer Xơ-rây.


Son San gây ấn tượng sâu sắc cho các nhà bình luận phương Tây về chủ nghĩa bảo thủ và tính liêm khiết cá nhân của ông ta. Nhưng trên thực tế, ông ta có thể được coi là một tượng trưng cho sự yếu đuối của phái hữu: một nhà ngân hàng già không chắc trở thành nhà lãnh đạo thành công của một cuộc chiến tranh du kích.


Thiếu một cơ sở quần chúng, các nhóm Khmer Xơ-rây không xây dựng được một phong trào chính trị hiện đại. Họ không phát triển được những cơ cấu tổ chức có hiệu quả và một hệ tư tưởng có sức thu hút đối với quần chúng. Chỉ KPNLF tỏ ra có chút hiểu biết về tầm quan trọng của tổ chức, nhưng hệ tư tưởng của nó còn mơ hồ. “Các mặt trận" Khmer Xơ-rây chẳng khác gì các tập đoàn cá nhân và nền chính trị của chúng nhanh chóng thoái hoái thành những chế độ cát cứ và trộm cướp. Những đợt đấu tranh đẫm máu trong nội bộ các nhóm Khmer Xơ-rây cũng gây ra thất vọng và làm giảm nhiều sự ủng hộ đối với họ.


Việc KPNLF nổi lên như một lực lượng khống chế trên biên giới đã khôi phục một sự ổn định nhất định cho nền chính trị của phái hữu sau năm 1981. Tuy nhiên, vấn đề mở rộng lực lượng như thế nào là một vấn đề trọng yếu cho các nhà lãnh đạo KPNLF, nhất là khi số người sống ở biên giới giảm xuống nhanh chóng do tình hình lương thực bên trong Campuchia đã tốt lên. Đến lúc này, Khmer Xơ-rây (và đặc biệt là KPNLF) tự thấy mình là chỗ dựa cho các hy vọng “cứu” Campuchia của ASEAN và phương Tây. Sự ủng hộ từ bên ngoài đã giúp cho họ tăng thêm một cách có ý nghĩa số người ủng hộ họ. Vào khoảng năm 1983, KPNLF có tin là đã có 9.000 quân tại ngũ, và Mulinaca có 3.000. Vào giai đoạn này, theo Tim Các-nây, bí thư thứ nhất của đại sứ quán Mỹ tại Băng Cốc, các lực lượng đó có thể cho những toán nhỏ vào phá hoại và tuyên truyền “sâu trong nội địa Campuchia”. Dù làm vừa lòng những người chống cộng như thế nào, chứ trên thực tế tình hình đó không thể gây sứt mẻ gì cho đơn vị Việt Nam-Cộng hoà nhân dân Campuchia ở Campuchia.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #95 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2007, 08:49:09 am »

Mặt chính trị của một cuộc “kháng chiến thống nhất”

Trong ba năm qua, những bên chống đối cánh tả và cánh hữu chống lại sự có mặt của Việt Nam ở Campuchia vẫn còn bất hoà với nhau. Rồi họ được kéo vào một cuộc “kháng chiến thống nhất” do kết quả của những điều yếu kém của chính bản thân họ và dưới sức ép mạnh của những ông chủ nước ngoài của họ, Trung Quốc và các nước ASEAN. Mulinaca và KPNLF không có sức mạnh quân sự hoặc sự thừa nhận ngoại giao, trong khi Khmer đỏ thì tự thấy rằng sức mạnh quân sự của họ không bù lại được sự mất lòng dân của họ. Phía này ghét phía kia, nhưng mỗi phía lại hy vọng lợi dụng lẫn nhau.


ASEAN đóng một vai trò lớn trong việc đưa các bên liên hiệp lại với nhau. Sau thất bại “tiến công mùa mưa” năm 1980 của Khmer đỏ, Lý Quang Diệu mô tả Pol Pot như một “tên đồ tể”, và nói: “Chúng tôi (những nước ASEAN) không muốn thấy Pol Pot được khôi phục ở Campuchia”. Điều mà Campuchia cần, ông ta công bố, là một người nào đó như Sihanouk nắm lấy các lực lượng Campuchia dân chủ. Nhưng ASEAN sẽ tiếp tục đấu tranh cho sự nghiệp thừa nhận chế độ Campuchia dân chủ ở Liên hợp quốc. Ông ta cho là “khờ dại và đơn giản” những ai nghĩ rằng lập trường đó là mâu thuẫn. Ông ta nói rõ đề nghị mới của ASEAN trong một cuộc phỏng vấn tiếp theo: “Bây giờ (Trung Quốc) là người ủng hộ duy nhất Khmer đỏ… ASEAN không muốn Pol Pot trở lại Campuchia, tuy ASEAN ủng hộ Campuchia dân chủ vì những lý do chiến thuật… Có những nhà lãnh đạo không dính dáng đến những tội ác dã man của Pol Pot như Sihanouk, Lon Non, Son San và Im Tam, còn được người Campuchia kính trọng và tỏ lòng trung thành và có thể giành được sự ủng hộ của họ trong một cuộc bỏ phiếu bí mật và tự do… ASEAN không muốn Pol Pot và Khmer đỏ cầm quyền lần nữa; để thực hiện việc này, chúng ta phải duy trì ghế của Campuchia dân chủ ở Liên hợp quốc và thay đổi tính chất của chính phủ Campuchia dân chủ” (xem FEER 26-9-1980-ND). Đề nghị cơ bản của Lý là các nhóm cánh hữu tham gia một liên hiệp với Khmer đỏ để có thể chiếm lấy ào bào “hợp pháp” từ Pol Pot và cuối cùng được đặt lên nắm quyền ở Phnôm Pênh.


Giải pháp đó cho vấn đề Campuchia đã nhanh chóng được các nước ASEAN khác ủng hộ nhưng không thể thuyết phục được người Trung Quốc. Họ không cho rằng các nhóm không cộng sản thực sự có sức mạnh để đóng vai trò lãnh đạo trong một liên hiệp và lập luận rằng điều thiết yếu là giới lãnh đạo và quân đội của Campuchia dân chủ không được bị làm yếu đi vì bất kỳ những thay đổi vội vàng nào. Thủ tướng Thái, Prem đi Bắc Kinh tháng 10 năm 1980 để tìm cách buôn bán ý kiến đó, và tiếp theo ông ta là Lý vào tháng 11. Cuối cùng người Trung Quốc ủng hộ kế hoạch đó tại cuộc họp báo của Triệu Tử Dương tại Băng Cốc tháng 2 năm 1981.


Về phần họ, nhóm Pol Pot nói rõ rằng họ sẽ hoan nghênh những người khác tham gia với họ vào một liên hiệp, nhưng không có ý định nhường chỗ cho ai. Họ xem một liên hiệp chủ yếu là một cách để giành sự kính trọng và để mở rộng cơ sở tuyển quan của chính họ. Họ cho thấy không để cho bị sử dụng để đưa những nhóm khác lên nắm quyền.


Triển vọng của một liên hiệp với Khmer đỏ không có gì hấp dẫn đối với các nhóm không cộng sản. KPNLF trả lời bằng việc tự mình phô trương quyền lực của mình. Tháng giêng năm 1981, Son San lê bước trên một đường núi từ Thái Lan Xoóc Xan và được hoan nghênh nhiệt liệt. Ông ta công bố với những người ủng hộ ông ta (và cả với những nhà báo đi theo ông ta nữa) rằng ông ta sẽ thành lập một chính phủ lâm thời riêng của mình trước Đại hội đồng Liên hợp quốc sắp tới. Ông ta tiến công lại ý kiến cho rằng KPNLF là một “lực lượng thứ ba” (nghĩa là cạnh tranh với Khmer đỏ và những người của Sihanouk) và tuyên bố rằng KPNLF là đại diện thực sự của “tất cả những người yêu nước Campuchia”. Ông ta rêu rao có 60.000 người ủng hộ và yêu cầu viện trợ kinh tế và quân sự nước ngoài cho KPNLF.


Cả con người hàng đầu được chọn để thay thế Pol Pot, ông Sihanouk sống lưu vong, cũng không nhiệt tình với một sự liên hiệp. Trong khi ông ta đã hành động như đại diện của Campuchia dân chủ tại Liên hợp quốc tháng giêng năm 1979, sau đó ông ta đã tìm cách tự tách mình càng xa càng tốt ra khỏi các nhà lãnh đạo Khmer đỏ. Từ giữa năm 1979 cho đến cuối năm 1980 Sihanouk đã vận động hành lang cho một hội nghị quốc tế theo kiểu Hội nghị Geneva năm 1954 để vạch ra một thoả hiệp có thể chấp nhận cho các cường quốc lớn và ông ta đã tự đề nghị như là một nhà lãnh đạo được nhân dân Campuchia yêu mến và có thể được tất cả các bên của cuộc xung đột chấp nhận. Ông ta cũng dựa vào sự ủng hộ của Trung Quốc. Như ông ta đã giải thích cho một phóng viên năm 1979: “Người Trung Quốc rất thông minh. Tình hình trở nên xấu với Pol Pot, cho nên nếu họ gặp chuyện xấu với Pol Pot, họ sẽ có Sihanouk. Tôi là con bài Sihanouk. Trước tiên họ quan hệ với Pol Pot, và nếu không xong, họ quan hệ với Sihanouk” (Do Giây Ma-thiu trích đăng trong báo Bưu điện Washington, ngày 30 tháng 10 năm 1979-ND). Vào lúc này, Sihanouk cũng nhấn mạnh rằng điều kiện thiết yếu cho mọi thoả thiệp rộng hơn là sự gạt bỏ mọi cơ hội cho việc nhóm Pol Pot trở lại nắm quyền.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #96 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2007, 08:50:14 am »

Khi được mời trong tháng 9 năm 1979 đứng đầu “Mặt trận yêu nước và dân chủ” của Khmer đỏ, ông ta đã viết cho Khieu Samphan: “Mặt trận mới và cương lĩnh chính trị do Khmer đỏ đưa ra chỉ là một sự lừa dối mới không thể chối cãi được. Chỉ những thằng ngốc, những kẻ đần mới rơi vào bẫy của những sự đánh lừa mới của ông”. Trả lời đầu tiên của Sihanouk cho đề nghị liên hiệp của Lý Quang Diệu là một trả lời phủ định. Trong một bài báo công bố tháng 11 năm 1980, ông ta lập luận: “Theo một số người phương Tây, những con sói Khmer đỏ hoàn toàn có thể tự biến mình thành những con cừu non. Ý nghĩa mơ ước chủ quan đó rất nguy hiểm, trước hết là đối với tất cả nhân dân Campuchia còn ở Campuchia. Những người đó hy vọng rằng thế giới tự do có thể tìm được một số biện pháp để cứu họ chứ không phải bằng việc ủng hộ cái gọi là tính chính đáng và tính hợp pháp của chế độ địa ngục Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan” (xem FEER, ngày 7 tháng 11 năm 1980-ND). Và tháng 12 năm 1980, trong một bức thư ghi âm được phát cho những người ủng hộ ông ta trên biên giới Thái-Campuchia, Sihanouk mô tả nhóm Pol Pot là “tội ác trời không dung, đất không tha, là chống đất nước, và chống nhân dân" và nói rằng người Việt Nam đã “không trung thực một cách xấu hổ” khi tố cáo ông ta là đồng loã với Pol Pot.


Nhưng khi Triệu Tử Dương đưa ra sự phê chuẩn của Trung Quốc đối với ý kiến về một cuộc kháng chiến thống nhất, thì cũng chính Sihanouk là người đầu tiên nhảy ra đề nghị một mặt trận thống nhất giữa bản thân ông ta và Khmer đỏ. Ông ta công bố sự sẵn sàng hợp tác với Khmer đỏ ngày 8 tháng 2 năm 1981 và gặp Khieu Samphan ngày 10 tháng 3 ở Bình Nhưỡng, thủ đô của Bắc Triều Tiên. Samphan đã đồng ý với một số yêu sách của Sihanouk, nhưng bác bỏ một số khác, nhất là sự giải tán quân đội Khmer đỏ sau khi người Việt Nam đã rút. Đó là một vấn đề không phải ít có ý nghĩ như về sau Sihanouk bình luận: “Khmer đỏ không muốn bảo đảm tý nào rằng họ sẽ không bắt đầu trở lại sự tàn sát của họ”. Ông ta nói rằng nhân dân Campuchia thà chịu sự thống trị của Việt Nam còn hơn là trở lại chế độ diệt chủng. Tuy nhiên, ông ta cũng đồng ý gặp lại Samphan để thảo luận thêm về hợp nhất các lực lượng.


Sihanouk bị đẩy vào mọt liên minh với Khmer đỏ là vì thế yếu yếu của ông ta. Cố gắng của ông ta tìm một giải pháp ngoại giao cho cuộc khủng hoảng Campuchia năm 1979-1980 đã bị tất cả các bên bác bỏ. Vào năm 1980, ông ta kết luận rằng khả năng duy nhất còn lại cho ông ta để có tiếng nói về tương lai của đất nước là thành lập một đội quân. Ông ta đã thành công trong việc tập hợp Mulinaca và một vài phái Khmer Xơ-rây nhỏ, nhưng vẫn còn rất yếu. Bản thân Sihanouk tuyên bố rằng quân đội của ông có khoảng 5.000 vào đầu năm 1981, nhưng các nhà quan sát trên biên giới Thái-Campuchia nói rằng con số thực sự là 600-800. Sihanouk rêu rao có một số đông người ủng hộ trong “đám dân con cháu” của ông ta và những nhà binh luận phương Tây nào nghĩ về ông như một “nhân vật đầy uy tín”, điều có xu hướng tin vào điều đó.


Nhưng Sihanouk là một nhà cai trị cổ truyền đã bị tước tất cả quyền lực. Với việc mất quyền lực chính trị, ông ta cũng mất luôn hào quang thiêng liêng và quần chúng ủng hộ. Ấn tượng riêng của tôi bên trong Campuchia là ông ta có vẻ giống như một nhân vật từ quá khứ xa xôi, được nhớ đến với một sự thích mơ hồ, nhưng những ấn tượng của một người khách về một vấn đề nhạy cảm như vậy có thể dễ dàng lầm lạc. Năm 1873, một quan chức Việt Nam nói với phóng viên Paul Quin Judge: “Mười năm trước đây, tên của Sihanouk đủ mạnh để tập hợp cả đất nước chống Mỹ. Bây giờ tên ông ta có thể gây cho cho chúng tôi một số vấn đề, nhưng những vấn đề đó có thể tha thứ được. Mười năm nữa, kể từ nay, ông ta sẽ bị lãng quên”. Tuy nhiên, Quin Judge tin rằng “tên Sihanouk vẫn còn ma lực của nó trong hàng ngũ nông dân”.


Sihanouk thừa nhận rằng động cơ của ông ta không phải chỉ vì ý thức trách nhiệm đối với “đám dân con cháu” của ông ta, mà còn vì tự ái cá nhân nữa. Ông ta giải thích với Nayang Sanda rằng ông ta rất bực bội với những người chỉ trích “từ các quán cà phê ở Paris, Montreal và Los Angeles” tố cáo ông ta không làm gì. Theo Sihanouk, chính sức ép từ những người lưu vong chống cộng, chống Việt Nam mà người ta gọi là “Khmer xanh”, đã đẩy ông ta vào một liên inh với Pol Pot: “… vì tôi không còn có thể sống trong hoà bình và yên tĩnh, ngay cả ở Bình Nhưỡng do những bức thư và những bức điện gửi tới, chửi tôi, gọi tôi là tên phản bội thân Việt Nam và một người ích kỷ chẳng làm tý gì nên tôi đã nói: “Được rồi, tôi tự nhảy vào chiến tranh"… Những người Khmer xanh bị ám ảnh vì nỗi sợ người Việt Nam, không chịu thấy thực tế. Họ không còn khái nhiệm gì nữa về sự khổ cực của nhân dân Campuchia trước đây. Họ không nhận thấy rằng bây giờ nhân dân có một cuộc sống tốt hơn nhiều so với dưới thời Khmer đỏ, và họ tuyệt đối không muốn Khmer đỏ trở lại. Toàn bộ chính sách là hoàn toàn không thực tế. Vào cuộc chiến tranh ở Campuchia bây giờ là một sự điên rồ. Nhưng tôi phải tham gia vào sự điên rồ đó, bởi vì tôi sẽ bị gọi là một kẻ phản bội nếu không làm như vậy” (xem FEER, 6 tháng 3 năm 1981-ND). Dù cho họ có thể nói gì về việc ông ta đi với Khmer đỏ, nhưng những người lưu vong không còn có thể lên án ông ta là không làm gì cả. Phần đông rất bất bình, nhưng đúng lúc, nhiều người rồi sẽ phải thấy thực tế.


Rồi Sihanouk sớm thấy ra rằng, chỉ một khả năng thành lập mặt trận thống nhất vẫn chưa đủ để thu hút sự ủng hộ mà ông ta muốn. Tháng 4, ông ta nói chuyện với ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa và được nói rằng Trung Quốc chỉ cho ông ta vũ khí nếu ông ta có thể giải quyết các bất đồng của ông ta với Khmer đỏ. Rồi ông ta quay sang Mỹ. Ngày 25 tháng 4, ông ta gặp Đại biện lâm thời của Mỹ ở Bắc Kinh, J.Stapleton Roy và hỏi ông ta hiện Mỹ có sẵn sàng cho vũ khí không. Nhưng Roy đòi ông tham gia các lực lượng với Pol Pot. Roy nói: “Sau đó sẽ dễ hơn cho các nước hữu nghị giúp đỡ ông”. Cuối cùng, tháng 5, Đặng Tiểu Bình đề nghị cho ông ta vũ khí để trang bị cho một đội quân 3.000 người nếu ông ta hứa sẽ đánh người Việt Nam chứ không phải Khmer đỏ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #97 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2007, 08:51:36 am »

Son San cũng tự thấy bị cùng sức ép như vậy. Để có vũ khí, ông ta phải đồng ý một liên hiệp. Tuy trước kia, ông ta tố cáo Sihanouk vì đã thương lượng với Khieu Samphan, nhưng bây giờ ông ta bị buộc phải làm như vậy. Ông ta hết sức tìm cách bảo đảm với những người ủng hộ ông ta rằng chẳng có nguy hiểm gì trong việc đó cả. Ông ta lập luận rằng để “chuyển sang hữu” cần thiết phải “lái một tí sang tả trước”. Tháng 4 năm 1981, ông ta chấp nhận về nguyên tắc, bởi vì một số vũ khí Trung Quốc gửi cho KPNLF đã đến biên giới ngày 23 tháng 4. Đến tháng 5, thì rõ ràng San đã bị buộc bỏ ý kiến thành lập chính phủ riêng của mình và chịu làm việc trong khung cảnh Campuchia dân chủ. Nhưng ông ta vẫn còn giữ yêu sách rằng toàn bộ ban lãnh đạo Khmer đỏ phải từ chức. Một trợ lý của ông ta giải thích: “Chúng tôi không thể chấp nhận liên hiệp với họ. Họ sẽ tàn sát chúng tôi trong giấc ngủ”.


Một “cuộc họp cấp cao” giữa Samphan, San và Sihanouk ở Singapore ngày 2 đến 4 tháng 9, đưa lại một hiệp định thành lập một chính phủ liên hiệp, nhưng đã bị tan vỡ ngay tức khắc. Sihanouk giải thích ngày 5 tháng 9 rằng ông phải ký vào hiệp định đó “mà không vui sướng gì… Đối với tôi, để có viện trợ của Trung Quốc tôi phải sáp nhập phong trào của tôi vào mặt trận thống nhất. Trung Quốc đã nói với tôi rằng tôi phải trở thành một thành viên của chính phủ liên hiệp dự định đó, nếu tôi muốn có vũ khí". Ông ta chỉ trích cả Khieu Samphan lẫn San về “biện pháp không khoan nhượng và không thực tế của họ”. Cùng ngày San tuyên bố rằng KPNLF sẽ không từ bỏ bất cứ điều kiện tiên quyết nào trong việc thành lập một chính phủ liên hiệp và ông ta sẽ dự Đại hội Liên hợp quốc sắp tới với tư cáh là thủ tướng chỉ định của Campuchia. Lúc đó, Samphan đưa ra một tuyên bố “làm rõ”, cải chính rằng San là thủ tướng chỉ định và tố cáo các sự tiến công của các bên khác vào Khmer đỏ là một vi phạm của hiệp định.


Những sự tranh cãi tiếp tục thêm 9 tháng khác nữa. Rồi có một loạt hội đàm vào tháng 11 để xem xét một đề nghị của Singapore về một “liên hiệp lỏng lẻo” trong đó mỗi phái sẽ giữ màu sắc chính trị riêng của mình. Đề nghị này đã được Sihanouk và San chấp nhận nhưng bị Khmer đỏ bác bỏ. Một loạt hội đàm nữa xảy ra ở Bắc Kinh tháng 2 năm 1982, nhưng San không dự. Người Trung Quốc đổ cho San sự thất bại của cuộc hội đàm và cắt đứt viện trợ cho KPNLF trong tháng 3. Malayxia, Singapore và Indonesia chê trách Khmer đỏ và ngụ ý rằng nếu họ tiếp tục không khoan nhượng thì ASEAN sẽ không ủng hộ đề nghị thành lập chính phủ liên hiệp.


Có thêm những cuộc hội đàm nữa ở Bắc Kinh vào tháng 5 năm 1982. Ngoại trưởng Thái Xít-đi Xa-vét-xi-la yêu cầu Trung Quốc ép Khmer đỏ thoả hiệp, nhưng Trung Quốc từ chối. Một quan chức cấp cao Thái nói rằng: “Chúng tôi thấy các nhà lãnh đạo Trung Quốc cực kỳ kiên trìe đối với lòng tin của họ. ASEAN tin vào một giải pháp chính trị, nhưng Trung Quốc lại tin rằng chỉ có sức ép quân sự, và cuối cùng là thắng lợi quân sự, mới buộc Việt Nam thay đổi cách đề cập của họ. Chúng ta phải xem xét những lựa chọn mới bên cạnh chính phủ liên hiệp. Chúng tôi đã yêu cầu thái tử Sihanouk giữ cho vấn đề tiếp tục tồn tại. Chúng tôi chẳng có thể làm gì nhiều hơn. Và ASEAN không thể chấp nhận một thất bại nữa”. Vào lúc này, nhiều nước châu Âu xét đến việc không ủng hộ giữ ghế cho chế độ Pol Pot tại Liên hợp quốc, và Indonesia sẵn sàng chọn một sự thích nghi với Hà Nội, ngay cả việc chấp nhận một nguyên trạng ở Campuchia.


Trong một nỗi tuyệt vọng, bộ ngoại giao Thái ra một đề nghị liên hiệp mới và bí mật đòi một hiệp hội đàm mới gữa Khmer đỏ và KPNLF. Nếu người Trung Quốc không chịu buộc Khmer đỏ nhân nhượng thì phải ép Son San khuất phục. Nhưng phải đến ngày 12 tháng 6, một ngày trước khi Xít-đi bay đi Singapore dự hội nghị các ngoại trưởng ASEAN Son San cuối cùng mới chịu ký vào hiệp định về một cuộc liên hiệp.


San buộc phải khuất phục bởi vì KPNLF vẫn còn yếu về chính trị và quân sự, tinh thần lại kém và quỹ thì cạn.


Hiệp định về chính phủ liên hiệp được chính thức ký ở Kuala Lumper ngày 22 tháng 6 năm 1982, Norodom Sihanouk (trở thành chủ tịch của chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ). Khieu Samphan (phó chủ tịch phụ trách ngoại giao) và Son San (thủ tướng) hôn nhau thắm thiết. Cả Sihanouk lẫn San mô tả quyết định đi với Khmer đỏ là “đau xót”, nhưng họ nói, “chúng tôi không có lựa chọn nào khác bởi vì vấn đề then chốt là sự “sống sót của Campuchia”. Khi Sihanouk được nhắc lại tuyên bố năm 1980 rằng thật là nguy hiểm khi tưởng tượng rằng những “chó sói” Khmer đỏ có thể biến thành cừu non, ông ta nhận xét rằng: “Tôi là một cừu non. Son San là một cừu non. Chúng tôi phải chọn giữa việc bị Khmer ăn và việc bị người Việt Nam ăn. Với tư cách là người Khmer, chúng tôi thích bị người Khmer ăn hơn bởi vì chúng tôi là những nhà quốc gia”.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #98 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2007, 08:53:10 am »

Đó là một mặt trận thống nhất được thành lập trên những điều kiện của chó sói chứ không phải của cừu non. Tuy tài liệu của sự liên hiệp đã được bộ ngoại giao Thái thảo ra nhưng, như một nhà ngoại giao Mỹ ở Băng Cốc bình luận, nó “giống như một tài liệu của Khmer đỏ". Nó viết rằng cách làm việc của chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ là dựa trên nguyên tắc ba bên, bình đẳng và không ai hơn ai”. Điều này có nghĩa là trái với hy vọng ban đầu của ASEAN cho rằng các nhân tố không cộng sản sẽ dần dần chiếm chính phủ liên hiệp và đẩy các nhà lãnh đạo Khmer đỏ ra ngoài, bây giờ Khmer đỏ lại được chính thức bảo đảm được chấp nhận như một bên hoàn toàn ngang hàng trong liên minh. Họ tiếp tục giữ quyền kiểm soát các lực lượng quân sự và an ninh của chính họ. Để nhượng bộ San và Sihanouk, Ieng Sary thôi giữ chức ngoại trưởng, nhưng quá trình làm chính sách đối ngoại vẫn nằm trong tay Khmer đỏ. Chính phủ sẽ hoạt động theo “nguyên tắc nhất trí” về tất cả các vấn đề quan trọng, nhưng nếu sự nhất trí bị tan vỡ thì liên hiệp sẽ trở nên “không hoạt động được”. Trong trường hợp đó “nhà nước hiện nay của Campuchia dân chủ do Khieu Samphan lãnh đạo sẽ có quyền tiếp tục hoạt động của mình như là nhà nước hợp pháp và chân chính duy nhất của Campuchia”. Nói một cách khác, nếu các nhóm không cộng sản không muốn đi với Khmer đỏ thì họ sẽ bị gạt ra khỏi “chính phủ".


Nhưng cũng có một số nhượng bộ cho các nhóm không cộng sản. Họ được phép giữ lại “tổ chức, đặc điểm chính trị và tự do hành động, kể cả quyền nhận và sử dụng viện trợ quốc tế dành riêng cho họ”. Điều này làm cho Sihanouk và KPNLF có cơ hội nhận được viện trợ từ các nguồn không chịu viện trợ cho chính phủ liên hiệp với tư cách là một thực thể duy nhất, trong khi đó thì vẫn để cho Trung Quốc tự do đổ viện trợ của họ vào nhóm Pol Pot. Ngay sau đó Sihanouk tiến hành một cuộc đi thăm quốc tế để tập hợp ủng hộ (và viện trợ) cho liên hiệp. Singapore nhanh chóng đưa ra một lời đáp ứng, và Sihanouk nói rằng Australia, Canada, Malayxia và Nhật Bản tất cả đang xét gửi viện trợ cho các nhóm không cộng sản bởi vì họ không muốn các nhóm đó trở thành phụ thuộc vào sự ủng hộ của Trung Quốc.


Trên thực tế, sự độc lập của các bên quá lớn nhên chính phủ liên hiệp đó không tồn tại trên mặt đất. Người nước ngoài đầu tiên thăm các “thủ đô” của cái liên hiệp mới đó là nhà báo Isao Oglso của Nhật Bản. Anh ta viết trong tờ Tin tức hàng ngày Mainichi rằng cái liên hiệp chống Việt Nam là một ảo tưởng chỉ có trên giấy. Theo Oglso, không có sự liên lạc nào giữa các lực lượng Khmer đỏ, KPNLF và Sihanouk. Một trợ lý của Sihanouk nói với anh ta: ” Không có bất kỳ cái gì như mọt chính phủ liên hiệp chống Việt Nam. Chúng tôi hành động độc lập với nhau. Điều duy nhất mà chúng tôi có với những người Pol Pot là ác cảm và căm thù”.


Luôn luôn có một không khí không thực tế kỳ lạ về mưu đồ tạo ra một cuộc kháng chiến thống nhất. Đó là một mưu đồ dùng ngọn cờ chủ nghĩa quốc gia để kéo lại với nhau những thành phần khác hẳn nhau nhất, quân chủ, những người cộng hoà tư sản chống quân chủ và những người cộng sản cực tả. Dù sao, hy vọng của hành động đó là, nếu nói  về nguyên tắc thì toàn thể sẽ không có những sai sót như những bộ phận riêng rẽ. Mỗi nhóm cố chạy tìm đồng minh, không phải vì có sự hội tụ của các mục tiêu, mà chỉ vì sự yếu kém của chính họ và vì sức ép bên ngoài. Do những nghi ngờ và thù địch chồng chất trong một thập kỷ nội chiến tàn nhẫn và cách mạng, cho nên nếu chỉ tạo ra được một bộ mặt bề ngoài của sự liên hiệp thì cũng là một điều đáng ngạc nhiên lắm rồi


Hà Nội không tỏ ra có sự lo ngại gì lớn. Hà Nội lập luận rằng chính phủ liên hiệp đã bị Khmer đỏ khống chế, Sihanouk và San đã phù hoạ với một âm mưu của Mỹ-Trung Quốc để đưa lại cho nhóm Pol Pot một sự tôn trọng lớn hơn của quốc tế. Nhưng tình hình ở Campuchia không thể đảo ngược được và sự thành lập một chính phủ liên hiệp không làm thay đổi tình hình dó. “Một xác chết là một xác chết, bất kể được mặc áo quần như thế nào", báo Nhân dân bình luận như vậy. Một số người giải thích việc công bố của Việt Nam về việc rút quân ra khỏi Campuchia trong tháng 7 năm 1982 là một sự xem thường có tính toán tiềm lực quân sự của chính phủ liên hiệp.


Mục đích của chính phủ liên hiệp, như ASEAN nhận thức ban đầu, là củng cố các nhóm không cộng sản bằng việc đặt chính phủ liên hiệp (kể cả quân đội Khmer đỏ  dưới quyền kiểm soát của họ và bằng việc gạt nhóm Pol Pot đã bị mất tín nhiệm. Nhưng các nhà lãnh đạo Khmer đỏ, với sự ủng hộ của Trung Quốc, đã không chịu rút lui dần. Cuối cùng ASEAN đành phải buộc các nhóm không cộng sản đi vào chính phủ liên hiệp phần lớn là theo các điều kiện của Khmer đỏ.


Theo quan điểm của ASEAN, có lẽ điều tốt nhất có thể nói đến về một chính phủ liên hiệp là việc nó tạo ra một cơ sở pháp lý vững chắc cho việc viện trợ cho các nhóm không cộng sản. Nhưng vấn đề viện trợ công khai cho cuộc nổi dậy vũ trang ở Campuchia chỉ làm trầm trọng thêm những chia rẽ trong nội bộ ASEAN mà thôi. Tại một cuộc họp của các ngoại trưởng ASEAN ở bờ biển nghỉ mát Pattaya ở Thái Lan tháng 12 năm 1981, đã được chấp nhận rằng những người không cộng sản phải được viện trợ để xây dựng lực lượng của họ đến mức ngang với Khmer đỏ. Nếu không, như một sĩ quan Malayxia đã nói, họ sẽ là một “trò hề thứ ba” chứ không phải một “lực lượng thứ ba” (đây là một kiểu chơi chữ: chữ farce là trò hề, chữ force là lực lượng; third farce-third force-ND). Nhưng một đề nghị của Singapore viện trợ quân sự cho những người đó đã bị bác bỏ trên cơ sở rằng ASEAN là một tổ chức không quân sự. Nếu có gửi viện trợ chăng nữa thì chỉ trên cơ sở từng nước riêng rẽ một chứ không phải trên cơ sở toàn ASEAN.


Ý kiến viện trợ quân sự công khai cho các lực lượng vũ trang ở Campuchia cũng bị một số nhà lãnh đạo quân đội Thái chóp bu phản đối kịch liệt. Họ lo ngại trước sự dính líu sâu của Thái Lan, cho đó là vô ích và có thể khiêu khích sự trả đũa của Việt Nam. Tháng giêng năm 1982 tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Thái tiến công Trung Quốc trong một diễn văn vô tuyến truyền hình, một cách không che giấu kỹ lắm. Ông ta cảnh cáo rằng một “siêu cường” ủng hộ hoạt động cộng sản ở Thái Lan (Đảng Cộng sản Thái Lan là thân Trung Quốc) đã cố gắng “một cách công khai và bằng lật đổ các nước láng giềng có những hệ tư tưởng khác nhau và cuối cùng vào một cuộc chiến tranh uỷ nhiệm gay gắt và dã man”. Các lực lượng vũ trang Thái sẽ hành động với sự “thận trọng cực độ” để ngăn cản một tình hình như vậy xảy ra.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #99 vào lúc: 02 Tháng Mười Hai, 2007, 08:54:17 am »

Sau khi thành lập chính phủ liên hiệp tháng 6 năm 1982, Sihanouk đi thăm các nước ASEAN xin viện trợ quân sự và kinh tế cho sự nghiệp của ông ta. Trên thực tế có tin Singapore đã bí mật bắt đầu tiếp tế cho KPNLF đầu năm 1982. Một chuyến vũ khí bộ binh nhẹ cho khoảng 2.000 quân KPNLF và 1.000 quân Sihanouk đã đến vào tháng 9, Sihanouk cũng nói rằng Australia, Canada, Malayxi và Nhật Bản đang xét viện trợ cho các nhóm không cộng sản để tránh việc họ phụ thuộc vào Trung Quốc. Có tin Lý Quang Diệu yêu cầu Sihanouk sáp nhập quân đội của ông ta với KPNLF để “tạo tiềm tàng” và để giảm bớt “thế lợi quân sự quyết định" của Khmer đỏ “trong mối quan hệ tay ba đó”.


Khi Sihanouk đến Băng Cốc thì được vua và thủ tướng Thái Prem Tinxulanon đón tiếp hữu nghị nhưng được nói rõ ràng là chính phủ Thái Lan sẽ không cho ông ta vũ khí. Rồi ông ta đi thăm trai Khao I Đang và thuyết phục hàng nghìn người trở về các trại biên giới của Khmer Xơ-rây. Ông ta rêu rao 40.000 người tình nguyện tham gia các lực lượng vũ trang của ông, nhưng ông ta đành phải không nhận vì không có đủ viện trợ để cung cấp lương thực và vũ khí cho họ.


KPNLF cũng được đẩy lên do kết quả cuộc đi thăm của Sihanouk. Nhưng KPNLF thường bị chỉ trích đã tránh chiến đấu với người Việt Nam, mà chỉ tập trung vào việc tuyên truyền và thu thập tình báo. Tháng 12 năm 1982, Son San đi Singapore kêu gọi thêm viện trợ. KPNLF nhận được một chuyến vũ khí từ Singapore và tăng cường hoạt động của mình trong mùa mưa. Nhng kết quả là tăng thêm va chạm giữa các lực lượng KPNLF và Khmer đỏ. Tháng 10 năm 1983, cả KPNLF và quân đội của Sihanouk phàn nàn rằng Khmer đỏ tránh chiến đấu với người Việt Nam, nhưng lại dùng lực lượng của họ thực hiện một chiến dịch cố ý quấy rối và hăm doạ. Vì lợi ích của sự nhất trí nên họ kiềm chế trong việc phản ứng trở lại. Khmer đỏ cải chính những lời tố cáo đó.


Với số quân dưới 5.000, không được vũ khí của cả Singapore lẫn Trung Quốc, với trại chính của mình bị phá huỷ và với binh lính luôn luôn bị Khmer đỏ quấy rối, Sihanouk tự thấy cơ đồ bị xuống dốc. Ông ta phản ứng bằng việc đe doạ rút ra khỏi liên hiệp, cho là cần phải đạt mức hoà giải nào đó với Hà Nội và lên án Khmer đỏ là cứng nhắc. Tại New York tháng 10 năm 1983, ông ta nói với nhà báo rằng các nhà lãnh đạo Khmer đỏ cho rằng họ có thể đẩy người Việt Nam ra và giành lại toàn quyền ở Campuchia. Ông ta phàn nàn rằng, để đạt được việc đó họ sẵn sàng “chiến đấu cho đến không còn quả đất này nữa”. Và nếu vì lý do nào đó họ đạt được mục tiêu của họ, ông ta nói thêm, họ sẽ giết tất cả những người ủng hộ Heng Samrin “và cả chúng tôi nữa”. Nói vậy, nhưng ông ta vẫn còn là một bên trong chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ.


Các cuộc tiến công của Việt Nam vào các căn cứ của chính phủ liên hiệp Campuchia dân chủ đầu năm 1983 là nhằm chứng tỏ cho các nước ASEAN rằng họ đang ủng hộ một sự liên hiệp của những sự nghiệp nhất định thất bại. Các nước ASEAN đã ủng hộ trước tiên Khmer đỏ, và sau đó là chính phủ liên hiệp, với hy vọng rằng họ có thể buộc Việt Nam rút khỏi Campuchia mà bản thân họ không phải có bất kỳ nhượng bộ nào. Họ hy vọng làm kiệt sức Hà Nội bằng một chiến lược tiêu hao. Suy nghĩ của ASEAN vào lúc bắt đầu mạo hiểm về một sự liên hiệp đã được Ragiaratman tóm tắt ngày 20 tháng 9 năm 1980: “Họ phải bị gãy dưới sự căng thẳng. ASEAN phải tiếp tục duy trì sức ép”. Trong tinh thần đó, họ đã bác bỏ các đề nghị của Việt Nam về một công ước không xâm lược, về một sự phi quân sự hoá biên giới Thái-Campuchia và về một cuộc rút quân từng phần.


Nhưng đến năm 1983 thì đã rõ ràng là họ đã chơi những con bài một cách sai lầm. Người Việt Nam có thể xử lý với sức ép mà các nhóm kháng chiến Khmer gây ra cho họ. Nếu chúng ta hỏi chiến lược tiêu hao của ASEAN đã tỏ ra như thế nào sau bốn mùa chiến đấu, thì một nhà quan sát có cảm tình như Michael Liefer cũng đồng ý rằng: “Câu trả lời đơn giản là: không tốt lắm”. Thực vậy anh ta nhận xét rằng người Việt Nam đã áp dụng “một phản chiến lược tiêu hao có hiệu quả” chống lại Khmer đỏ và, trong mùa khô 1982-1983 chống lại cả các nhóm không cộng sản (xem “Thế giới ngày nay” tháng 6 năm 1982, tr.233-236-ND). Nhưng, do đã chọn chiến lược đó, các nước ASEAN tự thấy mình bị khoá chặt vào một lập trường như để phục vụ các mục tiêu của Trung Quốc nhằm vắt khô Việt Nam chứ không phải phục vụ những lợi ích của chính họ trong nền an ninh khu vực.


Sau các cuộc chiến đấu mùa khô năm 1983, Việt Nam đi vào một hiệp hoạt động ngoại giao mới, ở Băng Cốc những người chỉ trích lập trườn cứng rắn của chính phủ Thái, có tiếng nói rõ hơn, và tháng 5, ngoại trưởng Thái hứa một ”chính sách linh hoạt hơn” nó sẽ “tôn trọng những lợi ích chính đáng” của Việt Nam ở Campuchia. Các nước ASEAN cũng bỏ việc gợi ý giải thích vấn đề tranh chấp bằng một cuộc hội nghị quốc tế về Campuchia. Một nhà ngoại giao ASEAN thậm chí còn nhắc đến công thức đó như là “một điều gây rắc rối. Đây là một ngụ ý về khả năng ASEAN chấp nhận một giải pháp thương lượng khu vực, không có sự tham gia của Trung Quốc, như Việt Nam yêu cầu.


Ngày 20 tháng 9 năm 1983, các ngoại trưởng ASEAN ra một lời tuyên bố xác nhận rằng họ sẵn sàng xem xét một giải pháp cho vấn đề Campuchia mà không qua khuôn khổ của Liên hợp quốc. Họ cho rằng nhân tố chính của một giải pháp sẽ là việc rút các lực lượng Việt Nam. Họ gợi ý rằng quân Việt Nam được thay thế bằng các lực lượng gìn giữ hoà bình hoặc lực lượng quan sát và tiếp theo đó là một giải pháp chính trị toàn bộ.
Việt Nam không bác bỏ kế hoạch này. Họ cho là đáng chú ý và sẽ nghiên cứu kỹ. Nhưng có ít khả năng Việt Nam đồng ý rút lực lượng của mình trước khi đạt được một giải pháp toàn bộ bao gồm việc giải pháp Khmer đỏ và việc chấp nhận chính phủ Cộng hoà nhân dân Campuchia ở Phnôm Pênh. Và những điều kiện này còn khó được ASEAN chấp nhận, nhất là việc chấp nhận đó có thể gây tức giận cho cả Bắc Kinh lẫn Washington.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM