Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 09:53:56 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những kỹ sư quân sự nổi tiếng của VN!  (Đọc 90077 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
mig21-58
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 576

binh nhì


« Trả lời #20 vào lúc: 27 Tháng Bảy, 2010, 11:07:31 pm »


Công ty tớ vẫn có 1 ông khẳng định hồi đó ta nâng tầm bắn bằng cách nối thêm 1 tầng. Tớ hỏi "Thế các cụ nhà mình dùng que hàn để hàn thêm tầng nối vào à, sao trước giờ mình không biết" thì bị mắng: "Bí mật quốc gia mà để chú mày biết thì còn gì là bí mật"
Em thấy hơi lạ...!!
  Đã là bí mật quốc gia mà nói cho bác biết à?Huh Huh
cái chuyện nâng tầm thì cũng đã nghe đồn từ lâu rồi ,nhưng còn có chuyện thế này mà tôi đã từng đọc ở một số báo quân đội đã rất lâu ,nói rằng để tăng xác suất trúng mục tiêu ,ta ngâm cứu cho  tăng thêm một cái vỏ thép hay gang ở đầu nổ ,khi nổ thì có nhiều mảnh hơn ,thành ra có xác suất trúng mục tiêu nhiều hơn
Logged
Su_35
Thành viên
*
Bài viết: 29


« Trả lời #21 vào lúc: 30 Tháng Mười Một, 2010, 06:13:10 pm »

Hồi đó em nghe mấy ông Bác kể là súng trường có thể bắn máy bay khi đang bay không biết có thế không theo em suy nghĩ thì họ thêm thuốc nổ vào đạn để nâng thêm tầm bay của đạn dài hơn
Logged
E2F9-QK7
Thành viên
*
Bài viết: 170



« Trả lời #22 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2010, 09:39:53 am »

Hồi đó em nghe mấy ông Bác kể là súng trường có thể bắn máy bay khi đang bay không biết có thế không theo em suy nghĩ thì họ thêm thuốc nổ vào đạn để nâng thêm tầm bay của đạn dài hơn

Không biết loại súng trường bác nói thuộc loại nào. Theo như cuốn sách "Giáo dục An ninh - Quốc phòng 11" và lời giảng của giáo viên dạy quốc phòng thì Ak khi lắp đạn xuyên cháy vào thì có thể bắn hạ được máy bay trực thăng Smiley
Logged

Tôi là lính, xa nhà đi trấn sơn khê. Hai mùa mưa mây mù che nẻo đường về. Khi vào lính nhận nếp sống đơn sơ, hai màu áo một niềm mơ. Ai mơ giấc mộng xa hoa trong đời, lính chỉ đơn sơ yêu đời.
Su_35
Thành viên
*
Bài viết: 29


« Trả lời #23 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2010, 01:06:51 pm »

Vừa rồi em đi dạo với bạn trên đường Bạch Đằng Thành Phố Đà Nẵng em gặp tàu hao hao tàu Quân Sự sát bên thành tàu có ghi chữ Giao Su- Vien Si Tran Dai Nghia có Bác nào biết về thông tin con tàu này không em thấy có cả người nước ngoài
Logged
hellboy139
Thành viên
*
Bài viết: 232


« Trả lời #24 vào lúc: 15 Tháng Mười Hai, 2010, 01:43:04 pm »

Vừa rồi em đi dạo với bạn trên đường Bạch Đằng Thành Phố Đà Nẵng em gặp tàu hao hao tàu Quân Sự sát bên thành tàu có ghi chữ Giao Su- Vien Si Tran Dai Nghia có Bác nào biết về thông tin con tàu này không em thấy có cả người nước ngoài
Những thông tin thế này bạn có thể tự tìm hiểu trước khi hỏi nhé, nhưng thôi, bạn có thể đọc ở đây
http://dantri.com.vn/c20/s20-428152/ha-thuy-tau-do-dac-bien-mang-ten-giao-su-vien-si-tran-dai-nghia.htm
Logged

Mỗi bước ta đi vùi thây quân giặc cướp nước, mỗi bước ta đi diệt tan bao bốt đồn thù...
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #25 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2011, 09:51:48 am »


CHUYỆN VỀ NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN HỌC CHẾ TẠO VŨ KHÍ TẠI LIÊN-XÔ

QĐND - Chủ Nhật, 04/12/2011, 23:44 (GMT+7)

QĐND - Là người Việt Nam đầu tiên được Liên Xô giúp đỡ đào tạo chính quy về chế tạo vũ khí, ông đã tham gia sản xuất nhiều loại vũ khí nổi tiếng của quân đội ta trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ như: SKZ 60, A12, mìn định hướng… Ông thuộc lớp cán bộ có công gây dựng nên Học viện Kỹ thuật Quân sự từ buổi sơ khai. Ông là Thiếu tướng Lê Văn Chiểu, nguyên Phó hiệu trưởng Trường Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự); nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật; nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng.

Trong đoàn vệ quốc 60 ngày đêm khói lửa ở Hà Nội

Sinh ra và lớn lên tại Phú Nhân, thuộc thành nội Huế, năm 1946, sau khi đỗ tú tài tại Trường Quốc học Huế, chàng thanh niên Lê Văn Chiểu háo hức ra Hà Nội theo học ngành Toán học đại cương. Tuy nhiên, mùa đông năm 1946 là bước ngoặt của cuộc đời anh. Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, anh đã “xếp bút nghiên”, xung phong vào lực lượng công binh, tham gia trong trận chiến 60 ngày đêm máu lửa chống Pháp ở Hà Nội.

Khi quân ta rút lên chiến khu Việt Bắc, Lê Văn Chiểu được cử làm thư ký cho ông Hoàng Đạo Thúy - Hiệu trưởng Trường Lục quân. Kháng chiến ngày càng ác liệt mà vũ khí của quân ta lúc ấy lại quá thô sơ, thiếu thốn, chủ yếu vẫn là gậy gộc, giáo mác… đối phó với cả một cỗ máy chiến tranh của đế quốc Pháp. Ngành quân giới đứng trước yêu cầu phải tập hợp những trí thức yêu nước để tự nghiên cứu, chế tạo vũ khí. Lúc ấy, những ai giỏi Toán đều được xếp vào quân giới. Những trí thức còn chưa rời ghế nhà trường, chưa trải qua đào tạo về chế tạo vũ khí như Lê Văn Chiểu, chiếm đa số. Vốn quý nhất của họ là lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng và tinh thần vượt khó.

Lê Văn Chiểu nằm trong biên chế của Phòng Xạ thuật (hay còn gọi thuật phóng) của Nha Nghiên cứu kỹ thuật - cơ quan nghiên cứu, chế tạo vũ khí, hàng quân dụng đầu tiên của quân đội ta.

SKZ 60 sấm sét phá vòng vây

Cuối năm 1948, yêu cầu đặt ra là quân ta phải có súng lớn để xuyên phá được hệ thống công sự bê tông của quân Pháp, Nha Nghiên cứu kỹ thuật triển khai nghiên cứu súng không giật SKZ 60. Ban nghiên cứu gồm 5 người do ông Nguyễn Trinh Tiếp - Trưởng phòng Xạ thuật - là trưởng ban, chủ trì đề tài. Ông Lê Văn Chiểu được phân công phụ trách tiến hành các bước thử nghiệm.
Súng SKZ 60 (quả đạn đã được cải tiến).

Nhớ lại thuở ấy, ông cho biết: “Ban nghiên cứu làm việc trong điều kiện hết sức thiếu thốn: Toàn bộ trang thiết bị chỉ có hai thước lô-ga-rít 7 số và một kính kinh vĩ để đo khoảng cách. Khó khăn hơn là việc thiếu tài liệu phục vụ nghiên cứu. Anh em đều phải tự mày mò, nghiên cứu, tính toán. Vật tư dùng để sản xuất súng đều thuộc loại thu hồi, tận dụng như nòng súng làm bằng ống nước, vỏ bình dưỡng khí… Những tư liệu quý nhất có từ hai nguồn: Thứ nhất là tài liệu do ông Trần Đại Nghĩa tự biên soạn và mang từ Pháp về; thứ hai là các sách về vật lý do ông Tạ Quang Bửu đặt mua tại Pháp nhân chuyến đi dự hội nghị Phông-ten-nơ-blô…”.

Sau khi nhận được tài liệu viết tay của ông Trần Đại Nghĩa về thuật phóng trong của súng pháo động - phản lực, anh em trong ban nghiên cứu đã phân tích, tính toán, tổng hợp kết quả và chọn phương án kết cấu.

Lê Văn Chiểu được phân công phụ trách sản xuất loạt “0” (loạt súng thử nghiệm). Loạt “0” được sản xuất tại Xưởng TĐ 97 (khu 10) bao gồm 10 khẩu SKZ 60 và 50 viên đạn. Khi hoàn thành sản xuất, một cuộc bắn thử nghiệm đã được tiến hành. Súng được đặt trên bờ suối ngắm vào một mỏm đá nguyên khối ở giữa suối. Tất cả hồi hộp chờ đợi. “Uỳnh”, sau khi bóp cò, viên đạn phóng đi, nổ giữa mỏm đá để lại một hõm sâu 1m. Mọi người vui mừng, ôm chầm lấy nhau, coi như thế là thành công. Không ai thấy cần phải bắn thử thêm nữa, để dành đạn nã vào giặc Pháp.

Súng SKZ 60 khi đó không theo một mẫu có sẵn nào, chỉ nặng 26kg lại có thể tháo rời để dễ mang vác. Đạn SKZ 60 là đạn lõm, nặng 9kg, có khả năng xuyên bê tông dày 60cm (gấp 3 lần ba-dô-ca 60). Phát huy kết quả nghiên cứu, Phòng Xạ thuật tiếp tục nghiên cứu SKZ 81, SKZ 120, SKZ 185mm. Tuy nhiên, SKZ 60 vẫn được ưu chuộng nhất do gọn nhẹ, tiện cơ động, hiệu quả cao.

Cuối năm 1949, trong Chiến dịch Lê Hồng Phong, lần đầu tiên ra trận, SKZ 60 đã lập công, tiêu diệt nhanh chóng các lô cốt bằng bê tông dày 60cm, tạo điều kiện cho những đơn vị xung kích của Đại đoàn Quân Tiên Phong (F308) nhanh chóng mở đột phá khẩu, góp phần quan trọng trong các trận đánh công đồn kiên cố, san bằng các cứ điểm của địch, nổi bật là trận đánh chiếm Phố Ràng, Phố Lu (Lào Cai). Sự ra đời của “đại bác không giật” SKZ 60 có tiếng vang lớn, làm cho kẻ thù khiếp sợ.

Trong hồi ký “Chiến đấu trong vòng vây”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh giá, sản xuất được SKZ 60 là “thành công lớn” của quân giới nước ta trong những năm chiến đấu trong vòng vây: “Với một nền công nghiệp lạc hậu, không có khả năng sản xuất ra một khẩu súng trường mà chúng ta lại sản xuất được các vũ khí hiện đại, nòng trơn, các vũ khí dùng nguyên tắc phản lực và đạn lõm, như ba-dô-ca, SKZ… Đó là những vũ khí tối tân lúc bấy giờ, đủ khả năng tiêu diệt những phương tiện mạnh nhất của địch như xe tăng, cơ giới, phá tan các lô cốt boong-ke của chúng góp phần làm thất bại chiến lược chiến tranh đồn bốt của bọn thực dân”.

Với những thành tích của mình, năm 1949, ông Chiểu được kết nạp Đảng.

Năm năm rưỡi khổ học ở Trường Bau-man

Năm 1951, ta bắt đầu gửi lớp học sinh đầu tiên sang Liên Xô, với kỳ vọng sẽ là những viên gạch hồng xây dựng cách mạng trong tương lai. Ông Lê Văn Chiểu vinh dự và may mắn được nằm trong lớp du học sinh đầu tiên ấy. Họ gồm có 21 người, trong đó có 4 người theo học đại học gồm: Lê Văn Chiểu; Phạm Đồng Điện, sau này là Hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội; Nguyễn Đức Thừa, sau này là Phó hiệu trưởng Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội; Hoàng Bình, sau này là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp.
Ông Lê Văn Chiểu miệt mài bên bản thiết kế vũ khí trong thời gian học tại Liên Xô.

Ông Chiểu bồi hồi nhớ lại kỷ niệm được gặp Bác Hồ trước ngày lên đường du học. Đó là ngày 18-7-1951… Lúc ấy, cả nhóm du học sinh ngồi đợi Bác bên một dòng suối thuộc Đại Từ, Thái Nguyên. Bác đến lặng lẽ, mặc bộ quần áo cộc màu nâu gụ, đầu đội mũ ka-ki đã sờn. Bác nói về vai trò, trách nhiệm to lớn và niềm tin của cách mạng đặt trên vai những cá nhân ưu tú được cử đi học. Bác dặn: “Đây là lần đầu tiên Liên Xô giúp đỡ ta trong việc đào tạo cán bộ, vì thế các cháu phải xây dựng hình ảnh đẹp của người tham gia kháng chiến, người chiến sĩ cách mạng; phải phấn đấu học thật giỏi, thành thật, thân ái với các bạn nước ngoài. Lớp du học sinh đầu tiên này phải có trách nhiệm tạo tiền đề cho các lớp sau được thuận lợi…”. Rồi bất chợt Bác hỏi: “Ai là người nhỏ tuổi nhất ở đây?” Ông Chiểu đáp: “Cháu ít tuổi nhất, 25 tuổi ạ”. Bác nhìn ông nở nụ cười hiền hậu. Chỉ một chi tiết, một câu nói giản dị ấy thôi đã in đậm trong tâm trí của ông Chiểu, tạo ra ý chí quyết tâm, động viên, thôi thúc, nhắc nhở ông trên mỗi bước đường đời…

Lê Văn Chiểu là người duy nhất học về vũ khí. Ông học ở Trường Đại học Tổng hợp Bau-man, Khoa Cơ khí quốc phòng, ngành học vũ khí tự động trong năm năm rưỡi (từ 9-1951 đến 3-1957). Ngành này đào tạo kỹ sư để có thể thiết kế các loại súng từ đại liên cho tới đại bác 30mm (trên máy bay).

Để bồi dưỡng kiến thức cơ bản, Lê Văn Chiểu được gửi học từng thầy riêng, một thầy kèm một trò, học các môn khoa học cơ bản và kỹ thuật cơ sở chung. Có lẽ đây là trường hợp đặc biệt nhất của các du học sinh ở Liên Xô lúc đó. May mắn hơn, trong 3 năm cuối cùng, ông được học và thực tập cùng với sinh viên Liên Xô. Thời gian về sau, Liên Xô biên soạn giáo án riêng cho sinh viên nước ngoài, với chương trình dạy rất hạn chế, và chỉ dạy về cơ khí cơ bản, hoặc là đào tạo về khai thác vũ khí, chứ không dạy về thiết kế vũ khí nữa.
Ông Lê Văn Chiểu (người đứng ngoài cùng bên trái) và các bạn học tham gia mít-tinh kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1-5 (năm 1952) tại Liên Xô.

Ông Lê Văn Chiểu nhớ lại thời gian khổ học tại Liên Xô: "Tôi phải “ăn tranh thủ, ngủ tranh thủ”, gắng làm sao ngốn hết được khối lượng lớn kiến thức mà các giáo sư truyền đạt”. Khi được học môn thuật phóng trong và thuật phóng ngoài với các giáo sư danh tiếng, ông mới vỡ lẽ rằng nhiều vấn đề đã trở nên quen thuộc, đã được ngành quân giới non trẻ của chúng ta tự mày mò, tính toán được. Các tài liệu về B40 và ĐKZ 82 ở Liên Xô lúc bấy giờ vẫn còn ở dạng tuyệt mật. Thế nhưng, trong một buổi học, ông tâm sự với một vị giáo sư rằng nếu sau này học xong mà không được mang tài liệu về, các hệ số còn được giữ kín thì đành phải dùng lại những công thức mà ngành quân giới Việt Nam đã tính toán được khi còn ở trong rừng rậm. Vị giáo sư hỏi: Công thức ấy là gì? Ông Chiểu bèn trình bày lại những phương pháp tính toán của ông Trần Đại Nghĩa, đồng thời biểu diễn sử dụng phương pháp này để tính phương án súng ĐKZ dùng thuốc phóng lá mỏng và dài, cũng cho kết quả tương tự như giáo trình của nhà trường. Các giáo sư của bộ môn thuật phóng của Trường Bau-man đã hết sức ngạc nhiên và khâm phục.

Kỹ sư thiết kế vũ khí Lê Văn Chiểu tốt nghiệp với bằng đỏ (bằng loại giỏi của Liên Xô). Tìm lại trong những tập tài liệu cũ, ông lấy cho tôi xem bảng điểm trong mấy năm học tại Liên Xô. Đã hơn 50 năm nhưng những bảng điểm vẫn phẳng phiu do được cất giữ cẩn thận. Trong hơn năm năm học, ông Chiểu chỉ có duy nhất một điểm 4, còn tất cả đều là điểm 5 (điểm cao nhất trong thang điểm của Liên Xô)…

Khi về nước, ngoài những tài liệu giáo khoa, những vở ghi chép mật, những bảng giúp tính toán nhanh các tham số thuật phóng trong và đường đạn của súng pháo do Trường Bau-man gửi đến qua đường tổ chức liên lạc giữa hai nước, ông Chiểu còn mang về nhiều sách mua được về các ngành khoa học kỹ thuật có liên quan đến thiết kế và chế tạo vũ khí. Đây trở thành những tài liệu quý cho ngành quân giới Việt Nam.

(Còn nữa)

Hồ Quang Phương

http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/56/58/58/168886/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
lexuantuong1972
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 1885


TÂT CẢ VÌ ĐỒNG ĐỘI


« Trả lời #26 vào lúc: 06 Tháng Mười Hai, 2011, 10:00:27 am »


CHUYỆN ĐẦU TIÊN VỀ NGƯỜI VIỆT NAM HỌC CHẾ TẠO VŨ KHÍ TẠI LIÊN-XÔ

(tiếp theo và hết)

QĐND - Thứ Hai, 05/12/2011, 20:43 (GMT+7)

QĐND - Mùa hè năm 1957, ông Lê Văn Chiểu về nước và áp dụng những kiến thức quý báu học được tại Liên Xô để chế tạo các loại vũ khí lợi hại, phục vụ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta.
[/b][/i]
Chế tạo mìn định hướng[/b]

Năm 1962, trên chiến trường Mỹ-ngụy dùng mìn Cờ-lây-mo để phục kích quân ta. Đó là loại mìn vỏ nhẹ, dùng thuốc nổ để phóng mảnh về phía trước. Ông Chiểu nghe nói Liên Xô cũng có mìn định hướng, nhưng lại chưa có trong danh mục vũ khí viện trợ. Năm 1963, với cương vị trưởng phòng Nghiên cứu vũ khí (thuộc Cục Nghiên cứu kỹ thuật - Bộ Quốc phòng), ông và các cộng sự bắt tay nghiên cứu loại mìn này.

Ông Chiểu tìm thấy trong nội dung một báo cáo khoa học đăng trong tạp chí Vật lý ứng dụng của Liên Xô mô tả toán học hiện tượng nổ của một tấm phẳng thuốc nổ ghép sát với một tấm vật liệu rắn, đã giúp cách tính tốc độ văng của tấm vật liệu ấy và những yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ văng ấy: Tốc độ nổ và kích thước khối thuốc, khối lượng tâm vật rắn. Một điều đáng nói là tạp chí đã in sai công thức tính mà không đính chính. Ông Chiểu cùng các đồng nghiệp đã tính toán, chứng minh, xác định được lỗi in sai công thức trong phần tóm tắt tổng kết công trình. Trong sách “Vật lý nổ” cũng có hướng dẫn tính tốc độ văng các vật phẩm nổ từ mặt thuốc nổ, theo hướng vuông góc với mặt này…
 Ngày 17-4-1966, Bác Hồ cùng một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và quân đội xem trình diễn phóng tên lửa A12.

Từ các cơ sở ấy, ông Chiểu đã xây dựng được lý luận tính toán thiết kế mìn phóng mảnh định hướng. Sau đó đã làm các mẫu thử với nhiều hình dạng, kể cả dùng bánh thuốc TNT 200g có sẵn gọt mặt 100 × 200 hình máng chữ V và dán mảnh vào đó. Các cuộc thử nghiệm ở bãi thử công binh tại Đáp Cầu cho kết quả tốt.

Nhằm đưa nhanh kết quả phục vụ cho chiến trường miền Nam, vì nhận thấy mìn định hướng cấu tạo rất đơn giản, có thể làm được tại chỗ nên ông Chiểu và đồng nghiệp trong Phòng Nghiên cứu vũ khí đã viết tài liệu hướng dẫn thiết kế và chế tạo, in rô-nê-ô gửi lên Bộ Quốc phòng qua đường liên lạc.

Hơn một năm sau khi tài liệu được gửi đi, có tin về những trường hợp gài mìn diệt một lần hàng loạt tên địch ở chiến trường miền Nam. Anh em khấp khởi mừng thầm, mong đó là kết quả của việc phổ biến tài liệu mìn định hướng. Trong một lần xem chiếu bóng ngoài bãi, ông Chiểu thấy nhà báo Uyn-phrết Bớc-sét (người Ô-xtrây-li-a) cầm quả mìn trước bụng, giới thiệu là vũ khí “sát thủ” của “Việt cộng”. Ông nhận ra đó chính là mẫu mìn mà ông và đồng nghiệp đã thiết kế.

Mãi sau này, qua các tài liệu, ông mới được biết rằng, nhận được “Hướng dẫn thiết kế và chế tạo mìn phóng mảnh định hướng” do ông và các đồng nghiệp gửi vào, anh em trong Nam đã làm thử 8 quả mìn định hướng cỡ 300mm nặng 11kg. Thấy uy lực của loại mìn này, quân ta đã sản xuất hàng loạt và phát triển mìn ra một số loại hình thù như hình tròn, hình chữ nhật với các kích cỡ khác nhau. Mìn định hướng trở thành vũ khí rất lợi hại, giúp quân ta đánh trực thăng, chống càn quét, đánh ca-nô trên sông, đánh xe tăng, mở cửa đột phá qua rào dây thép gai nhiều lớp của địch một cách gọn ghẽ…

Tên lửa A12 thiêu đốt sân bay Đà Nẵng

Năm 1965, Mỹ ngày càng leo thang chiến tranh, có ưu thế trên chiến trường nhờ hỏa lực mạnh. Từ yêu cầu chiến trường lúc đó, quân ta cần có vũ khí gọn nhẹ nhưng uy lực mạnh, bắn đồng loạt từ xa, tiêu diệt trên diện rộng, tầm bắn chính xác. Lúc bấy giờ, ta đã được Liên Xô viện trợ tên lửa BM 14-17, giàn phóng 17 ống dày 2,6mm, cỡ nòng 140mm, đặt trên ô tô, toàn bộ nặng khoảng 2,5 tấn. Thế mà giàn phóng này chỉ bắn từng phát liên tiếp, không thể bắn đồng thời một loạt. Đạn nặng khoảng 40kg, có mấu hãm giữ trên bệ với lực 200kg. Giàn phóng ấy tuy hiện đại nhưng rất cồng kềnh, nặng nề, bất tiện cho tác chiến. Bộ tư lệnh Binh chủng Pháo binh đặt vấn đề xem có cách nào để cải tiến cho dễ cơ động hơn không. Nhiệm vụ ấy được giao cho Cục Nghiên cứu kỹ thuật (Bộ Quốc phòng).

Quá trình nghiên cứu được tiến hành trong năm 1965. Lúc đó, ông Lê Văn Chiểu vẫn đang là Trưởng phòng Nghiên cứu vũ khí (thuộc Cục Nghiên cứu kỹ thuật), là chủ nhiệm đề tài. Sau nhiều đêm trăn trở, ông quyết định mẫu thực nghiệm như sau: Bệ phóng gồm ống phóng bắt vào bệ gỗ. Ống phóng làm bằng tôn thép mỏng cuộn lại, dài 1140mm, ghép mép và hàn có đánh 4 đường sống dọc lồi vào bên trong, tiếp tuyến với mặt hình trụ của đạn. Tấm gỗ của bệ làm bằng ván dày 2cm bản rộng 25cm, dài 120cm. Tiện lợi ở chỗ, bệ tên lửa làm bằng gỗ này không cần vận tải vào Nam mà có thể dễ dàng làm tại chỗ dựa theo bản thiết kế. Toàn bộ bệ chỉ nặng khoảng 10,5kg.
 Thiếu tướng Lê Văn Chiểu và vợ tại nhà riêng tại Hà Nội, tháng 5- 2011.

Khi thử nghiệm, bệ phóng được kê đầu trên túi đất, chèn thêm các túi đất lên trên và quanh tấm gỗ để cố định bệ. Góc bắn được lấy 45 độ, điểm hỏa bằng 6 quả pin con thỏ 1,5 vôn. Thử nghiệm cho thấy luồng phụt không làm hư hại bệ phóng, có thể dùng lại được. Tầm bắn của giàn tên lửa mới này khoảng 8km, so với tầm bắn của BM 14-17 là 10km. Tuy nhiên, độ chính xác của giàn tên lửa mới lại khá cao. Giàn phóng ứng dụng có 12 ống, bắn đồng loạt. Theo biên chế mẫu, mỗi tiểu đội sẽ được tổ chức thành hai cụm, mỗi cụm 6 khẩu. Vũ khí mới này được mang tên là A12. Ống phóng tên lửa A12 rất gọn nhẹ, sức người vác được.

Trong một lần thử nghiệm, khi đứng dưới hào bật công tắc, không thấy giàn phóng có động tĩnh gì, ông Chiểu liền nhảy lên kiểm tra lại điện. Khi ông đang lúi húi ở chỗ công tắc, chỉ cách bệ phóng chừng 3m thì bất ngờ viên đạn phóng đi. Anh em hốt hoảng tưởng chuyện không hay đã xảy ra, nhưng rất may là ông không hề hấn gì. Tai nạn bất ngờ ấy lại chứng minh cự ly an toàn cho pháo thủ của giàn phóng.

Sau đó, A12 được quyết định sử dụng để tấn công sân bay Đà Nẵng, cứ điểm trọng yếu của Mỹ-ngụy. Đêm 26 rạng sáng ngày 27-2-1967, ta đã triển khai các giàn tên lửa A12 ở khu vực gần sân bay. Rạng sáng ngày 27-2-1967, mệnh lệnh từ Sở chỉ huy phát ra. Tên lửa lao vút đi thành hàng trăm vệt lửa sáng lòa, chụp xuống sân bay Đà Nẵng. Bộ đội ta phấn khích gọi đó là: B52 của ta đánh rải thảm sân bay Đà Nẵng. Sáng hôm sau, các hãng tin của nước ngoài đồng loạt đưa tin về “trận đánh lớn của pháo binh Việt cộng gây thiệt hại nặng nề cho căn cứ quân sự Đà Nẵng”… Tổng kết trận đánh, quân ta đã phá hủy 94 máy bay, 200 xe quân sự, tiêu diệt và làm bị thương hơn 1000 tên Mỹ-ngụy.

Trận tập kích bằng tên lửa A12 được đánh giá là trận đánh lớn nhất của chiến trường miền Nam thời điểm đó. Chiến thắng là cột mốc đánh dấu sự thay đổi trong tương quan hỏa lực của hai bên trên chiến trường, để lại nỗi kinh hoàng, lo lắng trong giới quân sự Mỹ và Sài Gòn lúc đó.

Hai Giải thưởng Hồ Chí Minh, một Giải thưởng Nhà nước

Năm 1966, khi đang say mê với công việc nghiên cứu vũ khí, ông bất ngờ được cấp trên giao cho nhiệm vụ mới: Nghiên cứu lập phương án xây dựng cơ sở đào tạo kỹ sư quân sự trong nước. Có đôi chút buồn vì phải rời công việc đã dành nhiều tâm huyết và đang cùng anh em guồng nhịp nghiên cứu, nhưng mệnh lệnh đã được đưa ra, hơn nữa, cũng là sự lựa chọn của cấp trên, ông nhanh chóng chuyển sang công tác mới. Ngày 28-10-1966, Phân hiệu II Đại học Bách khoa (tên gọi của Đại học Kỹ thuật Quân sự lúc đó) đã được thành lập. Ông Lê Văn Chiểu được bổ nhiệm là Phó hiệu trưởng, phụ trách công tác huấn luyện và nghiên cứu. Đại học Kỹ thuật Quân sự ra đời là một bước quan trọng, bền vững cho sự phát triển của ngành khoa học kỹ thuật quân sự của Việt Nam.

Trong khoảng 14 năm (1966- 1979), ông Lê Văn Chiểu đã nỗ lực góp phần xây dựng nền móng vững chắc của Đại học Kỹ thuật Quân sự (nay là Học viện Kỹ thuật Quân sự).

Về sau, ông còn trải qua một loạt các chức vụ như Phó tư lệnh Đặc khu Quảng Ninh (1979-1981), Phó chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật (1981- 1988) và Phó chủ nhiệm Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng (1988- 1995). Ông được phong quân hàm Thiếu tướng năm 1984. Sau nhiều năm cống hiến cho quân đội, năm 1995, ông về nghỉ hưu.

Với những đóng góp to lớn của mình cho sự phát triển của ngành khoa học kỹ thuật quốc phòng, Thiếu tướng Lê Văn Chiểu đã được nhận hai Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 ngày 18-8-1997 vì đã tham gia nghiên cứu, chế tạo ra hai vũ khí nổi tiếng, đó là súng không giật SKZ (nằm trong giải thưởng cho nhóm tác giả chế tạo ra “Một số vũ khí đặc biệt trong kháng chiến chống Pháp như súng không giật SKZ và SS trong thời gian 1945-1954”) và tên lửa A12 (nằm trong giải thưởng cho nhóm tác giả chế tạo ra “Một số vũ khí đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ: Như A12, DKB nối tầng, các loại vũ khí phá chướng ngại FR, thủy lôi APS trong thời gian 1960-1972”). Càng tự hào hơn vì trong số những người được giải thưởng cùng ông năm ấy, có nhiều người là học trò của ông, từng được ông hướng dẫn từ những bài vỡ lòng về chế tạo vũ khí.

Năm 2002, Thiếu tướng Lê Văn Chiểu được nhận Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ vì đã tham gia nghiên cứu, thiết kế, chế tạo các loại mìn, lựu đạn, thủ pháo và thiết bị điều khiển nổ có tính năng đặc biệt trong kháng chiến, với cương vị là cán bộ chủ trì và tham gia chính.

Sau những năm bôn ba công tác, Thiếu tướng Lê Văn Chiểu về an hưởng tuổi già tại ngôi nhà riêng nhỏ xinh ở con phố Đào Tấn (Hà Nội). Với tuổi 85, tóc bạc trắng, chân bước không còn vững, nhưng khi nhắc lại thuở xưa, lòng ông lại tràn dâng cảm xúc. Ông Chiểu có 2 người con trai, trong đó có một anh tiếp bước cha theo “binh nghiệp”. Ôn lại chuyện xưa, đâu đó trong ông cũng có sự bùi ngùi, tiếc nuối và cả sự nhiệt huyết với những ý định nghiên cứu vũ khí còn dang dở. Nhưng nếu cho chọn lại, có thể ông vẫn đi lại con đường đã trải qua. Con đường ấy nhiều thử thách, luôn là con đường khai phá, nhưng cũng nhiều vinh quang, tự hào vì đã đóng góp được thật nhiều cho khoa học quân sự, cho đất nước, cho nhân dân.

Hồ quang Phương

http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/56/58/58/168957/Default.aspx
Logged

Ký ức một thời hoa lửa: (P1)(P2)(P3)(P4)
longtt88
Thành viên
*
Bài viết: 249


« Trả lời #27 vào lúc: 31 Tháng Năm, 2012, 01:48:07 pm »

Ký ức màu đỏ

<a href="http://www.youtube.com/watch?v=dEtnit9-ZfU" target="_blank">http://www.youtube.com/watch?v=dEtnit9-ZfU</a>
Logged
vanhaubg
Thành viên
*
Bài viết: 70



« Trả lời #28 vào lúc: 09 Tháng Mười Hai, 2012, 10:31:28 am »

Em là sinh viên công nghiệp ra trường em cũng sẽ là Kỹ Sư nhưng chỉ là dân sự thôi.Qua đây em đăng vài bức ảnh Kỹ sư Trần Đại Nghĩa để thể hiện lòng ngưỡng mộ với bậc "Tiền bối".

Anh hùng Trần Đại Nghĩa (người đứng thứ ba bên trái) tại cuộc gặp của Chủ tịch Hồ Chí Minh


http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_%C4%90%E1%BA%A1i_Ngh%C4%A9a
Logged

[BG] VănHậuBG_9x
Trang: « 1 2 3   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM