Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 06:46:38 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Những kỹ sư quân sự nổi tiếng của VN!  (Đọc 90160 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2007, 08:07:32 pm »

http://www.dantri.com.vn/Sukien/phongsu/Ong-vua-vu-khi-Viet-Nam-Tran-Dai-Nghia-1/2007/12/210749.vip

“Ông vua” vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa
 
 


Giáo sư Trần Đại Nghĩa.

(Dân trí) - Nhà khoa học Trần Đại Nghĩa không chỉ là tên tuổi lớn trong làng khoa học quân sự , có nhiều đóng góp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực. Ông là nhà khoa học đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I. Trải qua hai cuộc kháng chiến cứu nước, tên tuổi ông trở thành một huyền thoại đối với nhiều thế hệ người Việt cũng như bạn bè quốc tế.


Kỳ 1: Những hoài bão cháy bỏng trong chàng trai trẻ


Thủ khoa tú tài Tây

Tên thật của Trần Đại Nghĩa là Phạm Quang Lễ. Ông sinh ngày 13/09/1913 tại thị xã Vĩnh Long, miền Tây Nam bộ trong một gia đình có cha làm giáo viên tiểu học. Ngay từ bé, ông đã ham thích tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên, thiên văn. Đến khi học lớp 5, ngoài những bài học ở lớp, cậu trò nhỏ còn được cha mình dạy thêm những môn như Pháp văn, toán... Cha ông là người vốn là nhà nho uyên thâm chuyển sang học tiếng Pháp, đỗ Thành Chung, được biết đến là người học rộng biết sâu.

Nhưng một biến cố lớn xảy đến, cuộc sống đang yên ấm thì người cha đột ngột qua đời. Vậy là cậu bé Lễ mới lên 7 tuổi đã mồ côi cha. Trước khi mất, ông cụ gọi các con tới trăng trối: “Quanh ta, số người sung sướng chẳng là bao, lớn lên các con có thể cũng đi dạy học như cha, nhưng cũng có thể làm nghề khác, làm nghề chỉ để nuôi thân thì chưa đủ, nhất là với Lễ - phải trở thành trụ cột gia đình, phải biết mang hiểu biết của mình giúp ích cho đời”.

Sau đám tang, cuộc sống bộn bề khốn khó. Cậu Lễ, may thay gửi được vào nhà một ông giáo đồng nghiệp của cha. Thế là cuộc sống ở trọ bắt đầu từ đó. Nỗi nhớ cha, thương mẹ, thương chị luôn khắc khoải trong lòng cậu trò nhỏ. Mẹ và chị gái ở quê thì tần tảo một nắng hai sương nuôi Lễ ăn học, muôn vàn cơ cực.

Đến hè năm 1926, Phạm Quang Lễ thi đậu vào trường Trung học Mỹ Tho. Chuyện cơm áo gạo tiền không còn phải lo nữa, vì vào đây là có học bổng. Lễ luôn học rất tốt các môn khoa học tự nhiên. Đến năm 20 tuổi, những tháng cuối của niên khoá 1932-1933, trong lúc chuẩn bị cho kỳ thi lấy  bằng tú tài bản xứ, Phạm Quang Lễ quyết định ghi danh thi lấy bằng tú tài Tây. Hoàn toàn tin vào khả năng của mình, bởi Lễ đã học kỹ các môn tự nhiên như toán, lý hoá- những môn quyết định trong việc thi lấy loại bằng này. Năm ấy, Phạm Quang Lễ thi đỗ thủ khoa cả tú tài Tây và tú tài bản xứ.

Hoài bão của tuổi trẻ

Trở thành thủ khoa, Lễ không ra Hà Nội học đại học mà đi làm ở toà sứ Mỹ Tho. Đó cũng là hai năm tìm cơ hội để đi học nước ngoài với hoài bão  sưu tầm tài liệu chế tạo vũ khí. Lòng yêu nước nhen nhóm trong chàng thanh niên mỗi lúc một lớn dậy, để rồi Phạm Quang Lễ nhận ra, chỉ có đấu tranh vũ trang mới có thể giải phóng dân tộc khỏi cảnh thuộc địa.

Lễ chẳng mong gì trở thành một viên chức giống cha, để cả nhà vẫn khổ, mà muốn tiến xa hơn nữa. Thật may, chàng trai trẻ được nhà báo Vương Quang Ngưu nâng đỡ. Ông Ngưu là người luôn gần gũi, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của những người trẻ tuổi có chí hướng giành độc lập cho Tổ quốc để tìm cách nâng đỡ họ. Nhờ đó, Lễ được hội Ái hữu của trường Chasseloup- Laubat cấp học bổng một năm sáng Pháp. Nếu thi đậu đại học, nhà nước Pháp sẽ tiếp tục cấp học bổng.

Tháng 9/1935, chàng trai Phạm Quang Lễ khi đó 22 tuổi, bước chân xuống tàu thuỷ đi Pháp. Hành trang mang theo mình chẳng có gì ngoài hoài bão được học hỏi để trở về phục vụ quê hương. Lần đầu bước chân tới Paris hoa lệ, chàng trai xứ Đông Dương lặng người ngắm nhìn tháp Eiffel để cảm nhận đến tận cùng sự hùng vĩ của nó, cũng như sự cao siêu của khoa học nơi kinh đô ánh sáng. Tháp cao tới 318m nhưng toàn bộ bằng thép và chỉ nặng 7.000 tấn. Tại sao người ta có thể có những tính toán chính xác tuyệt vời nhường ấy!

Được nhận vào một trường Trung học đặc biệt 2 năm để chuẩn bị thi vào Đại học, Lễ vạch ra phương pháp học để có thể hoàn tất chương trình trong vòng 1 năm. Với trí thông minh và lòng ham học, chàng thanh niên học nhảy một lớp (rút ngắn được 1 năm). Trong lòng luôn nung nấu, phải làm sao để có kiến thức đầy đủ cho việc nghiên cứu, thiết kế và chế tạo vũ khí trở về phục vụ sự nghiệp giải phóng đất nước. Nhưng nên bắt đầu bằng cách nào đây, khi mà điều ấy là vô cùng bí mật đối với bất kỳ quốc gia nào? Hoài bão và những câu hỏi luôn cháy bỏng trong lòng chàng thanh niên.

Những chiều hoàng hôn ngồi ghế đá bên bờ sông Seine, lặng ngắm cảnh vật êm đềm thanh bình và lãng mạn, trong lòng Lễ lại ngập lên nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Gương mặt khắc khổ vì sương gió của mẹ, hình ảnh chị, những giọt nước mắt tiễn biệt, tiếng còi tàu rú lên rời cảng Nhà Rồng... lại chầm chậm trôi trong đầu như một đoạn phim. Những lúc ấy chỉ biết nén xuống nín lặng tất cả, chờ mong đến ngày đoàn viên.

Những bước ngoặt cuộc đời

Phạm Quang Lễ quyết tâm nộp đơn thi vào trường đại học có những chuyên ngành liên quan đến hoài bão của mình nhiều nhất. Anh chọn Trường quốc gia Cầu đường Paris. Công sức cuối cùng cũng được đền đắp.  Anh thi đỗ và được học bổng lên tới 1.200 franc mỗi tháng. Ngoài việc học ở trường Cầu đường, anh cũng nghe giảng ở các đại học danh tiếng khác như Trường tổng hợp Sorbonne, Đại học Mỏ, Đại học Báck khoa, Đại học điện và Học viện kỹ thuật Hàng không và lần lượt thi đậu các bằng Cử nhân khoa học, kỹ sư cầu đường, kỹ sư điện, kỹ sư hàng không.

Mùa hè năm 1937, chị gái mất, ông trở về chịu tang chị rồi lại quay trở lại Pháp. Niềm đau khôn nguôn đành vùi sâu vào lòng. Phải gạt lệ để tiếp tục con đường đã bắt đầu. Không được buồn chán, không thể để người thân thất vọng. Trong suốt thời gian này, ông dồn tâm lặng lẽ nghiên cứu thu thập những thông tin về vũ khí. Sau khi ra trường, ông vào làm ở một hãng Điện khí và tiếp sau đó là một Hãng chế tạo máy bay dân dụng.

Người ta thấy ông thường xuyên xuống các nhà máy, xí nghiệp, vào thư viện, đứng hàng giờ trước những thiết bị khí tài trong Viện bảo tàng vũ khí. Thời gian làm việc cho phòng thiết kế của hãng máy bay, ông đã tiếp xúc với rất nhiều tài liệu quân sự, vũ khí vì hãng nọ còn sản xuất cả máy bay quân sự. Kiến thức cứ âm thầm ngấm vào và lớn lên trong ông theo cách ấy.

Sau ngày đất nước giành độc lập (tháng 8/1945), tình hình trong nước vô cùng phức tạp và căng thẳng. Các thế lực thù trong giặc ngoài, đế quốc phản động luôn tìm mọi cách để xoá bỏ chính quyền cách mạng non trẻ. 

Trước tình hình nước sôi lửa bỏng đó, tháng 9/1946 đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp, cũng là để chọn lựa một số trí thức yêu nước có hiểu biết về vũ khí đưa về Tổ quốc trong đó có Phạm Quang Lễ - lúc đó 33 tuổi, đang là kỹ sư của hãng chế tạo máy bay. Hồ Chủ tịch ân cần hỏi ông:

- Nguyện vọng của chú lúc này là gì?

Quá cảm động vì sự giản dị và quan tâm một cách sâu sắc của Bác, ông nói luôn điều mình đang ấp ủ:

- Kính thưa Cụ, nguyện vọng cao nhất là được trở về Tổ quốc cống hiến hết năng lực và tinh thần.

- Bây giờ ở nhà cực khổ lắm, chú có chịu nổi không? Bác Hồ hỏi.

- Tôi chịu nổi.

- Bây giờ ở nhà kĩ sư và công nhân về vũ khí không có, máy móc thiếu liệu chú có làm được không? Hồ Chủ tịch tiếp lời.

- Tôi đã chuẩn bị 11 năm rồi và tôi tin là sẽ làm được.

Trong những ngày gần gũi Hồ Chủ tịch ở Paris, Phạm Quang Lễ lại càng hiểu sâu sắc hơn về tài đức của Người. Ông đã trình bày với Người nhiều kiến thức về khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học quân sự, về những hiểu biết xung quanh thế chiến 2. Những gì ôm ấp bấy nay giờ được dịp thổ lộ, như cá gặp nước, ông lập tức chuẩn bị cho ngày rời Pháp. Trước khi về nước, ông còn tập trung thu thập hàng nghìn cuốn sách liên quan đến nhiều lĩnh vực mà phần lớn là để phục vụ chiến tranh.


Lê Bảo Trung
Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #1 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2007, 08:10:28 pm »

http://www.dantri.com.vn/Sukien/phongsu/Ong-vua-vu-khi-Viet-Nam-Tran-Dai-Nghia-2/2007/12/210934.vip

"Ông vua" vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa (2)
 


Viện sĩ Trần Đại Nghĩa trong một lần gặp Bác Hồ.

(Dân trí) - Vừa về nước, Phạm Quang Lễ lập tức được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên cùng cán bộ công nhân xưởng quân khí Giang Tiên tiến hành nghiên cứu chế tạo đạn badôca, một loại vũ khí chủ yếu dùng đánh xe tăng thời đó. Với những đóng góp của ông cho ngành quân giới, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng ông danh hiệu "Ông Phật làm súng".


Kỳ II: Phát minh lay chuyển cục diện


Phạm Quang Lễ trở thành Trần Đại Nghĩa

Ngày 20/10/1946, con tàu đưa Hồ Chủ tịch và đoàn tuỳ tùng cập bến Hải Phòng.  Bến cảng rợp bóng cờ hoa, hàng nghìn đồng bào kéo nhau ra hân hoan chào đón Chủ tịch. Những tiếng reo hò: "Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!" dậy lên khắp nơi. Trong lòng chàng trai trẻ Phạm Quang Lễ nghẹn ngào khó diễn tả. Ông tự nhủ lòng phải làm gì đó góp phần xứng đáng với niềm tin yêu của Bác, của người dân đã dành cho mình.

Chỉ 7 ngày sau khi về nước (27/10/1946), Phạm Quang Lễ lập tức được Bác trực tiếp giao nhiệm vụ lên Thái Nguyên, nghiên cứu chế tạo súng chống tăng dựa theo mẫu badôca của Mỹ, với hai viên đạn do GS Tạ Quang Bửu lúc này là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng cung cấp. Phải bắt tay vào việc ngay. Nhưng mới chỉ được ít hôm thì lại có điện gấp từ Bộ Quốc phòng gọi về gặp Bác Hồ.

Ngày 5/12/1946, Phạm Quang Lễ tới Bắc bộ phủ. Lòng khấp khởi, chàng kỹ sư trẻ không hiểu Bác muốn gặp mình để giao nhiệm vụ gì. Vừa gặp, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng nhưng cũng đầy thân mật bảo: "Kháng chiến sắp đến nơi rồi, hôm nay tôi gọi chú lại để trao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng quân giới. Chú lo vũ khí cho bộ đội diệt giặc". Bác Hồ giao cho ông toàn quyền hành động trong việc chế tạo vũ khí mà không phải thông qua bất kỳ một cấp nào khác.

Rồi Người căn dặn: "Việc của chú là việc đại nghĩa, vì thế từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ bí mật cho chú và để bảo vệ gia đình, bà con chú còn ở trong Nam". Bác giải thích ý nghĩa cái tên: "Một là họ Trần, là họ của danh tướngTrần Hưng Đạo. Hai là, Đại Nghĩa là nghĩa lớn để chú nhớ đến nhiệm vụ của mình với nhân dân, với đất nuớc. Đại Nghĩa còn là chữ của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo. Chú có ưng bí danh đó không?".

Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao công trình nghiên cứu súng Badôca. Năm 1996, GS VS Trần Đại Nghĩa đã vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình nghiên cứu chế tạo Badôca trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.
 
Thế là từ đấy, cái tên Trần Đại Nghĩa gắn với cuộc đời ông. Có thể nói trong những ngày tháng miệt mài nghiên cứu chế tạo vũ khí ở Chiến khu Việt Bắc là thời gian kĩ sư Trần Đại Nghĩa cảm thấy có ý nghĩa nhất trong cuộc đời hoạt động của mình. Sau này, đến những ngày trước khi qua đời, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa vẫn nhắc lại tình cảm sâu sắc Bác dành cho ông, nhắc lại ngày 5/12 lịch sử, ông được giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục quân giới và trao bí danh đầy ý nghĩa này. Đó là mốc lịch sử rất lớn đối với cuộc đời ông.

Chế tạo súng Badôca

Cùng các cộng sự, Trần Đại Nghĩa bắt tay vào công việc ngay từ tháng 11/1946. Ông say mê làm việc đến quên ăn, quên ngủ. Nhiều đêm ông chỉ mong cho trời chóng sáng để làm việc, nghiên cứu, thử nghiệm. Song công việc không hề dễ dàng. Ông chỉ đạo xưởng Giang Tiên sản xuất thành công một khẩu súng Badôca 60 mm và 50 quả đạn. Khi bắn thử, đạn nổ nhưng chưa xuyên.

Đạn Badôca của Mỹ được nhồi bằng thuốc phóng, còn ta chỉ có loại thuốc súng lấy được từ bom đạn của Pháp. Tất cả đều phải tính toán lại từ đầu và phải hiểu được những nguyên lý cơ bản về thuốc phóng, thuốc nổ. Những kiến thức sách vở 11 năm thu lượm xứ người bắt đầu phát huy tác dụng. Hình ảnh người kỹ sư miệt mài tính toán tốc độ cháy, đốt thử các loại thuốc súng, ngày đêm với cây thước tính trong tay... đã trở nên quá đỗi quen thuộc với các cán bộ Chiến khu. Chỉ một sai sót nhỏ sẽ phải trả giá bằng xương thịt của chiến sĩ nơi trận mạc, vì thế trách nhiệm càng đè nặng lên vai ông.

Những cán bộ chiến khu sau này kể lại, họ rất... sợ khi đi qua phòng ông vì đó là nơi rất nguy hiểm. Trong căn phòng chứa đầy thuốc nổ đủ loại, chỗ nào cũng thấy ngổn ngang bao tải thuốc nổ, trên mặt bàn làm việc la liệt các loại đạn Badôca, quả đang nghiên cứu, quả đã nhồi xong, quả thì chưa nhồi, rồi thì hạt nổ... Kỹ sư lại có thói quen... hút thuốc mỗi lúc tư duy. Rõ ràng tai hoạ luôn rình rập. Cuối cùng, điều kì diệu đã đến. Cuối tháng 2 năm 1947, cuộc thử nghiệm Badôca thành công. Mức đâm xuyên của đạn vừa chế tạo đạt độ sâu 75cm trên tường thành xây gạch tương đương với sức nổ xuyên của đạn Badôca do Mỹ chế tạo. Đây là bất ngờ lớn đối với địch.

Người ta kể rằng một cuộn dây điện trở loại nhỏ, được tháo ra từ một chiếc vôn kế. Nếu không có thì việc nghiên cứu của ông không thể thực hiện được. Nó được dùng làm sợi tóc đốt mồi thuốc súng đen a-moóc, nếu sợi tóc bị đứt thì đạn bị xịt. Trần Đại Nghĩa luôn giữ cuộn dây ấy bên mình, cho đến một đêm đáng nhớ: 2/3/1947. Cuộn dây đã được đem ra sử dụng trong tình trạng khẩn cấp.

Đêm đó, ông Phan Mỹ, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ sản xuất cấp tốc đạn Badôca để cản phá cuộc hành quân của Pháp. Chúng ta đã vây Pháp hơn 2 tháng ở Hà Nội và giờ chúng đang tìm cách thoát ra. Ông Phan Mỹ yêu cầu: "Các đồng chí đã bắn thử Baôca thành công, tuy chưa chắc chắn lắm nhưng tình hình lúc này rất cấp bách. Sáng mai quân Pháp có khả năng chọc thủng mặt trận Cầu Mới- Hà Đông. Đề nghị anh Nghĩa cho nhồi gấp đạn Badôca ngay trong đêm để kịp mang đến cho đồng chí Vương Thừa Vũ trong ngày mai. Anh Vũ đang bảo vệ Bác Hồ và Chính phủ ở Quốc Oai, Hà Tây.

Dưới ánh đèn võ vàng, tất cả đều được huy động nhồi thuốc, lắp đạn. Chẳng ai còn đầu óc nào để nghĩ đến căn phòng đáng sợ của kỹ sư. Cật lực suốt đêm, đến 3 giờ sáng thì tổ nghiên cứu của Trần Đại Nghĩa cùng anh em trong cơ quan Cục Quân giới nhồi lắp được 10 quả đạn mang mã hiệu B60, kèm 1 quả đạn khói, 1 súng Mỹ cải tiến đưa ra mặt trận.

Nỗi kinh hoàng của kẻ địch

Sáng 3/3/1947, máy bay Pháp bắt đầu quần đảo nhằm yểm trợ cho xe tăng, cơ giới của địch đánh chiếm thị xã Hà Đông. Quân ta bố trí dọc đê. Chiếc xe đi đầu bị bắn cháy ngùn ngụt, chiếc thứ 2 cũng bị đạn bắn hỏng. Cả đoàn xe địch khựng lại, hỗn loạn rồi thối lui. Sự xuất hiện của một loại vũ khí mới đã khiến chúng bất ngờ và hoang mang. Ngày 3/3/1947 đã trở thành một mốc son của ngành Quân giới Việt Nam trong việc chế tạo khí tài, súng đạn. Chiến công này góp phần bẻ gẫy cuộc tấn công của địch ra vùng Chương Mỹ, Quốc Oai.

Sau việc sản xuất súng đạn Badôca thành công, cục Quân giới chuyển lên Việt Bắc và tiếp tục sản xuất hàng loại súng này. Vũ khí của ta lúc này rất hiếm, riêng Badôca là loại vũ khí quí. Badôca xuất hiện lần đầu tiên trên thể giới vào Thế chiến 2, năm 1943, đã  trở thành vũ khí đáng sợ đối với nhiều đơn vị quân đội. Tuy nhiên việc một đất nước vừa thoát khỏi cảnh thuộc địa và nửa phong kiến như nước ta đã chế tạo thành công loại vũ khí hiện đại này, thật như huyền thoại và là điều không thể ngờ đến của địch.

Bộ đội sau khi được trang bị nhiều súng Badôca đa có nhiều sáng tạo trong chiến đấu. Nếu trước kia Badôca chỉ nhắm vào các loại xe tăng, thiết giáp thì sau này, bộ đội còn sử dụng để bắn ôtô, lô cốt, dùng thay thế lựu đạn ở những nơi đối phương tập trung đông. Đạn Badôca có tầm xa tới 600m, phạm vi sát thương tới 50m, nhưng không làm hỏng vũ khí đối phương. Vì vậy chúng ta đã tịch thu được nhiều súng đạn của giặc sau mỗi trận thắng. Từ khi đưa vào sử dụng, Badôca đã gây cho địch nhiều tổn thất rất lớn.

Từ các mặt trận, thư của chiến sĩ gửi về ngành quân giới tới tấp. Những người lính trực tiếp chiến đấu đã có nhiều phản hồi giúp kỹ sư hoàn thiện hơn loại vũ khí này. Súng Badôca đã trở thành nỗi kinh hoàng của kẻ địch, nhưng vẫn còn những hạn chế, chẳng hạn như tầm bắn chưa tốt, nếu bắn cách xa 100m thì sức phá sẽ kém đi...

Người lính trông đợi những vũ khí uy lực hơn, tiện dụng hơn, và thế là những kỹ sư lại miệt mài nghiên cứu. Chiến sự ngày một ác liệt, ngoài Badôca chiến trường cần phải có thêm vũ khí hạng nặng. Trần Đại Nghĩa lại đêm ngày nghiên cứu. Năm 1948, khi vũ khí hạng nặng bắt đầu được sản xuất thì Trần Đại Nghĩa  cũng được phong quân hàm Thiếu tướng, trở thành một trong 10 vị tướng đầu tiên của quân đội ta. Khi ấy ông mới 35 tuổi.

Lê Bảo Trung
(Còn nữa)

 
Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #2 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2007, 08:12:56 pm »

http://www.dantri.com.vn/Sukien/phongsu/Ong-vua-vu-khi-Viet-Nam-Tran-Dai-Nghia-3/2007/12/210729.vip

"Ông vua" vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa (3)
 

 
GS Trần Đại Nghĩa làm việc với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

(Dân trí) - Năm 1948, chiến sự diễn ra ngày một ác liệt hơn. Chiến trường cần thêm những loại vũ khí hạng nặng, ngoài Badoca đã "thành danh". Trần Đại Nghĩa khi đó là Cục trưởng Cục Quân giới lại một lần nữa nghiên cứu thành công súng không giật SKZ và bom bay, hai loại vũ khí đặc biệt lúc đó.


Kỳ III:  Vị Cục trưởng tài ba của 2 Cục quan trọng


Súng SKZ bắt kịp vũ khí hiện đại của Mỹ

Cuộc chiến đang vào hồi cam go, Trần Đại Nghĩa không đêm nào có được một giấc ngủ trọn vẹn. ông luôn suy nghĩ về các loại vũ khí mới, có uy lực, ngay cả trong những giấc ngủ ngắn ngủi. Ngay từ đầu kháng chiến, các cơ sở quân giới của ta đã sản xuất nhiều vũ khí như lựu đạn, mìn gửi ra mặt trận, nhưng hiệu quả của chúng không lớn. Lựu đạn, thậm chí có quả khi nổ chỉ vỡ làm 4 mảnh, tính sát thương không cao.

Những năm 1948 - 1949, Cục Quân giới bắt đầu nghiên cứu các loại vũ khí hạng nặng. Đánh địch cố thủ trong lô cốt bêtông cốt thép, thông thường ta cho nổ bộc lôi hoặc mìn lõm cỡ lớn. Người chiến sĩ phải áp sát đồn địch, rất nguy hiểm, nhiều người đã hi sinh. Các nước tiên tiến khi đó người ta hay dùng đại bác hạng nặng, hạng trung hoặc đạn bay. Đạn bay ta chưa có, còn đại bác chỉ sử dụng trong những chiến dịch lớn vì nó rất nặng, mỗi cỗ pháo nặng tới vài tấn thép.

Trần Đại Nghĩa luôn nghĩ về một loại súng thật nhẹ, có thể vận chuyển, mang vác dễ dàng, nhưng lại có sức công phá ngang... đại bác. Lúc đầu có người gợi ý làm Badoca cỡ lớn, chuyển đường kính từ 60 ly lên 90 ly nhưng không được, vì những hạn chế kỹ thuật. Ông nghĩ tới súng không giật (SKZ: súng- không- giật). Đây là loại vũ khí hiện đại, mới xuất hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Okinawa của Nhật Bản hồi cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Tất nhiên, công nghệ chế tạo ra nó ra sao, cách thức thế nào thì chỉ... người Mỹ mới biết.

Cùng các kỹ sư cộng sự gần gũi như Lê Tâm, Nguyễn Trinh Tiếp,... Trần Đại Nghĩa phải lặp lại cái công việc mà các nhà sáng chế Mỹ đã hoàn thành. Cuối cùng, ông đã thành công. Đó là loại súng rất nhẹ, chỉ 20kg, đầu đạn lõm cỡ 160mm, dùng để bắn vào những pháo đài kiên cố của địch, đầu đạn xuyên thủng bêtông dầy hàng mét.

Chỉ sau SKZ của Mỹ mấy năm, SKZ Việt Nam xuất hiện lần đầu trong trận Phố Lu, đánh phá tan tành các lô cốt địch. Sau này, trong cuốn "Chiến tranh Đông Dương" xuất bản tại Paris năm 1963, ký giả Lucien Bodart viết: "Cái thứ gây khó khăn cho chúng tôi, cái thứ xuyên thủng bêtông dày 60cm là những quả đạn SKZ. Chỉ cần vài quả là đã tiêu diệt được lôcốt của chúng tôi".

Ta đã nghiên cứu mất 2 năm mới thành công, trước đó không một tài liệu nào nhắc tới vũ khí này. SKZ đã phát huy tác dụng rất lớn. Gần đến chiến dịch Điện Biên Phủ, Cục Quân giới chuyển vào chiến trường 10 khẩu SKZ và 100 quả đạn. Số súng đạn này đã góp phần giúp anh em chiến sĩ hạ gục nhiều đồn bốt địch.

Bom bay ra đời

Cuộc chiến đấu thần thánh đang đứng trước nhiều yêu cầu cấp bách, đòi hỏi các loại vũ khí ngày càng hoàn thiện hơn. Ta đã tạo được những thay đổi lớn trên cục diện chiến trường, đẩy quân địch vào thế co cụm. Nhưng chính lúc này, tình thế cũng đặt ra yêu cầu cần các loại vũ khí có sức tiêu diệt lớn, đánh những đòn chí mạng vào các điểm co cụm của địch.

Dù đã nhiều lần nghiên cứu các loại bom bay mang bí số V1, V2 của Đức nhưng bí mật về các loại vũ khí đó, Trần Đại Nghĩa vẫn chưa giải mã được.  Trong ông luôn nung nấu sẽ có ngày tạo ra một loại vũ khí có uy lực sấm sét. Dựa trên thực địa chiến trường, ông đã có phác hoạ đôi nét về loại vũ khí này. Đó là do ta và địch luôn ở thế cài răng lược, vì vậy tầm hiệu quả của "bom bay" chỉ hạn chế từ 3 đến 4km, quả đạn cũng chỉ nặng tầm 25 - 30kg.

Nhưng vấn đề là làm sao để đẩy cả khối thuốc nổ đó đi xa một hành trình dài tới mấy km. Trần Đại Nghĩa đã dành toàn bộ thời gian để nghiên cứu phương án tối ưu chế tạo thuốc đẩy. Ngày đêm mày mò, cuối cùng việc gì đến cũng phải đến. Trong một lần đi tắm suối, nhà khoa học đã nghĩ tới phương án ép từng lớp thuốc vào ống thép. Và ông thành công.

Vũ khí mới được khẩn trương sản xuất với tên gọi khiêm nhường: đạn bay. Sau đó, nó được cấp tốc đưa đến các vùng chiến sự khốc liệt. Nó đúng hơn phải gọi là bom bay bởi đã trút những đòn sấm sét nhất xuống đầu quân thù. Một hàng binh sau này khai: Ngay cả lính cảm tử của đội quân lê dương cũng có nhiều kẻ muốn chạy sang hàng ngũ Việt Minh để tránh được thảm cảnh gây ra bởi một loại vũ khí mới rất khủng khiếp, chẳng kém gì so với bom V1, V2 hồi Thế chiến 2.

Vị Cục trưởng tài ba của 2 Cục quan trọng

Sau chiến dịch Việt Bắc (Thu Đông 1947), Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định phong quân hàm cho một số cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Ngày 20/11/1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 110/SL, phong quân hàm Đại tướng cho Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, sắc lệnh phong Trung tướng cho đồng chí Nguyễn Bình và phong Thiếu tướng cho các đồng chí Nguyễn Sơn, Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái, Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm, Lê Hiến Mai, Trần Tử Bình, Văn Tiến Dũng và Trần Đại Nghĩa. Lễ phong Đại tướng được tổ chức trọng thể vào ngày 28/5/1948.

Buổi lễ được cử hành trong căn nhà gỗ lợp tranh, phên nứa, bên bờ suối. Bác Hồ và cụ Bùi Bằng Đoàn (Trưởng ban Thường trực Quốc hội) đứng hai bên bàn thờ. Toàn thể nhân viên Chính phủ đứng xếp hàng phía trước. Đúng 13h, buổi lễ bắt đầu. Không khí tĩnh lặng và trang nghiêm. Bác bước lên cầm bản sắc lệnh, đoạn gọi Tướng Giáp ra đứng bên cạnh: "Nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bác trao cho chú hàm Đại tướng để chú điều khiển binh sĩ, làm tròn sứ mệnh mà nhân dân phó thác cho"...

Đối với kỹ sư Trần Đại Nghĩa, việc được phong quân hàm thiếu tướng là vinh dự rất lớn. Hai năm trước, khi còn là một kỹ sư trẻ, được Bác đón về phục vụ kháng chiến, ông chưa bao giờ dám nghĩ đến điều này, dù chỉ là trong mơ. Nhưng kháng chiến đã hun đúc, tôi luyện con người yêu nước trong ông, từ một kỹ sư trẻ trở thành một Thiếu tướng quân đội với đầy đủ kinh nghiệm vững vàng về súng ống, vũ khí chỉ trong vòng hai năm trời. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ thấy cuộc chiến tranh vệ quốc của dân tộc ta mang ý nghĩa lớn lao đến nhường nào.

Năm 1949, Trần Đại Nghĩa 36 tuổi, được giao đồng thời hai nhiệm vụ Cục trưởng cục Quân giới và Cục trưởng Cục Pháo binh. Ông đã góp phần quan trọng xây dựng lực lượng pháo binh để tham gia chiến dịch Biên giới năm 1950, sau đó là chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến dịch Đông Xuân 1953-1954. Thời kỳ này, việc đào tạo, xây dựng đội ngũ  cán bộ pháo binh là yêu cầu vô cùng cấp bách. Lúc đó, Bộ Tổng tham mưu thành lập ba Trung đoàn Pháo binh và đến năm 1952 thì thành lập Đại đoàn pháo binh. Đó là đơn vị pháo binh đầu tiên của quân đội ta, sau này tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và gây những tổn thất lớn cho quân địch.

Lê Bảo Trung
(Còn nữa)
 
Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #3 vào lúc: 23 Tháng Mười Hai, 2007, 08:21:43 pm »

Đạn Badôca có tầm xa tới 600m, phạm vi sát thương tới 50m, nhưng không làm hỏng vũ khí đối phương. Vì vậy chúng ta đã tịch thu được nhiều súng đạn của giặc sau mỗi trận thắng.

Đạn HEAT mà không làm hỏng vũ khí đối phương thì kể cũng tài thật, không hiểu nó diệt xe tăng kiểu gì. Mà hồi đấy thì hình như là GS Trần Đại Nghĩa không có chế tạo đạn hoá.
Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #4 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2007, 04:30:20 pm »

http://www1.dantri.com.vn/Sukien/phongsu/Ong-vua-vu-khi-Viet-Nam-Tran-Dai-Nghia-4/2007/12/211542.vip

"Ông vua" vũ khí Việt Nam Trần Đại Nghĩa (4)
 


 
Vợ chồng GS.VS Trần Đại Nghĩa trong một lần tiếp xúc với giới khoa học TPHCM.

(Dân trí) - Dù ở cương vị nào, GS Trần Đại Nghĩa cũng quy tụ được đội ngũ trí thức, đoàn kết và hướng họ vào mục tiêu xây dựng một nền khoa học Việt Nam hiện đại, đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn đặt ra. Ông trở thành một trong số những người đại diện tiêu biểu của giới trí thức yêu nước Việt Nam.


Kỳ cuối: Một đại trí thức, nhà khoa học anh hùng

 
Chống vũ khí hiện đại của Mỹ

Năm 1952, tại Đại hội Anh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, Trần Đại Nghĩa được phong danh hiệu Anh hùng lao động, một trong bảy Anh hùng lao động đầu tiên của nước ta. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Trần Đại Nghĩa được chuyển ra ngoài quân đội. Nhưng một thời gian sau, ông được trở lại để chế tạo vũ khí trong chiến tranh chống Mỹ.
 
Năm 1966, Bác Hồ đã nói với Quân uỷ Trung ương: "Kháng chiến chống Pháp tôi đem chú Nghĩa về nước là để chú ấy phục vụ cho Quốc phòng. Nay kháng chiến chống Mỹ cũng đang gặp nhiều khó khăn về mặt vũ khí, đạn dược, sao lại để chú ấy ngồi làm việc ở cơ quan bên ngoài, không gọi chú ấy về giúp cho Bộ Quốc phòng?" Sau đó, Trần Đại Nghĩa được gọi trở lại Bộ Quốc phòng, làm Phó Chủ nhiệm Tổng Cục hậu cần, phụ trách về kỹ thuật. Đó cũng chính là năm ông được bầu làm Viện sĩ tại Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, danh vị cao nhất của những người làm công tác khoa học.

Về lại với quân đội, Trần Đại Nghĩa vận dụng tất cả những kinh nghiệm quý báu tích luỹ được trong cuộc kháng chiến chống Pháp cũng như các kinh nghiệm rất phong phú của thế giới sau Thế chiến 2. Cần nói thêm rằng, đến năm 1966, nước ta đã mạnh hơn nhiều so với năm 1946, có đội ngũ Quân giới mạnh sau 20 năm xây dựng, được Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em giúp đỡ nhiệt tình về vũ khí hiện đại và hậu cần. Nhưng về phía địch thì đế quốc Mỹ năm 1966 mạnh hơn Pháp năm 1946 nhiều lần.

Đối đầu với những vũ khí, khí tài hiện đại và phức tạp của Mỹ, lúc đầu ta phải cải tiến các vũ khí được viện trợ. Sau đó, phải phát triển nhiều loại vũ khí khác nhau để địch đối phó khó hơn. Tình hình chiến trường, chiến lược, chiến thuật của ta có nhiều điểm khác với các nước, bởi vậy việc sản xuất thêm vũ khí mới cho thích hợp là rất cần thiết, mặc dù việc cải tiến các vũ khí tài trợ cũng quan trọng không kém. Chẳng hạn, máy bay B52 của địch có tầm bay rất cao, ngoài tầm bắn của tên lửa SAM-2 do Liên Xô viện trợ và có sức oanh tạc ghê gớm. Ta phải phá chống nhiễu của B52 đối với SAM-2, phải nghiên cứu cải tiến để nâng độ bay cao của SAM-2. Nếu không cải tiến thì tên lửa này khó lòng tiêu diệt được mục tiêu.

Mỹ dùng đủ loại vũ khí mới với khối lượng khổng lồ. Những năm 1965 - 1966, đế quốc Mỹ bắt đầu oanh tạc đường 559 bằng vũ khí đa dạng như bom bi, bom laze, bom từ trường, cây nhiệt đới, tia hồng ngoại, máy đếm, máy thông tin... Kèm theo đó là các loại máy bay mà nổi tiếng nhất trong số đó phải kể đến B52. Ta làm thêm nhiều đường bí mật mới để tăng thêm khối lượng vận chuyển cho chiến trường miền Nam. Các đơn vị như Cục Quân giới, Viện Kỹ thuật quân sự, các quân chủng, binh chủng đều phải nghiên cứu về các loại vũ khí mới của địch.

Các nhà khoa học đã hướng dẫn cho các đơn vị nhiều biện pháp chống vũ khí, chẳng hạn bom từ trường, cách chống đơn giản nhất là dùng mảnh sắt buộc vào đầu dây, kéo qua chỗ có bom để phá. Cây nhiệt đới thì lấy dây buộc các cành lại làm chúng mất tác dụng. Bom laze thì đốt khói đánh lừa. Với mìn lá thì ta đối phó bằng cách đi theo những con đường mòn sẵn có, không có cỏ, có thể tránh được mìn. Khi phát hiện thì gom cành lá cây vun lại thành đống lá để người sau phát hiện được. Đặc biệt, với máy bay B52- loại pháo đài bay chiến lược của Mỹ, ta đã nghiên cứu và có những biện pháp đối phó hữu hiệu, như dùng cao xạ phòng không, cải tiến nâng tầm cao của tên lửa SAM-2...

Nhận định về những vũ khí, khí tài của Mỹ, Trần Đại Nghĩa cho rằng vũ khí cho dù có hiện đại đến mấy đi nữa thì vẫn có nhược điểm. Ta cần nghiên cứu, phát hiện và khoét sâu vào những nhược điểm và đó là biện pháp đối phó tích cực nhất. Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Ngày lịch sử ấy, ông ghi vào sổ tay: "Nhiệm vụ của Bác giao cho chúng tôi và tập thể các nhà khoa học Việt Nam là tham gia về mặt vũ khí và khoa học quân sự trong hai cuộc kháng chiến đã được hoàn thành".

Đưa Phạm Tuân lên vũ trụ

Ngay sau khi miền Nam được giải phóng, tháng 5/1975 Chính phủ đã quyết định thành lập Viện Khoa học Việt Nam - Trung tâm nghiên cứu khoa học lớn nhất cả nước về khoa học tự nhiên và một số ngành kỹ thuật. Viện sĩ Trần Đại Nghĩa lúc này là Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước được cử kiêm chức vụ Viện trưởng đầu tiên của Viện khoa học Việt Nam.

Ban lãnh đạo Viện phải gánh vác trách nhiệm nặng nề, xây dựng nền khoa học Việt Nam trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, đất nước vừa trải qua hai cuộc chiến tranh, thiếu thốn đủ mọi đường, từ lực lượng cán bộ khoa học, cơ sở vật chất, kinh phí... Nhưng Giáo sư Trần Đại Nghĩa vẫn luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, đội ngũ nhà khoa học giỏi.

Năm 1979, có một sự kiện rất đáng nhớ: Viện được giao nhiệm vụ phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô để thực hiên chương trình khoa học cho chuyến bay vào vũ trụ của nhà du hành Phạm Tuân vào giữa năm 1980. Viện sỹ Trần Đại Nghĩa cùng các đồng sự của ông đã có những chuẩn bị rất tích cực.

Vào lúc 1 giờ 33 phút 03 giây (giờ Hà Nội) ngày 24/7/1980, tại sân bay vũ trụ Bai-cô-nua (Liên Xô)  tàu vũ trụ Liên hợp 37 do Gorơbatco và Phạm Tuân  điều khiển đã phóng lên quỹ đạo. Tới 3 giờ 2 phút ngày 25/7/1980, tàu đã thực hiện thành công việc lắp ghép với tổ hợp qũy đạo "Salút 6". Khi bay lên vũ trụ, Pham Tuân mang theo Quốc huy Việt Nam, Huy hiệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, chân dung hai Tổng Bí thư Đảng cộng sản: Brê-giơ-nép và Lê Duẩn, bản Tuyên ngôn độc lập của Bác, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nắm đất lấy từ quảng trường Ba Đình, nơi Bác đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà...

Những kỷ vật ấy đều gắn với lịch sử dân tộc, mang ý nghĩa rất lớn. Chuyến bay lên vũ trụ có ý nghĩa đặc biệt đối với nhân dân ta. Riêng với Viện khoa học Việt Nam và Viện sĩ Trần Đại Nghĩa thì ý nghĩa về mặt khoa học và chính trị càng to lớn.

Một tấm gương trí thức sáng ngời

Về già, giáo sư Trần Đại Nghĩa mới có dịp hồi tưởng lại những gì đã trải qua trong suốt cuộc đời ông. Ông mồ côi cha từ năm lên bảy. Tuổi thơ bất hạnh của người con duy nhất trong gia đình tạo cho ông sớm có nếp suy nghĩ tự lập. Từ trí óc non nớt, ông đã chấp nhận một cuộc sống cô đơn với đèn sách để mong có ngày đền đáp lại công đức của cha mẹ, người thân ruột thịt đã từng nuôi dạy giúp đỡ. Chính sự dồn nén, kiên nhẫn quyết tâm lâu ngày trở thành một tập quán trong sinh hoạt định hình của ông, đó là suốt ngày cặm cụi đọc tài liệu, ghi chép và suy tư.

Hình ảnh của Trần Đại Nghĩa lắng đọng sâu đậm nhất trong tâm trí mọi người là một con người nhân hậu, khiêm tốn, bình dị. Tấm lòng ông rộng mở với mọi người. Những người từng tiếp xúc với ông luôn thấy ở ông vẻ hiền lành bình dị rất đáng mến. Dù là một nhà khoa học uyên bác, một GS.VS nhưng ông luôn khiêm nhường. Ông luôn ca tụng hết lời những nhà khoa học khác như Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Lê Văn Thiêm... và nhận phần yếu kém hơn về mình.

Những ngày cuối cùng, nhà khoa học tuổi già sức yếu, sống cùng bệnh tật. 16h20 ngày 09 tháng 08 năm 1997, ông đã qua đời hưởng thọ 85 tuổi. Người ta nói rằng, vẻ mặt ông lúc ra đi rất thanh thản, ông nhìn người vợ đã tần tảo bên ông suốt mấy chục năm bằng ánh mắt trìu mến, rồi nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng. Cuộc đời ông chính là cuộc đời phù hợp với bức chân dung lý tưởng của người Việt đi du học để tiếp thu những gì cần thiết cho đất nước rồi trở về hoà mình với nhân dân trong nước, đem trí tuệ, tài năng, công sức tham gia chiến đấu và xây dựng Tổ quốc.

Lê Bảo Trung

 
Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #5 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2007, 04:33:28 pm »

Trích dẫn
Chẳng hạn, máy bay B52 của địch có tầm bay rất cao, ngoài tầm bắn của tên lửa SAM-2 do Liên Xô viện trợ và có sức oanh tạc ghê gớm. Ta phải phá chống nhiễu của B52 đối với SAM-2, phải nghiên cứu cải tiến để nâng độ bay cao của SAM-2. Nếu không cải tiến thì tên lửa này khó lòng tiêu diệt được mục tiêu.
....
Đặc biệt, với máy bay B52- loại pháo đài bay chiến lược của Mỹ, ta đã nghiên cứu và có những biện pháp đối phó hữu hiệu, như dùng cao xạ phòng không, cải tiến nâng tầm cao của tên lửa SAM-2...

Đầu tiên là đạn HEAT không làm hỏng vũ khí, sau lại đến SAM nâng tầm, bó tay hoàn toàn với tay PV viết bài này.
Báo chí sáng tác ra huyền thoại và cũng chính báo chí nuôi dưỡng huyền thoại, cả QC PKKQ chạy theo đính chính hàng bao nhiêu năm trời mà chả ăn thua gì.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Mười Hai, 2007, 04:54:44 pm gửi bởi Tunguska » Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #6 vào lúc: 26 Tháng Mười Hai, 2007, 04:58:59 pm »

http://www2.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=77540&ChannelID=89

Người chế tạo súng chống tăng giữa rừng Sác

 


Một cuộc họp tại Bộ Tư lệnh Nam bộ, năm 1949 (người mặc sơmi ngắn tay màu sáng là kỹ sư Lê Tâm)

TTCN - Trong kháng chiến chống Pháp, ở hai đầu đất nước, khi kỹ sư Trần Đại Nghĩa nghiên cứu, chế tạo thành công bazooka giữa rừng già Bắc Cạn, Tuyên Quang, thì kỹ sư Lê Tâm nghiên cứu, chế tạo thành công SS trong rừng sác Bà Rịa - Vũng Tàu.

Hai loại súng ấy đều bắn đạn lõm, loại đạn có thể nâng độ nóng lên tới 3.000oC, dễ dàng xuyên thủng vỏ xe tăng, xe bọc thép, tàu thủy như chiếc đũa chọc thủng... cục bơ!

Kỹ sư Lê Tâm năm nay đã 84 tuổi, tóc bạc như tơ.

Ông tên thật là Nguyễn Hy Hiền, do cụ thân sinh của ông - một bậc đại nho - đặt cho nhằm gửi gắm niềm mong ước của người cha vào cậu con trai của mình từ câu danh ngôn thuở trước: Sĩ học hy hiền, hiền hy thánh, thánh hy thiên. Có nghĩa: kẻ sĩ học với hi vọng trở thành người hiền, người hiền hi vọng trở thành thánh nhân, còn bậc thánh nhân thì hi vọng đạt tới mức anh minh, khoan thứ như lồng lộng trời cao!

Ông sinh năm 1921 tại làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, một vùng quê đã đi vào thơ Tố Hữu: Như quê bạn, Niêm Phò trơ trụi/ Đạn bom cày cả nương sắn, đồng khoai...



 
Đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm giáo sư Nguyễn Xiển tại nhà riêng (người đứng giữa là kỹ sư Lê Tâm, con rể GS Nguyễn Xiển)

Thân phụ của Nguyễn Hy Hiền là cụ phó bảng Nguyễn Văn Mại, nổi tiếng là một trong “ngũ bá”, tức năm vị túc nho hay chữ nhất nước Nam thời ấy.

Từ nhỏ, Nguyễn Hy Hiền đã học rất giỏi. Năm 1939, ông đỗ đầu tú tài Tây, cả ban toán lẫn ban triết ở Huế. Lúc bấy giờ Hội Như Tây du học (một tổ chức khuyến học của Nam triều) mỗi năm cấp một suất học bổng cho học sinh nào xuất sắc nhất trong cả ba kỳ Bắc, Trung, Nam. Nguyễn Hy Hiền được nhận suất học bổng đó.

Ông rời Sài Gòn sang Pháp du học trên một chuyến tàu thủy, lênh đênh hàng tháng trời qua Ân Độ Dương, Hồng Hải, Địa Trung Hải.

Sau khi bổ túc kiến thức tại Trường Saint-Louis, Nguyễn Hy Hiền thi đỗ vào Trường Quốc gia cầu - đường.


 
Một số loại SS được trưng bày tại Bảo tàng Lực lượng vũ trang Quân khu 7 TP.HCM

Đêm 19-12-1946, chiếc tàu thủy chở kỹ sư Hiền ghé cảng Singapore, đúng vào lúc trong nước kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Ngày 23-12, tàu cập bến Sài Gòn. Ông đến ngay nhà bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, lúc đó đang công khai giữ chức giám đốc Viện Pasteur, đưa tận tay thư giới thiệu của đồng chí Phạm Văn Đồng, lúc sang Pháp dự hội nghị Fontainebleau.

Một tháng sau, nhận được hồi âm từ chiến khu, KS Hiền thay đồ Tây mặc bộ bà ba đen, lên một chiếc xe thổ mộ lóc cóc chạy về phía Củ Chi. Đến một chỗ vắng ở vùng ven đô, ông xuống xe, lặng lẽ len lỏi qua đồn bót Pháp, rồi được một chú bé liên lạc đón, đưa ra chiến khu.

KS Nguyễn Hy Hiền được giao phụ trách ngành quân giới. Năm 1949, ông là một trong bảy sĩ quan đầu tiên ở Nam bộ được phong quân hàm đại tá.

- Tôi phải đổi cả họ tên thành Lê Tâm - ông kể - bởi vì nếu cứ để nguyên họ tên khai sinh thì sẽ liên lụy đến mấy trăm con người thuộc dòng họ Nguyễn Hy đang sống trong vùng bị địch tạm chiếm.

Chiến trường Nam bộ không có nơi nào địa hình hiểm trở để có thể xây dựng thành An toàn khu (ATK). Các xưởng quân giới phải chuyển chỗ luôn, lúc đóng ở Đồng Tháp Mười, lúc dọn đến chiến khu Đ, lúc lui về khu rừng ngập mặn Bà Rịa - Vũng Tàu. Giặc tràn vào rừng, ta chôn máy xuống đất. Giặc rút lui, ta đào máy lên! Nhưng những xưởng quân giới lớn vẫn được xây dựng, như xưởng của Bộ Tư lệnh Nam bộ có gần 1.000 người. Lực lượng quân giới Nam bộ đông tới 8.000 người. Trong rừng sác lầy lội đầy muỗi, vắt, súng cối, bộc lôi, địa lôi, đạn súng trường, súng lục, cả SS... đã ra đời.

KS Lê Tâm đã nghĩ tới một loại súng có sức công phá bằng cỗ đại bác nặng hàng tấn thép, nhưng chỉ nhẹ khoảng 5-10kg, nòng súng làm bằng ống thép đầu máy xe lửa trông tựa như điếu cày, có thể vác trên vai. Công việc đầu tiên là phải tự chế tạo được đạn lõm. Khi bị kích nổ, đạn lõm tập trung năng lượng vào một luồng, đủ tạo ra sức nóng tới 3.000o C, áp suất hàng trăm átmốtphe, chọc thủng được vỏ thép xe tăng. Đầu viên đạn lõm to hơn nòng súng, nằm ngoài, chỉ có chuôi đạn nằm trong nòng. Thuốc đẩy viên đạn bay ra phía trước và cùng lúc đẩy khối lùi (có thể tiện bằng gỗ) bay lại phía sau, do đó triệt tiêu lực giật. KS Lê Tâm đặt tên cho loại vũ khí mới này là SS, nghĩa là súng rừng sác.

- Ta chỉ mới đem SS ra chống càn mấy trận Tây đã hoảng hồn, không còn dám hung hăng như trước nữa! - KS Lê Tâm nói.

Năm 1952, KS Lê Tâm được điều động ra Việt Bắc. Ông cuốc bộ một mạch suốt sáu tháng rưỡi, dọc theo dãy Trường Sơn.

Tại Việt Bắc, ông tham gia chỉ đạo mở đường rộng 8m để có thể tiếp nhận vũ khí hạng nặng từ Trung Quốc, chuẩn bị cho trận quyết chiến ở vùng lòng chảo Điện Biên Phủ. Ông được giao phụ trách bạt đèo Tam Canh, một trong những đoạn đường đèo khó nhất.

Hòa bình trở lại trên nửa nước, ông về Hà Nội giữ chức phó cục trưởng Cục Kỹ thuật đường sắt, tham gia chỉ đạo phục hồi nhiều tuyến đường sắt, rồi làm chủ nhiệm khoa xây dựng Trường đại học Bách khoa, cục trưởng Cục Đo lường, ủy viên Ủy ban Khoa học và kỹ thuật nhà nước (nay là Bộ Khoa học và công nghệ), tổng biên tập tạp chí Hoạt Động Khoa Học...

Năm 1996, ông được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình “Một số vũ khí đặc biệt trong kháng chiến chống Pháp (1945-1954)” trong đó có vũ khí SS do ông và những người cộng tác sáng chế trong rừng sác Bà Rịa - Vũng Tàu.

HÀM CHÂU
Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #7 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2007, 11:32:15 am »

http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=152077&ChannelID=89

“Cầu hàng không” trong tết Mậu Thân



 
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Tường Long - người đã góp phần cải tiến máy bay IL-14 thành máy bay vận tải - chiến đấu trong chiến dịch Mậu Thân 1968 - Ảnh: T.HÙNG

TT - Trên thế giới có lẽ chưa ai lấy máy bay dân dụng đi chiến đấu. Vậy mà những người lính chúng ta đã “mổ bụng”, “nắn cánh” máy bay vận tải IL-14 để nó mang bom, ống phóng đạn cối bay vào chiến trường. Đó là một câu chuyện kỳ lạ cách đây 38 năm...

Có một sự kiện chiến tranh ít được biết đến: không quân nhân dân VN đã từng sử dụng “cầu hàng không” và lính nhảy dù chi viện cho chiến trường miền Nam trong chiến dịch Tết Mậu Thân 1968.

Nhân kỷ niệm 59 năm Ngày thương binh liệt sĩ 27-7, Tuổi Trẻ trở lại sự kiện này - một sự kiện bi hùng của những người lính lặng lẽ, trải dài trong suốt gần 40 năm qua.

Từ những chiếc máy bay vận tải, để phục vụ một chiến dịch đặc biệt, chúng đã được bí mật cải tiến thành chiến đấu cơ. Một câu chuyện tự hào của những người lính.

“Hãy trở về tìm Nguyễn Ái Quốc!”

38 năm sau, trong một ngôi nhà trên đường Nguyễn Thái Bình, Q.1, TP.HCM, Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Tường Long - nguyên tổ trưởng cơ khí ban kỹ thuật trung đoàn 919, người đóng góp lớn trong sự kiện “cầu hàng không” - nhớ lại:

“Đó là một chủ trương tuyệt mật, lúc đó có nhiều người không tin sẽ thành công, nhưng cuối cùng nó đã trở thành hiện thực, một cách xuất sắc. Khi những chiếc IL-14 đáp xuống sân bay, chỉ huy trung đoàn mới thở phào: thành công rồi!”.

Anh hùng Nguyễn Tường Long là một trường hợp khá đặc biệt. Ông sinh ra trên đất Pháp, học xong ngành kỹ thuật hàng không, cha ông bảo với con trai rằng: “Hãy trở về VN tìm Nguyễn Ái Quốc mà giúp nước”. Và năm 1944, người thanh niên 21 tuổi ấy từ giã cha mẹ và em gái trở về Hà Nội để tham gia cách mạng và mãi mãi không bao giờ còn gặp lại người thân của mình. Đối với Tường Long và Việt kiều ngày ấy, cái tên Nguyễn Ái Quốc thiêng liêng đến nhường nào, đủ sức mạnh để động viên ông đi suốt cuộc trường chinh của đất nước sau đó.

Ngay khi ban kỹ thuật trung đoàn 919 nhận được lệnh của bộ tư lệnh quân khu về việc phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật các loại máy bay vận tải thành chiến đấu cơ, Tường Long tin chắc đó chỉ có thể là loại máy bay vận tải IL-14 được mang về từ Siberia (Liên Xô cũ). Ông lập tức sang sân bay Gia Lâm tìm hiểu các tài liệu kỹ thuật nói về máy bay IL-14 nhưng tìm mãi không được, tình cờ phát hiện một tài liệu của Đức viết theo sách của Liên Xô nói về chiếc IL-14 dùng chở khách.

Ông và đồng nghiệp trong ban kỹ thuật bàn bạc nghiên cứu để lắp thêm hai giá treo bom dưới thân và cánh máy bay để có thể treo được bốn quả bom loại 100kg hoặc hai quả bom loại 250kg. Chưa hết, đã là chiến đấu cơ cần phải có hỏa lực mạnh, ông và đồng sự lại tiếp tục “mổ bụng” chiếc IL-14 lắp được 27 ống phóng đạn cối. Các ghế ngồi ở khoang hành khách được tháo tung ra để tận dụng hai gờ chạy dọc sàn máy bay, gắn thêm được 50 ống chứa 50 quả đạn cối 120mm. Mỗi lần muốn thả đạn cối, người ta rút chốt hãm, kéo dây cáp làm cho khung chứa đạn bị trọng tâm hất đạn cối rớt ra ngoài.

Công việc cải tiến được tiến hành hết sức bí mật, nhiều chuyên gia không tin sẽ thành công, nhiều ý kiến còn cho rằng “treo bom tùm lum trên máy bay vận tải có khi vừa cất cánh bom rớt xuống thì khốn”. Người quan tâm nhiều nhất đến việc này là ông Nguyễn Văn Bang, phi công học từ Trung Quốc trở về.

Ông nói với Nguyễn Tường Long: “Đó cũng là ý kiến để anh em mình quyết tâm thử, cùng thử, có chết thì cùng chết, không gì phải sợ!”. Ngày ấy chiến tranh ác liệt nên những chiếc máy bay IL-14 phải đưa về gửi ở sân bay Tường Vân (Trung Quốc), anh em phải sang đưa ba chiếc về Gia Lâm phục vụ cho việc cải tiến thành máy bay vận tải - ném bom.

Điều chưa có trong lịch sử hàng không


 
Từ trái sang:  tổ bay Hoàng Ngọc Trung, Nguyễn Văn Kính, Nguyễn Văn Sửu, Nguyễn Bỉnh Sen, Trần Trung Quý... trước giờ xuất phát - Ảnh tư liệu
Rồi những chiến đấu cơ kỳ lạ cũng cất cánh thử nghiệm, phi công Nguyễn Văn Bang trực tiếp thử nghiệm chuyến bay đầu tiên. Chiếc máy bay vận tải IL-14 bay lên không trung với bom, đạn cối mang đầy dưới cánh và trong khoang, đảo vòng quanh với nhiều tư thế bay và đáp xuống sân bay an toàn tuyệt đối. Ông Tường Long cho biết:

“Trong lịch sử hàng không thế giới, có lẽ chưa ai dùng máy bay dân dụng làm máy bay chiến đấu cả. Tôi đã căn cứ trên số ghế ngồi và trọng tải máy bay để tính toán lắp bom cho đủ trọng lượng. Theo nguyên tắc kỹ thuật, người ta tính toán nếu bay với vận tốc 240km/g, sức cản trong 1cm2 là 40km, nhưng tôi và anh Bang kiểm tra thử khi bay thử nghiệm, sức cản thực tế nhỏ hơn như thế nhiều.

Vậy là cứ lắp bom đạn vào và mang ra sân bay thử rồi rút kinh nghiệm từng chuyến. Tất cả phải thực hành và kiểm tra trên máy bay, bởi dưới mặt đất không chịu sức cản ngược gió, phải bay và đánh dấu vào tay ga để sau đó điều chỉnh từ từ”. Một cải tiến được hình thành trong sự hợp tác chặt chẽ giữa kỹ thuật và phi công, và thành công tuyệt đối.

Đó là những ngày mà tướng Phan Khắc Hy, nguyên chính ủy Bộ Tư lệnh không quân (thuộc quân chủng phòng không - không quân), không thể nào quên trong ký ức của mình: ngày 27 Tết Mậu Thân (26-1-1968), ông Phan Khắc Hy và phó tư lệnh quân chủng đặc trách không quân, thượng tá Nguyễn Văn Tiên, mang theo mật lệnh của phó tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân VN Phùng Thế Tài, vượt cầu phao sông Hồng giữa ban ngày xuống thẳng sở chỉ huy trung đoàn 919 để phổ biến nhiệm vụ tuyệt mật: “Thả dù tiếp tế bộ binh và tấn công một số mục tiêu mặt đất ở phía nam vĩ tuyến 17!”.

Ngay sáng hôm sau, đoàn phó Phan Huyễn chỉ huy một lực lượng đặc biệt gồm 60 cán bộ chiến sĩ vào Quảng Bình lập sở chỉ huy không quân phối thuộc chỉ huy mặt trận. Sau đó hai tổ tham mưu, liên lạc không đón giao thừa, chuẩn bị một hành trang gọn nhẹ để theo chân hai cán bộ chỉ huy là Lê Quỳ và Hồ Bạch Đào tách khỏi đoàn đi sâu vào Nam, áp sát địa bàn chiến đấu. Còn ở đoàn bộ, ngày 28 tết, đoàn không quân Hồng Hà, mật danh trung đoàn 919, đã sẵn sàng chiến đấu cao. Đại đội máy bay IL-14 của thượng úy Nguyễn Văn Bang là đơn vị được giao nhiệm vụ đặc biệt này.

Đêm 30 rạng mồng 1 tết, miền Nam tổng tiến công. Sáng mồng 1, sở chỉ huy thông báo khẩn: sẵn sàng chi viện miền Nam. Nhưng mồng 1, mồng 2... trôi qua vẫn chưa có lệnh xuất phát. Không khí đợi chờ căng thẳng. Thượng úy Bang và đồng đội hằng ngày tập trung quanh chiếc radio nghe thông tin mặt trận. Đối phương phản công. Rồi lệnh xuất kích cũng được ban hành.

NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Mười Hai, 2007, 11:44:44 am gửi bởi Tunguska » Logged
Tunguska
Global Moderator
*
Bài viết: 519



« Trả lời #8 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2007, 11:44:02 am »

Cánh chim đầu đàn ngành kỹ thuật toàn quân


Trung tướng Trương Khánh Châu, nguyên là Phó tư lệnh Quân chủng Không quân, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Giám đốc Trung tâm Khoa học kỹ thuật-Công nghệ quân sự Bộ Quốc phòng là một người gắn bó với ngành kỹ thuật hơn năm mươi năm. Ông đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học và sáng kiến cải tiến kỹ thuật, trong đó có những sáng kiến có giá trị trong phục vụ chiến đấu thắng lợi. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm quân đội, tôi có dịp gặp Trung tướng, nghe ông kể lại những bước đường trong quân ngũ của ông.




Trung tướng Trương Khánh Châu (bên trái) đang trao đổi kinh nghiệm kỹ thuật hàng không với Đại tá Phương Minh Hòa, Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân.

Lòng ham mê định hướng cuộc đời

Khi nói chuyện với tôi, Trung tướng Trương Khánh Châu khẳng định: Lòng ham mê kỹ thuật đã định hướng đúng cho cuộc đời tôi.

Trung tướng Trương Khánh Châu tên thật là Trương Minh Trinh, sinh năm 1935, tại làng Khánh Hòa, xã Châu Phú, huyện Châu Đốc, tỉnh An Giang. Cha của ông là Trương Minh Vẽn, làm thợ điện ở nhà máy đèn. Ảnh hưởng của người cha, ông đã có lòng ham mê học kỹ thuật từ nhỏ. Ông tham gia cách mạng từ tháng 11-1949 với nhiệm vụ làm Thư ký văn phòng Tỉnh đoàn thanh niên cứu quốc Long Châu Hà. Tháng 5-1950, ông tham gia chiến đấu ở bộ đội địa phương, sau đó chuyển về công tác ở tỉnh đội Hà Tiên. Cuối năm 1951, Trường Lục quân 2 Trần Quốc Tuấn tổ chức chiêu sinh. Ông Tám Lăng là Chính trị viên Tỉnh đội, thấy ông là người ham học nên gọi lên:

- Anh thấy em sáng dạ, lại chăm chỉ cần cù. Đợt chiêu sinh này các anh định cử em đi học, em chịu không?

Như người khác thì chắc vui mừng lắm, nhưng ông Châu lại suy nghĩ khác:

- Thôi, em không đi học chỉ huy đâu, em ở lại chiến đấu với các anh.

Ông Tám Lăng khuyên bảo:

- Cuộc chiến đấu còn lâu dài, em nên đi học. Tổ quốc rất cần những người chỉ huy qua trường lớp như em.

Nhưng ông Châu vẫn lắc đầu quầy quậy. Thế là ông Tám bực mình: “Tùy em!”, rồi ông cử người khác đi. Vài tháng sau, có cuộc chiêu sinh cho Trường kỹ thuật Nam Bộ, ông Châu lên năn nỉ ông Tám Lăng cho đi học. Ông Tám trợn mắt:

- Cho em đi học chỉ huy thì không đi, mà lại đòi đi học làm thợ? Thôi để lúc nào trường Trần Quốc Tuấn chiêu sinh lại, anh cho em đi học. Được không?

Ông Châu kiên quyết xin đi học trường kỹ thuật. Ông gặp cả Tỉnh đội trưởng Ba Kiềm để trình bày. Thế là ông được đi học Trường kỹ thuật Nam Bộ. Ra trường, ông trở thành thợ nguội binh công xưởng 141 miền Tây Nam Bộ. Lúc mới về xưởng, ông được giao một đống súng hỏng trong kho, cái thì gẫy báng, cái thì hỏng cò... Ông đã hì hục kiếm gỗ về cưa bào làm báng súng, đánh quét vé-ni như mới vậy. Có khẩu súng trường mất ổ nạp đạn, ông nhìn theo mẫu khẩu tốt, tự rèn, tiện lại ổ nạp mới, thế là ta lại có khẩu súng tốt. Có lần, tiểu đoàn 307 do ông Nguyễn Văn Tiên chỉ huy (sau này là Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân), chuẩn bị đi đánh đồn giặc, nhưng không may khẩu súng đại liên 13,2mm bị hỏng, không bắn được liên thanh. Ông suy nghĩ, muốn bắn liên thanh được, viên này ra viên kia phải lên được nòng, như vậy phải có nguồn hơi. Từ suy nghĩ ấy, ông phát hiện chốt đóng mở hơi là một thanh sắt hình bị mòn, ông phải rèn lại chốt khác. Từ 3 giờ chiều ông hì hục làm đến 5 giờ sáng thì thành công việc khôi phục bắn liên thanh cho khẩu đại liên.

Tháng 3-1955, tập kết ra Bắc, ông được làm thợ đặc thiết sân bay Gia Lâm. Hồi còn trong rừng, ông Châu hay lấy kèn ra thổi, cũng được dăm ba bài. Ai dè có anh bạn thân chơi nhạc cho Đoàn văn công Tổng cục Chính trị giới thiệu ông. Thế là các anh trong đoàn văn công sang Gia Lâm gặp ông, đề nghị về đoàn văn công. Ông phải từ chối mãi, vì lúc này ông đang mong muốn được đi học ngành kỹ thuật hàng không. Trong tâm trí ông lúc đó chỉ ước mơ trở thành người thợ bậc cao để phục vụ cho Tổ quốc. Chính lòng đam mê kỹ thuật đã không làm ông trở thành người chỉ huy hay nhạc công mà trở thành một nhà khoa học cống hiến nhiều công trình cho đất nước.


Những sáng kiến phục vụ chiến đấu và huấn luyện

Ngay từ khi còn làm thợ đặc thiết sân bay Gia Lâm, ông đã có sáng kiến cải tiến hệ thống phanh cho máy bay AN.2. Từ việc chỉ một phi công sử dụng phanh, ông cải tiến để hai phi công có thể cùng phanh được. Sáng kiến này phục vụ cho công tác huấn luyện phi công. Cục trưởng Không quân lúc ấy là ông Đặng Tính, đã hỏi ông:

- Cậu dựa vào đâu mà tính toán để cải tiến được?

Ông chỉ biết cười trừ:

- Báo cáo thủ trưởng, tôi chẳng biết tính toán gì, mà chủ yếu làm theo kinh nghiệm và sự nhạy cảm thôi.

Thấy vậy, ông Đặng Tính tạo điều kiện cho ông Châu đi học Đại học hàng không Ki-ép ở Liên Xô. Sau đó ông được sang Trung Quốc thực tập kỹ thuật hàng không.

Trở về nước trong tình hình cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc hết sức ác liệt, ông được Tư lệnh Binh chủng Không quân Đào Đình Luyện giao nhiệm vụ nghiên cứu làm sao để MiG-17 hạ cánh trên bãi cát khoảng 500m chiều dài. Ý đồ của cấp trên là muốn sử dụng máy bay MiG.17 đi đánh tàu khu trục Mỹ ở Quảng Bình, yêu cầu đường băng hạ cánh của MiG-17 khoảng 1.500m, mà xung quanh khu vực đó ta không có sân bay nào đáp ứng được yêu cầu này. Thế là ông Trương Khánh Châu đã nghiên cứu lắp dù đuôi cho MiG-17. Khi MiG-17 có dù đuôi, chỉ cần một bãi cát ven biển có chiều dài khoảng 500m là có thể hạ cánh được. Sáng kiến này đã tạo điều kiện cho hai phi công Nguyễn Văn Bẩy và Lê Xuân Dị đánh bom vào tàu khu trục Mỹ ở ngoài khơi Quảng Bình.

Tư lệnh Binh chủng Đào Đình Luyện lại giao nhiệm vụ cho ông cải tiến máy bay IL-28 trinh sát chụp ảnh sang thành máy bay ném bom. Ông đã cùng anh em kỹ thuật nghiên cứu đưa các thiết bị chụp ảnh xuống để lắp bom lên máy bay. Việc cải tiến thành công đã tạo điều kiện cho máy bay ta sang Nam Lào ném bom cháy kho xăng vài triệu tấn của Mỹ, làm địch không có nhiên liệu đi đánh phá miền Bắc Việt Nam.

Thời kỳ này, Mỹ đánh phá sân bay ta rất ác liệt, những chiếc MiG là mục tiêu của không quân chúng. Việc di chuyển máy bay đi sơ tán rất nan giải, vì xung quanh sân bay không có đường kéo đi xa được. Ông Châu đã nghĩ ra phương án làm giàn để cẩu máy bay MiG bằng trực thăng Mi-6. Với phương pháp dùng các ống thép đút vào các chốt bánh, sau đó dùng dây cáp nối lên để trực thăng cẩu máy bay. Những tính toán chính xác, không để máy bay quay ngang, phương án của ông đã được không quân ta sử dụng để sơ tán máy bay khỏi sân bay và khi cần lại đưa về chiến đấu. Có những lúc kẻ địch tưởng ta đã bị tiêu diệt hết máy bay, nào ngờ khi chúng nghênh ngang vào đánh phá thì những con én bạc lại bất thần xuất hiện, giáng cho chúng những đòn đích đáng. Việc cất giấu máy bay bằng đường không này đã góp phần tránh được tiêu hao sinh lực cho không quân trong những năm chiến tranh.

Có lần Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Lê Văn Tri gọi ông lên giao nhiệm vụ:

- Hiện nay C-130 của địch đánh rất rát trên tuyến đường vận tải của ta, cậu thử nghiên cứu xem cải tiến máy bay nào đuổi được C-130 không?

Ông Châu về suy nghĩ. Các máy bay MiG của ta bay không được xa, yêu cầu về đường băng khó khăn, chỉ có cải tiến máy bay L.39, là loại máy bay huấn luyện, bay được khá lâu trên không thì rất phù hợp với nhiệm vụ này. Thế là ông lại cùng anh em kỹ thuật lấy giá rốc két của máy bay MiG.19 lắp sang máy bay L.39, mỗi bên cánh lắp được 2 quả. 4 chiếc máy bay L.39 được đưa vào sân bay Đồng Hới, từ đó, máy bay cất cánh và đuổi máy bay C.130 dọc Trường Sơn.

Từ cuối năm 1966 đến năm 1972, ông đã làm nhiệm vụ kiểm tra mức độ hư hỏng, phân cấp hướng dẫn và trực tiếp sửa chữa máy bay. Ông đã cùng tổ kỹ thuật sửa chữa được 221 lần chiếc máy bay, trong đó có nhiều chiếc hỏng nặng. Ông cũng biên soạn nhiều tài liệu có giá trị như: Quy trình sửa chữa vỏ bọc MiG.17; Đo thăng bằng MiG.15; MiG.17, MiG.19; Nguyên lý bay siêu âm, chế tạo máy bay... Đồng thời ông cũng mở nhiều lớp kỹ thuật để giảng dạy cho anh em. Ngày 31-3-1973, ông Trương Khánh Châu đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.


Góp sức xây dựng ngành kỹ thuật toàn quân

Từ kỹ sư ngành hàng không, ông đã phấn đấu học tập không ngừng và trở thành tiến sĩ khoa học kỹ thuật. Ngày 4-3-1978, khi ông đang là Trưởng phòng nghiên cứu Cục Kỹ thuật Quân chủng Không quân, Quân ủy Trung ương phê duyệt dự án: “Xây dựng cơ sở thiết kế chế thử máy bay cánh quạt loại nhỏ”. Ông được cử làm Chủ nhiệm dự án, còn phó tiến sĩ Nguyễn Văn Hải và kỹ sư Cao Văn Bình làm Phó chủ nhiệm dự án. Nhóm nghiên cứu gồm 13 người, làm việc liên tục không mệt mỏi, trong điều kiện cơ sở vật chất lúc ấy hết sức nghèo nàn. Sau hơn hai năm thiết kế chế tạo, ngày 25-9-1980, chiếc máy bay Việt Nam chế tạo đầu tiên mang tên TL.1 rời đường băng cất cánh lên bầu trời quê hương. Với 102 phút trên không, 13 lần cất hạ cánh, máy bay TL.1 đã chứng tỏ khả năng của những nhà thiết kế ngành hàng không Việt Nam. Máy bay TL.1 có tốc độ 265km/giờ, độ cao tối đa 4.500m, trọng lượng 1.100kg, có thể chở người. Tổng bí thư Lê Duẩn và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Văn Tiến Dũng đã xuống xem bay thử và khen ngợi. Lúc này, ông Trương Khánh Châu đã được bổ nhiệm Phó Tư lệnh, kiêm Chủ nhiệm Kỹ thuật, kiêm Viện trưởng Viện kỹ thuật Quân chủng Không quân. Sau đó ông còn tham gia chế thử hai chiếc máy bay nữa là HL.1 và HL.2. Trong những năm cuối thập kỷ 1980, tình hình kinh tế nước ta có nhiều khó khăn, nên việc chế thử máy bay phải tạm dừng lại.

Tháng 9-1990, ông Trương Khánh Châu được điều về làm Phó Chủ nhiệm thứ nhất, sau đó là Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng. Tháng 11-1996, Trung tướng Trương Khánh Châu đảm nhiệm trọng trách Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và năm 2000 kiêm thêm Giám đốc Trung tâm khoa học kỹ thuật-công nghệ quân sự Bộ Quốc phòng. Ông là một trong những người đề xướng phong trào “Quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” trong toàn quân. Ông đã tham gia nhiều ủy ban chỉ đạo của quân đội và Nhà nước về khoa học kỹ thuật như công nghệ thông tin, vệ tinh địa tĩnh... Hiện nay, Trung tướng không còn đảm nhiệm chức vụ Thứ trưởng nữa, nhưng ông vẫn dồn tâm trí tham gia một số dự án Bộ Quốc phòng. Ông được phong Viện sĩ chính thức Viện hàn lâm các khoa học tự nhiên Nga năm 2000 và Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Hàng không Nga năm 2002.

Niềm đam mê kỹ thuật và sự phấn đấu không ngừng cho khoa học đã là động lực cho Trung tướng Trương Khánh Châu trở thành một trong những cánh chim đầu đàn kỹ thuật của toàn quân.


ĐOÀN HOÀI TRUNG.


-----------------------------
Ngưỡng mộ nhất bác này, từ một kỹ sư bình thường trở thành trung tướng, phó tư lệnh PKKQ, thứ trưởng QP, giám đốc TT KHKT-CNQS, AH LLVTND....
Logged
Ngocvancu
Cựu chiến binh
*
Bài viết: 580



« Trả lời #9 vào lúc: 30 Tháng Mười Hai, 2007, 09:31:58 pm »

Đại tá Phương Minh Hòa giờ đã là Thiếu Tướng Chính uỷ Quân chủng phòng không quân
Logged
Trang: 1 2 3 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM