Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 03:23:47 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chân lý thuộc về ai  (Đọc 80975 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #50 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2007, 08:55:46 pm »

Con đường đi đến xâm chiếm

Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tỏ ra kiên quyết khi họ họp bí mật ở Hà Nội để quyết định điều cần làm đối với vấn đề Campuchia, sau khi đã rõ ràng rằng những đề nghị ngừng bắn của họ ngày 5 tháng 2 năm 1978 đã bị bác bỏ. Vì nhóm Pol Pot đã ngăn cản mọi cố gắng đi đến một giải pháp hoà bình cho cuộc đấu tranh, cho nên dường như đã rõ ràng là Pol Pot phải bị gạt bỏ. Như vậy một cuộc xâm chiếm quân sự đã trở thành một khả năng, thế nhưng Uỷ ban Trung ương vẫn chọn con đường đứng đằng sau các lực lượng chống Pol Pot bên trong Đảng Cộng sản Campuchia và ủng hộ họ với lực lượng quân sự Việt Nam nếu tỏ ra là cần thiết.


Dấu hiệu công khai đầu tiên của sự thay đổi trong chính sách của Việt Nam đối với Campuchia đã xuất hiện đầu tháng 4. Thêm vào những lời tố cáo tập đoàn Pol Pot và các chính sách giết người của nó, Đài phát thanh Hà Nội bấy giờ bắt đầu đa ra những lời kêu gọi công khai nhân dân Campuchia lật đổ chế độ đó. Rồi tướng Hoàng Cầm, tư lệnh các lực lượng Việt Nam chiến đấu ở Campuchia năm 1970-1972, đã được giao phụ trách quân đội Việt Nam ở vùng biên giới. Người Việt Nam cũng khuyến khích việc tổ chức một phong trào kháng chiến chống Pol Pot trong hàng ngũ số đông dân tị nạn Campuchia ở Việt Nam (trên 150.000 người). Khi Nayan Chanda nói chuyện với những người tị nạn Campuchia tại một trại tỉnh Tây Ninh tháng 4 năm 1978 thì những người cộng sản Khmer đang bận tổ chức một phong trào kháng chiến. Nhiều người mà Chanda nói chuyện rất tha thiết trở về Campuchia để lật đổ chế độ Phnôm Pênh và đã có đến 2.000 người được tuyển lựa tại trại đặc biệt đó. Không phải tất cả đều là cộng sản. Một người mà Chanda gặp đã nói rằng, trong khi anh ta không phải là một người cộng sản, nhưng anh ta chấp nhận việc phong trào đó sẽ thành lập một chính phủ cộng sản khác ở Phnôm Pênh, mà anh ta nói phải ít nhất “là một chính phủ cộng sản với sự công bằng, không dã man giống như chính phủ hiện nay”.


Người Việt Nam cũng bí mật tiếp xúc với các lực lượng chống Pol Pot kiểm soát vùng Đông Campuchia. Sách đen cho rằng người Việt Nam bắt đầu âm mưu với Xô Phim chỉ vào tháng 2 năm 1978. Chính người Việt Nam về sau cũng kể lại rằng tháng giêng năm 1978 họ đã bắt đầu thảo luận với các cán bộ vùng Đông Campuchia về khả năng lật đổ Pol Pot bằng một cuộc nổi dậy chính trị và quân sự của các lực lượng Xô Phim, mà người Việt Nam có thể ủng hộ về mặt quân sự. Tuy nhiên, Pol Pot đã đánh mạnh vùng Đông Campuchia trước khi có điều gì cụ thể xảy ra từ các cuộc thảo luận đó. Tuy còn chưa được chuẩn bị tốt, người Việt Nam vẫn đưa chính lực lượng của họ vào cuộc xung đột trong tháng 6, và cuộc chiến đấu tiếp tục cho đến tháng 8. Những người của lực lượng Xô Phim còn sống sót được đặt dưới sự kiểm soát của tư lệnh Heng Samrin. Họ rút lui với quân Việt Nam và tham gia phong trào kháng chiến đang được tổ chức ở Việt Nam.


Sự loại bỏ những người cộng sản của vùng Đông đã chấm dứt khả năng lật đổ Pol Pot bằng một cuộc nổi dậy từ bên trong và sau đó, thì cuộc xung đột hướng vào một sự kết thúc bằng quân sự trực tiếp. Trong phần còn lại của mùa mưa, cả hai bên củng cố quân đội của họ dọc theo biên giới. Vào cuối tháng 10 năm 1978, tướng Cầm có 100.000 quân dưới quyền chỉ huy của mình. Lực lượng chống Pol Pot của Campuchia, hoạt động chủ yếu dưới hình thức những đơn vị du kích nhỏ, có con số khoảng giữa 10.000 và 20.000 người. Đứng trước mặt họ là 60.000 quân Khmer đỏ, tức hai phần ba toàn bộ lực lượng của Pol Pot.


Trong khi đó diễn ra cuộc chạy đưa quyết liệt giành ủng hộ ngoại giao. Trung Quốc là người ủng hộ chính của Pol Pot, và người Việt Nam thì ngày càng xem Pol Pot như một công cụ của Bắc Kinh. Hà Nội chuyển sang tìm cách ự bảo vệ mình chống lại sự trả đũa bất ngờ của Trung Quốc, bằng cách cam kết vững chắc hơn với khối Xô-viết tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (COMECON) trong tháng7 và ký hiệp ước hữu nghị 25 năm với Má-xcơ-va tháng 11.


Cả hai phía ra sức tranh thủ các nước ASEAN. Ông Phạm Văn Đồng đi một vòng các nước, đề nghị ký hiệp ước hữu nghị với nước nào quan tâm. Ieng Sary vá víu lại các quan hệ với Thái Lan (đã từng bị căng thẳng do một số vụ đột nhập của Khmer đỏ vào Thái Lan tháng 4 và tháng 5 năm 1978), thiết lập quan hệ buôn bán với Singapore, thăm Philippin và Nhật Bản. Phó thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đi thăm một loạt nước tháng 11, cố chống lại chuyến đi của ông Đồng.


Ngày 3 tháng 12 năm 1978 đài Hà Nội báo tin rằng một Mặt trận thống nhất dân tộc cứu quốc đã được thành lập “tại vùng giải phóng" của Campuchia, với Heng Samrin làm chủ tịch. Mặt trận đưa ra một cương lĩnh đòi lật đổ “tập đoàn phản động Pol Pot-Ieng Sary” và thành lập một chế độ “hướng về chủ nghĩa xã hội thực sự”. Phnôm Pênh trả lời sáu ngày sau đó, coi Mặt trận là “một tổ chức chính trịcủa Việt Nam mang tên Khmer” và là một công cụ của” những kẻ bành trướng Xô-viết”.


Cuối cùng người Việt Nam tiến hành cuộc tiến công quân sự của họ chống lại chế độ Pol Pot ngày lễ Giáng sinh năm 1978. Mười hai sư đoàn Việt Nam, khoaản 12.000 quân, với xe tăng và xe bọc thép, đổ qua biên giới và tràn vào Campuchia với một tốc độ làm kinh ngạc những người quan sát. Cuộc tiến công đã được đích thân tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam, tướng Văn Tiến Dũng chỉ huy. Tướng Dũng cũng là người phụ trách cuộc tiến công cộng sản cuối cùng ở Nam Việt Nam 1975. Các lực lượng Khmer đỏ phạm phải một sai lầm quân sự cổ điển. Trả lời lại một số thăm dò bước đầu của Việt Nam, Pol Pot đã tập trung hơn một nửa tất cả các lực lượng của ông ta để đối phó với cuộc tiến công của Việt Nam qua “mỏ vẹt” hoặc vùng “lưỡi câu” thuộc các tỉnh Xoài Riêng và Công-pông Chàm. Lúc đó, tướng Dũng tiến công xuyên sườn từ Plây Cu và Tây Ninh (và theo các nguồn tin của Thái, từ các vị trí ở Nam Lào nữa) tiến vào các tỉnh lỵ Xtung Treng, Kra-ti-ê và Công-pông Chàm ở phía Bắc, và dọc theo các đường số 2 và số 3 tiến đến Ta Keo và Cam Pốt ở phía Nam.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #51 vào lúc: 12 Tháng Mười, 2007, 08:56:48 pm »

Thắng lợi của những cuộc tiến công đó đã mở con đường đến Phnôm Pênh từ cả phía bắc lẫn phía nam cho người Việt Nam. Chỉ lúc đó họ mới tiến công các vị trí phòng thủ chính của Khmer đỏ dọc theo đường số 1, mở con đường chính từ Sài Gòn đến Phnôm Pênh vào đầu tháng giêng. Nhưng đài Phnôm Pênh còn nói rằng cuộc chiến tranh đã diễn ra tốt cho Khmer đỏ. Ngày 5 tháng giêng năm 1979, một tin phát đi nói rằng: “Tin về thắng lợi của quân đội cách mạng chúng ta… đã được tiếp nhận hàng ngày và làm cho nhân dân chúng ta vui sướng và hài lòng. Nó cũng làm cho chúng ta tin cậy và chắc chắn vào cuộc đấu tranh anh dũng của chúng ta. Chúng ta tin chắc rằng chúng ta phải thắng”. Hai ngày sau, quân Việt Nam chiếm Phnôm Pênh mà không bị chống trả. Ba tuần sau khi cuộc tiến công bắt đầu, người Việt Nam kiểm soát tất cả các thành phố và đường giao thông lớn ở Campuchia. Rồi họ bắt đầu toả ra dọc theo các đường phụ để thanh toán các lực lượng Khmer đỏ mà họ đã vượt qua.


Vào cuối tháng giêng năm 1979 các nguồn tin tình báo phương Tây ước tính rằng người Việt Nam đã gây 30.000 thương vong cho các lực lượng Pol Pot, tức là một phần ba toàn bộ lực lượng, và một nửa lực lượng bố trí để bảo vệ biên giới với Việt Nam. Nhờ số lượng nhiều hơn vũ khí tốt hơn và chiến thuật có kết quả nên thương vong Việt Nam tương đối nhẹ. Ngày 30 tháng giêng, Đài phát thanh Pol Pot (bấy giờ lấy tên là Tiếng nói Campuchia dân chủ và được đặt tại Hoa Nam) rêu rao rằng người Việt Nam đã chịu 14.000 thương vong. Xét khuynh hướng hay phóng đại quá mức của Khmer đỏ, nên con số đó nên xem là mức cao nhất của khả năng.


Mặc dù có những thắng lợi như vậy, chiến thắng của Việt Nam chưa hoàn toàn. Tuy chịu thất bại thảm hại, tinh thần của quân đội Pol Pot còn gữ được; không có đầu hàng quy mô lớn. Thấy rõ không thể sánh được với người Việt Nam trong cuộc chiến tranh thông thường, nhiều nhà chỉ huy Khmer đỏ đã nhanh chóng phân tán lực lượng thành những đơn vị du kích và rút lên núi hoặc vào các đồng lầy, để tiếp tục cuộc chiến đấu sau này.


Vào cuối tháng giêng năm 1979, các lực lượng Pol Pot bắt đầu đánh lại quân Việt Nam. Tuy chúng thu được một vài thắng lợi tạm thời, chúng chưa giành lại thế chủ động ở đâu cả và các nhà lãnh đạo Khmer đỏ về sau cho các cuộc hành quân đó là “vội vã”. Trong tháng 3 và tháng 4, người Việt Nam lại giành thế chủ động lần nữa, đưa ra một loạt các cuộc càn quét để đuổi các lực lượng Khmer đỏ ra khỏi đồng lúa Tây Campuchia, và buộc chúng rút vào vùng rừng núi Tây Nam Campuchia hoặc vào biên giới Thái Lan. Ngày 10 tháng 4, người Việt Nam chiếm khu bí mật ở Ta Sanh được bảo vệ rất tốt, mà ban lãnh đạo Khmer đỏ dùng làm tổng hành dinh. Họ bị buộc phải bỏ chạy quá nhanh đến mức người Việt Nam lấy được hộ chiếu của Ieng Sary cùng với nhiều tài liệu khác. (Sách trắng của Chính phủ cách mạng lâm thời ra tháng 9 năm 1983 trích những tài liệu đó để làm cơ sở cho lời lên án của họ về sự câu kết Thái-Trung Quốc với Pol Pot). Trong cùng tháng đó, người Việt Nam bao bây tổng hành dinh Khmer đỏ tại Am-pin (gồm Ban Xa-ngac), vùng Tây Bắc Campuchia.


Các lực lượng Pol Pot thoát được chỉ bằng cách rút vào Thái Lan. Các nhà báo phương Tây theo dõi khi khoảng 50 đến 80.000 người kéo nhau đi ba mươi dặm trên những con đường nằm hẳn trên phía Thái Lan của biên giới trước khi trở vào lại Campuchia. Hàng nghìn binh lính trẻ, thô bạo, lùa bằng mũi súng một lực lượng lao động bị bắt gồm những dân làng sưng sỉa và thiếu ăn; đúng là một “trại tập trung đang đi” như một trong các nhà quan sát về sau mô tả đám người mệt mỏi đó.


Tình hình quân sự được ổn định trong tháng 5 và tháng 6 năm 1979, khi mùa mưa đến. Người Việt Nam đã kiểm soát các vùng đông dân chính của đất nước, vùng biên giới phía Đông, các đồng bằng trồng lúa trung tâm và phía Tây, nhưng an ninh còn kém trong các vùng hẻo lánh.


Các lực lượng Pol Pot kiểm soát các khu vực trong vùng núi không dân cư của vùng Tây Nam và dọc theo biên giới Thái. Thị trấn duy nhất coóý nghĩa còn nằm trong tay chúng là Pai-lin. Từ các căn cứ này, chúng còn có thể đi lại qua phần lớn vùng Tây của đất nước và qua vùng núi phía nam, và chúng có thể tiến hành những cuộc tiến công từng lúc vào các đường giữa Phnôm Pênh và Bát-tam-băng, và giữa Phnôm Pênh và Công-pông Xom. Cũng còn những đơn vị trung thành với Pol Pot hoạt động ở các tỉnh Công-pông Thom và Ra-ta-ni-ki-ri ở vùng trung tâm và phía đông đất nước, nhưng chúng còn thích nằm im lúc này. Nhìn chung thì rõ ràng sự kiểm soát nhân dân Campuchia của Khmer đỏ đã bị tan vỡ.


Về quân sự, quân đội Pol Pot đã bị đập tan một cách nghiêm trọng. Các nguồn tin tình báo phương Tây ước tính số lượng của nó rút xuống còn 35.000 giữa năm 1979: trong sáu tháng đánh nhau, quân đội đã mất hai phần ba số quân. Quy mô số dân còn nằm dưới sự kiểm soát của Pol Pot lúc này còn chưa rõ nhưng không chắc có thể quá một phần tư triệu. Tuy vậy, quân đội Khmer đỏ tiếp tục còn là một lực lượng quân sự còn hoạt động và ban lãnh đạo của chính phủ Campuchia dân chủ còn nguyên vẹn. Có thể cho rằng việc bắt ban lãnh đạo này là một trong những mục tiêu chính của người Việt Nam khi tổ cức tiến công. Về mặt này, ít ra cũng phải xem đó là một thất bại. Pol Pot và những đồng sự của ông ta đã tìm cách thoát khỏi việc bị mắc bẫy ở Phnôm Pênh và chạy lên biên giới Thái. Trong vòng vài tuần, chúng đã tập hợp lại với nhau và cố gắng tập hợp sự ủng hộ bên trong và bên ngoài Campuchia cho cuộc đấu tranh chống lại chính phủ Heng Samrin mới ở Phnôm Pênh được Việt Nam ủng hộ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #52 vào lúc: 17 Tháng Mười, 2007, 09:57:48 pm »

Trung Quốc: Khoa sư phạm về quyền lực

Chính phủ Trung Quốc đáp lại cuộc xâm chiếm Campuchia của Việt Nam bằng những lời lẽ quá đáng nhất. Họ tố cáo Hà Nội là “quân phiệt, xâm lược hung bạo và bành trướng” và hứa làm “hết sức mình” để giúp chế độ Khmer đỏ bị gạt bỏ “bằng mọi cách”. Trong chuyến đi thăm Mỹ tháng giêng 1979, Đặng Tiểu Bình đưa ra những nhận xét nổi tiếng của mình về việc phải dạy cho Việt Nam “một số bài học cần thiết”. Trên đường về Bắc Kinh, Đặng nói tại Tokyo rằng “Việt Nam phải bị trừng trị nghiêm khắc”.


Bài tập khoa sư phạm của Đặng bắt đầu lúc bình minh ngày 17 tháng 2, khi gần 100.000 quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc đổ vào biên giới dài 1.300 kilômét, cùng với xe tăng và trọng pháo. Cuộc tiến công sa lầy nhanh chóng, và số quân đã phải đẩy lên 200.000 trước khi cuộc tiến công có thể tiếp tục trở lại. Mục tiêu quân sự trước mắt của người Trung Quốc là chiếm các tỉnh ỵ sáu tỉnh biên giới của Việt Nam, trong đó bốn đã rơi vào tay họ từ 23 tháng 2. Cuộc chiến đấu quyết định của chiến dịch lúc đó hình thành quanh thị xã Lạng Sơn, nằm trong một đèo thiên nhiên trên dãy núi giữa Trung Quốc và Việt Nam (thị xã có vị trí chiến lược này đã từng là nơi xảy ra nhiều cuộc chiến đấu lịch sử). Người Trung Quốc tiến công ngày 27 tháng và, sau các cuộc chiến đấu ác liệt trên đồi chung quanh, đã tìm cách vào được Lạng Sơn đêm mùng 2 tháng ba. Cuộc chiến đấu còn tiếp diễn trong thị xã ba ngày sau đó, khi Bắc Kinh công bố rút lui các lực lượng của họ. Tuy nhiên, phải cho đến 16 tháng 3 cuộc rút lui mới hoàn tất, chủ yếu bởi vì quân Trung Quốc đã phá huỷ một cách có hệ thống tất cả các công sự chính và nhiều nhà cửa của Việt Nam trước khi rút.


Tổn thất của cuộc chiến tranh một tháng đó là rất lớn. Người Trung Quốc thừa nhận 20.000 thương vong, nhưng rêu rao gây cho người Việt Nam 50.000; về phần mình, người Việt Nam tuyên bố rằng 20.000 Trung Quốc đã bị chết và tổng số thương vong của Trung Quốc là trên 60.000. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ, các tỉnh cực bắc này phần lớn được cách ly, không bị bom Mỹ vì gần biên giới Trung Quốc, nhưng bây giờ cũng chính tình hình địa lý đó đã làm cho các tỉnh đó bị tàn phá khắp nơi. Lạng Sơn vẫn còn trong tình trạng đổ nát khi chúng tôi đến thăm một năm sau cuộc xâm lược. Phần lớn các nhà lớn đã bị đập phá thành gạch vụn và các nhà ở bị phá huỷ hoàn toàn. Một số nhà đã được phục hồi, nhưng hầu hết 30.000 dân cư còn phải sống trong những lều đơn sơ giống như ở những nơi sơ tán khác trong khu vực. Theo người Việt Nam, thì người Trung Quốc đã phá huỷ bốn tỉnh lỵ (Lạng Sơn, Cao Bằng, Lao Cai và Cam Đường) (Cam Đường là một thị trấn gần Lao Cai chứ không phải một tỉnh lỵ-ND), và 320 xã, 250.000 dân đã bị đẩy vào tình trạng không có nhà ở; 41 nông truơờn quốc doanh và trạm nông nghiệp cũng như các xí nghiệp, hầm mỏ, bệnh viện và trường học đã bị san bằng: 58.000 ha đồng ruộng đã bị phá huỷ và những khu rừng rộng lớn bị đốt trụi.


Bắc Kinh không bỏ lỡ cơ hội công bố sự hài lòng của họ đối với trừng phạt gây cho Việt Nam. Tuy vậy, trong một cuộc phỏng vấn với Oriana Fallaci trong tờ Corrierre della Sera tháng 8 năm 1980, Đặng Tiểu Bình thừa nhận rằng cuộc hành quân “không thành công lắm”. Đúng là người Trung Quốc đã đạt phần lớn những mục tiêu quân sự trước mắt của họ bên trong Việt Nam, nhưng cái giá phải trả thì lại cao một cách đau đớn. Chỉ trong cuộc chiến đấu Lạng Sơn, người Việt Nam mới dùng một trong những sư đoàn chủ lực của họ (sư đoàn tinh nhuệ 308, chuyển từ chu vi phòng thủ Hà Nội đến) (Đây là một sự nhầm lẫn của tác giả. Thực tế trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược ta mới chỉ sử dụng tới các lực lượng địa phương. Sư đoàn 308 không tham gia chiến đấu-B.T). Còn thì số 200.000 quân giải phóng nhân dân đã bị chặn đứng bằng một lực lượng quân địa phương và dân quân Việt Nam chỉ bằng một nửa số quân đó. Kết quả của cuộc chiến tranh này dường như phơi bày sự yếu kém quân sự chứ không phải sức mạnh của Trung Quốc.


Người Trung Quốc rõ ràng đánh giá thấp khả năng của những lực lượng phòng thủ Việt Nam được cắm sâu trong một địa hình gồ ghề, hiểm trở mà họ đã biết rõ. Trang bị của quân đội Trung Quốc nói chung là lạc hậu, vũ khí phần lớn thuộc loại cũ cuối những năm 1950 đầu những năm 1960, trong khi người Việt Nam chiến đấu với những vũ khí hiện đại do Liên Xô cung cấp hoặc chiếm được của Mỹ. Ưu thế không quân của Việt Nam làm cho lục quân Trung Quốc phải tiến công mà không có yểm trợ của không quân. Hậu cần của Trung Quốc tỏ ra không thích hợp: những xe tải chở hàng cung cấp tiến chậm trên các con đường núi quanh co nên không thể cung cấp đầy đủ đạn dược cho quân đội. Chiến thuật của Trung Quốc cũng tỏ ra không thoả đáng. Cũng giống như trong chiến tranh Triều Tiên. Quân đội giải phóng nhân dân Trung Quốc cũng dựa vào những cuộc tiến công bằng “biển người”. Những cuộc tiến công như vậy làm cho các lực lượng phòng thủ bám sâu và trang bị tốt có thể gây những thương vong tai hại, nhất là trên địa hình gồ ghề, làm chậm bước tiến của bộ binh. Trong cuộc chiến đấu ở Lạng Sơn, người Trung Quốc đã dùng kỵ binh là thứ binh chủng mà vũ khí tối tân, bắn nhanh đã gây những thương vong nặng nề. Người Trung Quốc dựa vào những kèn đồng để phối hợp các đơn vị, và những tay bắn tỉa Việt Nam đã làm cho họ rối loạn hàng ngũ bằng việc bắn hạ những người thổi kèn. Một số báo cáo cho rằng người Trung Quốc sẽ được nhân dân địa phương hoan nghênh như những “người giải phóng", nhưng điều đó không hề xảy ra.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #53 vào lúc: 17 Tháng Mười, 2007, 09:59:00 pm »

Không lấy gì làm lạ rằng cuộc chiến tranh đã làm nổ ra một cuộc tranh luận dài trong các giới quân sự Trung Quốc về giá trị chiến thuật “chiến tranh nhân dân" của Mao trong điều kiện hiện đại và về nhu cầu hiện đại hoá trang bị chiến đấu của Trung Quốc. Tiếp theo đó là một sự xáo trộn rộng rãi nhất trong hàng ngũ các nhà lãnh đạo Quân giải phóng nhân dân, nhưng có lẽ việc đó có liên quan đến những cuộc đấu tranh phe phái trong Đảng Cộng sản Trung Quốc hơn là kết quả của cuộc chiến tranh.


Điều còn quan trọng hơn trình độ chiến đấu nghèo nàn của quân giải phóng nhân dân là cuộc xâm lược không đạt được những mục tiêu chính trị của nó. Mục đích bề ngoài của Bắc Kinh chỉ là giành một “biên giới hoà bình” với Việt Nam. Bắc Kinh rêu rao rằng quân đội Trung Quốc bị buộc phải tiến hành một “cuộc phản công tự vệ” để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc trước những khiêu khích không dứt của Việt Nam. Như Hàn Niệm Long, người lãnh đạo phái đoàn Trung Quốc tại những cuộc hội đàm Trung-Việt sau đó, đã nói: “Khiêu khích của họ đã trở thành không thể nào tha thứ được nữa”.


Bề ngoài là một cuộc chiến tranh biên giới, nhưng vấn đề thực sự là một vấn đề chính trị chứ không phải một tranh chấp biên giới. Tuy rằng đúng là có một số điểm không có ranh giới chính xác, nhưng trên đại thể, đây là một trong những biên giới xác định tốt nhất trong khu vực (Xem “Những biên giới của Đông Nam Á” của J.R.V Precot, J.H.Colie, D.F.Precot, Men-buốc, 1977,tr.60-ND). Trước năm 1974, cả hai bên đồng ý rằng chẳng có vấn đề gì quan trọng, nhưng từ đó trở đi, các rắc rối trên biên giới đã tăng lên kế hoạch các quan hệ giữa Hà Nội và Bắc Kinh xấu đi. Tình hình trở nên đặc biệt căng thẳng trong phần thứ hai của năm 1978, mỗi bên tố cáo bên kia có những khiêu khích cố ý.


Khi những cuộc thương lượng diễn ra ở Hà Nội tháng 4 năm 1979, thì có thể thấy rõ ràng cuộc tranh chấp biên giới thực sự là một vấn đề chính trị. Phía Việt Nam đưa ra đề nghị ba điểm để giải quyết chính vấn đề biên giới: chấm dứt chiến sự và phi quân sự hoá biên giới; khôi phục giao thông và vận tải bình thường; một giải pháp cho bất cứ vấn đề lãnh thổ nào trên cơ sở “tôn trọng đường biên giới" mà các hiệp định Trung-Pháp năm 1887 và 1895 đã thiết lập. Phía Trung Quốc không chịu xét đề nghị đó và đưa ra đề nghị 8 điểm của riêng mình. Họ bác bỏ việc phi quân sự hoá biên giới và đòi giải quyết các vấn đề lãnh thổ “trên cơ sở những công ước Trung-Pháp” chứ không phải trên cơ sở đường ranh giới thực tế do các hiệp định đó đưa lại. Họ cũng đòi Việt Nam thừa nhận các quần đảo Paracel (Hoàng Sa) và Spratly (Trường Sa) là “một bộ phận không thể chuyển nhượng của lãnh thổ Trung Quốc”.


Như là một bộ phận của giải pháp cho vấn đề biên giới, người Trung Quốc cũng đòi chấm dứt sự ngược đãi các “kiều dân” Trung Quốc ở Việt Nam và khôi phục các “quan hệ hữu nghị” giữa hai chính phủ. Điểm thứ hai của họ như sau: “Không bên nào được tìm kiếm bá quyền ở Đông Dương, Đông Nam Á, hay bất cứ nước khác của thế giới và chống lại cố gắng của bất cứ nước nào hay nhóm nào khác nhằm thiết lập bá quyền như vậy. Không bên nào sẽ đóng quân ở các nước khác và những quân đội đã đóng ở nước ngoài phải được rút về nước mình. Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối quân sự nào nhằm chống lại bên kia, cung cấp căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ và các căn cứ các nước khác để đe doạ, lật đổ hoặc xâm lược vũ trang chống lại phía bên kia hoặc chống lại bất cứ nước nào khác” (Xem Peking Review, 4 tháng 5 năm 1979-ND).


Tóm lại, người Trung Quốc lưu ý rằng cuộc xung đột biên giới trên bộ không thể chấm dứt chừng nào người Việt Nam không chịu bỏ chủ quyền trên các nơi sở hữu của họ ở Biển Đông, rút khỏi Campuchia và chấm dứt liên minh với Mát-cơ-va. Trong một đợt hội đàm tiếp theo (ngày 5 tháng 7), người Trung Quốc bỏ sang một bên việc thảo luận chính vấn đề biên giới và đòi cuộc thương lượng “tiến hành từ điểm nút cẩu vấn đề tức là chống bá quyền”, tố cáo Việt Nam thành lập một Liên bang Đông Dương bao gồm là và Campuchia để phối hợp với việc cho là “nỗ lực giành bá quyền thế giới” của Liên Xô.


Những cuộc thương lượng biên giới do đó đã bị bế tắc từ đầu. Người Trung Quốc không chịu thảo luận tý nào những đề nghị của Việt Nam và bác bỏ yêu cầu “làm rõ” chính lập trường của họ. Về phần mình, người Việt Nam bác bỏ những đề nghị của Trung Quốc trên cơ sở rằng Trung Quốc không có quyền ra lệnh lấy những quan hệ của Việt Nam với các nước khác làm một bộ phận của giải pháp biên giới. Người Trung Quốc tìm cách ép Hà Nội bằng những đe doạ về một cuộc tiến công khác, nhưng không lay chuyển đợc Hà Nội. Đặng Tiểu Bình tuyên bố ngày 29 tháng 5 rằng Trung Quốc “dành quyền” dạy cho Việt Nam bài học khác, nếu Việt Nam tiếp tục “những khiêu khích của họ”.


Những cuộc hội đàm vẫn được tiếp tục trong một thời gian, nhưng chỉ còn là một diễn đàn tuyên truyền. người Trung Quốc tiến công “chủ nghĩa bành trướng” Việt Nam ở Đông Dương, trong khi người Việt Nam thì tiến công các chính sách của Trung Quốc “theo đuổi chủ nghĩa bá quyền dưới chiêu bài chống bá quyền”. Trong khi đó thì những va chạm mạnh mẽ tiếp tục diễn ra trên biên giới Trung-Việt, thường nổ ra vào những lúc căng thẳng ở Campuchia, đáng chú ý nhất là tháng 6 năm 1980, tháng 4 năm 1983 và tháng 4 năm 1984.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #54 vào lúc: 17 Tháng Mười, 2007, 09:59:59 pm »

Giải thích chính thức của Trung Quốc cho sự xâm lược của họ, coi đó là một phản ứng tự vệ đối lại “khiêu khích” của Việt Nam trên biên giới Trung-Việt, là một giải thích mà hầu như khắp nơi đều coi như một lời bào chữa bịa đặt, và thực vậy ít được nhắc tới trong phần nhiều các bình luận của phương Tây về cuộc xung đột. Rõ ràng là trong cuộc chiến tranh này, phía Trung Quốc là kẻ xâm lược và sự xâm lược đã được công khai mưu tính từ trước. Không có những sự kiện nào đã xảy ra có thể tương xứng với một cuộc xâm lược quy mô đầy đủ như vậy. Trên thực tế cuộc xâm lược của Trung Quốc là một phản ứng đối với việc Hà Nội lật đổ đồng minh của Bắc Kinh ở Campuchia và việc Hà Nội tiếp tục có quan hệ với Liên Xô. Không phải là hoàn cảnh đã buộc Trung Quốc phải tiến hành cuộc chiến tranh đó; ban lãnh đạo Bắc Kinh đã chọn một cách có ý thức sự xâm lược quân sự làm công cụ của chính sách. Những mục tiêu của Trung Quốc trong việc tiến công Việt Nam nói chung được cho là có hai mặt: một là để bày tỏ cho Hà Nội rằng Trung Quốc là một cường quốc lớn mà những nguyện vọng không thể bị xem thường; và hai là giảm bớt sức ép đối với các lực lượng Pol Pot bằng cách buộc người Việt Nam rút quân khỏi Campuchia để đưa về bảo vệ biên giới phía bắc của họ.


Trong cả hai mặt, cuộc chiến tranh không thành công. Người Việt Nam vẫn bướng bỉnh, đã đối phó với cuộc xâm lược của Trung Quốc mà không rút bất cứ số quân nào từ Campuchia, là nơi mà họ tuyên bố rằng tình hình là “Không đảo ngược được”. Hà Nội duy trì mối quan hệ của mình với Liên Xô, địch thủ của Trung Quốc và đi vào củng cố mối “quan hệ đặc biệt” với Viêng Chăn và với chế độ mới ở Phnôm Pênh. Tất cả các điều đó càng tăng thêm hơn nữa sự giận dữ của Bắc Kinh đối với “sự vô ơn” của người Việt Nam. Vũ đài đã được dựng lên cho một cuộc xung đột lâu dài giữa hai chính phủ cộng sản cho là “anh em”.


Có một số điểm song song nhưng mỉa mai giữa cuộc xung đột Trung-Việt và cuộc xung đột Việt Nam-Campuchia. Việt Nam tìm kiếm một “mối quan hệ đặc biệt” với Campuchia và Trung Quốc trên thực tế cũng đòi hỏi một “mối quan hệ đặc biệt” với Việt Nam và các nước Đông Dương khác. Hà Nội phản ứng mạnh mẽ đối với các hành động của Pol Pot một phần là vì Hà Nội nhận thức một “đe doạ của Trung Quốc” đối với Việt Nam đằng sau những hành động đó, và Trung Quốc, về lượt mình cũng cảm thấy một “đe doạ Xô-viết” đằng sau những hành động của Việt Nam. Việt Nam đã chứng minh sự can thiệp quân sự ở Campuchia tháng 12 năm 1978 trên cơ sở tự vệ chính đáng, và thật là một điều trùng hợp khi Trung Quốc cũng bào chữa chính sự xâm lược Việt Nam của mình bằng những lý lẽ tương tự.


Các mối quan hệ chính trị có liên quan có thể được quan niệm như là một hệ thống quyền lực trong đó Liên Xô (và xa hơn Liên Xô, là Mỹ) ở một đầu và chế độ Campuchia Dân chủ và Lào ở đầu bên kia. Hai nước nằm giữa hệ thống đó, Trung Quốc và Việt Nam, mỗi nước tìm cách sử dụng tối đa quyền tự do hành động của mình bằng cách chống lại nước đứng trên họ và tranh thủ các nước đứng dưới họ để đưa vào một liên minh. Chính phủ Lào sẵn sàng đứng về phía Việt Nam, nhưng cuộc đấu tranh phe phái bên trong Đảng Cộng sản Campuchia đã buộc Pol Pot chống lại Việt Nam. Như vậy cái chính phủ với kỳ vọng ngây thờ nhất đòi chủ quyền tuyệt đối đã tự thấy mình có ít chỗ nhất để xoay xở. Nó tự giành cho mình lựa chọn chống lại sức ép của Việt Nam bằng cách tìm kiếm sự che chở của Trung Quốc. Về phần mình, Việt Nam tìm kiếm sự che chở của Liên Xô chống lại Trung Quốc, và Trung Quốc lại tìm kiếm sự che chở của Mỹ chống lại Liên Xô.


Tuy nhiên, những điểm song song như trên không thể bị đẩy quá xa. Đến một điểm nhất định, Việt Nam buộc phải bỏ “mối quan hệ đặc biệt” với Campuchia, khi chính phủ Pol Pot bác bỏ mối quan hệ đó trong năm 1975-1976. Ngược lại, Trung Quốc không tỏ ra có dấu hiệu nào bỏ yêu sách của họ về Đông Dương và tỏ ra sẵn sàng khởi xướng một cuộc chiến tranh quy mô đẩy đủ để buộc Việt Nam khuất phục trước ý muốn của họ. Tính chất song song giữa cuộc chiến tranh Việt Nam-Campuchia và cuộc chiến tranh Trung Quốc-Việt Nam cũng đã mất tác dụng ở một chỗ khác, đó là nước Việt Nam đứng giữa đã bị tiến công vừa từ một nước yếu hơn là Campuchia, vừa từ một nước mạnh hơn là Trung Quốc. Nếu ông ta thực sự tôn trọng sự cân bằng, Pol Pot đã tìm cách tạo ra một “quan hệ đặc biệt” với Lào, nhưng do tính phiêu lưu quân sự mà ông ta đã tiến công Việt Nam. Cuối cùng, trong khi cuộc xâm chiếm Campuchia, tháng 12 năm 1978 của Việt Nam là nhằm loại bỏ hoàn toàn chế độ Pol Pot, và chủ yếu là đã thành công thì cuộc xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 của Trung Quốc đã có một mục tiêu hạn chế hơn, tuy số lượng quân đội lớn hơn, và đã tỏ ra là không thành công.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #55 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2007, 07:15:49 pm »

“Chủ nghĩa Sô-vanh Đại hán”

Phản ứng của Trung Quốc đối với sự can thiệp của Việt Nam vào Campuchia là một sự bày tỏ bi đát ý muốn của chính phủ Bắc Kinh khẳng định quy chế của Trung Quốc như là một cường quốc hơn hẳn trong vùng Đông Nam Á. Hết sức kỳ lạ, các nhà bình luận phương Tây không thấy được ý muốn dó. Trong những năm 1950 và 1960, người ta thường cho rằng vì là cộng sản cho nên chính phủ mới không còn thực sự là ‘Trung Quốc” nưữa và bị xem như là bù nhìn của Liên Xô. Chính phủ đó bị mô tả là hăng hái và bành trướng nhưng để phục vụ các quan thầy nước ngoài. Tính chất quốc gia của chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc chỉ được thấy rõ một cách rộng rãi chỉ sau cuộc phân biệt Trung-Xô. Trong những năm 1970, chính sách đối ngoại của Trung Quốc đã được giải thích một cách có thiện cảm hơn, nhưng sự giải thích đó lại có xu hướng quá tin vào hình ảnh mà Trung Quốc tự tạo cho mình như là đối thủ hàng đầu của “chủ nghĩa bá quyền nước lớn”. Chủ nghĩa quốc gia mới của giới lãnh đạo Trung Quốc đã được thừa nhận nhưng không ai thấy được khả năng nó có thể dẫn đến một sự khẳng định của quyền lực Trung Quốc rất có hại cho các nước khác.


Người Trung Quốc luôn luôn tự tô vẽ cho mình như là những đối thủ hàng đầu của chính sách quyền lực mà Liên Xô và Mỹ đang thực hiện. “Tất cả các nước, lớn hoặc nhỏ, phải bình đẳng, nước lớn không được áp bức nước nhỏ và nước mạnh không được áp bức nước yếu”. Đó là điều mà phía Trung Quốc tuyên bố trong thông cáo Thượng Hải năm 1972. “Trung Quốc sẽ không hề bao giờ là một siêu cường, và Trung Quốc chống lại bá quyền và chính sách quyền lực các loại”. Những tuyên bố như vậy làm cho nhiều người rất bất ngờ trước một tình hình trong đó Trung Quốc tuyên bố có “quyền riêng để can thiệp bằng quân sự vào các nước nhỏ nào không làm vừa lòng họ để dạy một “bài học”.


Hà Nội đưa ra cách giải thích của mình về chính sách quyền lực của Trung Quốc trong một Sách trắng do Bộ Ngoại giao Việt Nam phát hành tháng 10 năm 1979. Giải thích đó lập luận rằng các kẻ thống trị Trung Quốc đã làm sống lại “chủ nghĩa Sô-vanh Đại Hán” cổ truyền, tin rằng sự rút lui của chủ nghĩa đế quốc phương Tây sẽ cho phép Trung Quốc nối lại địa vị xưa của mình như là một cường quốc khống chế trên suốt Đông Nam Á. Việt Nam tuyên bố rằng những nhà lãnh đạo Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã từ lâu “mơ ước chinh phục” Đông Nam Á, “một mục tiêu cổ truyền của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc trong suốt các thế kỷ”. Họ gắn cuộc chiến tranh của Trung Quốc chống Việt Nam với các cuộc tranh chấp biên giới của Trung Quốc với Ấn Độ, Liên Xô và Mông Cổ, và lập luận: “Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bộc lộ màu sắc thực sự của họ là những người Sô-vanh nước lớn và những nhà quốc gia tư sản! Chính sách hiện nay của các nhà thống trị Trung Quốc đối với Việt Nam, tuy được nguỵ trang đầy đủ, vẫn giống với chính sách của các nhà thống trị “Thiên triều” trong hàng nghìn năm trước, một chính sách nhằm việc thôn tính Việt Nam, nô dịch nhân dân Việt Nam và biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc”.


Sách trắng Việt Nam điểm lại chính sách Trung Quốc từ hội nghị Geneva năm 1954 dưới ánh sáng của sự đánh giá nói trên, lập luận rằng chính sách đó có hai mặt. Người Trung Quốc đã tỏ ra ủng hộ cách mạng Việt Nam nhưng luôn luôn đồng loã với những kẻ thù của cuộc cách mạng đó. Mục tiêu thực sựu của họ là giữ cho Việt Nam bị chia cắt, yếu và phụ thuộc vào Trung Quốc. Hà Nội lập luận rằng một Việt Nam độc lập, thống nhất sẽ là một “cản trở chính đối với chiến lược toàn cầu của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, trước nhất là đối với chính sách bành trướng của họ xuống Đông Nam Á”. Không cần phải nói, người Trung Quốc vội vã cải chính điều đó.


Như vậy là những người cộng sản Việt Nam đã đi đến chỗ đồng ý với sự phân tích của một số các chuyên gia phương Tây về Trung Quốc, như C.P. Fritzgerald cho rằng mặc dù cộng sản lên nắm quyền, “nhưng “thế giới quan của Trung Quốc không thay đổi về căn bản” (xem “Cách nhìn của Trung Quốc về vị trí của họ trong thế giới” của C.P. Fritzgerald, London, 1964, tr.71-72-ND). Chủ nghĩa Mao đã được thời sự hoá, nhưng không thay đổi về căn bản cách nhìn cổ truyền của Trung Quốc, coi Trung Quốc là trung tâm, là người nắm giữ duy nhất nền văn minh và đức hạnh và là người làm ra luật pháp cho những nước man di quanh họ. Có một ít sức thuyết phục trong lập luận này, nhưng sẽ không đúng nếu xem chính sách đối ngoại của nhà nước Trung Quốc hiện đại chỉ là một sự tiếp tục của các chính sách cổ truyền, không hề bị những hoàn cảnh thực tiễn đang thay đổi ảnh hưởng đến.


Với tư cách là một trung tâm “văn minh” hùng mạnh giữa một thế giới “man di”, Thiên triều đã có thể khiến cho các quốc gia nhỏ hơn và ít hùng mạnh hơn quanh nó phải tỏ lòng tôn kính. Lòng tôn kính này đã được thể chế hoá trong chế độ triều cống và, cho đến khi người Pháp đến, các triều đình ở Huế, Phnôm Pênh và phần lớn các lãnh địa của lào đều phải triều cống cho triều dình vua chúa ở Bắc Kinh. Những thái độ mà chế độ này đưa lại cho các nhà thống trị Trung Quốc đã được minh hoạ trong thông điệp mà vua Càn Long gửi cho vua George III để trả lời những yêu cầu của Anh lập đại diện ngoại giao ở Bắc Kinh và lập các quyền buôn bán ở Trung Quốc:


“Trong khi cai trị một thế giới rộng lớn, tôi chỉ có một mục tiêu phải chú ý, đó là duy trì một sự cai trị hoàn hảo về hoàn thành nhiệm vụ của quốc gia… Đạo đức uy nghi của triều đại chúng tôi đã thấm sâu vào mỗi một đất nước dưới bầu trời và vua của tất cả các nước đã triều cống những vật quý giá bằng đường bộ và đường biển… Hỡi nhà vua, ngài phải tôn trọng những tình cảm của tôi và bày tỏ sự tận tuỵ lớn hơn nữa trong tương lai, để, bằng sự khuất phục vĩnh viễn ngai vàng của chúng tôi, ngài có thể giành được hoà bình và thịnh vượng cho nước ngài sau đó” (xem “Trung Quốc đế vương” do Franz Schurman và Orville Schell xuất bản, quyển 1.New York, 1967, tr.107-108-ND). Trong khi các nước triều cống còn được quyền quản lý công việc nội bộ của chính mình thì chính phủ Trung Quốc lại tự xem mình là trọng tài cho các tranh chấp giữa các nước đó, và giữ quyền trừng phạt nước cứng đầu. Còn đối với ý kiến để cho các nước thiết lập các quan hệ kinh tế và chính trị độc lập với nước ngoài khác thì, như Càn Long đã giải thích cho George III, sẽ “hoàn toàn không thể được”.


Trong trường hợp của Việt Nam, một nhà viết sử đã mô tả mối quan hệ triều cống cổ truyền đó như sau: “… mối quan hệ đó không phải là giữa hai quốc gia ngang nhau. Không có nghi ngờ gì trong đầu óc của bất cứ ai rằng Trung Quốc là ở thế trên và nước triều cống ở thế dưới. Các vua chúa Việt Nam thấy rõ rằng họ phải thừa nhận quyền bá chủ của Trung Quốc và trở nên nước triều cống để tránh sự can thiệp thực sự của Trung Quốc vào công việc nội bộ của họ… Trung Quốc thì cảm thấy không thể cai trị trực tiếp khu vực đó được; đồng thời Trung Quốc cũng muốn tránh rắc rối ở các vùng biên giới… Quy chế triều cống mà Trung Quốc ban cho, không phải là cho một nước, mà là cho một nhà thống trị. Quy chế chỉ được cấp, khi nhà thống trị nước ngoài đã phải bày tỏ sự thừa nhận ưu thế của Trung Quốc… Việc phong cức cho một nhà thống trị triều cống, rõ ràng được vua Trung Quốc xem giống như việc cử một quan cức trong nội bộ đế chế. Vì vậy việc phong chức có thể bị rút lại nếu nhà thống trị kia không làm được nhiệm vụ… Trong trường hợp như vậy nhà vua triều cống có thể bị trừng trị như bất kỳ quan cức cấp cao nào khác của đế chế”. Đó là chế độ mà, theo Hà Nội, các nhà lãnh đạo Trung Quốc ngay nay mong muốn khôi phục lại.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #56 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2007, 07:17:07 pm »

Trung Quốc trong thế giới hiện đại: sự xuất hiện một cường quốc lớn


Những người cộng sản Trung Quốc xem cách mạng của họ như một thắng lợi của sự tự khẳng định quốc gia của Trung Quốc sau một thời kỳ thống trị nhục nhã của nước ngoài. Tháng 9 năm 1949, Mao tuyên bố: “Đất nước chúng ta sẽ không bao giờ còn là một đất nước bị sỉ nhục nữa. Chúng ta đã đứng dậy… Hãy để cho bọn phản động trong nước và ngoài nước run sợ trước chúng ta”. Nhưng, trên thực tế, trong những năm đầu, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vẫn là một quốc gia yếu. Trung Quốc đã trải qua một giai đoạn hỗn loạn kinh tế và chiến tranh tàn hại, và các nhà thống trị mới của họ đã buộc phải theo một trong những thành ngữ nổi tiếng khác của Mao “ngả về một bên, bên của Liên Xô” trong công việc quốc tế.


Khi Trung Quốc đứng về phía Liên Xô, các nhà bình luận phương Tây mô tả họ như là một cường quốc bành trướng hăng hái nhất, và quên những thực tế về sự yếu kém của Trung Quốc vào lúc đó. Từ đó trở đi, hình ảnh này đã được xem xét lại một cách triệt để dưới ánh sáng của sự phân liệt Trung-Xô và sự nhích lại gần Trung-Mỹ. Trung Quốc bây giờ nói chung được mô tả bằng những lời lẽ có cảm tình hơn, như chủ yếu đóng vai trò thụ động. Như vậy, sự phân liệt Trung-Xô được xem như là kết quả của sự “bắt nạt Xô-viết” và việc Trung Quốc quay sang phương tây như là một phản ứng tự vệ đối với việc bành trướng Xô-viết.


Cách giải thích như vậy phù hợp với những định kiến chiến tranh lạnh thông thường, nhưng nó che lấp thực tế về sự khẳng định ngày càng gia tăng của Trung Quốc như là một cường quốc độc lập trong nền chính trị thế giới. Chính phía Trung Quốc đã khởi xướng sự phân biệt Trung-Xô, và sau cuộc nhích lại gần Trung-Mỹ, Trung Quốc cuối cùng đã nổi lên là một cường quốc với một chính sách hăng hái mở rộng ảnh hưởng ra Đông Nam Á.


Khi thành lập liên minh Trung-Xô, rõ ràng có những mâu thuẫn (tuy các nhà bình luận phương Tây đương thời không biết đến). Stalin không tin Mao, còn Mao thì bất bình với tính cứng rắn của Stalin đối với Trung Quốc. Nhưng những căng thẳng đó đã bị gạt đi vì mối đe doạ chống cộng điên cuồng của Mỹ ở châu Á đối với một Trung Quốc còn rất yếu. Bất kể những dè dặt riêng đối với đồng minh Xô-viết của họ như thế nào, những nhà lãnh đạo cộng sản Trung Quốc cũng thấy rõ rằng đồng minh đó cho họ sự bảo vệ quân sự và sự ủng hộ ngoại giao rất cần thiết, cũng như cung cấp viện trợ, quỹ buôn bán và đầu tư cần thiết cho phát triển kinh tế. Bây giờ nhìn lại mới thấy thật là mỉa mai vì khi bị người Mỹ tố cáo biến Trung Quốc thành chế độ thuộc địa bằng việc liên minh với Liên Xô, thì báo chí Trung Quốc đã trả lời bằng những bài công phân bác bỏ những lời tố cáo Liên Xô là “chủ nghĩa đế quốc đỏ”.


Vào giữa những năm 1950, vị trí mặc cả của các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tốt lên một cách rõ ràng. Công cuộc khôi phục kinh tế bên trong Trung Quốc đã được đánh giá cao. Quân đội Trung Quốc đã hoạt động tốt ở Triều Tiên và năm 1953 người Mỹ đã miễn cưỡng chấp nhận ngừng bắn làm cho Bắc Triều Tiên, đồng minh của Trung Quốc (và của Nga) đã sống sót. Ở Việt Nam các lực lượng Pháp được Mỹ ủng hộ cuối cùng đã bị Việt Minh đánh bại năm 1954. Qua các vai trò của họ tại Hội nghị Geneva về Đông Dương và Triều Tiên năm 1954 và tại Hội nghị Băng Dung của các nước Á-Phi năm 1955, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng họ đã tự mình giành được sự thừa nhận như một cường quốc lớn. Một bài xã luận Nhân dân nhật báo về Geneva đã tuyên bố: “lần đầu tiên với tư cách là một trong những cường quốc lớn, nước Cộng hoà Nhân dân đã cùng với các cường quốc lớn khác tham gia thương lượng về những vấn đề quốc tế trọng yếu và đã có một sự đóng góp của chính mình được những bộ phận rộng rãi của dư luận thế giới hoanh nghênh Quy chế quốc tế của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa như là một trong những cường quốc lớn thế giới đã giành được sự thừa nhận của thế giới. Uy tín của quốc tế của Trung Quốc đã được nâng cao rất nhiều. Nhân dân Trung Quốc rất vui mừng và tự hào về những cố gắng và thành tựu của phái đoàn của họ tại Geneva”. Thêm vào đó, sự làm dịu những căng thẳng chiến tranh lạnh cực đoan đầu những năm 1950 làm cho Trung Quốc có nhiều cơ hội hoạt động hơn.


Kết quả là Trung Quốc chấp nhận một đường lối có tính chất khẳng định hơn, làm tăng thêm những căng thẳng trong liên minh Trung-Xô. Người Trung Quốc tách xa dần kiểu mẫu xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô. Cố gắng tập thể hoá của Mao năm 1955 và phong trào “Đại nhảy vọt” thường được đánh giá như là những vấn đề chính trị nội bộ, nhưng chúng có một tầm cỡ quốc tế quan trọng: chúng nhằm mục đích chứng tỏ khả năng của Trung Quốc vượt Liên Xô trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng do tình hình lạc hậu về kinh tế của Trung Quốc nên phải nhấn mạnh vào sự trong sáng trong học thuyết và vào đạo đức tinh thần. Tệ sùng bái chủ tịch Mao được đẩy mạnh vào năm 1958. Nhân dân nhật báo ca tụng ông ta là nhà lý luận Mác-Lê-nin vĩ đại nhất còn sống. Sự bác bỏ rõ ràng vai trò lãnh đạo của Liên Xô đối với khối cộng sản đã được nêu rõ ràng trong đầu những năm 1960, khi người Trung Quốc công bố một loạt bài bút chiến càng ngày càng công khai chống lại “chủ nghĩa xét lại” Xô-viết.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #57 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2007, 07:17:51 pm »

Khi đọc những tư liệu chính của giai đoạn đó, người ta có ấn tượng rằng cuộc phân liệt hoàn toàn là một vấn đề của những tranh chấp tư tưởng riêng tư, nhưng cuộc phân liệt đó vẫn tiếp tục tồn tại lâu sau khi chủ nghĩa Mao sụp đổ. Trên thực tế cuộc tranh giành về hệ tư tưởng này thực ra là một cuộc đấu tranh giành vị trí quyền lực chân chính của phong trào cộng sản quốc tế. Những bài bút chiến đầu những năm 1960 về đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế báo hiệu rằng Trung Quốc và Liên Xô đã trở thành những địch thủ giành quyền lãnh đạo khối cộng sản và giành ảnh hưởng trong các nước mới trỗi dậy. Trung Quốc cũng đòi địa vị cường quốc lớn của khối cộng sản; và khi người Xô-viết không chấp nhận yêu sách đó thì hầu như mọi sự kiện quốc tế của giai đoạn đó đều trở thành cơ hội cho cuộc bút chiến gay gắt.


Khi Khruskchev lần đầu tiên đưa ra thuyết “cùng tồn tại hoà bình” giữa các cường quốc cộng sản và tư bản vào giữa những năm 1950, người Trung Quốc ủng hộ thuyết đó, nhưng cuối những năm 1950, người Trung Quốc ngày càng lớn tiếng chỉ trích “sự đầu hàng” của Liên Xô đối với chủ nghĩa đế quốc. Một phần, đó cũng là một phản ứng đối với việc người Xô-viết không chịu hoàn toàn ủng họ những yêu sách của Trung Quốc trong một loạt các khủng hoảng ở biên giới Trung Quốc: khủng hoảng Kim Môn-Đài Loan (năm 1958), rõ ràng do Trung Quốc khởi xướng nhằm ép Liên Xô cam kết sâu hơn nữa đối với sự thống nhất của Trung Quốc trước sự ủng hộ của Mỹ đối với Tưởng Giới Thạch; cuộc nổi loạn ở Tây Tạng (1959); và tình hình căng thẳng tiếp theo với Ấn Độ đưa lại chiến tranh biên giới Trung-Ấn (1962).


Về phần mình người Xô-viết cũng ngày càng bất bình với thách thức của Trung Quốc. Đầu tiên họ bước vào cuộc tranh luận về hệ tư tưởng bằng việc thận trọng giới thiệu những đoạn trích từ Lê-nin để bảo vệ sự “cùng tồn tại hoà bình”. Nhưng sau vài nằm, Khruskchev giận dữ nói đến “những kẻ điên rồ và mất trí” và những kẻ “ba hoa giả hiệu cách mạng" và rõ ràng là ai cũng biết ông ta muốn ám chỉ ai. Một loạt các hành động của Liên Xô càng thêm dầu vào lửa. Năm 1959, không lâu trước khi đi thăm Mỹ, Khruskchev huỷ bỏ lời hứa bí mật giúp Trung Quốc xây dựng một khả năng hạt nhân độc lập (những năm sau, khi tiết lộ việc này, người Trung Quốc nói rằng đó là “quà của Khruskchev cho người Mỹ”). Rồi, năm 1960, Khruskchev rút tất cả các nhà kỹ thuật khỏi Trung Quốc, tuyên bố rằng họ bị ngược đãi. Việc này xảy ra đúng vào cuộc khủng hoảng kinh tế sau cuộc “đại nhảy vọt” của Mao, cho nên nó là một đòn đánh vào các kế hoạch phát triển của Trung Quốc, làm cho người Trung Quốc bất bình và không thể nào quên hàng chục năm sau. Người Trung Quốc đáp lại bằng việc đổ cơn thịnh nộ vào thái độ “ngạo mạn và độc tài” của người Xô-viết.


Nhưng chính mối quan hệ tam giác đang nổi lên gữa Bắc Kinh, Mát-xcơ-va và Washington là điểm nút trong loạt chỉ trích của Trung Quốc đối với những nguyện vọng “cùng tồn tại hoà bình” của Liên Xô. Cuộc tranh cãi ngày càng tăng với Mát-xcơ-va, xảy ra vào lúc các quan hệ với Washington còn đang đối kháng gay gắt, đã làm cho Bắc Kinh bị cô lập một cách nguy hiểm. Bất kỳ một dấu hiệu nào về sự “câu kết” giữa người Xô-viết và người Mỹ đều bị tố cáo là “phản bội” sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản. Khi Mỹ và Liên Xô ký Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân từng phần tháng 7 năm 1963, người Trung Quốc mạnh mẽ tố cáo và một nhà bình luận của Hồng Kỳ lên án rằng đây là một “Liên minh thần thánh” có thể so sánh với liên minh phản cách mạng do Mét-tơ-níc vạch ra sau các cuộc chiến tranh của Napoleon, và tiên đoán một két thúc bất hạnh cũng giống như vậy.


Không kể những lời lẽ quá mức, những lo sợ của Trung Quốc về một sự “câu kết” và một “sự mặc cả bí mật” giữa Mỹ và Liên Xô nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc không phải là không có cơ sở. Cuộc khủng hoảng Lào năm 1961 là cơ hội đầu tiên cho Trung Quốc xuất hiện như một cường quốc độc lập thứ ba, và cả Mát-xcơ-va lẫn Washington đều tích cực tìm cách hạn chế ảnh hưởng của Bắc Kinh.


Vào giữa những năm 1960, rõ ràng là cố gắng của Trung Quốc giành giật chiếc cẩm bào lãnh đạo khối cộng sản từ tay Liên Xô đã thất bại thảm hại. Hầu như tất cả các Đảng Cộng sản cầm quyền đứng về phía Liên Xô, trừ một vài đảng (đáng chú ý nhất là Bắc Việt Nam và Bắc Triều Tiên) còn cố gắng đứng trung lập và cân đối giữa hai cường quốc cộng sản. Nhưng chủ nghĩa cách mạng sôi nổi của Trung Quốc là hấp dẫn hơn đối với các đảng cộng sản còn đang đấu tranh giành chính quyền. Phần đông các đảng Đông Nam Á đi với Trung Quốc, nhưng ở các nơi khác, Trung Quốc chỉ được ủng hộ của Đảng New Zeland và nhữg phái nhỏ mới tách ra. Những cố gắng tranh thủ về phía Mao các nhà lãnh đạo của các nước Á-Phi, đang đấu tranh để củng cố các quốc gia mới và mong manh của họ, cũng ít thành công. Cố gắng đầu tiên của Trung Quốc nhằm giành bằng chính sức của mình quy chế cường quốc lớn đã tỏ ra quá sớm, làm cho Trung Quốc trở nên bị cô lập hơn bao giờ hết.


Trong bối cảnh như vậy, người Mỹ ào ạt leo thang cuộc chiến tranh Việt Nam 1965, không hề chú ý đến sự bực tức của Trung Quốc về vấn đề đó. Bắc Kinh một lần nữa lại đứng trước một sự can thiệp quân sự quy mô lớn của Mỹ tại một khu vực sống còn đối với nền an ninh của họ, như đã xảy ra ở Triều Tiên một thập kỷ trước đó. Rồi người Trung Quốc đã phải tự mình can thiệp, nhưng lần này không còn được cái ô quân sự Liên Xô bảo vệ nữa. Đa số các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc quanh Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình cho rằng hành động của Mỹ đã làm cho Trung Quốc cần thiết phải một lần nữa siết chặt hàng ngũ với Liên Xô. Nhưng Mao, trong giai đoạn này đã đi sâu vào cuộc “chống chủ nghĩa xét lại” cho nên uy tín cá nhân của ông ta sẽ bị tổn thương nếu đi theo đường lối đó. Ngược lại, ông ta kêu gọi củng cố đường lối “tực lực” của Trung Quốc và tăng thêm chiến dịch chống người Xô-viết.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #58 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2007, 07:19:37 pm »

Bị đánh bại bên trong đảng, Mao và đồng minh của ông ta, bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu, tiến hành một chiến dịch “chỉ trích của quần chúng" chống lại các đối thủ của họ. Chiến dịch đó tăng dần, tăng dần, thành cuộc Đại cách mạng văn hoá năm 1966-1968. Cuộc cách mạng này đã tiêu diệt các đối thủ của Mao, nhưng cũng làm cho đảng đổ nát và đất nước rơi vào hỗn loạn. Vào năm 1969, quân đội dưới quyền Lâm Bưu đã xoay xở để phục hồi trật tự và điều khiển đất nước về cơ bản, trong khi đó Mao tìm cách thành lập một đảng cầm quyền đúng theo sở thích của ông ta hơn là Đảng Cộng sản Trung Quốc trước cách mạng văn hoá. Việc đưa ông ta đến gần hơn một lần nữa với những người ôn hoà như Chu Ân Lai, là người đã bảo lãnh để Đặng Tiểu Bình và các nhà cầm quyền lão thành khác được thận trọng phục hồi, làm cho những người cấp tiến mới nổi lên cầm quyền trong cách mạng văn hoá rất buồn phiền.


Tệ “sùng bái cá nhân” Mao đã được lợi dụng hết mức trong cuộc đấu tranh giành quyền lực trong cách mạng văn hoá. Tư tưởng Mao Trạch Đông được tuyên bố cho toàn thế giới như tri thức tối cao của thời hiện đại. Nhưng bên dưới vỏ ngoài của ngôn từ phô trương quá mức đó, đất nước đã bị chìm vào một tình trạng biệt lập mê muội gợi lại Đế chế Trung Hoa cổ xưa. Thậm chí theo nhận xét của một nhà văn có cảm tình Trung Quốc lúc này khinh thường cộng ngoại giao quốc tế và bỏ phần lớn các quan hệ nhà nước với nhà nước của thế giới bên ngoài. Chỉ những kẻ tôn sùng tư tưởng Mao mới được hoan nghênh ở Bắc Kinh.


Trong khi chủ yếu là một cuộc nổi dậy nội bộ, cách mạng văn hoá cũng một phần là do các vấn đề chính sách đối ngoại gây ra và từ đó, có những tác động tai hại đến chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Các quan hệ của Trung Quốc với thế giới bên ngoài đã đến một điểm thấp năm 1965. Bây giờ, theo Mao, Trung Quốc phải xắn tay áo lên cho một cuộc đụng đầu cuối cùng, quyết định với kẻ thù. Tháng 3 năm 1966, Mao nói với một phái đoàn đến thăm từ Nhật Bản rằng một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ là “không thể tránh khỏi” trong vòng hai năm tới, và người Xô-viết lúc đó cũng sẽ xâm chiếm. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc trở nên ngày càng bài ngoại và tiếng la hét phương Tây của họ chỉ có thể sánh được với mức độ dữ dội với những lời tố cáo khối Xô-viết.


Thực vậy, các quan hệ Trung-xô chìm xuống thấp hơn mức bình thường. Năm 1966, ngoại trưởng Trung Quốc Trần Nghị tố cáo rằng người Nga là những kẻ cắp đã cướp 1,6 triệu kilômét vuông lãnh thổ của Trung Quốc và hồng vệ binh đã đổ vào tỉnh biên giới Tân Cương tổ chức những cuộc biểu tình hai triệu người đòi trả lại “đất đã bị mất”. Đầu năm 1967 xảy ra những cuộc biểu tình quần chúng dữ dội trước Đại sứ quán Xô-viết ở Bắc Kinh, và sinh viên Trung Quốc ở Mát-xcơ-va đánh nhau với cảnh sát Xô-viết.


Mao thúc giục mở lại cuộc thương lượng về biên giới từ năm 1963, nhưng theo tuyên bố của Trần Nghị, tình hình căng thẳng tăng lên vì cả hai bên xây dựng lực lượng của mình trên biên giới, đưa đến điểm cao là cuộc chiến đấu trên sông Út-xu-ri tháng 3 năm 1969. Những chi tiết của cuộc tiến công này còn đang mập mờ, tuy phần đông các nhà báo phương Tây, tin rằng do phía Trung Quốc khởi xướng và người Xô-viết đã trả đũa mạnh mẽ. Người Trung Quốc gắn các cuộc xung đột biên giới với sự chiếm đóng Tiệp Khắc của các lực lượng khối Vác-xa-va tháng 8 trước, coi đó là một sự biểu lộ khác của “chủ nghĩa đế quốc xã hội” Xô-viết nhưng một số nhà bình luận cho rằng Mao và Lâm Bưu gây ra sự kiện này để tập hợp sự ủng hộ ở Trung Quốc. Dù sao, lời qua tiếng lại về cuộc đụng đầu Trung-Xô đã bị đẩy đến điểm mà cả hai bên ngụ ý đến việc dùng vũ khí hạt nhân. Đến điểm đó thì người Trung Quốc buộc phải thổi kèn ra lệnh rút lui ngoại giao. Tuy khoác lác trong tháng 3 rằng “bọn cặn bã chống Trung Quốc sẽ cùng đường mạt lộ”, nhưng đến tháng 10 thì họ lại đoan chắc với Mát-xcơ-va rằng “không có bất cứ lý do nào” cho một cuộc chiến tranh biên giới và hứa phục hồi các quan hệ nhà nước với nhà nước. Không lâu sau đó, các cuộc thương lượng về biên giới bị Trung Quốc cắt đứt năm 1964, được nối lại (tuy không đưa lại tiến bộ nào trong việc giải quyết cuộc tranh chấp).


Liên Xô đã giành được an toàn trên biên giới với Trung Quốc, nhưng phải bằng sức ép trực tiếp và với cá giá là phải làm nhục và đẩy chế độ Trung Quốc xa hơn nữa. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc sẵn sàng cúi đầu trước sức mạnh lớn hơn nếu cần thiết, nhưng việc đó không đưa lại bất kỳ sự hoà giải tiếp theo nào giữa người Xô-viết với ngay cả các phái chống Mao ở Bắc Kinh. Tuy vậy, do đường lối “chống xét lại” của Mao đã đẩy Trung Quốc đến miệng hố của chiến tranh hạt nhân, cho nên nó đã có một sự đánh giá lại ở Bắc Kinh về giá trị của các đồng minh lớn và hùng mạnh. Cũng thấy rõ rằng vào khoảng năm 1969, cố gắng của những người cộng sản Trung Quốc giành một sự thừa nhận như là một cường quốc lớn đã ít đạt được kết quả; sau cuộc cách mạng văn hoá, chế độ Bắc Kinh bị cô lập và dễ bị tổn thương hơn bất cứ lúc nào khác kể từ năm 1949. Đến lúc này, con mắt của Mao chuyển sang Mỹ. Điều này đưa đến một sự bất hoà giữa Mao và Lâm Bưu, mà kết quả là cái chết bất đắc kỳ tử của Lâm Bưu vào năm 1971. (Đây không phải là lần đầu tiên Mao quay sang Mỹ. Ngày 13 tháng 3 năm 1945, Mao đã nói với John Service một quan chức chính trị tại Đại sứ quán Mỹ ở Trung Quốc: “Nhu cầu rất lớn sau chiến tranh của Trung Quốc là phát triển kinh tế, Trung Quốc thiếu nền tảng tư bản chủ nghĩa cần thiết để làm việc đó một mình. Mức sống của chính Trung Quốc đã quá thấp nên không thể hạ xuống nữa để tập trung vốn cần thiết. Mỹ và Trung Quốc bổ sung cho nhau về mặt kinh tế; họ sẽ không cạnh tranh với nhau. Trung Quốc không những điều kiện cần thiết của một nền công nghiệp nặng quy mô lớn. Trung Quốc không thể hy vọng sánh được với Mỹ về công nghệ chế tạo chuyên môn hoá cao, vì vậy Trung Quốc cần xây dựng công nghiệp nhẹ để cung cấp cho thị trường trong nước và nâng cao mức sống của nhân dân mình. Cuối cùng, Trung Quốc có thể cung cấp các hàng hoá đó cho các nước khác ở Viễn Đông. Để trả tiền cho ngoại thương và đầu tư đó, Trung Quốc có nguyên liệu và nông phẩm. Mỹ không những chỉ là nước thích hợp nhất để giúp đỡ công cuộc phát triển kinh tế của Trung Quốc, mà còn là nước duy nhất hoàn toàn có khả năng tham gia” (xem “Cơ hội bị mất ở Trung Quốc: Những tin tức chiến tranh thế giới thứ II” của John S.Service-Lúc đó cũng có đề nghị rằng Mao và Chu Ân Lai đi Washington để giải thích lập trường của Đảng Cộng sản Trung Quốc cho Roosevelt, nhưng ý kiến này đã bị Patrick J.Hurley chống cộng, đại sứ Mỹ ở Trung Quốc lúc đó, ỉm đi-ND).
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #59 vào lúc: 22 Tháng Mười, 2007, 07:20:22 pm »

Trong khi đó, có một số suy nghĩ gay cấn về Trung Quốc diễn ra ở Washington. Mỹ lúc đầu phản ứng về sự phân liệt Trung-Xô bằng cách phủ nhận thực tế đó, và sau đó thì có thiện cảm với bên “ôn hoà” hơn tức là Mát-xcơ-va. Nhưng, trước thục tế rằng Bắc Kinh đã trả lời khiêu khích của Mỹ bằng việc tăng cường tiến công Mát-xcơ-va, các nhà chiến lược Mỹ thấy được khả năng sử dụng những “người cực đoan” ở Bắc Kinh để chống lại người Xô-viết. Tuy nhiên, mọi triển vọng trước mắt về giảm căng thẳng Trung-Mỹ đã bị tràn ngập vì các đợt nước triều của cách mạng văn hoá, và năm 1968 Washington vẫn còn không liên lạc gì với Bắc Kinh hơn Mát-xcơ-va. Tổng thống Johnson cũng bắt đầu công khai nói bóng gió về ý muốn cải thiện quan hệ với Trung Quốc như ứng cử viên tổng thống, Richard Nixon đã làm. Không lâu sau khi Nixon được bầu tổng thống tháng 11 năm 1968, người Trung Quốc đề nghị nối lại hội đàm về một hiệp định cùng tồn tại hoà bình và người Mỹ đã trả lời thuận lợi. Mặc dù có một vài bước lùi đáng chú ý là việc người Trung Quốc lo ngại khi các lực lượng Mỹ và Nam Việt Nam xâm chiếm Campuchia tháng 5 năm 1970, nhưng quan hệ giữa hai nước đã được cải thiện một cách vững chắc. Quá trình này đạt đỉnh cao bằng chuyến thăm Bắc Kinh hấp dẫn của Nixon tháng 2 năm 1972.


Vào lúc nàu, chính phủ Trung Quốc cũng chủ động khôi phục các quan hệ ngoại giao với thế giới bên ngoài, đã bị cắt đứt trong cách mạng văn hoá. Đi đôi với những dấu hiệu rõ ràng về một sự nhích lại gần Trung-Mỹ, Đại hội đồng Liên hợp quốc cuối cùng đã bỏ phiếu công nhận Bắc Kinh chức không phải chính phủ Đài Loan, làm đại diện của Trung Quốc. Vào cuối thập kỷ đó, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã có quan hệ ngoại giao bình thường với phần lớn các nước trên thế giới. Cũng thật mỉa mai, một khi đã bước lên vũ đài công cộng, các cố gắng Trung-Mỹ nhằm nhích gần lại nhau đã bị sa lầy, chủ yếu là vì chẳng bên nào chịu thoả hiệp về vấn đề Đài Loan. Khi cuối cùng các quan hệ được bình thường hoá tháng 12 năm 1978, họ sẵn sàng chôn sâu vào những bất đồng của họ về vấn đề đó và tập trung vào những quan điểm chống Liên Xô. Vào đầu những năm 1970, Trung Quốc nghi ngờ một cách sâu sắc sự “cam kết” Xô-Mỹ, nóng lòng phá hoà dịu giữa hai siêu cường. Thế nhưng cuối thập kỷ thì Bắc Kinh và Washington đua nhau phơi bày thù địch công khai đối với Mát-xcơ-va; điều kiện tiên quyết cho việc củng cố các quan hệ Trung-Mỹ hoá ra là sự phá vỡ hoà dịu Xô-Mỹ, làm cho thế giới bị nhận siêu vào một cuộc chiến tranh lạnh mới cuối những năm 1970.


Các quan hệ đối ngoai của Trung Quốc đã được cách mạng hoá vào đầu những năm 1970. Trong vẻn vẹn ba năm, Trung Quốc đã đi từ sự xem thường có tính chất “cách mạng” các quan hệ bình thường nhà nước với nhà nước dưới thời Lâm Bưu, đến việc chấp nhận một ghế thường trực trong hội đồng bảo an năm thành viên của Liên hợp quốc, một địa vị nói lên sự thừa nhận quốc tế chính thức vê quy chế cường quốc lớn của Trung Quốc. Sau sự khai thông này, các vấn đề chính sách đối ngoại của Trung Quốc không còn là những vấn đề của một quốc gia cách mạng mới nổi lên nữa. Chúng đã thành những vấn đề của sự xác định, củng cố vằng tăng cường địa vị của Trung Quốc như là một cường quốc lớn trong một thế giới của những cường quốc đang cạnh tranh với nhau. Việc này tất yếu có nghĩa là phải xác định lại các quan hệ của Trung Quốc, không chỉ với các cường quốc lớn khác mà còn với những quốc gia nhỏ hơn của khu vực Đông Á.


Trách nhiệm đưa ra một tuyên bố có thẩm quyền về những nguyên tắc của chính sách đối ngoại Trung Quốc sau cuộc cách mạng ngoại giao đó thuộc về Đặng Tiểu Bình, nay được phục hồi sau khi bị Mao gạt trong cách mạng văn hoá. Trình bày của ông ta về “Thuyết ba thế giới” của chủ tịch Mao tại Liên hợp quốc tháng 4 năm 1974 đã đánh dấu sự chấm dứt bất cứ hy vọng trở lại quan điểm “hai thế giới” (chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa cộng sản) trong nền chính trị quốc tế. Theo Đặng thì: “… tất cả các lực lượng chính trị trên thế giới đã trải qua sự phân hoá và sắp xếp lại một cách căn bản thông qua những thử thách kéo dài của sức mạnh và đấu tranh. Một số lớn các nước Á, Phi và Mỹ la tinh đã giành được độc lập hết nước này đến nước khác, và đang đóng một kết quả của sự xuất hiện chủ nghĩa đế quốc xã hội, cho nên phe xã hội chủ nghĩa đã tồn tại trong một thời gian sau chiến tranh thế giới thứ hai, đã không còn nữa. Do quy luật phát triển không đều và gắn bó với nhau của chủ nghĩa tư bản, cho nên khối đế quốc phương Tây cũng đang tan rã. Xét về những thay đổi trong các quan hệ quốc tế, thế giới ngày nay thực tế gồm ba phần, hoặc ba thế giới, vừa liên kết vừa mâu thuẫn với nhau. Mỹ và Liên Xô làm thành thế giới thứ nhất. Các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh và ở các khu vực khác hình thành thế giới thứ ba. Các nước phát triển ở giữa hai thế giới là thế giới thứ hai.


Vì phe “xã hội chủ nghĩa" không còn nữa và “phe đế quốc cũng đã tan rã”, cho nên Trung Quốc chính thức đã thoát khỏi bất cứ cơ sở hệ tư tưởng nào đã từng là nhân tố phân biệt giữa hai “siêu cường”. Trong khi Đặng chính thức gộp Liên Xô vào với Mỹ, người Trung Quốc vẫn tin rằng đối thủ tương lai chính của họ ở vùng Viễn Đông sẽ là Liên Xô. Vì vậy Đặng lập luận rằng Mỹ đang “suy yếu” và Liên Xô là nguy hiểm nhất trong hai siêu cường bởi vì Liên Xô còn trong giai đoạn “bành trướng”. Tuy hệ tư tưởng cộng sản còn được hai quốc gia chia xẻ, nhưng việc chống lại “chủ nghĩa đế quốc xã hội" Xô-viết đã trở thành viên đá nóng của chính sách đối ngoại Trung Quốc trong 7 năm tiếp theo.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM