Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 05:17:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Chân lý thuộc về ai  (Đọc 80978 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 24 Tháng Chín, 2007, 07:43:26 pm »

Sihanouk phản ứng mạnh mẽ như vậy là vì ông ta sợ rằng người Việt Nam đứng đằng sau các hoạt động của những người cộng sản Campuchia. Những cố gắng của Pol Pot nhằm thúc đẩy “đấu tranh vũ trang” ở Campuchia do đó đã nhanh chóng làm tổn thương các quan hệ tốt của Hà Nội với chính phủ Sihanouk. Theo sách đen của Pol Pot, người Việt Nam đã luôn luôn chống lại chiến thuật của ông ta từ đầu. Họ đã lập luận rằng Campuchia chưa chín muồi cho cuộc cách mạng nông dân và những người cộng sản Khmer phải ủng hộ “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ” (tức là chính phủ Sihanouk), và tố cáo Pol Pot là “cực tả và phiêu lưu”. Khi cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam tăng lên thì “đường mòn Hồ Chí Minh" qua rừng của Nam Lào và Đông Campuchia trở nên ngày càng quan trọng cho những người cộng sản Việt Nam, và những bất đồng của họ với nhóm Pol Pot tăng lên.


Bản thân Pol Pot dẫn đầu một phái đoàn của Đảng Cộng sản Campuchia thăm Hà Nội cuối năm 1965 để giải quyết các bất đồng với các nhà lãnh đạo Đảng Việt Nam. Theo đánh giá chung, cuộc hội dàm diễn ra rất xấu. Sách đen kể lại rằng người Việt Nam “kéo dài cuộc thảo luận” và “tiến công trực diện” vào lập trường của Pol Pot, nhưng Pol Pot không lay chuyển. Rồi Pol Pot đi thăm Trung Quốc, và chính sau chuyến đi thăm này, ông ta “rõ ràng thấy rõ bản chất thật sự của người Việt Nam". Quan hệ giữa các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia và Hà Nội xấu đi một lần nữa sau các sự kiện 1967-1968, và Pol Pot đi Hà Nội tiến hành một đợt hội đàm gay gắt và không thành công năm 1969. Sau đó, Pol Pot lại đi Bắc Kinh lần nữa và khi ông ta ở Bắc Kinh thì Sihanouk bị lật đổ tháng 3 năm 1970.


Tuy họ là đồng minh, nhưng những căng thẳng giữa người Việt Nam và những người cộng sản Khmer tiếp tục diễn ra trong suốt cuộc chiến tranh 1970-1975, và trở nên sâu sắc từ năm 1973. Người Việt Nam đã thành công trong việc thương lượng Hiệp định Paris với người Mỹ, đưa lại cuộc ngừng bắn ở miền Nam Việt Nam (tạm thời) và ở Lào (vĩnh viễn). Người Mỹ cũng thúc ép một cuộc ngừng bắn ở Campuchia, nhưng không thành công. Vì cho rằng Khmer đỏ là bù nhìn của Hà Nội, nên người Mỹ xem việc đó như là một bằng chứng của sự thiếu thiện chí của Việt Nam. Theo sách đen thì suốt năm 1972 và đầu năm 1973, người Việt Nam ép Pol Pot đàm phán, nhưng bị từ chối. Sách đen kể lại rằng vào dịp đó, Pol Pot tố cáo người Việt Nam cộng tác với người Mỹ và ông ta bác bỏ việc thương lượng với Lon Non và Mỹ trên cơ sở rằng đó là một phần của âm mưu Việt Nam nhằm “nuốt chửng” Campuchia, một kiểu lập luận làm cho người Việt Nam “vô cùng giận dữ”.


Năm 1973, người Mỹ đồng ý ký những hiệp định bao gồm cả Việt Nam và Lào, và rồi tiến hành một chiến dịch ném trên 250.000 tấn bom xuống Campuchia trong 6 tháng (so với 160.000 tấn bom xuống Nhật Bản trong 6 năm chiến tranh), trước khi Quốc hội chấm dứt sự ném bom đó, bất chấp cơn thịnh nộ của Kissinger. Pol Pot gắn tất cả sự tàn phá của chiến dịch ném bom cho “tính ích kỷ” của người Việt Nam và sự “phản bội” của họ. Sihanouk viết rằng khi ông ta trở lại Campuchia năm 1975, ông ta rất chú ý đến “nỗi đắng cay và thậm chi sự thù địch” của các nhà lãnh đạo Khmer đỏ đối với sự “phản bội” đó.


Việc Pol Pot tin rằng cuộc thương lượng chỉ là một trò gian trá của người Việt Nam (ngay dù cho họ không trực tiếp làm) là dựa vào một định kiến bất hợp lý quá đơn giản. Nhiều chiến sĩ Ít-xa-rắc trước kia mà bây giờ tham gia Khmer đỏ tin rằng họ đã bị người Việt Nam (và, có thể là người Trung Quốc và cả người Liên Xô nữa) phản bội tại Geneva. Rõ ràng Pol Pot chia sẻ nhận thức đó và còn được củng cố thêm thông qua những kinh nghiệm không hay của bản thân nữa.


Sự từ chối gặp Kissinger của Pol Pot năm 1973, mà có thể dẫn đến việc thành lập một chính phủ liên hiệp (như ở Lào) đã gây ra bao nhiêu tàn phá và kéo dài cuộc chiến đấu ở Campuchia thêm hai năm nữa. Cuộc chiến đấu đi đến chấm dứt không phải qua thương lượng. Những yêu cầu thương lượng không điều kiện của chính phủ Lon Non trong năm 1974 đã bị các nhà lãnh đạo Khmer đỏ bác bỏ. Ngay lời công bố rằng phía Lon Non đồng ý hạ vũ khí, cũng bị cắt ngang ngày 17 tháng 4 năm 1975 bằng một tuyên bố của Khmer đỏ: “Chúng tôi không đến đây để thương lượng; chúng tôi vào thủ đô bằng sức mạnh của vũ khí". Do đó đã rõ ràng rằng trước năm 1975 và với thái độ không thích hợp của Sihanouk đối với vấn đề biên giới, Pol Pot đã bác bỏ mọi ý kiến về một giải pháp thương lượng cho cuộc xung đột để tìm cách thực hiện một quyết định quân sự.


Thái độ của Khmer đỏ đối với Việt Nam từ sau 1975, không còn nghi ngờ gì, đã bị ảnh hưởng nặng nề vì những nhân tố lịch sử; vì sự khống chế của chủ nghĩa quốc gia cổ xưa, lạc hậu của Sihanouk được các nhà cách mạng đang tìm cách lật đổ Sihanouk, hấp thụ; và vì việc Pol Pot thẳng thừng bác bỏ thương lượng để giải quyết các cuộc tranh chấp. Tuy nhiên những nhân tố đó không nên được quá cường điệu. Chính những kỳ dị, thất thường của chế độ Pol Pot được dựng lên sau tháng 4 năm 1975 ở Campuchia đã đóng một vai trò chủ yếu trong cuộc tranh chấp này.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 06:42:38 pm »

Những cuộc thanh trừng ở cách mạng, 1975-1978

Việc hoạt động lên cầm quyền là do kết quả của sự tan rã xã hội và sự sụp đổ chính trị xảy ra khi Sihanouk bị lật đổ và đất nước đột ngột bị chìm vào cơn lốc của cuộc chiến tranh Đông Dương, chứ không phải do một phong trào vững chắc của sự phản đối xã hội và sự thay đổi chính trị. Phong trào đó đã phát triển một cách bùng nổ từ năm 1970, nhưng tuyệt nhiên không được thống nhất và sự ủng hộ của quần chúng không nhất thiết là vững chắc. Nó giành được sự kiểm soát nhân dân trước khi giành được tính hợp pháp đại chúng và thậm chí sự thống nhất bên trong.


Các nhà lãnh đạo của phong trào là những trí thức thành thị về nguồn gốc, nhưng trong 6 năm trước khi Sihanouk đổ, họ sống một đời sống khắc khổ trong một trại quân sự cùng với một số dân nguyên thuỷ nhất về mặt xã hội và kinh tế của Campuchia, hoàn toàn cô lập với nông thôn, đừng nói gì đến các trung tâm đô thị. Ở đây, Pol Pot tìm được những cán bộ đáng tin cậy đầu tiên, “rất trung thành với cách mạng Campuchia” và “rất đáng gờm” đối với kẻ thù, như sách đen cho biết.


Lúc đầu Pol Pot ít có khả năng lợi dụng được những cơ hội mà cuộc đảo chính chống Sihanouk tạo ra cũng như việc thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia để nhằm tập hợp những người ủng hộ Sihanouk lại với Khmer đỏ để chống “bọn phản bội” cánh hữu ở Phnôm Pênh. Lực lượng của Pol Pot còn nhỏ và bị cô lập với nhân dân vùng thấp đang trong hỗn loạn chính trị. Những vùng rộng lớn của đất nước tạm thời còn nằm trong tay người Việt Nam, đa số của Mặt trận thống nhất dân tộc là những người theo Sihanouk chứ không phải theo cộng sản, và theo cách nhìn của Pol Pot, các bộ phận vùng thấp của Đảng Cộng sản Campuchia cũng không đáng tin cậy bởi vì “một số phần tử” trong họ đã bị người Việt Nam “lừa dối và mua chuộc”. Những nghi ngờ của Pol Pot về điều này đã được xác nhận khi các bộ phận đó hợp tác với những người của Sihanouk và những người Việt Nam. Khi hàng ngũ của Đảng Cộng sản Campuchia phát triển, các bí thư đảng khu vực trở nên nững nhân vật hùng mạnh thống trị những lãnh địa hầu như độc lập và có quân đội riêng. Vì ban lãnh đạo trung ương của Đảng không có lực lượng vũ trang dưới quyền chỉ huy của mình (trừ việc dựa vào địa vị của Pol Pot với tư cách là bí thư khu Đông Bắc, cũng như tổng bí thư của đảng) nên trong khi chờ đợi ban lãnh đạo đó đã đối xử với những đối thủ hùng mạnh đó một cách thận trọng và kính nể.


Khi Đảng Cộng sản Campuchia phát triển thì sự kiểm soát của phái Pol Pot đối với bộ máy của đảng yếu đi. Phái đó phản ứng lại bằng việc áp đặt một sự kiểm soát đảng một cách tập trung cao độ từ trên xuống, thông qua viêệ loại bỏ những ai bị xem như thân Sihanouk và thân Việt Nam. Pol Pot nắm “ngành an ninh” của đảng trong tay (gọi là Santebal hoặc Nokorbal). Từ năm 1972 trở đi, việc thanh lọc đảng và Mặt trận thống nhất dân tộc, do bộ máy an ninh đó thực hiện một cách bí mật cao độ, đã trở thành một trong những phương tiện giúp Pol Pot dần dần leo lên bậc thang uy lực trong phong trào Khmer đỏ.


Quá trình đó tuyệt nhiên chưa hoàn thành khi chế độ Lon Non sụp đổ năm 1975. Phái của Pol Pot còn phải chốt trong bộ máy trung ương của đảng và chính phủ, như Keo Moni, Nông Xuôn và Hu Yươn. Sự kiểm soát của phái Pol Pot đối với các cấp thấp hơn còn thậm chí bảo đảm hơn: trong khi các bí thư khu bắc và khu tây tỏ ra ủng hộ Pol Pot năm 1975, thì những bí thư khu đông nam (như Von Vét, Xo Phim và Chu Chét) còn chỉ trích Pol Pot.


Tháng 4 năm 1975, Sihanouk với tư cách là lãnh tụ của Mặt trận thống nhất dân tộc Campuchia đã trở thành nguyên thủ danh nghĩa của Campuchia dân chủ, nhưng địa vị của ông ta là một địa vị danh dự không có thực quyền, hơn nữa phần đông những người ủng hộ ông ta đã bị thanh trừng khỏi mặt trận năm 1973-1074. Ông ta sống lưu vong cho đến tháng 9 năm 1973 và từ chức ngày 4 tháng 4 nưm 1976. Sau đó một chính phủ hoàn toàn Khmer đỏ đã được thành lập với Khieu Samphan làm quốc trưởng thay Sihanouk và Pol Pot trở thành tủ tướng, Ieng Sary vẫn là ngoại trưởng.


Chế độ Campuchia dân chủ không có hầu hết các đặc tính của những quốc gia hiện đại. Ấn tượng mà người ta rút ra được từ báo cáo của những khách đến thăm là chính phủ đó không hơn gì bao nhiêu một doanh trại tạm thời của các lãnh tụ du kích trong một thành phố mà họ đã chiếm và đuổi hết dân trong tháng 4 năm 1975. Quyền hành pháp chính thức của chính phủ chỉ hoạt động từng lúc. Các bộ trưởng chính phủ làm nhiệm vụ của họ trên cơ sở không làm trọn giờ và họ dành phần lớn năng lực của họ cho công việc trên đồng ruộng và không có văn phòng để thực hiện chính sách (trừ cảnh sát bí mật của Pol Pot). Như Richard Dudman đã viết: “… Chính phủ cộng sản của cái đất nước mà nó đặt tên lại là Campuchia dân chủ, chưa hề bao giờ thực sự vượt quá tình trạng một nhóm nổi loạn bí mật che dấu của bản thân nó trước khi nó lật đổ chính phủ được Mỹ ủng hộ trước kia” (xem phụ trương Sainnt Louis Post-Dispatch, 15 tháng giêng năm 1979, bài “Campuchia-một mảnh đất trong hỗn loạn” của Dudman-ND).
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 06:43:39 pm »

Chế độ Campuchia dân chủ lúc đó đã đóng chặt cửa với thế giới bên ngoài, bỏ phần lớn các quan hệ ngoại giao thông thường. Những quan hệ đối ngoại mà chế độ còn giữ lại đều nằm trong tay nhóm Pol Pot. Theo một khách vào thăm năm 1976, Ieng Sary điều khiển các quan hệ đối ngoại của chính phủ với khoảng nửa tá phụ tá, làm việc không chọn giờ, đồng thời lại chịu trách nhiệm về “an ninh nội bộ” Phnôm Pênh nữa. Với tư cách là tổng bí thư Đảng Cộng sản Campuchia, Pol Pot chịu trách nhiệm về quan hệ giữa các đảng, về liên lạc với Đảng Việt Nam nói riêng. Các quan hệ của Việt Nam với những người cộng sản Campuchia, do dó, chủ yếu là các quan hệ với cá nhân Pol Pot, cho đến lúc ông ta bị gạt bỏ. Con đường liên lạc khác duy nhất cho người Việt Nam còn có, là với các quan chức ở các tỉnh biên giới thông qua các uỷ ban liên lạc biên giới mà Pol Pot đã giải tán tháng 5 năm 1977.


Các chính sách đối nội mà chính phủ theo đuổi trong năm 1975-1976 là những chính sách của Pol Pot. Các chính sách đó đã được chính Pol Pot kiến trúc sư của họ tóm tắt trong cuộc “họp báo” đầu tiên của mình để trả lời phỏng vấn của các nhà báo Nam Tư năm 1978: “Chúng tôi xây dựng chủ nghĩa xã hội mà không có một kiểu mẫo nào cả”. Rồi người đứng đầu Đảng Cộng sản và là thủ tướng của Campuchia dân chủ đó mỉm cười nói tiếp: “Chúng tôi không muốn sao chép ai cả, chúng tôi sẽ dùng kinh nghiệm giành được trong quá trình cuộc đấu tranh giải phóng. Không có trường học, các khoa hoặc các trường đại học với nghĩa cổ truyền, tuy đã có trong đất nước chúng tôi trước giải phóng, bởi vì chúng tôi muốn xoá tất cả di tích của quá khứ. Không có tiền, không có buôn bán vì nhà nước lo việc cung cấp cho tất cả công dân của mình. Chúng tôi cũng không có tiền hoặc buôn bán trong vùng đã được giải phóng. Các đô thị đã được bố trí lại bởi vì đó là cách mà mọi thứ phải được làm. Khoảng ba triệu dân thành thị và nông dân đang cố tìm nơi ẩn náu trong các thành thị, để tránh những tàn phá của chiến tranh. Chúng tôi không thể cung cấp lương thực cho họ và còn có những kế hoạch của đế quốc tổ chức các phong trào du kích và một cuộc phản cách mạng ở các đô thị đông dân… Chúng tôi di tản các đô thị; chúng tôi bố trí nhân dân về vùng nông thôn mà ở đó có thể đưa lại những điều kiện sinh sống cơ bản cho bộ phận nhân dân đó của Campuchia mới. Vùng nông thôn sẽ là tiêu điểm chú ý của cách mạng chúng tôi và nhân dân sẽ quyết định số phận của các đô thị” (xem bài “Campuchia-chủ nghĩa xã hội không có “đô thị” của Slavko Stanic, trong Socialiks Thesry and Practice, Belgrade, tháng 8 năm 1978, tr.67-ND).


Sau khi di tản các đô thị tháng 4 năm 1975, một cuộc thanh lọc đã được tiến hành nhằm vào những người có liên quan đến quân đội, cảnh sát và dịch vụ công cộng của chế độ Lon Non. Việc này đã được thực hiện một phần do ngành an ninh của Đảng Cộng sản Campuchia và một phần do các lực lượng an ninh khu vực, cho nên mức đọ khắc nghiệt đã khác nhau từ vùng này qua vùng khác. Ở một số nơi, có tin là “các phần tử phản cách mạng" bị “giam giữ và cải tạo”, nhưng thông thường hơn là họ bị hành hình. Ở một số nơi, cuộc thanh lọc bừa bãi đến mức các người tỵ nạn tin rằng mục tiêu của chính phủ là sát hại hoàn toàn các giai cấp trên và giữa trước kia.


Lý do cơ bản của những cuộc thanh lọc đó có lẽ là sự yếu kém của chế độ cộng sản mới ở Campuchia. Campuchia Dân chủ không có được như những người cộng sản Lào và Việt Nam, những cán bộ và của cải để duy trì một hệ thống ít nhiều tinh vi nhằm kiểm soát về mặt chính trị những kẻ thù đã bị đánh bại. Việc “cải tạo” ở Campuchia dường như đã rơi vào tay những binh lính dưới tuổi 20, vừa đủ hiểu điều người ta bảo chứ không phải là những nhà tư tưởng lành nghề. Mặt khác, khủng bố là một phương pháp dễ hiểu và dễ thực hiện đối với những người “lính chiến nông dân” ngờ nghệch nhất. Nó cũng có hậu quả thúc đẩy vai trò của ngành an ninh và của những người kiểm soát ngành đó trong chế độ Campuchia dân chủ, một điều mà có lẽ không thoát khỏi sự chú ý của Pol Pot.


Đồng thời, giới lãnh đạo của Campuchia dân chủ đang cố gắng xây dựng đất nước càng nhanh càng tốt bằng “tự lực” và chỉ bằng lao động gian khổ. Chiến lược kinh tế đó cần thiết phải đề ra một chế độ kỷ luật nghiêm khắc cho toàn bộ dân chúng. Việc vi phạm hoặc không tuân theo các chỉ thị thường bị xử phạt bằng hành hình. Vì lẽ chế độ lao động khổ sai đó đưa lại kết quả kém, nên việc tìm những người giơ đầu chịu báng đã tăng lên và số người vị giết hại vì “kỷ luật” cũng tăng lên. Những cán bộ Khmer đỏ mà chúng tôi phỏng vấn ở Xakeo năm 1980 nói với chúng tôi rằng kỷ luật là điều có thể hiểu được trong chiến tranh, nhưng họ cũng rất ngạc nhiên vì kỷ luật đã trở nên gay gắt hơn chứ không phải kém đi sau tháng 4 năm 1975. Số “người mới” di tản từ các đô thị chịu những đau khổ đặc biệt nặng nề dưới chế độ này, nhưng trong các “khu căn cứ” dưới quyền kiểm soát của cộng sản trước năm 1975 cũng đã xảy ra một tình trạng tương tự như vậy.


Chúng tôi giải thích sự khủng bố ở Campuchia trong những năm 1975-1976 trên cơ sở những hoàn cảnh thực tế: nó là sự phản ứng tàn bạo của một bộ máy nhà nước cực kỳ lạc hậu nhằm vượt qua các khó khăn kinh tế và chính trị rất gay gắt. Tất nhiên nó là một phản ứng tai hại, nhưng đó là một vấn đề khác đi rồi. Những sự giải thích đó trái với cách nhìn được chấp nhận chung ở phương Tây, phù hợp với cách nhìn của Francois Ponchaud trình bày trong quyển sách của anh ta: “Campuchia năm số không” cố gắng nghiêm chỉnh đầu tiên của tác giả nhằm chứng minh bằng tư liệu điều xảy ra dưới chế độ Pol Pot. Theo Ponchaud, các cuộc thanh lọc là “sự biến đổi cách nhìn của con người thành hành động” hay nói một cách tóm tắt, chúng là sp của hệ tư tưởng cộng sản. Theo cách nhìn của chúng tôi, hệ tư tưởng thường là sự hợp lý hoá của hành động thực tiễn, và trong trường hợp này thì “chủ nghĩa xã hội không có kiểu mẫu” của Pol Pot là một kiểu thực dụng sai trái.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 06:44:35 pm »

Ngay trong tháng 4 năm 1975, các chính sách của Pol Pot cũng đã gây ra những bất đồng trong các nhân vật như Hu Yươn, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Chu Chét, bí thư đảng vùng Tây Nam. Cả hai người này đã nhanh chóng bị gạt ra khỏi chức vụ của mình. Những người khác rõ ràng cũng bất đồng về các chính sách đó nhưng đành chấp nhận “chế độ tập trung dân chủ” và làm việc trong hệ thống đảng để tìm cách thay đổi. Nhưng một đa số trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Campuchia dường như đã đi theo đường lối của Pol Pot lúc đó. Tuy nhiên vào giữa năm 1976, sự tỉnh ngộ đã lan rộng trong các cán bộ Đảng Cộng sản Campuchia, bao gồm cả những người trước kia ủng hộ Pol Pot. Những người tị nạn đưa tin rằng lúc đó các cán bộ khu vực Bắc và Tây đã gửi một điều trần cho Phnôm Pênh đòi thay đổi chính sách và yêu cầu “Đảng phải có lòng thương nhân dân", và điều trần đó đã được những người cộng tác cũ của Pol Pot trong chính phủ trung ương như Bộ trưởng thông tin Hu Nim ủng hộ.


Những chi tiết về cuộc đấu tranh phe phái giữa những người Khmer đỏ với nhau, còn đang trong bóng tối. Lúc ban đầu mọi việc còn thuận lợi cho Pol Pot. Các lực lượng vũ trang Khmer đỏ đã được thống nhất tháng 6 năm 1975 và được đặt dưới quyền chỉ huy của Son Sen, người thay Pol Pot. Hu Yươn, sau khi bị gạt khỏi bộ của ông ta, vẫn tiếp tục là một người lớn tiếng chỉ trích Pol Pot. Ông ta bị bắt tháng 8 năm 1975 và có lẽ bị giết không lâu sau đó. Tháng 4 năm 1976, bản thân Pol Pot nhảy ra từ bóng tối để nắm chức vụ thủ tướng trong chính phủ (trước đó ông ta không giữ chức vụ chính phủ nào mặc dù vai trò nổi bật của ông ta trong tổ chức Đảng). Rồi ngọn triều dường như quay ngược vì Pol Pot buộc phải bước xuống vì lý do “sức khoẻ kém” trong tháng 9 năm 1976. Có những dấu hiệu rằng chế độ đó có khả năng xa dần chính sách của Pol Pot trong những tháng cuối năm 1976, nhưng những dấu hiệu đó tỏ ra là đã quá lạc quan.


Pol Pot không xuất hiện trước công chúng trong một năm sau khi rút ra khỏi chính phủ, nhưng ông ta không phải không hoạt động trong giai đoạn đó. Trên thực tế, ông ta tập hợp những người ủng hộ và lợi dụng địa vị lãnh tụ đảng để tiến hành một cuộc thanh lọc ào ạt, gay gắt chống lại những đối thủ của mình. Điểm ngoặt trong cuộc đấu tranh nội bộ đảng dường như xảy ra vào cuối năm 1976, khi hai trong những đối thủ hàng đầu của Pol Pot trong chính phủ trung ương, Keo Mô-ni và Nong Xuôn bị bắt. Tiếp theo việc bắt tay này là một cuộc thanh trừng đại quy mô trong chính phủ trung ương vào đầu năm 1977 và được mở rộng ra các cơ cấu đóng ở khu vực của bộ máy đảng và chính phủ cũng như mở rộng đến việc giết những ai trong quần chúng nói chung bị nghi là có cảm tình với kẻ thù. Từ “kẻ thù” bây giờ là để chỉ những người sống sót của chế độ Lon Non. Trong nhiều khu vực, việc hành hình những người theo Lon Non, thực sự hay tưởng tượng, còn mở rộng hơn trong những năm 1975-1976 và lần này thì những người đã từng ủng hộ cộng sản trước kia cũng chịu cùng số phận.


Bản thân Pol Pot đã đóng một vai trò lớn trong các sự kiện này. Với tư cách là tổng bí thư đảng, ông ta đã đi khắp đất nước, đích thân điều tra lòng trung thành và khả năng của nhiều cán bộ địa phương và ra lệnh thanh lọc. Những việc này đã đựoc những trợ lý đắc lực Son Sen và Nuon Chea thực hiện; họ thành lập các “trường huấn luyện” dưới sự bảo trợ của Uỷ ban trung ương Đảng Cộng sản Campuchia. Họ bí mật dùng các trường này huấn luyện các đội thanh lọc. Kaing Kech Iêu (thường được gọi là “Anh Duch”) phụ trách cảnh sát mật và đã đích thân giám sát trung tâm thẩm vấn nổi tiếng ở Phnôm Pênh. Rõ ràng là dưới sự kiểm soát của toàn bộ Uỷ ban trung ương Đảng, Kaing báo cáo trực tiếp với Pol Pot và Ieng Sary. Một đồng minh then chốt khác trong cuộc đấu tranh đó là Ta Mok, bí thư khu Tây Nam. Quân đội của Ta Mok được sử dụng dẹp cuộc chống đối vũ trang ở các khu vực khác, và cán bộ của ông ta thì được dùng để thay cho những người địa phương đã bị giết.


Các cuộc thanh lọc tiếp tục suốt năm 1977 và 1978, với một số vùng phải chịu thanh lọc đến hai lần trong chưa đầy 12 tháng, trong đó nhiều người đặc ân trong cuộc thanh lọc này lại bị trừng trị trong cuộc sau đó. Đỉnh cao xảy ra giữa năm 1978, khi Pol Pot cuối cùng dùng vũ lực chống lại những người cộng sản khu Đông. Xô Phim, bí thư khu Đông là một Ít-xa-rắc kỳ cựu, đã chống lại nhưng không thành công công việc Pol Pot lên làm tổng bí thư Đảng Cộng sản Campuchia năm 1963. Sau năm 1975, Xô Phim ngày càng xung đột với Pol Pot, và trong năm 1977-1978, đã chống lại đòi hỏi thanh lọc những người “phản bội” ở khu Đông. Tháng 5 năm 1978 quân đội dưới sự chỉ huy của Son Sen và Ta Mok tiến hành một cuộc tiến công quân sự quy mô lớn vào khu Đông. Sau khi chiến đấu mãnh liệt, quân đội không được chuẩn bị tốt của khu Đông đã bị đánh bại. Xô Phim tự tử chứ không chịu đầu hàng, trong khi một số người ủng hộ ông ta tiếp tục chiến đấu trong rừng. Những người khác rút sang Việt Nam.


Khu Đông, một trong những vựa lúa giàu nhất của Campuchia, từ đó, trở thành nơi xảy ra sự tàn bạo và tàn phá không gì so sánh nổi. Những cán bộ và binh sĩ bị bắt đều bị giết tại chỗ; những xã toàn vẹn cho là không trung thành đều bị triệt hạ; và hàng chục nghìn người (có lẽ hàng trăm nghìn) bị buộc di cư sang các vùng khác, để rồi bị hành hình hàng loạt, khi họ kéo đến nơi. Phần nhiều các mộ công cộng khai quật sau khi chế độ Pol Pot bị đổ, dường như đã có trong giai đoạn này.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 06:45:44 pm »

Không chắc gì tổn thất nhân mạng dưới chế độ Pol Pot có thể được biết một cách chính xác. Chính phủ Heng Samrin và người Việt Nam đã tố cáo rằng 3 triệu trong tổng số 7 triệu dân đã bị chết. CIA thì ước tính con số là từ 1,2 đến 1,8 triệu người với 100.000 bị hành hình. Về phần mình, các nhà lãnh đạo Campuchia dân chủ đã thừa nhận “những việc làm quá mức”, nhưng khăng khăng rằng các con số đó thấp hơn nhiều. Tháng 2 năm 1981, Khieu Samphan nói với chúng tôi: “Chúng tôi đang thu thập những thống kê về vấn đề này. Ước tính của chúng tôi là chúng tôi đã phạm những điều quá mức làm hại đời sống của 3.000 người, nhưng người Việt Nam giết hại hơn 10.000”. Giới lãnh đạo Campuchia dân chủ sau đó cũng nói rằng 20.000 người đã chết vì thiếu lương thực năm 1975. Tất cả những ước tính này, tất nhiên là có động cơ chính trị. Ước tính vô tư nhất có lẽ là ước tính của Quốc tế Ân xá mà theo đó thì “ít nhất 300.000 người đã bị giết trong các cuộc thanh trừng dưới chế độ Pol Pot (xem báo cáo năm 1982 của Quốc tế Ân xá, London, tr.3-4-ND). Tổ chức Ân xá đó không đưa ra ước tính số người chết vì thiếu ăn và làm việc quá sức; “ước đoán” phỏng chừng của chúng tôi là vào khoảng hai triệu trong toàn giai đoạn.


Trong những hoàn cảnh như vậy, nhóm Pol Pot cuối cùng nổi lên là người chủ không bị thách thức của đất nước trong năm 1978. Chính phủ trung ương gồm có Pol Pot, Ieng Sary, Son Sen và vợ của họ, những người cánh tả theo đường lối của Pol Pot từ đầu những năm 1960 trở đi, và một nhóm các người khác Pol Pot, Nuon Chea và Ta Mok kiểm soát bộ máy của Đảng. Khieu Samphan, người đã thay Sihanouk làm quốc trưởng năm 1976, tiếp tục ở lại. Ông ta là một trong những người phái tả duy nhất của Đảng Xang-cum cũ, đi theo Pol Pot cuối những năm 1960, thoát khỏi các cuộc thanh lọc. Trừ phái Pol Pot ra, toàn bộ giới lãnh đạo của cuộc cách mạng 1970-1975 đã bị quét sạch: trong số 17 người cộng sản giữ chức vụ trong chính phủ trung ương năm 1975-1976, chỉ 5 người được biết còn sống sót vào cuối năm 1978; và trừ Pol Pot và Ta Mok, không còn bí thư khu vực nào của Đảng còn sống sót.


Bản thân Pol Pot công khai xuất hiện lại tháng 9 năm 1977 khi ông ta tuyên bố sự tồn tại của Đảng Cộng sản Campuchia (Danh tính đảng cầm quyền ở Campuchia dân chủ được thực tế giữ bí mật cho đến lúc đó) và tự giới thiệu mình là lãnh tụ của đảng đó, công bố một lịch sử tự đề cao và có tính toán của đảng trong một diễn văn đồ sộ kéo dài đến năm tiếng đồng hồ. Ngày sau đó, đài Phnôm Pênh công bố rằng “thủ tướng Pol Pot” sắp đi thăm chính thức Bắc Kinh; không những ông ta chỉ giành lại sự kiểm soát của đảng, mà còn nắm giữ chức vụ chính quyền cũ và thay vào đó còn nổi lên như một chính khác quốc tế nữa.


Cuộc đấu tranh giành quyền lực đẫm máu của Pol Pot bên trong Campuchia đã được gắn vào vấn đề quan hệ với Việt Nam bằng ba cách. Trước tiên là, vì người Việt Nam chống lại đường lối chính trị của ông ta, cho nên bất kỳ ai khác hễ không đồng ý với Pol Pot thì là một “tay sai” Việt Nam. Đó là tiền đề mà Sách đen dựa vào để tường thuật cuộc xung đột bên trong Campuchia. Giống như Lon Non, Pol Pot đã thấy được việc Sihanouk đã thành công trong việc tập hợp dư luận “yêu nước” của Campuchia quanh ông ta bằng cách gán cho những đối thủ của mình là bù nhìn của Việt Nam, và ông ta cũng bắt chước điều đó. Bằng cách suy luận logic như vậy thì bất kỳ ai chống lại đường lối chính trị của Pol Pot là chống lại “nền độc lập” của Campuchia và do đó đều là những “kẻ phản bội” và, tự giác hoặc không tự giác, là “tay sai” của Việt Nam.


Nhưng, để lập luận đó đủ sức thuyết phục thì Việt Nam phải trở thành một đe doạ khủng khiếp đối với Campuchia, khi cuộc đấu tranh chống Pol Pot của những đối thủ trong nước tăng lên. Sihanouk kể lại: “Pol Pot và Ieng Sary rất sợ bị trả thù, nhưng lại rất thích thách thức, làm nhục, chửi bới và không ngừng xúc phạm Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, lãnh tụ, nhân dân và nói giống Việt Nam… Ở Phnôm Pênh tôi cố tìm hiểu những tại sao và những lý do gì mà Khmer đỏ khiêu khích một cách vô lý và nguy hiểm Việt Nam như vậy. Cuối cùng tôi đi đến chỗ có thể làm cho Khieu Samphan phải giải thích điều đó cho tôi bằng những lời lẽ ngoại giao. Hắn ta thẳng thắn nói với tôi rằng “để thông qua đảng mà đoàn kết đồng bào chúng ta, để đưa công nhân chúng ta đạt mức năng suất cao nhất, và để làm cho binh sĩ ngày càng hăng hái và có hiệu quả trong chiến đấu, thì điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm là khuyến khích họ ghét Dươn (người Việt Nam) càng ngày càng nhiều”. Khieu Samphan nói thêm: “Những thanh niên nam nữ chúng ta sẵn sàng hy sinh khi chúng ta phất ngọn cờ “căm thù Việt Nam" trước mặt họ” (xem quyển “Chiến tranh và Hy vọng” của Sihanouk, tr.91-92-ND). Như vậy là gây ra xung đột với Việt Nam là chiến thuật mà phái Pol Pot cho là có thể dùng để tập hợp sự ủng hộ và để đánh bại đối thủ trong nước.


Thật không dễ gì đánh giá mức độ thực sự của sự thâm nhập của Việt Nam vào Đảng Cộng sản Campuchia, trước màn bí mật mà đảng đó che đậy công việc của mình. Người Việt Nam không giấu giếm gì việc họ cho là có cảm tình hơn. Nhưng họ phủ nhận bất cứ sự can thiệp nào vào “công việc nội bộ” của Đảng Cộng sản Campuchia. Dường như có thể tin rằng họ đã cố tạo mọi cơ sở và tiếp xúc hữu nghị trong đảng của Pol Pot và ít nhất là từ năm 1966 trở đi Pol Pot đã cố tìm cách loại trừ những người có tính chất như vậy.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 29 Tháng Chín, 2007, 06:46:42 pm »

Cũng rõ ràng là các nhân vật hàng đầu của Đảng Cộng sản Campuchia tăng thêm sự chống đối chính sách của Pol Pot sau 1975, chủ yếu là vì họ chống lại những hậu quả của các chính sách đó, chứ không phải vì ảnh hưởng của Việt Nam, tuy rằng bản thân Pol Pot khó mà có thể thừa nhận như vậy. Điều chắc chắn là, tất cả các nhân vật hàng đầu bị thanh lọc trong các năm 1976-1978 đã ít nhiều cộng tác với Pol Pot và ủng hộ cách diễn đạt “lòng yêu nước” của ông ta trước kia. Nếu những người đó ấp ủ những tình cảm “thân Việt Nam” thì họ đã giữ bí mật tốt đến mức ngay Sách đen cũng không đưa ra được bằng chứng gì của sự thâm nhập vào Đảng Cộng sản Campuchia của Việt Nam ngoài một vài điều mong manh nhắc lại “những lời thú nhận” (có lẽ rút được tại Tun Xleng). Sách đen cũng không đưa lại được bằng chứng rằng Việt Nam đã gây sức ép trực tiếp từ bên ngoài trước năm 1977. Trái lại, Sách đen rêu rao rằng đến lúc đó người Việt Nam đã hoạt động thông qua những “tay sai” bên trong Đảng Cộng sản Campuchia, những tay sai mà Sách đen cũng không chứng minh được sự có mặt. Chỉ năm 1978 mới có bằng chứng rằng các địch thủ bên trong của Pol Pot đã liên lạc (một cách dè dặt) với người Việt Nam, và đó là do phản ứng lại chính những hành động của bản thân Pol Pot.


Tuy nhiên, Pol Pot và những người ủng hộ giải thích việc ông ta bị gạt ra khỏi chức vụ trong chính phủ tháng 9 năm 1976 như là âm mưu đảo chín do Việt Nam gợi ý. Cuộc thanh trừng tiếp theo sau đó đối với phe chống đối bên trong đã được tiến hành cùng với một chiến dịch tuyên truyền chống lại người Việt Nam. Mặc dù vậy chính phủ Phnôm Pênh không có hành động trực tiếp chống Việt Nam trong nước mà lại tạo ra một tình hình căng thẳng ở biên giới. Nó khuyến khích các quan chức biên giới địa phương, nhất là những người trước kia có thể có thái độ hợp tác với Việt Nam tìm cách cố giữ lấy cái cổ của chính mình bằng các bày tỏ rõ rệt nhất sự “cảnh giác” của họ.


Bản thân nhóm Pol Pot cũng theo đuổi một thái độ hiếu chiến với Việt Nam. Tiếp theo thắng lợi tháng 4 năm 1975, họ ấp ủ một quan điểm bị xuyên tạc một cách sô-vanh về lòng dũng cảm tuyệt vời của quân đội họ, họ nói đến việc loại bỏ vĩnh viễn “đe doạ” của Việt Nam và thu hồi “lãnh thổ đã bị mất” vì các chính phủ trước. Sihanouk kể lại: “Tháng 9 năm 1975, lần đầu tiên tôi trở về Campuchia “giải phóng" theo lời mời của các nhà lãnh đạo Khmer đỏ, tôi rất ngạc nhiên nghe Khieu Samphan, Son Sen và đồng bọn, nói với tôi, với nụ cười và vẻ mặt hoàn toàn thích thú, rằng binh lính của chúng rất “không vui vẻ” với đảng bởi vì đảng không bật đèn xanh cho họ để chiếm lại “Campuchia Crôm”, tức là Campuchia vùng thấp (Nam Việt Nam) cũng như các huyện biên giới dọc theo biên giới Thái Lan, đã từng là của Campuchia (Aranian, Xurin, v.v). Son Sen, thủ trưởng phụ trách quốc phòng, rêu rao rằng “quân đội cách mạng Campuchia” vinh quang của hắn có thể thanh toán nhanh chóng “quân đội của tướng Giáp, đừng nói gì đến quân đội Thái ít oai hùng hơn nhiều của Cu-crít Pra-mốt và Cri-ăng-xắc Cha-ma-nan” (xem “Chiến tranh và Hy vọng” của Sihanouk, tr.38-ND).


Son Sen cũng báo cho Sihanouk rằng “đe doạ của Việt Nam" giống như bệnh ung thư ăn mòn thân thể Campuchia, và sự sống còn thực sự của nhân dân Khmer phụ thuộc vào “sự trừ diệt hoàn toàn” bệnh ung thư đó. Nhiều lần từ năm 1976 đến 1978, Son Sen và Khieu Samphan phác hoạ cho Sihanouk những kế hoạch của họ nhằm đạt mục đích nói trên đây. Bệnh “ung thư” đó đòi hỏi một cuộc “phẫu ba phần”:

1.Tuyệt đối không cho công dân Việt Nam, dù họ có thể là ai, quyền sống tại Campuchia. Những cố gắng của Khmer đỏ trong hướng này là sự thủ tiêu về thể chất một số lớn những kiều dân Việt Nam “bị nghi là tay chân hoặc gián điệp cho vm hoặc Việt cộng” và việc hồi hương bắt buộc đối với tất cả những kiều dân Việt Nam khác.

2.Ra lệnh cho tất cả những người Campuchia, trai cũng như gái, làm việc bằng hai, bằng 10 lần so với người Việt Nam, để như Khieu Samphan nói với tôi, làm cho Campuchia mạnh hơn nhiều về mọi mặt (quân sự, kinh tế, tư tưởng). Theo các nhà lãnh đạo Khmer đỏ, công việc điên rồ mà họ bắt nhân dân phải làm sẽ biến Campuchia thành một “pháo đài không thể đánh chiếm được”….

3.”Chấp nhận” một cuộc chiến đấu quy mô lớn với Việt Nam: Vì mục đích gì? Vấn đề các đất thánh của Việt Nam phải bị đánh đuổi; chúng phải bị loại bỏ. Một ranh giới “công bằng hơn” ở biên giới Campuchia và Việt Nam cũng rất cần thiết. Cuối cùng, phải chống lại đe doạ của chủ nghĩa bành trướng Xô-Việt. Nếu Campuchia dân chủ không ngăn chặn nó, cuối cùng nó sẽ làn ra phần còn lại của Đông Nam Á và thậm chí xa hơn nữa… (xem sách đã dẫn của Sihanouk, tr.45-46-ND).


Để làm theo dự tính đó, sau khi chấm dứt chiến tranh, chính phủ Campuchia dân chủ mở rộng nhanh chóng lực lượng vũ trang của họ. Nhưng những ý kiến đó không thể biến thành thực tiễn được trong thời kỳ 1975-1976 bởi vì phái Pol Pot bị hạn chế vì sức mạnh của những nhóm kình địch trong hệ thống Đảng Cộng sản Campuchia. Chỉ sau khi thanh lọc xong các nhóm đó, vào cuối năm 1976, Pol Pot mới rảnh tay đối phó với người Việt Nam theo ý muốn của ông ta.


Do đó bằng chứng dường như ủng hộ những nhà văn như Gareth và Ben Kierman đã lập luận rằng các quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia từ sau thắng lợi cộng sản năm 1975, có thể giải thích một cách hợp lý trên cơ sở cuộc đấu tranh phe phái giữa người Khmer đỏ với nhau hơn là trên cơ sở những kế hoạch cho là của Hà Nội về một “liên bang Đông Dương". Không phải chỉ muốn được để yên, như Heder cho là như vậy, phái Pol Pot hậm hực muốn đánh nhau với Việt Nam. Không nghi ngờ gì, người Việt Nam khuyến khích những đối thủ của Pol Pot, nhưng mức độ dính líu của họ vào cuộc đấu tranh nội bộ của Đảng ở Campuchia thì không được biết rõ. Dù sao Pol Pot cũng đổ tội cho họ về tất cả sự chống đối đã được dấy lên vì các chính sách thô bạo của chính ông ta. Việc quét sạch sự chống đối bên trong được làm song song với chiến dịch thù địch đối với Việt Nam và đồng thời cũng gạt bỏ bất cứ sự kiềm chế nào trong thái độ trước đây của Pol Pot đối với người Việt Nam.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2007, 09:17:45 pm »

Căng thẳng ở biên giới Thái 1977

Trước khi trực tiếp đi vào sự bùng nổ chiến sự trên biên giới Việt Nam-Campuchia, điều quan trọng là cần nhắc lại rằng nó trùng hợp với một loạt các sự kiện dọc theo các biên giới của Campuchia với cả Lào lẫn Thái Lan. Chúng ta đã thấy trong chương ba rằng tình hình trên biên giới Lào lần đầu tiên trở nên căng thẳng vào cuối năm 1976 và xấu đi sau đó.


Tình hình trên biên giới Thái còn nghiêm trọng hơn nhiều. Ngày 28 tháng giêng năm 1977, binh lính Khmer đỏ và chạm với quân Thái tại bản Noi Pa-rai, phía bắc đô thị biên giới A-ra-ni-a-pra-tét. Không những không rút lui, cả hai bên rõ ràng tăng thêm quân và cuộc chiến đấu lan ra hai xa lân cận. Ba mươi lính Thái và một số không rõ lính Khmer đỏ bị giết.


Chính phủ Băng Cốc tìm cách tốt nhất để công bố sự kiện đó, tố cáo rằng một cuộc xâm chiếm lãnh thổ Thái của Campuchia đã xảy ra. Những nhà báo đã được đưa đến để xem xét các nhà cửa đã bị tan nát và bỏ trống và những xác chết sứt sẹo, nham nhở và nói chung đã chấp nhận tường thuật của chính phủ Thái (nhà báo duy nhất muốn xem xét lại bối cảnh của câu chuyện một cách chặt chẽ hơn đã bị đuổi ra khỏi nước). Trước đợt tuyên truyền đó, Phnôm Pênh buộc phải đưa ra bản tin của phía mình hai tuần sau đó. Bản tin nói rằng các xã có liên quan nằm trên lãnh thổ Campuchia, và điều đã xảy ra ở đó là một “vấn đề nội bộ”, không phải là công việc của ai khác: “Những biện pháp mà chính phủ Campuchia dân chủ thực hiện trên lãnh thổ của mình là phù hợp với chủ quyền tuyệt đối của Campuchia dân chủ”. Phnôm Pênh tố cáo rằng các xã đó đã được dùng làm căn cứ cho những du kích Khmer Xơ-rây cánh hữu mà chế độ độc tài quân sự Thái Lan khuyến khích hoạt động.


Không phải là một chuyện dễ để xác định cái trái và cái phải của sự kiện đó. Biên giới Thái-Campuchia không được vạch một cách rõ ràng ở phía bắc của A-ra-ni-a-pra-tét và nó chạy dọc theo một vùng đất bằng phẳng, không có nét đặc biệt. Noi Pa-rai rõ ràng là một vùng đất mới, không thấy tên trên bản đồ của khu vực do đó không thực sự chắc chắn thuộc về ai. Ở phía Thái Lan, tỉnh Pra-chin-bu-ri đã có lúc là một bộ phận quan trọng của đế chế Khmer và ngày nay số dân ở đó gồm cả người Thái, Lào và Khmer. Những người địa phương có tục lệ đi lại ít nhiều tự do qua biên giới và khu vực biên giới vẫn tiếp tục là trung tâm buôn lậu và hoạt động nổi loạn, tuy Khmer đỏ vẫn cố gắng dập tắt cả hai.


Quan hệ giữa các nhà chức trách Khmer đỏ và Thái Lan địa phương đã trở nên xấu trước khi xảy ra cuộc bắn nhau ở Noi Pa-rai. Có thể cuộc đảo chính quân sự tháng 10 năm 1976 ở Băng Cốc có nghĩa là quân đội và cảnh sát Thái ở biên giới được rảnh tay hơn, nhưng chất xúc tác trước mắt là cuộc tiến công của Campuchia chống lại các trại Khmer Xơ-rây trong vùng núi ở phía nam A-ra-ni-a-pra-tét. Bọn Khmer Xơ-rây chạy vào Thái Lan, và xảy ra những va chạm mạnh giữa quân Khmer đỏ truy kích và cảnh sát biên giới Thái.


Cả hai bên trả lời bằng cách tăng lực lượng của mình dọc theo biên giới, và khu vực không có ranh giới rõ ràng ở phía bắc A-ra-ni-a-pra-tét nhanh chóng trở thành một khu vực căng thẳng. Khi các uỷ ban liên lạc biên giới Thái-Campuchia gặp nhau tháng 12, cả hai phía trách cứ lẫn nhau và phía Campuchia chua chát tố cáo người Thái tích cực ủng hộ hoạt động Khmer Xơ-rây ở biên giới. Noi Pa-rai nhanh chóng nổi lên là tiêu điểm của những tranh chấp đó và cuộc họp tan vỡ, với mối bất đồng không giải quyết được. Dù cho ai là người chịu trách nhiệm về bạo lực xảy ra ba tuần sau đó tại noi Pa-rai, nó vẫn là một sự khiêu khích cố ý.


Có thể ít ai nghi ngờ rằng sự kiện đó đã đánh dấu việc theo đuổi một lập trường hung hăng hơn về phía Campuchia. Họ làm ngơ trước những kêu gọi của Thái Lan tổ chức những cuộc họp thêm nữa của uỷ ban liên lạc biên giới. Họ trả lời những đề nghị vạch ranh giới của Thái Lan bằng việc đòi Thái Lan từ bỏ việc ủng hộ các nhóm Khmer Xơ-rây. Những tin tức về các cuộc tiến công của Khmer đỏ vào các xã Thái Lan và về những xung đột với cảnh sát biên giới và binh lính Thái đã trở nên hầu như điều xảy ra hàng ngày trong vài tháng tiếp theo, không phải chỉ ở khu vực không rõ rệt quanh Noi Pa-rai mà còn trên khắp biên giới phía Tây của Campuchia. Tháng 8, thủ tướng Thái tố cáo người Campuchia về khoảng 400 cuộc xâm nhập kể từ đầu năm, và nói rằng Thái Lan sẽ không có lựa chọn nào khác trừ việc làm chiến tranh nếu Campuchia không chịu ngừng lại. Sau tuyên bố đó, con số các rắc rối giảm xuống và vào tháng giêng năm 1978 một phát ngôn quân sự Thái Lan có thể tuyên bố rằng biên giới “rồi cũng trở nên yên tĩnh”.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2007, 09:19:01 pm »

Chiến tranh biên giới Việt Nam-Campuchia, 1977-1978

Phải thấy rõ rằng từ tình hình trên đây, vấn đề chủ yếu thuộc về phía Campuchia chứ không phải phía Thái Lan. Tuy vậy, cuộc va chạm tại Noi Pa-rai minh hoạ việc những va chạm nhỏ, với nguồn gốc chẳng ai biết đến, có thể leo thang như thế nào để thành những đối đầu quy mô đầy dủ, khi cả hai bên có những thái độ không khoan nhượng. Nó cũng gợi cho ta nghĩ đến một điều gì đó rất gần với việc trên đây, cũng đã xảy ra ở biên giới Việt Nam, và đó chính là điều mà Heder đã nghĩ đến. Anh ta viết rằng, khi ngày tháng trôi qua sau lúc các cuộc hội đàm giữa Việt Nam và Campuchia bị đổ vỡ tháng 5 năm 1976, cả hai bên đã trở nên “ngày càng không còn kiên nhẫn với sự bế tắc nữa”, và hậu quả của tình hình đó có lẽ là sự căng thẳng tăng lên dọc theo biên giới. Anh ta cũng cho rằng cuộc xung đột quy mô đầy đủ là kết quả của tính không khoan nhượng của cả hai bên.


Nhưng Heder cũng đưa tin rằng các uỷ ban liên lạc biên giới đã xử lý một cách thành công các rắc rối trên biên giới Việt Nam-Campuchia trong phần thứ hai của năm 1978. Những rắc rối đó “rõ ràng là không thường xuyên và quy mô nhỏ”. Bây giờ chúng tôi được biết rằng chế độ Campuchia lúc đó bận vào cuộc đấu tranh quyền lực nội bộ rất mãnh liệt. Rồi, tiếp theo thắng lợi của phái Pol Pot, tình hình đã đồng thời xấu đi trên tất cả các biên giới của Campuchia. Và ngay dù cho Hà Nội có ngày càng trở nên kém bình tĩnh trong việc xử sự với Phnôm Pênh đi nữa (điều không chắc đã xảy ra), cũng rõ ràng không phải những hành động của phía Việt Nam đã khởi xướng một mức mới của xung đột.


Trong ba tuần đầu của tháng giêng năm 1977, các lực lượng Campuchia tiến hành những cuộc tiến công vũ trang vào các nơi định cư dân sự trong 6 của 7 tỉnh biên giới. Những cuộc tiến công tồi tệ nhất là trong các tỉnh Kiên Giang và An Giang, chạy từ sông Mê Công ra đến bờ biển. Các tỉnh đó cũng đối diện với khu Tây Nam của Campuchia, lúc đó dưới sự kiểm soát của Ta Mok, đồng minh khu vực chính của Pol Pot. Tháng 5, tỉnh lỵ An Giang, thị xã Châu Đốc, và thành phố bờ biển Hà Tiên (số dân 30.000) đã bị trọng pháo Campuchia bắn phá. Một năm sau, khi cuộc tranh chấp được đưa ra công khai, chính phủ Việt Nam cho rằng quân Khmer đỏ trong thời gian đó đã “phạm những tội ác cực kỳ vô nhân đạo, hiếp dâm, lôi bào thai ra khỏi bụng mẹ, mổ bụng người lớn, thiêu sống trẻ con”. Tuy vậy chính phủ Việt Nam (trái với chính phủ Thái) đã giữ một sự yên lặng cẩn trọng lúc đó, và người ta có thể có xu hướng xem đó như chỉ là tuyên truyền. Nhưng những thuyền nhân Việt Nam đến các nước khác từ khu vực đó đã tin về đánh lớn và về những tàn bạo lan tràn của Khmer đỏ. Sau đó, những người tị nạn Khmer từ vùng biên giới đó cũng xác nhận rằng phía Campuchia đã tiến công Việt Nam. Về vấn đề này, chế dộ Pol Pot không cải chính những lời buộc tội và cũng không lên án người Việt Nam khởi xướng cuộc chiến đấu lúc đó.


Như vậy, rõ ràng là chính hành dộng quân sự của phía Campuchia đã đẩy đến cuộc đụng đầu quy mô đầy đủ giữa Việt Nam và Campuchia năm 1977-1978. Đây không phải là sự giải thích theo cách suy nghĩ riêng của chính chúng tôi: nó là một cách nhìn mà các chuyên gia phương Tây thù địch với chính phủ Hà Nội, cũng tán thành. D.R.Sar Desai chẳng hạn, tin vào những luận điệu về “Liên bang Đông Dương” (tuy không đưa ra được bằng chứng nào để ủng hộ những luận điệu đó) và lập luận rằng “chế độ Pol Pot chắc chắn được bào chữa khi cố dùng mọi cách để đẩy lùi việc biến Campuchia thành một vệ tinh của Việt Nam". Tuy vậy khi anh ta đi vào chi tiết của cuộc tranh chấp bbiên giới, thì anh ta kết luận: “… Người Campuchia rõ ràng quyết định rằng tiến công là hình tức tốt nhất của phòng thủ…” (xem “sự tìm kiếm an ninh của Việt Nam” của D.R Sar Desai-ND). Như vậy, ngay dù cho những ý nghĩ về một Liên bang Đông Dương còn lảng vảng ở Hà Nội thì cũng không phải hành động xuất phát từ các ý nghĩ đó dẫn đến cuộc xung đột.


Heder thừa nhận rằng chính phủ Campuchia chịu trách nhiệm về sự khởi xướng chiến sự trong năm 1977. Anh ta nói: tháng giêng năm 1977 người Campuchia quyết định “tăng sức ép” đối với Việt Nam bằng việc đưa quân để “biểu lộ một sự có mặt của Campuchia” trên các khu vực nằm trong tay của Việt Nam mà phía Campuchia đã yêu sách tại cuộc họp tháng 5 năm 1976. Khi người Việt Nam trả lời việc “tuần tra tăng cường” đó bằng củng cố các vị trí quân sự của họ, thì phía Campuchia “bắt đầu khởi xướng những hoạt động quân sự" trên biên giới tháng 4 năm 1977. Vào giai đoạn này, Heder nói, người Campuchia không còn quan tâm đến khu vực mà họ đã đòi cho Campuchia tháng 5 trước, nhưng cố “chứng minh rằng người Campuchia có đủ khả năng đánh vào lãnh thổ Việt Nam". Không có sự khiêu khích nào của Việt Nam hoặc tiền lệ nào được nhắc tới để làm bằng cớ cho bất cứ hành động leo thang nào của phía Campuchia. Heder giải thích việc đó như là một bộ phận “chiến lược thương lượng” của Campuchia sau khi không thành công trong việc ký một hiệp ước: “Có lẽ người Campuchia thấy rằng họ nên phá vỡ bế tắc bằng việc làm cho người Việt Nam phải chịu nhiều tổn phí hơn… vì phải dựa vào sức mạnh quân sự lớn hơn của họ để giữ nguyên trạng… Những cuộc tiến công quân sự do Campuchia khởi xướng đó là một phận của chiến lược thương lượng. Người Campuchia không đưa ra những yêu sách nào mới về lãnh thổ và cũng không tìm cách vĩnh viễn chiếm bất cứ mục tiêu nào của các cuộc tiến công đó. Trái lại, họ vẫn tin rằng họ chỉ đáp lại xứng đáng điều mà họ xem như là sự xâm lược lâu đời và trên thực tế của Việt Nam chống lại lãnh thổ Campuchia (Xem “Cuộc xung đột Campuchia-Việt Nam" của heder, tr.32-ND).
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2007, 09:20:13 pm »

Như vậy, theo logic đảo điên hỗn loạn của Pol Pot (mà Heder không chỉ trích) thì những cuộc tiến công vũ trang vào lãnh thổ không tranh chấp của Việt Nam nhằm làm chỗ dựa cho một yêu sách về quyền đơn phương điều chỉnh biên giới có lợi cho Campuchia, là “phòng ngự” về tính chất. Do đó, không lấy gì làm lạ thấy rằng những hành động quân sự đó đã được Heder diẽn tả như một “chiến thuật thương lượng”, ngay dù cho chính phủ Campuchia chứ không phải Việt Nam đã cắt đứt thương lượng và không chịu tiếp tục lại. Bởi vì, như Heder đã giải thích, những nhà lãnh đạo Khmer đỏ hiểu rằng, “thương lượng” nghĩa là phía bên kia phải chấp nhận không điều kiện những yêu sách của họ. Và vì Pol Pot tin rằng ông ta là một bên đã bị thiệt thời trong cuộc tranh chấp nên việc Việt Nam không chịu cúi đầu trước những yêu sách của ông ta, ngay khi ông ta dùng hành động quân sự trên lãnh thổ Việt Nam để hỗ trợ, là một sự “xâm lược” chống Campuchia.


Người Việt Nam đáp lại những cuộc tiến công đó bằng việc xây dựng công cuộc phòng thủ biên giới, nhưng rõ ràng họ không tiến hành một cuộc phản công nào trong nửa đầu của năm 1977. Tin tức báo chí phương Tây lúc đó nói đến những cuộc xâm phạm lớn của Việt Nam vào Campuchia tháng 4 và tháng 5, nhưng những tin đó tỏ ra là nhầm lẫn bởi vì tường thuật sau đó của chế độ Pol Pot không hề nhắc đến. Theo Sách đen, người Việt Nam lúc đó còn đặt hy vọng của họ vào “những âm mưu” của tay sai bên trong Đảng Cộng sản Campuchia. Hoàng Túc, lúc đó là biên tập chính trị của báo Nhân Dân và là một uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, về sau tuyên bố rằng người Việt Nam đã đáp ứng một cách thụ động các cuộc tiến công ban đầu của Campuchia với hy vọng rằng sự kiềm chế đó sẽ làm cho một giải pháp bằng thương lượng trở nên dễ dàng hơn. Tiếp theo những cuộc xâm nhập ào ạt của Campuchia trong tháng 4 và tháng 5, ông Tùng cho biết, người Việt Nam vạch ra những kế hoạch dự phòng cho một cuộc phản công quân sự, nhưng họ vẫn còn hy vọng một giải pháp ngoại giao (xem bài của Nayan Chanda đăng trong Tạp chí Kinh tế Viễn Đông FEER ngày 21-4-1978-ND).


Ngày 7 tháng 6, người Việt Nam gửi một thư hoà giải cho Phnôm Pênh, đề nghị rằng một cuộc họp cấp cao nên được tổ chức để giải quyết vấn đề biên giới càng sớm càng tốt. Chính phủ Pol Pot bác bỏ đề nghị đó ngày 18 tháng 6, khẳng định rằng tốt hơn là để cho “một số thời gian trôi qua” truớc khi có bất cứ cuộc hội đàm nào. Trong khi chờ dợi, phía Campuchia đề nghị rút lực lượng hai bên ra khỏi các “khu vực tranh chấp”. Các cuộc tiến công của Campuchia vẫn tiếp tuụ ở biên giới (vào lúc Phnôm Pênh gửi thông điệp cho Hà Nội, Châu Đốc bị Campuchia tiến công bằng trọng pháo).


Khi sáng kiến đó bị thất bại, người Việt Nam chuyển sang lựa chọn trả đũa bằng quân sự. Tháng 7, tướng Giáp công khai đi xem xét vùng biên giới. Đây là một lời báo trước cho phía Campuchia phải ngừng tiến công, nhưng (xét theo nội dung của Sách đen) Pol Pot xem đó là một dấu hiệu nói lên việc Việt Nam chọn một chiến lược mới nhằm nuốt cửng Campuchia; với âm mưu chiếm Campuchia từ “bên trong” bị thất bị (do sự “cảnh giác” mẫu mực của chế độ Pol Pot), cho nên vào gữa năm 1977 họ buộc phải “vạch một kế hoạch cho một cuộc tiến công quy mô lớn” để chiếm từ ”bên ngoài”.


Đánh nhau mạnh lại xảy ra lần nữa ngày 24 tháng 9, ngay sau khi Pol Pot xuất hiện trở lại từ bóng tối và ngay trước cuộc đi thăm Bắc Kinh đắc thắng của ông ta. Mỗi bên cho bên kia chịu trách nhiệm về cuộc đánh nhau đó. Theo người Việt Nam, Khmer đỏ tiến công dọc tất cả biên giới của tỉnh Tây Ninh (nằm phía bắc Mỏ Vẹt) với bốn sư đoàn; nội dung tin này đã được các nguồn tin tình báo Mỹ ủng hộ. Theo Hoàng Tùng, đến lúc này người Việt Nam mới quyết định lấy sức mạnh chống lại sức mạnh khi họ tiến hành một cuộc phản công mạnh, tuy họ không tiến vào Campuchia. Tuyên bố tháng 12 năm 1977 của Campuchia nói rõ rằng các cuộc tiến công lớn đầu tiên xảy ra vào lúc đó; đó là một sự thừa nhận gián tiếp rằng cuộc đánh nhau trước đó là kết quả của các cuộc tiến công Campuchia. Tuyên bố cũng tố cáo người Việt Nam thâm nhập “hàng chục kilômét” vào lãnh thổ Campuchia, phạm những tàn bạo kinh khủng chống lại nhân dân, thiêu đốt thôn xóm, và cướp bóc hàng nghìn tấn gạo ngoài đồng và trong kho. Đánh nhau lớn tiếp tục cho đến tháng 11.


Rồi, ngày 16 tháng 12, rõ ràng là đến lượt người Việt Nam leo thang cuộc xung đột quân sự trên biên giới. Như có thể thấy trước, cả hai bên đưa ra những tường thuật rất mâu thuẫn nhau về điều đã xảy ra. Trong khi chấp nhận rằng quân của họ tiến công bằng lực lượng lớn (tin báo phương Tây đưa con số từ 30.000 đến 60.000 bộ binh với sự yểm trợ của xe tăng, máy bay và pháo lớn) sâu vào 40 kilômét trong lãnh thổ Campuchia, nhưng người Việt Nam cho rằng cuộc tiến công là để trả lời những cuộc lấn chiếm của Campuchia vào Việt Nam. Họ cải chính mọi mưu đồ chiếm đóng vĩnh viễn lãnh thổ Campuchia. Ba tháng sau, Hoàng Tùng mô tả những mục tiêu của họ như sau: “Trước hết là để đuổi lính Campuchia ra khỏi lãnh thổ chúng tôi và rồi để đánh đòn mạnh vào các sư đoàn của họ, để làm cho họ nhận thức được rằng chúng tôi không thụ động như họ tưởng và để nói với họ rằng họ nên chọn giải pháp khác. Đó không phải là tổ chức một cuộc đảo chính”. Cũng theo người Việt Nam, sau khi đạt mục đích, họ đã rút lực lượng của họ trở lại biên giới đầu tháng giêng năm 1978.


Nếu hành động đó là nhằm vào việc đưa các nhà lãnh đạo Khmer đỏ đi vào một lập trường kiềm chế hơn, như nững đe doạ chiến tranh công khai của Thái Lan đã làm tháng 8 trước đây, thì hành động đó là một thất bại đáng buồn. Phnôm Pênh đã trả lời bằng việc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 31 tháng 12 và cuối cùng đưa ra toàn bộ cuộc tranh chấp giữa hai chế độ cộng sản ra công khai qua việc tiến hành một đợt tuyên truyền chống Việt Nam. Việc rút các lực lượng Việt Nam tháng giêng đã bị Phnôm Pênh xem như là bằng chứng ưu thế quân sự của Campuchia và tính chất yếu kém và hèn nhát của người Việt Nam.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 04 Tháng Mười, 2007, 09:21:05 pm »

Trong tuyên bố ngày 31 tháng 12, chính phủ Campuchia tuyên bố sự sẵn sàng tham gia thương lượng về xung đột biên giới “trong một tinh thần hữu nghị”. Nhưng khi người Việt Nam trả lời bằng cách yêu cầu hai bên “gặp nhau càng sớm càng tốt, ở bất cứ cấp nào, để cùng nhau giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước trong tinh thần hữu nghị anh em” thì người Campuchia từ chối. Một tuyên bố của Bộ thông tin Campuchia ngày 3 tháng giêng năm 1978 đòi người Việt Nam rút khỏi lãnh thổ Campuchia và đòi một hiệp định tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia như là điều kiện tiên quyết cho thương lượng: Người Việt Nam phải “trước tin tạo một không khí hữu nghị và tin cậy lẫn nhau” trước khi chính phủ Campuchia dân chủ đồng ý thương lượng.


Tiếp theo việc rút quân của họ tháng giêng, người Việt Nam lại đề nghị thương lượng. Ngày 5 tháng 2 năm 1978 thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch đề nghị chấm dứt ngay chiến sự trên biên giới, rút các lực lượng vũ trang của cả hai bên cách xa biên giới 5 kilômét, tổ chức một cuộc hội nghị để ký một hiệp ước “trên cơ sở tôn trọng chủ quyền lãnh thổ của nhau trong biên giới hiện tại” và đạt một thoả thuận về “một hình thức thích hợp của sự bảo đảm và giám sát quốc tế”. Đề nghị này tương đương với những đề nghị của người Khmer tháng 6 trước, chỉ khác người Việt Nam nhấn mạnh vào “biên giới hiện có” chứ không phải “các lãnh thổ tranh chấp”. Họ cũng muốn thương lượng càng sớm càng tốt và sẵn sàng chấp nhận giám sát từ bên ngoài, cả hai điều đó đều không thể chấp nhận đối với Phnôm Pênh.


Phía Campuchia từ chối thảo luận những đề nghị đó với lý do rằng chúng không được chuyển đến Phnôm Pênh qua các con đường chính tức (sứ quán Việt Nam ở đó đã bị đóng cửa). Lúc đó người Việt Nam gửi một thư ghi rõ những đề nghị đó cho Ieng Sary qua đại sứ Lào ở Phnôm Pênh, nhưng Sary không nhận bức thư. Cuối cùng bản thân Pol Pot lên Đài phát thanh Campuchia Phnôm Pênh ngày 12 tháng 4 đưa ra trả lời của Campuchia. Ông ta lặp lại từ chối thương lượng của Campuchia dân chủ và tuyên bố “quyền” của Campuchia “đòi xét lại các văn kiện về biên giới và sửa đổi đường ranh giới trên đất và trên biển”, và “giải quyết lại vấn đề Campuchia Crôm”. Có thể cho rằng sự chấp nhận những điều kiện về chủ quyền của Campuchia là một điều kiện tiên quyết cho thương lượng.


Trong những tháng tiếp theo, bế tắc ngoại giao vẫn tiếp tục. Tháng 6 năm 1978, Bộ Ngoại giao Campuchia bào chữa cho việc Campuchia từ chối thương lượng bằng cách tuyên bố rằng những đề nghị của Việt Nam là nhằm “lừa dối dư luận thế giới” và đề nghị rút quân Campuchia 5 kilômét cách xa biên giới “tự động để cho Việt Nam thôn tính một vành đai lãnh thổ Campuchia rộng 5 kilômét”. Trong lúc đó thì cuộc xung đột quân sự tăng lên, một sự phát triển mà phía Campuchia công khai nhận trách nhiệm. Ngày 10 tháng 5, Đài phát thanh Phnôm Pênh tuyên bố rằng sau “thắng lợi” đối với người Việt Nam ngày 6 tháng giêng “chúng tôi không để cho người Việt Nam bắt đầu những cuộc tiến công thêm nữa chống lại chúng tôi, trái lại chúng tôi vẫn tiếp tục tiến công chống lại họ”.


Chiến tranh biên giới với Campuchia đã gây thiệt hại lớn cho Việt Nam năm 1977-1978. Theo thống kê mà Hà Nội công bố năm 1979, thì Khmer đỏ đã phá huỷ 25 đô thị và 96 xã, 257.000 người trở nên không có nhà cửa, và 100.000 ha đất trồng trọt đã bị bỏ hoang vì chiến tranh. Với việc Việt Nam đã ở trong một tình trạng khủng hoảng rồi, sự tổn thất đó là điều mà chính phủ Hà Nội không thể chịu đựng một cách vô thời hạn được.


Rõ ràng là trách nhiệm về cuộc xung đột thuộc về chế độ Phnôm Pênh. Không có bằng chứng rằng Hà Nội có dự tính một cuộc xung đột với Phnôm Pênh sau năm 1975. Việt Nam không đưa ra yêu sách về lãnh thổ nào với Campuchia, trừ phi người ta muốn suy diễn cuộc tranh chấp ở biên giới trên biển theo huớng đó. Những va chạm ban đầu đã được giải quyết và những biện pháp thực tiễn để xử lý với bất cứ va chạm nào trong tương lai cũng đã được thoả thuận. Chính phía Campuchia đã khởi xướng cuộc chiến đấu năm 1977, họ leo thang và rồi ngăn cản mọi giải pháp thương lượng. Khi người Việt Nam cuối cùng trả lời bằng vũ lực thì Phnôm Pênh lại từ chối thương lượng và chọn con đường leo thang chiến đấu hơn nữa. Trong những hoàn cảnh như vậy, chẳng có gì đáng lạ việc ban lãnh đạo Hà Nội kết luận rằng chiến tranh với Campuchia sẽ không chấm dứt chừng nào bên gây ra chiến tranh ở Phnôm Pênh chưa bị lật đổ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM