Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 04:54:48 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chân lý thuộc về ai  (Đọc 80960 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #30 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2007, 08:10:51 pm »

Trung Quốc: Kẻ thù không thể tránh được

Một trong những nhiệm vụ chính sách đối ngoại đầu tiên của Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong năm 1975 là đề ra một hình thức mới về trung lập đối với sự tranh chấp Trung-Xô. Nhiệm vụ đó rơi vào Phu-mi Vông-vi-chít. Ông ta đã nói năm 1975: “Hiện nay có nhiều nước không thể đi với nhau được. Tuy vậy họ vẫn có thể đi với chúng ta. Đó là vì chúng ta đã sưe dụng những biện pháp ngoại giao đúng đắn… Chính sách của tôi là giành nhiều bạn hơn nữa trong khi giảm con số kẻ thù… Với tư cách là một người bạn tôi hy vọng rằng cả hai nước sẽ có thể đi với nhau hoặc sớm hoặc muộn. Tôi không đứng với bên này hoặc bên kia…”. Thái độ đứng rách ra được nghiên cứu kỹ đó đối với những rắc rối của cuộc tranh chấp, cuối cùng không còn có thể giữ mãi được đối với Lào cũng như đối với Việt Nam. Khi những căng thẳng khu vực tăng lên, Lào không tránh được bị kéo vào cuộc xung đột.


Cho đến năm 1978, các quan hệ của Viêng Chăn với Bắc Kinh vẫn thân ái nhưng xa cách. Khi cuộc xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc nổi lên, thì ban đầu Lào tìm cách giữ khoảng cách giống như kiểu họ đã làm đối với cuộc xung đột Việt Nam-Cam-pu-chia. Nhưng khi tất cả các cuộc tranh chấp cài vào nhau thì Lào cuối cùng phải thay đổi lập trường.


Sang năm 1978, lập trường của Viêng Chăn đối với nền chính trị của khu vực trở nên cứng rắn hơn. Cuối tháng 6, Đài phát thanh Viêng Chăn nói rằng “sự thống nhất giữa quân đội và nhân dân phải được củng cố hơn nữa cũng như sự thống nhất quốc tế của quân đội đối với quân đôi và nhân dân Việt Nam". Trong những tháng tiếp theo đó, một xã luận trong báo Xiêng Pa-xa-xôn đánh dấu kỷ niệm Hiệp ước với Việt Nam đã nói rằng chính phủ Lào sẽ “đứng bên cạnh nhân dân Việt Nam” và “quyết tâm đập tan tất cả các âm mưu chia rẽ của bọn đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế” (danh từ lực lượng phản động quốc tế là danh từ người Việt Nam dùng để nói về Trung Quốc). Trong lúc đó, Cay-xỏn đưa ra một cuộc tiến công ít úp mở chống lại Trung Quốc bằng cách nói rằng “bọn đế quốc và phản động quốc tế đã gây ra sự bất đồng giữa các dân tộc khác nhau trong nhân dân chúng ta” và kêu gọi đấu tranh chống lại các âm mưu “tìm cách khuyến khích các dân tộc thực hiện sự chống lại một cách lâu dài cuộc cách mạng của chúng ta”. Cay-xỏn lặp lại lời lên án này vào tháng 8. Bắc Kinh phản ứng mạnh mẽ, tố cáo Mát-xcơ-va và Hà Nội ra sức “đầu độc các quan hệ giữa Trung Quốc và Lào”.


Đến lúc này, khi phong vũ biểu khu vực sắp bùng nổ thì những bất đồng trong nội bộ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào về lựa chọn chiến lược của đất nước xuất hiện công khai một cách ngắn ngủi. Tại một cuộc tập hợp của các cán bộ Đảng tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 33 ngày độc lập của Lào, Xu-pha-nu-vông đọc một diễn văn ca ngợi Cách mạng Nga và tán dương việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, đồng thời tuyên bố rằng “bọn đế qốc và các lực lượng phản động quốc tế đang âm mưu gây chia rẽ giữa Lào và các nước xã hội chủ nghĩa khác, nhất là Việt Nam". Nhưng ý nghĩa hơn tất cả là ông ta đã nói thêm: “Càng nghiêm trọng hơn, gần đây chúng tung ra tin đồn rằng bọn phản động Lào lưu vong… bây giờ đã có một người ủng hộ mới, đó là nước Trung Hoa vĩ đại, và rằng Trung Quốc sẽ tiến công Việt Nam rồi tiến công Lào. Đó là một sự tuyên truyền độc ác và nguy hiểm nhằm gieo rắc hoang mang và lo ngại trong nhân dân chúng ta làm cho họ mất tin tưởng vào đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước chúng ta, gây chia rẽ giữa nhân dân Lào và nhân dân Trung Quốc, và cuối cùng phá hoại cách mạng chúng ta”.


Diễn văn này không thể được coi (như một số đã coi) như một tuyên bố chống Việt Nam, hoặc như một tuyên bố thân Trung Quốc. Nó vừa là một tuyên bố về lập trường của chủ nghĩa cộng sản “trung lập”, vừa là một sự tiến công che đậy vào sức ép nước lớn của bản thân Trung Quốc, tố cáo Trung Quốc loan truyền tin đồn ủng hộ hoạt động chống chính phủ cũng như tin đồn đang lan tràn ở Hà Nội và làm cho người Hoa ở đó hoảng sợ mà chạy sang Trung Quốc.


Tháng 10 năm 1978, Vông-vi-chít nói: “Đối với các cuộc xung đột Việt Nam-Trung Quốc và Cam-pu-chia-Việt Nam, chúng tôi muốn chấm dứt chúng và muốn hoà bình trở lại Đông Dương và Đông Nam Á. Chúng tôi cho rằng nếu xét các mối bất đồng thì các cuộc xung đột đều có thể giải quyết bằng con đường hoà bình. Vì lý do đó chúng tôi ủng hộ đề nghị của các đồng chí Việt Nam giải quyết các cuộc xung đột thông qua thương lượng”. Nhưng cả Trung Quốc lẫn Cam-pu-chia lúc này đã bác bỏ tất cả các đề nghị đó.


Tuy nhiên, cuộc tranh luận trong nội bộ Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào là một cuộc tranh luận lâu đời trong một nền chính trị của Lào, giữa một xu hướng trung lập và một xu hướng chủ trương liên minh chặt chẽ hơn với những người bạn hùng mạnh. Đối với cánh hữu trong chính phủ hoàng gia Lào trước đây, thì điều đó có nghĩa là quan hệ chặt chẽ hơn với Băng Cốc và Oa-sinh-tơn để chống lại hoàng thân Xu-va-nna Phu-ma (ít nhất là cho đến đầu những năm 1960). Đối với những người cộng sản, thì những lựa chọn đó là một hình thức của chủ nghĩa trung lập hoặc một liên minh chặt chẽ với Hà Nội. Năm 1978, những người “trung lập” cộng sản đặc biệt lo ngại về việc tăng thêm các khó khăn cho đất nước nếu gây mâu thuẫn với người láng giềng hùng mạnh phương Bắc bằng việc tỏ ra quá gần với Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh quyền lực trong khu vực đang hình thành đã làm cho họ không còn đứng vững được nữa. Họ nhận thấy rằng Bắc Kinh, Phnôm Pênh hoặc Hà Nội không ai chịu thảo một chính sách trung lập trong cuộc xung đột sắp tới. Cũng trở nên rõ ràng đối với họ rằng sẽ là điều vô lý nếu đổi các đồng minh Việt Nam và Xô-viết của mình để lấy một liên minh với Trung Quốc. Những quan hệ chính trị lâu đời với người Việt Nam, và viện trợ và cung cấp kỹ thuật Xô-viết, không thể bù lại được bằng người Trung Quốc. Hơn nữa, nếu Việt Nam, tầm cỡ và sự gần gũi của họ, đặt ra một mối đe doạ đối với chủ quyền của Lào, thì đó cũng sẽ là đe doạ nhiều lần hơn đe doạ của Trung Quốc.


Tuy vậy rất đáng chú ý là chính phủ Lào đã duy trì một thái độ dễ dãi hơn đối với cộng đồng người Hoa ở Lào. Năm 1983, những nhà buôn Trung Quốc còn khống chế thị trường tự do ở Viêng Chăn. Một trường học Trung Quốc còn đang hoạt động. Nhưng những văn hoá phẩm mao-ít thấy ở các hiệu sách Viêng Chăn năm 1980 nay đã biến mất. Trong các tỉnh phía bắc, chính phủ không quan tâm đến việc cấm buôn bán ở biên giới và các tiếp xúc khác với Hoa Nam. Cách cư xử này trái ngược một cách đáng chú ý so với cách cư xử của Việt Nam về các vấn đề đó.


Nhìn chung lại sự diễn biến của các sự kiện ở Đông Dương không còn để cho Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào nhiều lựa chọn lắm. Lựa chọn mà cuối cùng Lào đã chấp nhận là lựa chọn của lô-gích vừa có thể thấy trước được; nhưng, thực vậy, sự bất ngờ thực sự duy nhất là sự đối xử tương đối khoan dung mà Lào nhận từ Mỹ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #31 vào lúc: 09 Tháng Chín, 2007, 08:14:13 pm »

Sự lu mờ của chủ nghĩa cộng sản trung lập

Cuộc xâm chiếm Cam-pu-chia của Việt Nam, hay đúng hơn tình hình bế tắc chính trị đã làm cho cuộc xâm chiếm đó trở nên không thể tránh khỏi, đã kết thúc số phận của chủ nghĩa cộng sản trung lập Lào. Ngay trước cuộc tiến công, tư lệnh tối cao Thái Lan, tướng Xéc Na-ra-con, rêu rao rằng phần đông 40.000 quân Việt Nam đóng ở Lào đã được chuyển đến biên giới Lào-Cam-pu-chia để chuẩn bị cho một cuộc xâm chiếm. Những lực lượng này cho là tiến vào Cam-pu-chia từ khu tập kết ở Lào, làm đảo ngược chính sách mà Lào đã công bố chưa đầy một năm trước đây, không cho phép “bất cứ nước nào dùng lãnh thổ Lào để xâm chiếm nước khác”. Tình hình đó đã đẩy Lào một cách không còn đảo ngược được vào cơn lốc của cuộc xung đột, và không thể mong đợi Trung Quốc bỏ qua sự đồng loã đó của Viêng Chăn trong cuộc xâm chiếm.


Ngược lại, tình hình đó cũng làm cho liên minh với Hà Nội trở nên tuyệt đối sống còn đối với nền an ninh của Lào trong năm 1978-1979, bởi vì có khả năng Trung Quốc đánh Việt Nam qua con đường Lào. Chính phủ Lào ngày càng quan tâm đến biên giới phía bắc, bởi vì sức ép của Thái đối với Lào đã giảm đi rất nhiều sau khi Tha-nin bị lật đổ ngày 20 tháng 10 năm 1977. Chính phủ Thái mới do Kri-ăng-xắc Chô-ma-nan đứng đầu, đã cam kết cải thiện quan hệ với tất cả ba nước Đông Dương. Cuộc phong toả Lào về kinh tế đã được huỷ bỏ vào cuối tháng 11 và một hiệp định về việc nối lại các chuyến bay của Hàng không quốc tế Thái đã được ký đầu tháng 12. Vào lúc đó, Kri-ăng-xắc họp với các tỉnh trưởng nhằm đưa họ vào chính sách hoà giải hơn của của chính phủ đối với Lào và Cam-pu-chia. Các nhà lãnh đạo tị nạn cánh hữu của Lào và Cam-pu-chia có tin là được yêu cầu rời khỏi Thái Lan.


Kri-ăng-xắc và những người ủng hộ ông ta biết rõ rằng cuộc phong toả của Băng Cốc chỉ làm cho sự phụ thuộc của Lào vào Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa khác càng sâu hơn. Việc ký hiệp ước giữa Lào và Việt Nam đã rõ ràng đẩy những nhà chính trị sắc sảo hơn đến chỗ nhận thức rằng chủ nghĩa chống cộng cực đoan cỉa Tha-nin chỉ cô lập Thái Lan.


Trong thời Tha-nin, Lào ít có gì để trả đũa trở lại. Một khả năng mặc cả nhỏ là hạn chế việc sử dụng vùng trời của Lào mà, phối hợp với việc Việt Nam cấm bay qua đất của họ, đã làm cho Hàng không quốc tế Thái tốn thêm rất nhiều trong các chuyến bay đi Hồng Công. Không lấy gì làm lạ việc Hàng không vận động Băng Cốc có một đường lối mềm dẻo hơn về Đông Dương. Về lý thuyết mà nói, người Lào có thể đã doạ cắt điện của nhà máy thuỷ điện Nậm Ngừm cung cấp cho vùng đông bắc Thái Lan. Tuy nhiên, Lào không chịu nổi việc mất thu nhập mà việc cắt điện đó có thể gây ra, cho nên việc này không phải là một sự đòn bẩy thực sự.


Khả năng mặc cả duy nhất là việc Lào cung cấp vũ khí và căn cứ cho Đảng Cộng sản của Thái Lan. Cả hai chính phủ có thể trơi trò khuyến khích các cuộc nổi dậy. Tuy nhiên, trong năm 1977-1978, trong khi Lào đang ủng hộ một lực lượng còn thống nhất và đang lên, thì các người nổi dậy phái hữu của Lào, được Băng Cốc, hay ít nhất những tư lệnh địa phương ủng hộ, thì bị tan rã và giảm sút. Những nỗi lo sợ của Băng Cốc đối với việc Lào ủng hộ Đảng Cộng sản Thái trở nên to lớn hơn nhiều khi xét đến việc Đảng Cộng sản Thái đặc biệt mạnh ở vùng đông bắc, một vùng mà đặc điểm không phải chỉ là nghèo mà bất bình về ruộng đất mà còn là vùng mà dân cứ chủ yếu là dân tộc Lào và rất gần với bản thân nước Lào.


Có lẽ không thể tránh được rằng sự ủng hộ của Lào đối với Đảng Cộng sản Thái sẽ trở thành một điều góp thêm vào chính sách đối ngoại của Lào. Rõ ràng, bất kỳ mặc cả có ý nghĩa nào giữa hai chính phủ sẽ phải gồm việc cùng giảm sự ủng hộ tích cực đối với những người nổi loạn trên lãnh thổ nước kia. Mục tiêu trung tâm của Kri-ăng-xắc là đạt cho được thoả thuận đối với Lào, đồng thời Kri-ăng-xắc cũng muốn trì hoãn việc thành lập khối các nước Đông Dương.


Thoả thuận đã đạt được giữa hai chính phủ trong các cuộc hội đàm kéo dài năm 1978. Tầm quan trọng của việc này đối với Băng Cốc đã được phản ánh trong sự việc rằng cuộc họp để ký một hiệp định dự kiến vào tháng 12, chỉ bị trì hoãn một ít vì cuộc xâm chiếm Cam-pu-chia của Việt Nam và cuộc bắn nhau trên sông Mê Công mà nếu ở vào các dịp khác thì đã gây ra việc đóng biên giới, nhưng lần này thì lại được bỏ qua. Tại Viêng Chăn, ngày 6 tháng giêng năm 1979 các thủ tướng của Lào và Thái Lan ra một thông cáo chung “mở ra một thời đại mới trong các quan hệ hữu nghị, hợp tác và cùng tồn tại hoà bình Lào-Thái”. Thông cáo cũng bao gồm một cam kết của Lào “chấm dứt mọi ủng hộ đã được đưa ra trước đây cho Đảng Cộng sản Thái”. Pôn-pốt đồng minh của Đảng đó, đã bị quân đội Việt Nam đuổi ra khỏi thủ đô ngày hôm sau.


Những căng thẳng ngày càng tăng của Việt Nam với Trung Quốc và Cam-pu-chia và việc ông Phạm Văn Đồng tuyên bố không ủng hộ những người cộng sản Thái nữa trong chuyến đi thăm Băng Cốc của ông tháng 9 năm 1978 đã làm dễ dàng rất nhiều cho việc Lào từ bỏ Đảng Cộng sản Thái Lan thân Trung Quốc. Việc các quan hệ giữa Lào và Trung Quốc suy yếu đi trong năm 1978 cũng giúp cho bước đi của Lào trở nên hợp lý. Tuy nhiên, thái độ của Lào đối với Đảng Cộng sản Thái Lan chủ yếu là một sản phẩm trực tiếp của các cuộc thương lượng tay đôi giữa Viêng Chăn và Băng Cốc và cũng là do nhu cầu có những quan hệ thân ái của họ với nhau.


Theo các nguồn tin của Đảng Cộng sản Thái Lan thì người Lào và người Việt Nam từ năm 1976 đã tìm cách hướng chiến lược của các đảng họ tách khỏi đấu tranh vũ trang. Do không lay chuyển được giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Thái Lan vào một chiến lược có thể thích hợp với sự ủng hộ tiếp tục của các nước Đông Dương, nên Lào và Việt Nam cuối cùng từ bỏ đảng đó. Trong năm tiếp theo, cuộc đấu tranh huynh đệ tương tàn ở Đông Dương có ảnh hưởng ngược trở lại đối với Đảng Cộng sản Thái Lan, chia nội bộ Đảng thành nhiều phái chống đối nhau, một số thân Hà Nội, một số thân Trung Quốc và một số độc lập. Từ đó, Đảng Cộng sản Thái Lan đã liên tiếp chịu những bước lùi quân sự và những đởt bỏ đảng hàng loạt, và vai trò của Đảng trong cuộc đấu tranh quyền lực khu vực và có lẽ cả trong nền chính trị Thái nữa đã kết thúc.


Xu hướng chính sách đối ngoại của Viêng Chăn sau năm 1975 không phải do Hà Nội ra lệnh mà do tác động tình thế của tất cả các nước quanh Lào. Xét về quan hệ hợp tác lâu dài và chặt chẽ giữa Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với người Việt Nam thì chẳng có gì lạ việc Lào phải ủng hộ Việt Nam khi bước đi của các sự kiện cuối cùng buộc phải có một sự lựa chọn. Thực tế là họ không có lựa chọn nào khác. Tuy vậy, đó không phải là bằng chứng của chủ nghĩa thực dân, cũ hoặc “mới” hoặc gì gì khác nữa, không có bằng chứng của Việt Nam bóc lột kinh tế Lào, nếu không phải nói điều ngược lại, Lào là một nước nghèo và đã dựa vào Việt Nam, Liên Xô và các nước Khối Đông Âu khác để có viện trợ và kỹ thuật thiết lập những mặt sơ đẳng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.


Thực vậy, ảnh hưởng của Việt Nam trong vùng này bị hạn chế vì chính tình trạng nghèo của mình. Nhưng điều này vẫn không ngăn được Mác-tin Xtu-át Phốc lập luận rằng “mặc dù sự có mặt ở Lào của hàng trăm cố vấn và nhà kỹ thuật Xô-viết và Cu Ba, nhưng chính người Việt Nam mới thực sự điều khiển đất nước một cách có hiệu quả”. Bằng chứng duy nhất của anh ta đưa ra để chứng minh điều đó là việc người Lào làm theo người Việt Nam trong cố gắng hợp tác hoá nông nghiệp trong năm 1978. Rõ ràng anh ta không thấy quyết định đó có một cơ sở hợp lý trong cả hai nước về phương diện kinh tế cũng như an ninh. Mặt khác, việc các chính phủ cộng sản theo đuổi chính sách hợp tác hoá nông nghiệp không thể đưa ra làm bằng chứng cho việc Việt Nam “điều khiển đất nước". Thật vậy, nếu đặt vào khung cảnh của mối quan hệ thuộc địa với Việt Nam, thì sự tự do hoá kinh tế lớn hơn nhiều của Lào sau năm 1979 không sao có thể hiểu được.


Những lý lẽ về chủ nghĩa thực dân cũ hoặc chủ nghĩa thực dân mới không giúp gì chúng ta để hiểu tình hình Lào ở Đông Dương. Không có gì phải nghi ngờ rằng liên minh của Lào với Việt Nam đã đưa Lào vào một cuộc tranh chấp mà Lào vẫn có thể làm nếu không có liên minh, nhưng với một ý nghĩa trừu tượng hơn, Việt Nam cũng có thể đã làm nếu không có Lào. Không có gì phải nghi ngờ rằng Việt Nam là bên chiếm ưu thế trong linh minh, nhưng người ta không có thể tưởng tượng được bất cứ liên minh nào mà trong đó Lào sẽ là bên chiếm ưu thế. Tuy nhiên, sự chênh lệch quyền lực cũng không thêm gì cho chủ nghĩa thực dân hoặc sự thống trị. Như chúng ta đã thấy, liên minh đã đưa lại lợi ích cho cả hai bên.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #32 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2007, 06:32:23 pm »

4-Cam-pu-chia: Nền chính trị của chủ quyền tuyệt đối


Thoáng nhìn thì không rõ tại sao các sự kiện ở cam lại đã trải qua một con đường trái ngược với các sự kiện ở Lào như vậy. Giống như Pa-thét Lào, phong trào cộng sản cam bắt nguồn như một sản phẩm của Đảng Cộng sản Đông Dương và của các cuộc đấu tranh chống ách thống trị thực dân Pháp Đông Dương của Việt Minh. Cũng như ở Lào, sự lạc hậu của môi trường xã hội và chính trị của Cam-pu-chia càng trở nên trầm trọng thêm vì tác động tương đối hạn chế của chủ nghĩa tư bản đối với các vùng xa xôi của Đông Dương. Kết quả là ở Cam-pu-chia, phong trào cách mạng vẫn yếu và phụ thuộc vào sự đỡ đầu của Việt Nam trong nhiều năm trước khi phát triển thành phong trào riêng của mình. Cũng như đối với Pa-thét Lào, Khmer đỏ cũng bị kẻ thù của mình tố cáo là bù nhìn của Việt Nam. Cả hai nước đều quan trọng về mặt chiến lược đối với Việt Nam, và người Việt Nam quan tâm giống nhau đến công việc nội bộ của cả Lào lẫn Cam-pu-chia. Do đó, người ta có thể cho rằng những ảnh hưởng giống nhau gây ra những kết quả giống nhau ở cả hai nước.


Vì thực tế của cuộc xung đột giữa Phnôm Pênh và Hà Nội sau 1975 trở thành ngày càng rõ ràng nên quan điểm cho rằng Khmer đỏ là “bù nhìn” của Việt Nam cũng trở nên lỗi thời. Bây giờ một số nhà bình luận cho rằng Khmer đỏ là những người “yêu nước” đấu tranh chống lại những âm mưu của Việt Nam nhằm thống trị Cam-pu-chia.


Nhà nghiên cứu và sưu tầm về nguồn gốc của cuộc tranh chấp Việt Nam-Cam-pu-chia, có ảnh hưởng lớn nhất có lẽ là Stephen Heder của trường đại học Cornell. Heder lập luận rằng cuộc xung đột giữa hai chính phủ cộng sản đó có nguồn gốc từ cuộc xung đột biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia. Tuy nhiên, cũng theo Heder vấn đề biên giới, bản thân nó không có tầm quan trọng lớn, đã bị đẩy thành một cuộc đối đầu quy mô lớn vì các cách nhìn mâu thuẫn nhau của các nhà lãnh đạo Khmer đỏ và Việt Nam về triển vọng chính trị toàn bộ. Họ không thể thoả thuận với nhau được về vấn đề biên giới bởi vì cả hai phía đều theo đuổi những thái độ trái ngược nhau đối với vấn đề đó. Phnôm Pênh đưa ra một lập trường không khoan nhượng chống lại điều mà họ xem là vi phạm của một kẻ thù cũ vào lãnh thổ của một nước Cam-pu-chia có chủ quyền trong khi Hà Nội thì đòi những nhượng bộ của Cam-pu-chia nhân danh chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa. Khi những đòi hỏi đó không đạt được, thì người Việt Nam tiến hành một chiến dịch nhằm tiêu diệt chế độ Cam-pu-chia dân chủ của Pol Pot, và cuộc xung đột đã trở thành cuộc đấu tranh của Phnôm Pênh ngăn chặn cuộc nhấn chìm Cam-pu-chia của Việt Nam.


Do đó, trong phân tích của Heder, vào năm 1978, cuộc xung đột biên giới ban đầu đã trở thành hầu như không còn phù hợp nữa. Vào lúc này, cuộc tranh chấp về cơ bản là sự khăng khăng của Việt Nam đòi áp đặt kiểu cộng sản của mình lên những láng giềng, dù cho chủ quyền của Cam-pu-chia bị vi phạm trắng trợn trong quá trình đó. Heder kết luận: lập luận của Pôn-pốt cho rằng nguyên nhân thật sự của cuộc xung đột là ý muốn của Việt Nam khống chế Cam-pu-chia thông qua một ““Liên bang Đông Dương", là có giá trị, tuy rằng có hơi quá một ít. Giả định trung tâm của Heder cho rằng nhân tố chính leo thang cuộc xung đột là sức ép Cam-pu-chia của Việt Nam.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #33 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2007, 06:33:58 pm »

Những cuộc tranh chấp ban đầu về biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia 1975-1976
Theo phân tích của Heder, các cuộc tranh chấp biên giới đã nhen lên một tia lửa làm bùng nổ thành một cuộc xung đột rộng lớn hơn, vì vậy chính từ điểm đó mà chúng ta phải bắt đầu. Cuộc đánh nhau trên biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia đã được đưa tin lần đầu tiên vào tháng 5 và tháng 6 năm 1975, nhưng không ai biết được chi tiết. Theo những bằng chứng có được, thì dường như những va chạm đó chỉ ở quy mô nhỏ, và hầu như tất cả đều do phía Cam-pu-chia khởi xướng. Những va chạm đó một phần là kết quả của tình hình hỗn loạn và gây ra do sự sụp đổ của các chính phủ Phnôm Pênh và Sài Gòn, một phần là do biến động đột ngột bên trong Cam-pu-chia. Khmer đỏ đóng biên giới với Việt Nam tháng 5 năm 1975, truy kích và bắn những người Khmer đỏ cố trốn sang Việt Nam. Việc này rõ ràng đưa đến những va chạm giữa binh sĩ Khmer đỏ và Việt Nam dọc theo biên giới.


Một số nguồn tin phương Tây đặc biệt là các cơ quan tình báo Mỹ, bàn tán rằng một trong những nguyên nhân chính là việc người Việt Nam tiếp tục chiếm giữ các đất thánh trong thời chiến của họ trên phía Cam-pu-chia của biên giới chống lại bằng vũ lực các cố gắng của Phnôm Pênh nhằm đẩy họ ra. Đôi lúc người ta đưa ra luận điệu rằng những dải đất lớn ở Đông Cam-pu-chia còn nằm trong tay người Việt Nam sau tháng 4 năm 1975.


Tuyên bố của Cam-pu-chia ngày 31 tháng 12 năm 1977 đưa ra một sự ủng hộ nhất định đối với thuyết đó, tố cáo rằng người Việt Nam đã “không ngần ngại tự cho mình” là “những người tị nạn” trên đất Cam-pu-chia trước năm 1975, mà bây giờ họ vẫn còn tiếp tục chiếm đóng. Tuyên bố không nói rõ quy mô của các đất thánh đó. Tuy vậy, một tường thuật chi tiết hơn trong “sách đen về cuộc xâm lược của Việt Nam” do Bộ Ngoại giao Phnôm Pênh xuất bản tháng 9 năm 1978 đã gây ra những nghi ngờ nghiêm trọng về toàn bộ ý kiến đó. Theo “Sách đen”, đã có những va chạm tại các đất thánh của Việt Nam, nhưng các va chạm đó được giới hạn vào thời kỳ liền ngay sau khi Khmer đỏ tiếp quản thủ đô, và người Việt Nam đã không chiếm giữ các đất thánh đó. Trước đó phía Cam-pu-chia đã “yêu cầu" tất cả người Việt Nam ở Cam-pu-chia phải rời đất nước của họ vào tháng 5, tháng 6 năm 1975, và khi việc này không được tôn trọng vào khoảng tháng 4 (!) thì Cam-pu-chia dùng vũ lực đuổi số người Việt Nam đó. Không có ý định nào tham khảo chính phủ Việt Nam về vấn đề này, hoặc phân biệt giữa quân nhân và dân sự, hoặc giữa những kiều dân Việt Nam và những người Cam-pu-chia gốc Việt Nam.


Tình hình này chắc chắn đã góp phần tăng thêm căng thẳng giữa hai nước. Nhưng nguyên nhân chính rõ ràng là thái độ độc đoán của các nhà chức trách Cam-pu-chia, chứ không phải lòng mong muốn của Việt Nam tiếp tục bám vào các đất thánh đã không còn ý nghĩa quân sự sau khi chiến tranh chấm dứt.
Tuy nhiên, số người bị ảnh hưởng vì những cuộc trục xuất vô trách nhiệm đó đã tỏ ra là không lớn lắm. Không có con số tổng cộng được đưa ra, nhưng người ta nói rằng người Việt Nam bây giờ “ít hơn trước nhiều” và ở rải rác trong các vùng xa xôi của Cam-pu-chia, tại Xnum (trong Kra-ti-ê) và trong các tỉnh Môn-đun Ki-ri và Ra-ta-ni Ki-ri. Nơi tập trung người Việt Nam nhiều nhất là ở Môn-đun Ki-ri. Ở đây Khmer đỏ đã đuổi ”trên 1.000 người đã từng sống thành những nhóm 10 đến 100 người rải rác ở đây đó. Sách đen nói “người Việt Nam phải rời Cam-pu-chia để về nước” chứ không phải ở lại các đất thánh.


Sách đen cũng nói rằng sở dĩ có những cuộc va chạm là do những vi phạm của Việt Nam đối với lãnh thổ Cam-pu-chia. Tại hai xã, Việt Nam “đưa kiều dân của họ đến định cư trên lãnh thổ Cam-pu-chia” trong khi đó ở một số nơi khác “các ngôi nhà Việt Nam đã được dựng lên với một số cột trên lãnh thổ Việt Nam và một số cột khác lại trên lãnh thổ Cam-pu-chia”. Những âm mưu thực dân hoá này được đi đôi với những khiêu khích “không dứt” của Việt Nam “dọc theo biên giới". Thế nhưng khẳng định này chỉ được chứng minh bằng một va chạm đơn độc tại biên giới trên bộ trong tháng 4 năm 1975.


Những va chạm nghiêm trọng nhất vào thời gian đó không phải ở biên giới trên bộ, mà là trên đảo Vay ở Vịnh Thái Lan. Những hòn đảo đó trước kia do chính phủ Sài Gòn chiếm đóng, tuy Phnôm Pênh yêu sách về các đảo đó, và những người cộng sản Việt Nam đã thừa nhận giá trị pháp lý của yêu sách Cam-pu-chia năm 1966. Không lâu sau khi tiếp quản Sài Gòn năm 1975, chính phủ cách mạng lâm thời đưa quân đến thay cho quân Việt Nam Cộng hoà đóng ở hòn đảo lớn nhất của nhóm đó, đảo Pao-lô Vay. Tuy nhiên, trong lúc đó, các lực lượng Khmer đỏ đã chiếm Pao-lô Vay và tiến công các đảo Phú Quốc và Thổ Chu của Việt Nam. Vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6, quân của Cam-pu-chia đã bị quân của chính phủ cách mạng lâm thời đẩy ra khỏi vị trí của họ. Tháng 8 năm 1975, tiếp theo các cuộc hội đàm giữa hai bên, người Việt Nam đã chuyển giao Pao-lô Vay lại cho người Cam-pu-chia. Đến năm 1978, chính phủ Pôn-pốt rêu rao rằng việc đó là bằng chứng dứt khoát rõ ràng cho sự xâm lược của Việt Nam, điều đó có lý hơn là nên giải thích cho vấn đề đó trên cơ sở sự hỗn loạn và thiếu liên lạc do kết quả của sự sụp đổ gần như đồng thời của các nhà cầm quyền ở Phnôm Pênh và Sài Gòn.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #34 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2007, 06:35:14 pm »

Những vấn đề nổi lên dọc theo biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia vào lúc đó có thể dễ dàng giải quyết bằng thương lượng. Đầu tháng 6 năm 1975, Phan Hiền gặp các quan chức Cam-pu-chia cấp thấp tại một đô thị biên giới. Đề nghị của ông ta thành lập các uỷ ban liên lạc cấp tỉnh để giải quyết các vấn đề địa phương, hoặc nếu nơi nào không giải quyết được, thì báo lên các nhà chức trách cao hơn, đề nghị này đã được phía Cam-pu-chia chấp nhận. Liền sau đó, Pôn-pốt, với tư cách là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Cam-pu-chia đã đứng đầu một phái đoàn thăm Hà Nội, và vào tháng 8, ông Lê Duẩn đã đáp lại bằng cuộc đi thăm Pôn-pốt. Khi ông Lê Duẩn trở về, tờ báo Nhân Dân của Đảng Cộng sản Việt Nam công bố rằng ”một sự nhất trí hoàn toàn về quan điểm” đạt được “về các vấn đề quan tâm của cả hai bên”. Các uỷ ban biên giới đã được thành lập một thời gian ngắn sau cuộc họp tháng 6 và dường như đã hoạt động thành công trong suốt phần còn lại của năm 1975 và năm 1976. Số vụ va chạm tại biên giới giảm đi một cách rõ ràng (vụ bắn nhau mới nhất đã được báo cáo là vào tháng giêng năm 1976). Tháng 4 năm 1976 hai bên đồng ý tổ chức một cuộc họp cấp cao vào tháng 6 để giải quyết bất cứ vấn đề nào còn lại và chuẩn bị một hiệp ước biên giới. Cuộc họp đó không hề bao giờ xảy ra bởi vì các cuộc hội đàm chuẩn bị ở Pôn-pốt tháng 5 đã bị đổ vỡ, không đạt được thoả thuận nào làm cơ sở cho thương lượng. Cuộc họp quy mô đầy đủ đã bị đình chỉ theo yêu cầu của phía Cam-pu-chia là bên lúc đó đã bác bỏ cuộc hội đàm chuẩn bị. Rồi họ gạt bỏ tất cả các đề nghị nối lại hội đàm.


Không có vấn đề rắc rối thực sự nào đối với biên giới trên bộ. Những người cộng sản Việt Nam năm 1967 đã đồng ý thừa nhận “các biên giới hiện có” của Cam-pu-chia, và họ đã xác nhận điều đó tại cuộc họp tháng 5 năm 1976. Những gì còn chưa rõ ràng trên đường biên giới đã được loại bỏ bằng một hiệp định lấy bản đồ của Pháp xuất bản năm 1954 làm căn cứ đích xác. Đúng là việc vạch biên giới chưa được hoàn hảo, nhưng đó dường như không phải là một vấn đề lớn. Toàn bộ khu vực còn chưa rõ ràng dọc theo toàn bộ biên giới, như Heder đã ghi nhận, là dưới một trăm ki-lô-mét vuông. Hai bên cũng đã đồng ý những biện pháp thực tiễn để tránh leo thang những rắc rối địa phương như có thể xảy ra:

1.Hai bên cố gắng giáo dục cán bộ, chiến sĩ và nhân dân của mình trong vùng biên giới về tinh thần củng cố tình đoàn kết và hữu nghị và tránh mọi rắc rối có thể xảy ra.

2.Tất cả mọi điều xảy ra phải được giải quyết trên tinh thần đoàn kết, hữu nghị và tôn trọng lẫn nhau.

3.Các uỷ ban liên lạc của hai bên phải điều tra bất cứ sự kiện nào xảy ra và gặp nhau để thảo luận giải pháp thích hợp.


Tóm lại, không có tranh chấp lãnh thổ nghiêm trọng nào, và cả hai phía đồng ý cần tránh những rắc rối trên biên giới và cần có phương pháp hợp tác để giảm đến mức tối thiểu những rắc rối đó. Ngay dù cho chưa có một hiệp ước biên giới chính thức, thì thoả thuận vừa nói đáng ra là đủ để xây dựng một biên giới hoà bình nếu cả hai bên sẵn sàng tôn trọng thoả thuận đó.


Ở biên giới trên biển, có nhiều vấn đề nghiêm trọng hơn. Người Pháp đã không chú ý đến việc xác định biên giới trên biển một cách chính xác cho các nước mà họ đã chiếm. Các chính phủ khác nhau của Đông Dương có nhiều vấn đề cấp bách hơn sau khi người Pháp rút và họ chưa làm gì để làm gọn vấn đề lại. Rồi, vào cuối những năm 1960, một cuộc khảo sát địa lý ở vịnh Thái Lan cho thấy vùng đó giàu về dầu, do đó đã biến những điều chưa rõ do Pháp để lại, thành vấn đề tranh chấp quan trọng.


Tại cuộc họp chuẩn bị tháng 5 năm 1976, phía Cam-pu-chia tuyên bố rằng biên giới của mình với Việt Nam đã được quy định theo con “đường Brê-vi-ê” mà toàn quyền Pháp cùng tên đã vạch ra năm 1939, và điều đó đã được người Việt Nam thừa nhận năm 1967. Người Việt Nam trả lời bằng việc tuyên bố rằng đường Brê-vi-ê đã không được người Pháp vạch ra như một ranh giới lãnh thổ, mà là một ranh giới để giải quyết các tranh chấp về hành chính và cảnh sát trên các đảo. Để làm cơ sở cho tuyên bố này, người Việt Nam trích tuyên bố gốc của Brê-vi-ê, nói rõ rằng: “Chỉ các vấn đề hành chính và cảnh sát mới được xem xét ở đây, còn các vấn đề chủ quyền lãnh thổ của các đảo đó vẫn còn chưa giải quyết". Năm 1967 họ thừa nhận rằng đã đồng ý dùng đường Brê-vi-ê như một cơ sở để thiết lập chủ quyền đối với các đảo đó. Nhưng điều đó không giải quyết vấn đề biên giới trên biển một cách đầy đủ, bởi vì nó còn để lại vấn đề vùng biển chưa được giải quyết.


Rồi người Việt Nam đề nghị rằng biên giới trên biển nên vạch ra như thế nào đó để họ đi lại dễ dàng đến đảo Phú Quốc và họ sẽ bù bằng những nhượng bộ ở vùng biển xa hơn. Chính để phản ứng với đề nghị này mà phía Cam-pu-chia bỏ cuộc đàm phán. Trong tuyên bố ngày 31 tháng 12 năm 1977 của mình, chính phủ Cam-pu-chia tố cáo phái đoàn Việt Nam “đã bác bỏ hoàn toàn” đường ranh giới trên biển mà họ đã đồng ý năm 1966 và đưa ra “Những kế hoạch thôn tính một phần lớn vùng biển của Cam-pu-chia”.


Tóm lại, những xung đột biên giới giữa Việt Nam và Cam-pu-chia trong năm 1075-1976 không tỏ ra có tính chất quan trọng. Không có tranh chấp lãnh thổ ở khắp biên giới trên bộ, còn trên biển có bất đồng nhưng vùng biển có liên quan cũng không lớn lắm. Những biện pháp thực tiễn để giải quyết mọi điều xảy ra đã được chấp nhận và rõ ràng là thuận buồm xuôi gió lúc đó. Đúng là tuy không ký được hiệp ước biên giới, nhưng nhiều nước khác đã tìm cách sống hữu nghị với nhau mà không có hiệp ước như vậy và với những vấn đề biên giới quy mô lớn hơn và chưa được giải quyết. Thật vậy, tình hình này có lẽ đã trở thành một quy tắc chung chứ không phải là một ngoại lệ đối với các nước Á Phi. Các vấn đề biên giới nổi lên sau thắng lợi năm 1975 ở Việt Nam và ở Cam-pu-chia dường như trên thực tế, đã được giải quyết một phần lớn vào giữa năm 1976 và không đến nỗi gây ra một cuộc đối đầu quy mô lớn.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #35 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2007, 06:36:24 pm »

Hơn nữa, đó không phải là những vấn đề chỉ giữa Cam-pu-chia và Việt Nam. Những phát triển trên biên giới Thái-Cam-pu-chia cũng hầu như song song với những phát triển trên biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia trong giai đoạn đó. Việc mở quan hệ giữa các nhà cầm quyền mới ở Phnôm Pênh và chính phủ Băng Cốc đã bị tổn thương vì một số va chạm giữa các lực lượng Khmer đỏ và Thái Lan trong tháng 5 và tháng 6 năm 1975. Ở đây cũng vậy, đường biên giới còn đang mập mờ và các cuộc va chạm là do Khmer đỏ muốn đóng biên giới để ngăn chặn người tị nạn chạy sang Thái Lan. Nhưng chính phủ Thái không xem những va chạm đó là một sự thù địch công khai của chính phủ mới, và các nhà cầm quyền Phnôm Pênh cũng chấp nhận một thái độ hoà giải.


Khi ngoại trưởng Cam-pu-chia, Ieng Sary thăm Băng Cốc tháng 10 năm 1975, cuộc họp tỏ ra là trôi chảy. Không có hiệp ước nào được ký, nhưng hai chính phủ ra thông cáo chung tuyên bố cùng nhau thừa nhận các “biên giới hiện nay” giữa hai nước, tôn trọng “độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của nhau, và cam kết không bên nào “dùng đe doạ hoặc dùng vũ lực để giải quyết các bất đồng của mình”. Để giải quyết bất kỳ vấn đề nào xảy ra, các cơ quan liên lạc được thiết lập tại các thị trấn biên giới A-ra-nia-pra-ét và Poi-pét. Đã xảy ra những va chạm lớn giữa du kích Khmer Xơ-rây chống cộng và Khmer đỏ gần biên giới Thái cuối năm 1975, nhưng về cơ bản tình hình biên giới tỏ ra yên tĩnh cho đến đầu năm 1977.


Biên giới Lào và Cam-pu-chia ở xa và ngắn, và không có rắc rối nào được báo cáo vào thời điểm đó. Những cuộc điều tra về sau cũng xác định rằng tình hình yên ổn cho đến năm 1977.


Vậy thì tại sao chiến tranh lại nổ ra giữa Việt Nam và Cam-pu-chia trong năm 1977-1978, trong khi các vấn đề biên giới ban đầu giữa hai chính phủ mới ở Việt Nam và Cam-pu-chia đã phần lớn được giải quyết vào giữa năm 1976? Trả lời của Heder, nhưng chúng ta đã thấy, là các rắc rối đó, bản thân là không đáng kể, nhưng bị đẩy lên thành cuộc xung đột quy mô đầy đủ bởi vì những cách nhìn nhận căn bản khác nhau của hai chế độ đối với rắc rối đó. Những vấn đề đó đã đi đến khủng hoảng trong cuộc họp tháng 5 năm 1976 và nằm im trong vài tháng trước khi bùng lên thành cuộc chiến đấu quy mô đầy đủ trong năm 1977.


Chắc chắn là có những bất đồng trong lập trường thương lượng của hai bên trong các cuộc hội đàm đó. Người Việt Nam theo đuổi lập trường cho rằng biên giới do Pháp đặt ra phải được chấp nhận như một thực tế lịch sử đã hoàn thành. Những tranh chấp giữa các chính phủ của thời kỳ trước thuộc địa, và các lãnh thổ do các chính phủ đó thống trị, không còn thích hợp cho các cuộc thương lượng ngày nay. Trong khi những điều chỉnh nhỏ có thể thực hiện trên cơ sở cùng nhau thoả thuận để khắc phục các điều bất thường và bất hợp lý, những toàn bộ biên giới đã được để lại phải xem là đã khẳng định. Heder coi lập trường đó là một “sự mềm dẻo rõ rệt”, dựa trên hy vọng có “một quá trình thương lượng chung trong đó đường biên giới phải được điều chỉnh và hợp lý hoá có lợi cho cả hai bên, không bên nào được chiếm lấy lơi riêng một mình”.


Lập trường đó không thể chấp nhận được cho chế độ Pôn-pốt. Chế độ đó theo đuổi lập trường cho rằng vì Việt Nam đã giành được những lợi thế về lãnh thổ so với Cam-pu-chia trong thời kỳ trước thuộc địa và thời kỳ thuộc địa, cho nên biên giới do Pháp vạch ra, bản thân nó là bất công. Sách đen gợi lại lãnh thổ rộng lớn của đế chế Ăng-co trước thời kỳ thuộc địa để lập luận rằng người Việt Nam đã chiếm của Cam-pu-chia 65.000 ki-lô-mét vuông. Trong khi Cam-pu-chia từ bỏ yêu sách về “những lãnh thổ đã mất” của “Cam-pu-chia Krom” tức là hạ lưu sông Mê Công và Sài Gòn, chế độ Pôn-pốt đòi rằng người Việt Nam phải thừa nhận sự bất công trong việc vạch biên giới của Pháp và để cho người Cam-pu-chia quyền đơn phương điều chỉnh biên giới. Rồi họ bắt đầu đòi hỏi những điều chỉnh nhỏ có lợi cho họ ở biên giới trên bộ. Như Heder đã trình bày tổng quát lập trường thương lượng của Khmer đỏ: “Người Cam-pu-chia đề cập vấn đề với tư cách là bên duy nhất bị thiệt thòi, và hy vọng được đền đáp cho những tổn thất lịch sử của họ và cho sự sẵn sàng không đòi lại những lảnh thổ đi nữa. Họ không đề nghị các cuộc thương lượng theo nghĩa thường lệ, mà đưa ra một cách tuỳ tiện những quyết định đơn phương về những vấn đề quan trọng mà họ cho là để thực hiện sự đền đáp đó. Họ đòi người Việt Nam hoặc chấp nhận hoặc bác bỏ nguyên vẹn chứ không được tìm cách cắt xén, sửa đổi những đề nghị đó”.


Cũng theo Heder, người Cam-pu-chia bỏ cuộc đàm phán tháng 5 năm 1976 bởi vì những đề nghị của Việt Nam, nhất là những đề nghị có liên quan đến biên giới trên biển, bị xem là một âm mưu “phá hoại” nguyên tắc đưa lại những điều chỉnh nhằm “đền đáp” cho phía Cam-pu-chia. Họ rêu rao rằng người Việt Nam đã chấp nhận nguyên tắc đó năm 1967 nhưng không có cơ sở thực sự nào cho lời rêu rao đó. Khi người Việt Nam thừa nhận “các biên giới hiện có” của Cam-pu-chia, Sihanouk xem đó là một sự chấp nhận quyền của Cam-pu-chia xác định biên giới. Rõ ràng đây là một vấn đề khác. Bởi vì người Việt Nam chưa hề bao giờ tán thành tuyên bố đó của Sihanouk, cho nên lập luận của Khmer đỏ không có cơ sở thực tế.
Về phần mình, sự “mềm dẻo rõ rệt” của người Việt Nam đã bị lập trường này của Cam-pu-chia làm cho không thể tiếp tục được nữa. Họ không muốn nhượng bộ cho Cam-pu-chia có quyền đơn phương điều chỉnh biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia hoặc thừa nhận rằng Cam-pu-chia có quyền về mặt tinh thần với “những lãnh thổ đã bị mất” bao gồm vựa lúa giàu có nhất và thành phố hiện đại nhất của Việt Nam. Rõ ràng nếu thừa nhận sự đúng đắn về đạo lý của các yêu sách đó, thì sẽ đặt cơ sở cho yêu sách pháp lý tiếp theo tuy có những tuyên bố từ bỏ vấn đề này của Cam-pu-chia.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #36 vào lúc: 13 Tháng Chín, 2007, 06:38:29 pm »

Khmer đỏ rêu rao rằng việc Việt Nam sở hữu hạ lựu sông Mê Công ngày nay là bất công vì theo họ việc sở hữu đó đã được bằng cuộc xâm lược quân sự chống lại đế chế Khmer xưa kia. Nếu được thừa nhận, thì lập luận này sẽ làm cho người Cam-pu-chia có thể đưa thêm những đòi hỏi về lãnh thổ nữa cho người Thái, người Lào, và thậm chí người Miến Điện cũng như người Việt Nam. Vô số những yêu sách ngược lại sẽ có thể được đưa ra nhân danh các đế chế hoặc các thành phố độc lập (mà phần lớn cũng đã bị mai một như Đế chế Ăng-co) mà đã từng bị thất bại quân sự về tay người Khmer vào lúc này hay lúc khác trong quá khứ. Nếu dựa vào những lý lẽ “lịch sử" theo kiểu như vậy, tuy có phần hấp dẫn đối với lòng tự hào dân tộc, nhưng rõ ràng sẽ mở ra một hộp Pan-đô-ra của những xung đột không thể nào giải quyết được (Pan-đô-ra là người đàn bà do thần lửa tạo ra và bị đưa xuống để trừng phạt trần gian đã lấy trộm lửa. Thần Zớt cho chị ta một cái hộp, khi mở ra thì đủ tất cả các thói hư tật xấu bàt ra làm ô nhiễm cả thế giới. Hộp Pan-đô-ra do đó có nghĩa là vật hào nhoáng nguy hiểm-ND).


Một sách giáo khoa gần đây về luật pháp quốc tế của Michael Akehurst khái quát vấn đề chung đó như sau: “Đất đai chinh phục được ngày nay, hoặc ít ra đất đai do một kẻ xâm lược chinh phục, thì không thể được thừa nhận quyền sở hữu. Trong quá khứ thì được. Những quyền sở hữu trước kia dựa vào sự chinh phục bây giờ có troẻ nên mất giá trị không? Nếu trở nên mất giá trị, thì kết quả sẽ rất là sửng sốt; nếu rút ra kết luận logic của việc đó, thì có nghĩa là Bắc Mỹ sẽ phải trả lại cho người Anh-điêng da đỏ, và người Anh sẽ phải trả nước Anh lại cho người xứ Welsh.


Những ví dụ như vậy có thể nhân lên không bao giờ hết. Kết luận mà phần đông các nhà cầm quyền đạt được là những khái niệm hiện đại về luật pháp quốc tế không thể áp dụng lui trở lại cho các cuộc xung đột trong quá khứ để làm mất giá trị pháp lý của những biên giới ngày nay được. Những vấn đề đó đặc biệt gay gắt trong các thuộc địa cũ của các cường quốc thực dân châu Âu. Akehurst nhận xét: “Những biên giới thuộc địa, được vạch ra bằng vũ lực trong các thế kỷ trước, ngày nay phần lớn đã trở thành những bộ đội của những nước mới độc lập, mà không nước nào muốn thấy biên giới của họ bị đưa ra đặt vấn đề lại. Các nước Mỹ La-tinh và Á-Phi, với một cái ngoại lệ (như Trung cộng chẳng hạn) đã đồng ý rằng các biên giới thuộc địa phải được tiếp tục sử dụng, theo luật pháp quốc tế, như những bộ đội sau độc lập (ở Mỹ La-tinh, điều đó được hiểu là nguyên tắc uti possidetis nghĩa là: “như bạn đã sở hữu, bạn sẽ tiếp tục sở hữu”). Các biên giới thuộc địa, nhất là ở sự phân chia của bộ tộc và cắt qua các khu vực thuộc cùng một đơn vị kinh tế, nhưng vì các quốc gia mới được độc lập không thể đồng ý vạch lại một cách triệt để các biên giới nên khôn khéo hơn cả là duy trì các biên giới hiện có để tránh tình hình mất ổn định và xung đột”. Do đó lập trường của Việt Nam đối với biên giới Việt Nam-Cam-pu-chia là phù hợp với luật pháp quốc tế đã được chấp nhận chung. Lập trường của chế độ Pôn-pốt thì không phù hợp.


Những bất đồng này đã đủ để giải thích tại sao Việt Nam và Khmer đỏ đã không đưa ra trong năm 1976 một hiệp ước biên giới có thể làm hài lòng cả hai bên. Nhưng cũng không được cho rằng một tình trạng bế tắc ngoại giao như vậy tất yếu dẫn đến chiến tranh. Nhiều vấn đề biên giới chưa được giải quyết vẫn nằm im vì các chính phủ có liên quan không nghĩ rằng tình hình đó đáng để gây ra vấn đề. Trong nửa sau của năm 1976, cuộc tranh chấp Việt Nam-Cam-pu-chia dường như là nằm trong trường hợp đó. Tuy có những bất đồng về một hiệp ước biên giới, cả hai bên đã đồng ý đưa ra những biện pháp hợp tác thực tiễn để giảm đến mức tối thiểu các rắc rối trên biên giới. Tuy không có hiệp ước biên giới với Thái Lan, chế độ Phnôm Pênh cũng đưa ra những sắp xếp thực tiễn với Băng Cốc. Không có hiệp ước với Lào, nhưng không có vấn đề gì xuất hiện trong tình hình đó.


Như vậy, vào giữa năm 1976, chế độ Cam-pu-chia đã thiết lập các mối quan hệ chấp nhận được đọc theo tất cả các biên giới. Những căng thẳng nổi lên từ tình hình không ổn định của năm 1975, không những không phải “tia lửa” cho một cuộc tranh chấp rộng hơn mà còn tỏ ra đã được giải quyết. Nhưng rồi, đầu năm 1977, tình hình bắt đầu xấu đi dọc theo tất cả biên giới của Cam-pu-chia, nhất là biên giới với Việt Nam. Chính điều này đã phát động một chuỗi các sự kiện dẫn đến cuộc xâm chiếm tháng 12 năm 1978 của Việt Nam. Vấn đề cần phải giải quyết là: ai phải chịu trách nhiệm về việc đảo ngược trong năm 1977 sự ổn định rõ ràng đã đạt được trong năm 1976?
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #37 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2007, 08:40:19 pm »

“Liên bang Đông Dương"

Một trong những luận điệu chính trong tuyên bố ngày 31 tháng 12 năm 1977 của chính phủ Phnôm Pênh là lời tố cáo rằng trong “nhiều thập kỷ” nay, những người cộng sản Việt Nam đã tìm cách “thôn tính và nuốt” Cam-pu-chia bằng việc buộc Cam-pu-chia vào một “Liên bang Đông Dương" do Việt Nam kiểm soát để làm cho Việt Nam trở thành “một cường quốc lớn ở Đông Nam Á”. Ngay tức khắc, người Việt Nam bác bỏ những lời tố cáo đó và coi nó là “những lời buộc tội vu khống”. Tháng 4 năm 1978, người Việt Nam cho ra một “sách trắng” nói lên “sự thật về vấn đề Liên bang Đông Dương" mô tả liên bang đó là “một vấn đề đã vĩnh viễn đi vào lịch sử".


Sách trắng không ngăn được chính phủ Pôn-pốt tiếp tục nhắc đến những mưu đồ của Việt Nam thành lập một “Liên bang Đông Dương" như là trở ngại cho hoà bình ở khu vực. Tháng 6 năm 1978, ngoại trưởng Cam-pu-chia, Ieng Sary giải thích rằng đây không phải là một “cuộc tranh chấp biên giới bình thường” có thể giải quyết bằng phương pháp ngoại giao, bởi vì nguồn gốc của nó nằm trong “thực tế rằng Việt Nam có ý định nuốt chửng Cam-pu-chia, lật đổ và xâm lược nó, ra sức tổ chức một cuộc đảo chính, buộc Cam-pu-chia tham gia một “Liên bang Đông Dương dưới sự khống chế của Việt Nam để Việt Nam có thể thôn tính Cam-pu-chia trong một thời gian định trước và thực hiện một bước những tham vọng của họ ở Đông Nam Á”.


Tài liệu chi tiết và có thẩm quyền nhất của Khmer đỏ nhằm lên án Việt Nam là quyển sách đen tháng 9 năm 1978. Mặc dù do ngoại trưởng Ieng Sary công bố, nhưng tài liệu đó có tin là được chính bản thân Pôn-pốt viết phần lớn. Nó nhằm cung cấp tài liệu về mưu đồ của Việt Nam đối với Cam-pu-chia từ thế kỷ XV cho đến ngày nay. Những vấn đề nói đến là từ sự thôn tính lãnh thổ trong các cuộc chiến tranh của các triều đại trước kia cho đến “việc sử dung đê tiện” các cô gái Việt Nam; điều luận bình lịch sử này kết luận rằng người Việt Nam “đã luôn luôn tìm đủ mọi cách để chiếm lãnh thổ của Cam-pu-chia”. Toàn bộ một chương đã được dành cho vấn đề “Liên bang Đông Dương", nhưng tất cả cái gì Pôn-pốt có thể đưa ra coi như để làm tư liệu cho các mưu đồ của cộng sản Việt Nam, là tên của Đảng Cộng sản Đông Dương trong những năm 1930: “Đảng Việt Nam đã được thành lập năm 1930, với cái tên Đảng Cộng sản Đông Dương”… Việc chọn tên cho một Đảng có ý nghĩa chính trị của nó. Lê-nin, một lãnh tụ quốc xuất sắc đã không đặt cho Đảng của ông tên “Đảng Cộng sản châu Âu”. Như vậy, cái tên đặt cho Đảng Việt Nam có nghĩa là Đảng đó là cùng một đảng cho cả Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Việc lựa chọn một tên như vậy bộc lộ rằng mục tiêu của Đảng đó là khống chế cả ba nước… Kể từ năm 1930, để đạt được chương trình chiến lược đó, người Việt Nam đã chuẩn bị lực lượng của họ và huấn luyện cán bộ để lần lượt cử sang Lào và Cam-pu-chia”.


Nhưng ngay ở đây, Pôn-pốt đã chứng minh những sự việc cơ bản của ông ta một cách sai lầm. Tại cuộc họp thành lập Đảng Cộng sản đầu tiên của Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1930 cụ Hồ Chí Minh đặc biệt bác bỏ tên “Đảng Cộng sản Đông Dương" trên cơ sở rằng như vậy thì quá rộng. Chính là để đáp ứng lời chỉ trích của Mát-xcơ-va mà tên đó đã được chấp nhận về sau. Không những không phản ánh các mưu đồ của Việt Nam đối với Cam-pu-chia và Lào, tên của Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ phản ánh cách nhìn lý tưởng của Quốc tế cộng sản muốn gạt bỏ mọi sự chia rẽ dựa trên vấn đề chủng tộc và vấn đề quốc gia của quần chúng lao động. Trong những năm 1930 và đầu những năm 1940, một quốc gia thuộc địa chung (tức là Đông Pháp cũ-ND) đã đưa lại một cơ sở lý thuyết nhất định cho lý tưởng về một Liên bang Đông Dương, nhưng những người cộng sản Việt Nam dường như đã chẳng làm gì hơn là nói về ý kiến đó một cách bề ngoài mà thôi. Về sau, ý kiến về Liên bang đó đã sụp đổ cùng với cơ cấu thuộc địa của Pháp.


Đảng Cộng sản Đông Dương đã được giải tán năm 1951 và chưa hề bao giờ trở thành một Đảng Đông Dương thực sự; sau đó thì các đảng từng nước được thành lập, kế tục Đảng Đông Dương. Theo người Việt Nam thì đó là kết thúc của câu chuyện về “Liên bang Đông Dương". Sách đen đưa sự kiện này xuống hàng ghi chú ở cuối trang và xem việc giải tán chỉ là một hình thức bề ngoài. Pôn-pốt tuyên bố: “Trên thực tế, đảng đó tiếp tục tồn tại”. Cả hai cách nói đều không hoàn toàn chính xác. Tuy một đảng riêng đã được thành lập, nhưng dường như nó vẫn hoạt động dưới sự che chở của Việt Nam trong một thời gian.


Đó là những năm mà cuộc đấu tranh giữa Việt Minh và Pháp lan ra khắp Đông Dương, và người Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội xây dựng những phong trào “anh em” ở Cam-pu-chia và Lào. Thế hệ cộng sản Khmer đầu tiên, do đó, được huấn luyện chính trị cơ bản trong các trường do Việt Minh nói tiếng Khmer phụ trách. Một quyển lịch sử của Đảng Cộng sản Cam-pu-chia năm 1973 do những đối thủ của Pôn-pốt viết, đã nhắc lại một cách không có gì bực bội rằng chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã được “phong trào cộng sản quốc tế và những người cộng sản Việt Nam đưa vào phong trào cách mạng của chúng ta”.


Sách đen rêu rao rằng sau năm 1945, Việt Minh tích cực tìm cách tranh thủ sự ủng hộ của Cam-pu-chia cho cuộc đấu tranh của họ chống lại người Pháp, nhưng trên thực tế chẳng có gì cho thấy rằng mục tiêu của Việt Minh là chiếm Cam-pu-chia, ngoài việc chỉ đẩy Pháp ra khỏi đất nước. Chúng tôi cũng được nói rằng, khi cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam leo thang sau năm 1959 thì ngày càng có nhiều người Việt Nam trốn tránh trên đất Cam-pu-chia và Việt Cộng đã dùng những đất thánh ở phía Cam-pu-chia của biên giới, nhưng một lần nữa, cũng chẳng có gì cho thấy rằng người Việt Nam có mục tiêu nào khác ngoài việc thắng chiến tranh ở miền Nam đất nước họ.


Như vậy, chẳng có chứng cớ nào ủng hộ luận điệu chính của chính phủ Pôn-pốt, tuy rằng tình hình đó không tránh khỏi việc một số nhà bình luận phương Tây coi đó như một thực tế đã được chứng minh. Không có gì cho thấy rằng những người cộng sản Việt Nam tha thiết Cam-pu-chia kết vào một Liên bang Đông Dương, tuy cũng có lúc họ có ý nghĩ đến ý kiến đó. Tuy nhiên, điều rất rõ là từ lâu họ đã cho rằng sự an toàn của cách mạng ở Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn của các quan hệ với các nước láng giềng. Vì lý do này, họ luôn luôn quan tâm đến tình hình chính trị ở Cam-pu-chia và Lào, và khi có hoàn cảnh thuận lợi, họ tìm cách khuyến khích những xu hướng hữu nghị ở đó. Tất nhiên, mối quan hệ đó có tính chất hỗ tương vì người Lào và người Khmer cũng luôn luôn để ý đến điều xảy ra trong nền chính trị Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam lớn hơn và mạnh hơn Cam-pu-chia và Lào, do đó ảnh hưởng đến Cam-pu-chia và Lào nhiều hơn là chịu ảnh hưởng của hai nước đó.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #38 vào lúc: 17 Tháng Chín, 2007, 08:41:02 pm »

Do nhận thức được điều đơn giản rằng an ninh của một nước phần lớn phụ thuộc vào quan hệ của nước đó với láng giềng, cho nên Việt Nam đã đặt tầm quan trọng to lớn vào sự hợp tác với Phnôm Pênh và Viêng Chăn, nhất là sau năm 1975 khi các nước đó đã được các đảng cho là “anh em” nắm quyền. Người Việt Nam cho rằng khung cảnh nền tảng cho các mối quan hệ sau chiến tranh giữa ba chính phủ đã được vạch ra trong tuyên bố hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương năm 1970. Tuyên bố đó thừa nhận “độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” của ba nước Đông Dương và đặc biệt cam kết tôn trọng “toàn vẹn lãnh thổ của Cam-pu-chia trong biên giới hiện tại”. Các quan hệ giữa họ với nhau sẽ phù hợp với “năm nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình”. Nhưng tuyên bố cũng nhấn mạnh đến sự hợp tác dài hạn: “Các bên khẳng định quyết tâm duy trì và phát triển tình hữu nghị anh em và các quan hệ láng giềng tốt giữa các nước nhằm ủng hộ lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung và hợp tác lâu dài trong tương lai để xây dựng mỗi nước theo cách riêng của mình”.


Theo thái tử Sihanouk, đứng đầu phái đoàn Cam-pu-chia tại cuộc họp, ý chủ đạo của dịp này là mừng liên minh đã xuất hiện giữa những người cộng sản Việt Nam, Pa-thét Lào và Mặt trận dân tộc thống nhất Cam-pu-chia: “Một số “chuyên gia” ở phương Tây muốn viết về những điều chia rẽ ba dân tộc chúng ta, và day đi day lại “những thù địch xa xưa”. Nhưng chúng ta thì muốn càng ngày càng nghĩ nhiều về những nhân tố đoàn kết chúng ta lại. Ngày nay, điều trên hết là việc chúng ta là nạn nhân của cuộc xâm lược Mỹ… Chúng ta là ba nước yếu chống lại một khổng lồ. Trừ phi chúng ta đoàn kết với nhau, nếu không chúng ta sẽ đổ từng nước một. Đó là “đoàn kết là thắng” chống lại “chia để trị”… Đó là ý kiến trung tâm của Hội nghị cấp cao nhân dân Đông Dương… Chúng ta đồng ý rằng trong khi mỗi thành phần sẽ duy trì thực thể riêng biệt của mình, chúng ta sẽ kết hợp những cố gắng của chúng ta cho đến thắng lợi cuối cùng. Đông Dương mà người Pháp ghép lại với nhau trước kia có thể lần đầu tiên trở thành một thực tế sinh động. Đối với việc đó, ít nhất chúng ta phải cảm ơn Ri-sớt Ních-xơn”.


Người Việt Nam dự tính tiếp tục tình đoàn kết thời chiến đó giữa ba phong trào sau khi cùng thắng lợi năm 1975. Nhưng ngày nay, Sihanouk tiết lộ rằng ngay trong năm 1970, giới lãnh đạo Khmer đỏ đã thấy có ít cơ sở cho sự hợp tác sau chiến tranh. Năm 1979, Sihanouk viết về “tình hữu nghị tin cậy và thân mến của bản thân ông ta với các ông Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp", nhưng ngay trong năm 1970-1971, “giai đoạn tốt nhất của liên minh chúng tôi với Bắc Việt Nam", các nhà lãnh đạo Khmer đỏ đã nói đến “sự giả dối của Dươn (người Việt Nam)” và đến “sự cần thiết của người Khmer đỏ trong Mặt trận thống nhất dân tộc Cam-pu-chia phải cảnh gíac với những ý muốn bá quyền của Bắc Việt Nam sau thắng lợi chung của chúng ta đối với bọn xâm lược Yâng-ki và tên phản bội Lon Non” (xem “Chiến tranh và hy vọng: trường hợp cho Cam-pu-chia” của Norodom Sihanouk, London 1980, tr.16-17-ND).


Tuyên bố ngày 31 tháng 12 năm 1977 của Cam-pu-chia nhắc lại những phần của tuyên bố 1970 nói đến độc lập và chủ quyền, nhưng không nhắc tí gì đến hợp tác. Tuy vậy, trả lời của Việt Nam lại nhấn mạnh nguyên tắc “cố gắng toàn diện để củng cố và tăng cường lòng tin cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài chân thật và sự giúp đỡ lẫn nhau của chúng ta trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.


Sự nhấn mạnh về hợp tác đó đã được người Việt Nam chi tiết hoá bằng khái niệm về “mối quan hệ đặc biệt” giữa Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào. Một quan chức Việt Nam giải thích năm 1978: “Chúng tôi nhấn mạnh quan hệ đặc biệt bởi vì không có một gương nào khác trong lịch sử về một mối quan hệ như vậy trong đó các dân tộc chia nhau mỗi một hạt gạo, mỗi một viên đạn, mỗi một đau khổ và thắng lợi”. Đây không phải chỉ là tình cảm cộng sản dựa trên một quan điểm lý tưởng hoá của những cuộc đấu tranh đã qua, mà còn hơn thế nữa. Người Việt Nam ngụ ý đến ý muốn hợp tác để phát triển tài nguyên của khu vực và cả trong các vấn đề an ninh khu vực nữa. Lập trường này, ít nhất, cũng có một cơ sở trong tuyên bố 1970, nhưng lại không thể chấp nhận được đối với những ông và những “bà” đang cầm quyền hiện nay ở Phnôm Pênh.


Theo Heder thì những bất đồng đưa chúng ta đến cái nút của vấn đề. “Những vấn đề cơ bản” của cuộc xung đột Việt Nam-Cam-pu-chia là những mâu thuẫn giữa hai kiểu cách mạng rất khác nhau và hai cách nhìn thế giới rất khác nhau” do những kinh nghiệm lịch sử khác nhau của hai đảng. Về quốc tế mà nói, những người cộng sản Việt Nam trông cậy vào Liên Xô và người Cam-pu-chia thì vào Trung Quốc. Những tiêu điểm những bất đồng của họ là người Việt Nam thì cam kết vào nguyên tắc hợp tác quốc tế giữa các nước thuộc “khối xã hội chủ nghĩa", còn Khmer đỏ thì theo nguyên tắc “tự lực” Heder khẳng định rằng lập trường của Việt Nam là hợp lý hoá việc “mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam ra các nước khác và các phong trào cộng sản”. Còn đối với những nhà lãnh đạo Cam-pu-chia, thì nếu chấp nhận việc thay đổi chính sách của họ vì các hoàn cảnh bên ngoài tức là sẽ làm yếu nền độc lập của Cam-pu-chia. Heder khẳng định rằng sự bác bỏ tất cả các thoả hiệp với người Việt Nam đã “làm nảy ra hành động của Việt Nam" chống lại Cam-pu-chia, nhưng Heder lập luận rằng các nhà lãnh đạo Khmer đỏ phải làm như vậy chính là vì nên độc lập của Cam-pu-chia.


Lập luận này không đứng vững được, nhưng đồng thời nó cũng nói liên nhiều vấn đề. Ý kiến cho rằng hợp tác quốc tế bao hàm sự hy sinh chủ quyền quốc gia là một ý kiến ngây thơ. Nó dựa vào giả định cho rằng những người cầm quyền của một quốc gia có thể đòi (theo từ của Pôn-pốt) “một nền độc lập hoàn hảo” nghĩa là quyền lực tối cao, không bị một ràng buộc nào từ bên ngoài cả. Nhưng trên thực tế, chủ quyền luôn luôn chịu sự kiềm chế bên ngoài bởi vì mỗi một chính phủ quốc gia phải hoà hợp với các quốc gia khác và với lơi ích của họ. Do thừa nhận điểm này nên luật pháp quốc tế công nhận rằng chủ quyền quốc gia nhất thiết phải bị hạn chế bởi sự tôn trọng quyền hạn của các quốc gia khác. Đối với chế độ Cam-pu-chia, việc tuyên bố chủ quyền tuyệt đối, nghĩa là về nguyên tắc không chấp nhận bất kỳ thoả hiệp nào với các chính phủ khác, đã làm cho không thể có giải pháp thoả hiệp nào ngay trong trường hợp những xung đột nhỏ; đầu hàng hoàn toàn là tất cả điều họ có thể chấp nhận được.


Như Heder đã đưa ra, một thái độ như vậy thực sự “đã đem lại hành động của Việt Nam" chống lại chế độ Cam-pu-chia trong trường hợp có xung đột. Tuy nhiên, lập trường của Cam-pu-chia không phải là kết quả của một ý muốn giản đơn về độc lập dân tộc mà còn là một thái độ không khoan nhượng xuất phát từ cách nhìn tự cao tự đạo quá mức đối với các tiền đề của nền độc lập. Vậy thì thái độ đó đã xuất hiện như thế nào?
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #39 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2007, 07:42:20 pm »

Chủ nghĩa cộng sản Cam-pu-chia và người Việt Nam

Thái độ của chính phủ Cam-pu-chia một phần là một vấn đề thuộc về nhân cách, sự phè phỡn vì chiến thắng và sự ngây thơ vì thiếu kinh nghiệm. Nhưng Heder nhấn mạnh, nó còn bắt rễ từ những kinh nghiệm lịch sử của toàn bộ quốc gia Cam-pu-chia, và từ những kinh nghiệm của các nhà lãnh đạo cách mạng của nó trước năm 1975.


Như Heder vạch ra một cách đúng đắn, các nhà lãnh đạo Khmer đỏ chỉ đơn giản làm theo nhiều chính sách của chính phủ Sihanouk một cách hăng hái hơn nhưng ít tinh vi hơn. Những lo sợ của Khmer đỏ rằng đất nước của họ sẽ bị một Việt Nam thống nhất nhận chìm, việc họ khăng khăng đòi được xem như một bên bị thiệt thòi trong các cuộc thương lượng biên giới vì những lãnh thổ của đế chế Ăng-co đã bị mất hàng thế kỷ trước kia, tất cả những thứ này đã được thừa hưởng từ chủ nghĩa quốc gia quân chủ lạc hậu mà Sihanouk đã hun đúc trong những năm 1950, cùng với việc xem Việt Nam là “kẻ thù lịch sử".


Nhưng nhiều nhân tố sâu xa hơn nữa đã làm cho thái độ chống Việt Nam của những đối thủ cộng sản của Sihanouk, nhất là phái Pôn-pốt, tiếp tục được duy trì. Cũng giống như với Lào, chúng ta thấy rằng phần lớn động cơ thành lập một phong trào cộng sản ở Cam-pu-chia là do Việt Minh thúc đẩy, được Việt Minh khuyến khích trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Tuy nhiên, ở Lào, các quan hệ giữa Pa-thét Lào và người Việt Nam vẫn tiếp tục hữu nghị. Mặc dù sự yếu kém của mình, Pa-thét Lào một lực lượng có ý nghãi trong một nước mà đặc điểm quyền lực phong kiến bị cắt vụn ra từng mảnh, và Hà Nội chưa hề bao giờ có ý định nghiêm chỉnh hy sinh lợi ích của mình để ve vãn chính phủ hoàng gia Lào. Nhưng trái lại ở Cam-pu-chia chính phủ Xu-ha-núc rõ ràng là một lực lượng hùng mạnh hơn nhiều so với chính phủ hoàng gia Lào và phong trào cộng sản thì không có hiệu lực bằng Pa-thét Lào. Hà Nội lại hoan nghênh chính sách đối ngoại phương Tây của Sihanouk. Vì vậy, khi chế độ Sihanouk trở nên vững chắc vào cuối những năm 1950, Hà Nội tìm cách có quan hệ tốt với nó. Vì lẽ chiến tranh ở miền Nam Việt Nam leo thang, nên tình hình đó càng trở nên ngày càng quan trọng cho những người cộng sản Việt Nam. Họ kêu gọi những người cánh tả Khmer đỏ ủng hộ chính phủ “tiến bộ” của Sihanouk, và làm ngơ trước âm mưu của Sihanouk đàn áp những người cộng sản Cam-pu-chia.


Nhiều mặt lịch sử của chủ nghĩa cộng sản Cam-pu-chia còn đang chưa rõ, nhưng rõ ràng là phong trào đó còn nhỏ và không có một cơ sở quần chúng có ý nghĩa cho đến khi Sihanouk bị lật đổ năm 1970. Thế hệ đầu tiên của những người cánh tả Khmer đỏ gồm những người đã gắn với Việt Minh trong cuộc chiến tranh chống Pháp. Sau hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, phần đông những người đó buộc phải “tập kết” tại Bắc Việt Nam với Việt Minh, và Sihanouk không để họ trở về Cam-pu-chia. Một nhóm các nhà hoạt động thân cộng sản còn lại ở Cam-pu-chia, thành lập một chính đảng, đảng Pra-chia-chon, nhưng đảng này chưa bao giờ vượt quá một nhóm nhỏ ở Phnôm Pênh, hoàn toàn bị Sihanouk lấn át và dễ bị cảnh sát đàn áp.


Một thế hệ mới những nhà hoạt động cánh tả bắt đầu xuất hiện cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960. Họ phần đông là sinh viên học ở nước ngoài trong những năm 1940 và 1950 và không có tiếp xúc gì nhiều với Việt Minh. Tất cả họ đều có tinh thần quốc gia cao, nhưng ngoài tinh thần đó, thì ý kiến của họ khác nhau nhiều, từ chủ nghĩa cải lương xã hội dân chủ ôn hoà đến chủ nghĩa cộng sản có xu hướng Mao-ít. Một số như Khieu Samphan, theo đảng Xang-cum của Sihanouk và thậm chí còn nằm trong chính phủ của ông ta đầu những năm 1960. Một số khác như Pôn-pốt (lúc đó dùng tên thật Saloth Sar) theo đảng Pra-chia-chon và nhanh chóng lên địa vị ảnh hưởng của đảng nhỏ và mất nhuệ khí đó. Đảng này đổi tên là Đảng Cộng sản Cam-pu-chia năm 1960, và Pôn-pốt trở thành tổng bí thư đảng su sự mất tích bí ẩn của người tiền nhiệm ông ta, Tou Samouth năm 1962. Trong khi chính quyền lãnh đạo của Pa-thét Lào nằm trong tay những người, cả nam lẫn nữ, mà chủ nghĩa cộng sản Việt Nam đã có ảnh hưởng đào tạo, thì ở Cam-pu-chia, quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản lại nằm trong tay những người cấp tiến còn trẻ chỉ chịu ảnh hưởng rất ít của Việt Nam.


Cuối những năm 1950, Pol Pot nhận thấy rằng những cố gắng của đảng Pra-chia-chon nhằm hoạt động trong một mặt trận rộng rãi của các lực lượng “tiến bộ” ở Phnôm Pênh, không tránh khỏi phải tập trung quanh Sihanouk chắc chắn sẽ không đạt được gì. Ông ta tin vào tiềm lực cách mạng của nông dân và tán thành việc thôi hoạt động chính trị ở thủ đô để đi hoạt động du kích ở vùng nông thôn. Năm 1963, ông ta và những người ủng hộ Phnôm Pênh để theo đuổi chiến lược đó nhưng không thành công lắm trong giới nông dân. Họ buộc phải thành lập căn cứ của họ với những người miền núi nguyên thuỷ trong vùng đông bắc xa xôi và hiểm trở. Phải đợi đến năm 1968, họ mới cảm thấy đủ mạnh để công bố rằng cuộc “đấu tranh vũ trang” đã được tiến hành. Ngay lúc đó, nó vẫn còn là một phong trào du kích trong gd đầu của nó, nghĩa là còn là những nhóm nhỏ và vũ trang nghèo nàn mà hoạt động chính là tiến công các đồn cảnh sát lẻ tẻ và các đồn bảo vệ nhỏ để cướp vũ khí.


Những sự kiện ở đầu bên kia của đất nước trong năm 1967 đã giúp nuôi dưỡng ảo tưởng rằng Đảng Cộng sản Campuchia là một lực lượng đáng để ý. Từ cuộc nổi dậy ở Samlout và phản ứng của chính phủ chống lại nó, một số nhà văn có chiều hướng chấp nhận rằng một tình thế tiền cách mạng đã phát triển ở Campuchia; Đảng Cộng sản Campuchia lợi dụng tình hình bất an ở nông thôn để trở thành một mối đe doạ lớn đối với chế độ Sihanouk. Chúng tôi không tin lắm vào ý kiến này. Cuộc nổi dậy được dựa vào những nỗi bất bình địa phương và không thể lan ra bởi vì mối quan hệ bóc lột ở các nơi khác, chưa phát triển đủ rộng ở nông thôn Campuchia. Sự bất bình đối với hành động đàn áp tàn bạo của chính phủ với cuộc nổi dậy đã biến khu vực Samlout thành một sào huyệt của du kích địa phương chống Sihanouk. Những người cánh tả rời bỏ Phnôm Pênh cũng tham gia du kích ở đây. Nhưng chỉ sau khi Sihanouk bị lật đổ họ mới hợp lực với nhóm Pol Pot. Pol Pot và giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia bị cô lập về mặt địa lý ở vùng Đông Bắc, và chẳng đóng vai trò gì trong các sự kiện đó. Lực lượng của họ còn nhỏ và không có hiệu quả trong đêm trước của cuộc lật đổ Sihanouk. Có những con số rất mâu thuẫn nhau về lực lượng này, nhưng có lẽ cũng chỉ vài nghìn là cao nhất và cũng có thể không quá vài trăm.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM