Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(1/9) > >>

baogt:
Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire deL’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)


Người dịch: Hoang Phong
Nguồn: http://www.vuontaodan.net/thuviensach.
Người đưa: Baogt.

Lời tựa

(của người dịch)



Nguyên là một quyển sách do nhà Hachette tại Pháp xuất bản năm 1864. Sách khá xưa, vì thế tôi xin phép được dài dòng kể lại vì đâu lại có quyển sách này trong tay.

Tại Pháp, cứ mỗi năm một hai lần các làng xã tổ chức ngày bán đồ cũ. Ðó cũng là dịp dân trong vùng gặp nhau trò chuyện. Nhà nào có đồ đạc không dùng thì đem ra bán rẻ. Hoặc nhà nào dọn dẹp kho, tầng hầm, nhà xe, có thứ gì không dùng cũng đem ra bán. Có những gian hàng ăn uống vui như ngày hội. Tôi thích đi thơ thẩn dạo xem người lớn gặp nhau, trẻ con nô đùa, xem những thứ lỉnh kỉnh bày la liệt trên mặt đất, những vât kỷ niệm của ông bà họ từ xưa, những đồ dùng trong nhà còn mới hay đã hỏng. Bỗng đi ngang gian hàng của một người thanh niên còn trẻ, anh ta vọt miệng hỏi tôi:

- Ông có mua sách cũ không?

Tôi nhìn thấy trên mặt đất cạnh chân anh chỉ có độ mười quyển sách. Anh ta hiểu ý ngay và giải thích với tôi rằng:

- Có một người buôn bán sách cũ chuyên nghiệp vừa mua hết, chỉ còn có từng đó.

- Anh cho phép tôi lựa nhé!

Chưa kịp ngồi xuống xem thì anh ta đã nhanh nhẹn cúi xuống nhặt lên một quyển sách đưa cho tôi. Quyển sách mốc meo, ẩm uớt, tuy đóng bìa cứng nhưng đã rách nát. Nể nang đứng lại vì lời mời của anh, bây giờ lại nể nang vì anh ta chìa cho tôi quyển sách trước mặt. Quyển sách mốc xanh rất bẩn, vì lịch sự tôi phải cầm. Lật ra trang đầu:

Histoire

de

L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE

en 1861

Tôi ít khi đọc sách vớ vẩn, nhưng dù sao thì quyển sách này cũng nói về quê hương tôi, biết đâu có một vài chi tiết hay hay về lịch sử.

Từ ngày nhỏ tôi rất ghét môn sử, không bao giờ thuộc bài. Sử của một nước mà tôi không biết nó ở đâu, địa danh của một trận đánh cũng chẳng biết nó chỗ nào, năm ngàn người chết hay mười ngàn người chết thì cố nhớ để trả bài thế thôi, nếu vô phước mà thầy gọi trúng tên.

Ðã mua thì phải đọc. Nhưng càng đọc thử lại càng thấy nhiều xúc cảm dâng lên trong tôi. Những xúc cảm rất phức tạp, vừa đau đớn, vừa hãnh diện, vừa mỉm cười. Ðau đớn cái đau đớn của tổ tiên tôi, hãnh diện cái hãnh diện của dân tộc tôi, mỉm cười trước cái ngây ngô của lịch sử, cái thật thà dễ thương của con người. Có khi nước mắt chảy quanh nhưng cũng có khi phải bật thành tiếng cười.

Vì thế đã nảy ra cái ý dịch quyển sách này để những người đồng hương với tôi có dịp chia xẻ những cảm xúc trong tôi.

Tác giả có lối văn rất xưa, rắc rối và bóng gió, thường hay dùng chấm phẩy (;) hai chấm (:) câu và ý dài dòng, tôi cố gắng, nếu có thể được, giữ nguyên cách hành văn và cả cách chấm câu của tác giả khi dịch. Cố giữ lối trình bày ý tưởng của tác giả, nhưng cũng phải chuyển thành tiếng Việt Nam thế nào cho gọn gàng, dễ đọc. Câu nào "nửa Tây nửa ta” thì xin độc giả tha thứ.

Cuối trang thỉnh thoảng có ghi chú, nếu là ghi chú của tác giả thì tôi không thêm gì cả, nếu ghi chú của người dịch, trong mục đích giúp người đọc dễ theo dõi câu chuyện, thì tôi ghi rõ là: (ghi chú của người dịch). Nếu có ghi chú của tác giả lẫn lộn với ghi chú của người dịch thì tôi ghi cả hai cho rõ ràng.

Tên người và địa danh tôi giữ nguyên theo thời đó và theo cách viết trong sách, không thay đổi.

Sách có 10 chương, 3 trang hình vẽ và phần phụ lục. Hình 1 là bản đồ sáu tỉnh Nam Kỳ vào thời đó. Hình 2 là bố trí của đại đồn Chí Hòa[1], thành phố Saigon-Chợ Lớn và hệ thống sông ngòi chung quanh, rất tiếc là trong quyển sách rách nát của tôi tờ hình số 2 đã mất. Hình 3 là thành Mỹ Tho và hệ thống sông ngòi.

Phần phụ lục gồm có 6 phần và sau hết là Sổ tang:

Phụ lục I: Danh sách tổng tham mưu của toàn thể hạm đội đánh chiếm Nam Kỳ đặt dưới quyền chỉ huy của phó đô đốc[2] Charner, tên từng chiến hạm và sĩ quan chỉ huy, chức vụ và cấp bực của mỗi người, (danh sách chỉ có các sĩ quan chỉ huy trở lên, từ cấp bực hạ sĩ quan trở xuống không ghi, gồm 20 trang trong nguyên bản). Tôi xem như một tài liệu tham khảo nên không dịch.

Phụ lục II: Danh sách, tên tuổi, cấp bực, toàn bộ Quân đoàn viễn chinh Nam Kỳ, từ vị Chỉ huy trưởng[3] tức phó đô đốc Charner đến các sĩ quan cấp dưới, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, ban tham mưu, hành chính v.v., từ cấp hạ sĩ quan trở xuống không có trong danh sách, (tất cả 14 trang trong nguyên bản). Tôi không dịch phần này

Phụ lục III: Danh sách những quân nhân được tuyên dương công trạng, (3 trang trong nguyên bản). Tôi chỉ dịch lời tuyên dương của phó đô đốc chỉ huy trưởng, không nêu tên từng người.

Phụ lục IV: Chỉ dụ của hoàng đế Tự Ðức (ngày 4 tháng 11 năm 1860). Tôi cố gắng dịch ngược trở lại thành tiếng Việt, (3 trang trong nguyên bản).

Phụ lục V: Cách xây dựng thành trì của người Annam (gồm 3 trang trong nguyên bản). Phần này có phiên dịch.

Phụ lục VI: Quân điền[4] và dân quân Ðồn điền Annam (8 trang). Phần này có phiên dịch.

Sổ tang: Tất cả những người Pháp gục ngã ở Nam Kỳ miền dưới cho đến năm 1862. Dịch những dòng mở đầu sổ tang của tác giả. Sổ tang gồm ba phần (không dịch):

Phần 1: Danh sách những người tu hành, chức vụ, ngày chết (5 trang trong nguyên bản)

Phần 2: Danh sách quân nhân thuộc hải quân, cấp bực, ngày chết (25 trang trong nguyên bản)

Phần 3: Danh sách quân nhân thuộc lục quân, cấp bực, ngày chết (35 trang trong nguyên bản)

Cuối sách tôi xin phép độc giả được ghi thêm một vài cảm nghĩ của tôi để làm phần kết luận.

Tôi không ngồi đối diện với tác giả để tìm hiểu và hỏi han tác giả. Tôi xin phép được ngồi một bên bàn với tác giả để cùng nhau lật lại một vài trang sử nhỏ của quê hương tôi. Tác giả kể cho tôi nghe những gương oai hùng của người lính viễn chinh, tôi cũng len lén mượn ngòi bút của tác giả để mô tả lại những giọt máu của tổ tiên tôi, những giọt máu rơi rớt trên những thửa ruộng sình lầy. Hình như những giọt máu ấy vẫn còn âm ấm trong tôi.

Bures-Sur-Yvette, 08.03.00
-------------------------------------
[1] Nguyên văn bản dịch là “thành Kỳ Hòa”. - TN

[2] Nguyên văn bản dịch là “phó thủy sư đề đốc”. Thực ra, cấp bậc của Charner lúc bấy giờ là “Vice-amiral”, dịch là “Phó đô đốc”. Về sau này, Hải quân Pháp sau này có thêm cấp bậc trên Phó đô đốc là “Vice-amiral d’escadre”, dịch là “Phó thủy sư đô đốc”. Vì vậy, ở bản hiệu đính sẽ sửa chữa các lỗi này để tránh nhầm lẫn. - TN

[3] Nguyên văn bản dịch là “nguyên soái”. - TN

[4] Nguyên văn bản dịch là “Nông trại quân đội”. - TN

baogt:
CHƯƠNG I

Ðề cương:

Ngưng chiến ở Bắc Kinh giúp các lực lượng Pháp rảnh tay - Phó đô đốc Charner được Hoàng đế đề cử thống lãnh viễn chinh Nam Kỳ [1] - Các lực lượng viễn chinh tổ chức trở lại, rời nước Tàu đến Saĩgon trong những ngày đầu tháng 2 năm 1861.



Hoàng đế Hien-fung[2] bất thần đào tẩu về Zhe-hol[3] nơi tận cùng xứ Mãn châu làm quân đồng minh hết hy vọng thương thuyết với Thiên Quốc. Quyết định cực đoan của Hoàng đế nước Tàu gây ra mối hiểm nguy lớn nhất cho việc tiến quân của lực lượng đồng minh lúc bấy giờ. Tương lai cho thấy nhiều điềm xấu và tối tăm: quân đồng minh đang lâm vào một cuộc chiến man rợ, kéo dài nhưng muốn chấm dứt trong danh dự cũng thật khó khăn. Mùa đông đã báo hiệu và mọi người đều biết sẽ vô cùng gay go trên đất Tàu, buộc ta phải chọn một quyết định. Lực lượng đồng minh vì thế phải rút lui, đóng quân chặt chẽ tại Tien-tsin[4], thiết lập liên lạc với căn cứ hành quân trên bờ biển qua các ngõ Tien-kou, Sing-ko, Takou[5]. Lực lượng hải quân cũng bắt buộc phải chuẩn bị theo để hứng chịu mùa đông.


Bộ mặt mới của tất cả mọi việc sẽ thay đổi hết, tùy thuộc vào những yếu tố mới, tức việc tiếp xúc với Hoàng tử Kong[6], từ tánh tình, vị thế vương quyền của ông ta cho đến kết quả trung gian của một lực lượng Âu châu liên hệ thân hữu từ lâu với nước Tàu[7]. Ngày 25 tháng 10 năm 1860, nam tước Gros, huân tước Elgin và hoàng tử Kong cùng ký một hiệp ước hoà bình. Hiệp ước thành công nhờ sự dàn xếp của tướng Ignatieff[8]. Nhờ vậy tình trạng tháo mở, quân đội của hai cường quốc được giải tỏa[9]. Lực lượng hải quân và một phần đội quân viễn chinh của ta được rảnh tay để kéo xuống đập vào Nam Kỳ với mục đích củng cố vị thế thống lãnh của Pháp ở phần đất Á châu này.


Hoàng đế [10] giao phó việc chỉ huy viễn chinh cho phó đô đốc hải quân Charner. Phó đô đốc Charner liền tổ chức lại lưc lượng hải quân do chính ông làm chỉ huy trưởng từ lúc mới khởi đầu cuộc chiến tranh với Tàu. Ông thành lập hai sư đoàn lớn. Sư đoàn thứ nhất gọi là Sư đoàn Tàu, lo việc bảo vệ và canh giữ Ta-kou, Tche-fou, Shang-haĩ[11], luôn cả các hòn đảo Chu-san và Nhật Bản; ông phong chuẩn đô đốc hải quân Protet thống lãnh sư đoàn này. Ông quyết định là các chiến thuyền của sư đoàn Tàu phải thật linh động, di chuyển ngắn hạn ở Nhật, cốt để phô trương khả năng mạnh mẽ về phương tiện mà nước Pháp sẵn có tại các vùng biển này. Mặc dù ở xa mặt trận đang được chuẩn bị là Nam Kỳ, vị thế của đơn vị thuộc miền bắc nước Tàu thật quan trọng vì giữ nhiều trọng trách như: canh chừng Nhật Bản; khống chế bọn nổi loạn trong các xí nghiệp kinh doanh ở Shang-haĩ và Ning-po; nuôi đạo quân viễn chinh và hồi huơng quân lính; ngoài ra còn phải bảo vệ hiệp ước vừa ký mà sự thực thi chưa chắc được bảo đảm; việc duy trì đường dây liên lạc giữa Ta-kou và Tche-fou. Sư đoàn thứ hai dùng để hành quân ở Nam Kỳ.


Vị tổng tư lệnh chỉ định chuẩn đô đốc Page trực tiếp chỉ huy sư đoàn thứ hai và đặt dưới sự lãnh đạo của chính mình. Hai khu vực Hong-kong và Canton[12] tách ra khỏi trách nhiệm chỉ huy của tổng hành dinh Saĩgon.

Phó đô đốc Charner thân hành đến Tien-tsin để hội ý với các sứ thần các nước và các tướng lãnh đồng minh, để thông báo những gì đã được quyết định liên hệ đến người Pháp.


Chiến hạm Duchayla giao cho Nam tước Gros sử dụng, ông này phải trở về Pháp sau khi sắp xếp cho ông de Bourboulon đổi từ Shang-haĩ đến nhậm chức ở Bắc Kinh. Chiến hạm Duchayla trên đường về sẽ ghé Hong-kong, Manille và có thể cả Saĩgon. Chiến hạm Duchayla mang theo quân bổ sung[13] cho trại binh Saĩgon. Theo các tin tức mới nhất thì quân trại Saĩgon càng ngày càng thiếu nhân lực, việc canh phòng khó khăn vì vòng đai phòng thủ rộng. Ðoàn quân đổ bộ trước kia đã tiến chung với quân đồng minh vào Bắc Kinh được giải thể. Thủy quân đánh bộ cũng tách ra khỏi quân đoàn viễn chinh trên đất Tàu để tăng cường một phần cho trại quân Ta-kou; phần còn lại chuyển đến Canton, và sau đó là Saĩgon. Tướng Jamin[14] cùng với trung đoàn bộ binh 101, tiểu đoàn 2 bộ binh, một giàn pháo binh 12 khẩu, một giàn pháo binh 4 khẩu, một đại đội công binh và một nửa bộ phận hành chánh được chuyển về Shang-haĩ. Tướng[15] Collineau được chỉ định chiếm đóng Tien-tsin với đoàn lục quân 102, hai giàn pháo binh, một đại đội công binh, một số kỵ binh và một nửa còn lại của bộ phận hành chánh. Chiến thuyền Forbin giao cho tướng[16] Cousin-Montauban, vì ông này muốn thanh tra vài nơi tại Nhật Bản trước khi quay về Shang-haĩ.


Việc điều động lực lượng vừa kể đột nhiên làm mất tầm quan trọng chiến lược của Tche-fou. Trong suốt cuộc viễn chinh Tàu, Tche-fou là kho lương chính của quân đội. Nay kho lương này chỉ còn dùng để tiếp tế cho các chiến hạm trong vùng, cho toán quân phòng ngự địa phương và cho vùng sông Pei-ho[17] khi cần tới. Tuy vậy vị trí này còn giữ một tầm quan trọng khác; trong thời gian mà vịnh Pe-tche-li và sông Pei-ho bị đóng băng thì phải dùng ngõ Tche-fou để liên lạc với Tien-tsin.


Các vấn đề chi tiết được giải quyết giữa các chỉ huy trưởng thuộc các tổng tư lịnh hải quân và quân đội. Công cuộc chuyển quân lên tàu để trực chỉ Nam Kỳ bắt đầu, mặc dù băng giá, xa bờ và bão tố.

 

Gió thổi gần như liên tục từ ngoài khơi vào; sóng đứng trên đáy biển bùn, chuyển thành sóng đập, tạo sình lầy gây thật nhiều trở ngại cho việc chuyển quân; nếu sóng lăn và dài thì ít gây khó khăn hơn. Khí lạnh đã bắt đầu gay gắt: dây thừng trên tàu đóng đá và sàn tàu cũng đông đá trơn trợt; ban ngày cũng thường đóng băng; ban đêm hàn thử biểu tuột xuống đến mười hay mười hai độ dưới số không. Thủy thủ đoàn của các pháo hạm lớn từ Nam Kỳ vừa đưa tới đây, vì đã quá mệt mỏi sau hai năm chiến đấu dưới khí hậu nhiệt đới, nên phải chịu cam khổ vô cùng. Vào khoảng 20 tháng 11, nước đá bắt đầu bít sông Pei-ho. Pháo hạm Alarme bị một cơn gió mạnh làm mắc cạn trên bãi ngay phía trước Ta-kou, mất luôn bánh lái và một phần đuôi tàu. Hộ tống hạm Alom-prah gặp khó khăn vì chân vịt không sử dụng được. Pháo hạm Fusée bị kẹt băng trên sông Pei-ho, sau đó nhờ một trận nước lũ bất ngờ mới thoát ra được, nhưng khi ấy thì việc chuyển quân đã thực hiện xong, cả đạo quân lên đường hết rồi.


Một phần quân số và hành trang được chuyển lên tàu từ một địa điểm cách bờ 6 hải lý, vào đúng lúc cái lạnh của mùa đông càng ngày càng mãnh liệt. Ðây là cuộc hành quân không chiến đấu khó khăn nhất mà hải quân ta đã thực hiện. Việc chuyển quân đánh dấu cuộc viễn chinh nước Tàu đã chấm dứt, chuyển sang chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Nhưng thật ra thì việc chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ được điều động ở Sha-lui-tien cách Bắc Kinh 60 dặm và cách Saĩgon đến 800 dặm[18]: các đoàn quân dùng cho chiến dịch Nam Kỳ tiến về Sha-lui-tien, các pháo hạm bằng sắt cũng được kéo về nơi này. Pháo hạm bằng sắt loại nhỏ hết sức đắc dụng trong các trận chiến, đã góp công thật đáng kể vào các trận đánh buộc các đồn bót trên sông Pei-ho phải đầu hàng. Người ta thấy loại pháo hạm này ngược xuôi không ngừng trên sông, chuyên chở quân lính và tiếp liệu. Chúng hết sức hữu dụng ở bất cứ loại công tác nào giao phó. Cách đóng các pháo hạm bằng sắt vừa kể đâu có dự trù để dùng vào việc chuyên chở giữa bến Sha-lui-tien và các chiến hạm ở cửa sông Pei-ho; khoảng cách 6 hải lý, biển động, sóng lắc, tàu chòng chành một cách đáng ngại. Máy tàu không đủ mạnh để ngược sóng trong lúc gió mạnh, nhưng là một phương tiện vô cùng quí giá giúp tay cho người lính hải quân trên đường chiến đấu: pháo hạm đủ sức dùng làm tàu kéo, đôi khi cũng dùng để chở nặng. Nhờ các tàu này mà việc chuyển quân hoàn tất trong 20 ngày, mặc dù biển động, gió bão và trời lạnh. Các tàu này đã giúp thật nhiều cho thủy thủ đoàn khỏi ra tay chèo chống; thật ra thì thủy thủ đoàn dù có bắt buộc họ chèo họ cũng không đủ sức. Ở Nam Kỳ, nơi sông ngòi chằng chịt, vai trò của các pháo hạm sẽ còn cần thiết hơn nữa; ta có thể đoán trước rồi đây các tàu này sẽ là những phương tiện rất tốt vừa để chiến đấu vừa để tiếp vận trong cuộc chiến ở Nam Kỳ. Nhưng phải công nhận việc kéo những chiếc sa-lúp pháo hạm chạy bằng hơi nước, chỉ dự trù hoạt động trong vùng nước êm, suốt 800 dặm đường biển để đến Nam Kỳ, là một kinh nghiệm mới cho ngành hải quân. Súng đại bác, đạn dược, lương thực trên sa-lúp pháo hạm đều chuyển sang các tàu kéo. Các khe hai bên vách tàu được bít kín, than đem dồn về phía mũi tàu để khi kéo thì đầu tàu khỏi bị ngóc cao quá độ. Các sa-lúp pháo hạm đã vượt qua khỏi mọi thử thách, chỉ mất có hai chiếc bị chìm trên đường đến Nam Kỳ.


Trong khi đó các tàu lớn lần lượt ra khơi sau khi chuẩn bị xong. Tàu Saône chở cu-li từ Canton. Tàu Duchayla rời bến ngày 10 tháng 10 với nam tước Gros; cột chính của tàu có treo cờ quốc gia kích thước vuông có hình ngọn lửa[19]. Ngay ngày hôm sau, huân tước Elgin cũng đi Hong-kong. Ngày 1 tháng 12, tàu Némésis ra khơi quay về Pháp sau 5 năm hoạt động ở Tàu. Ðã có bao nhiêu người ra đi với chiếc tàu này mà từ nay sẽ không bao giờ trở về nữa!


Suốt thời gian hoạt động vừa kể trên, tàu Némésis đã tham dự vào tất cả các cuộc hành quân đánh phá ở Tàu và Nam Kỳ, sử dụng đại pháo và dùng cả thủy thủ đoàn của tàu để đổ bộ. Các tàu Renommée, Monge, Dryade, Dragonne, Forbin lần lượt ra khơi theo lịch trình đã định trước. Các tàu này sẽ thượng cờ Pháp khi đến Nagasaki và Yedo; phô trương thanh thế xong thì trực chỉ Woo-sung[20] hoặc Hong-kong.


Ngày 5 tháng 12 năm 1860, các toán quân chuyển từ Bắc Kinh, đúng ra phải đến đóng ở Shang-haĩ, lại đem lên tàu để đưa đi Nam Kỳ. Các tàu chiến cuối cùng của Pháp trong vùng cũng nhổ neo rời bến trên sông Pei-ho. Cửa sông hình phễu không thấy bờ bến đâu hết giống như ở giữa biển khơi, nước thì vàng khè vì phù sa sông Pei-ho và sông Peh-tang; cuối vịnh Pe-tche-li, mà người ta thường gọi sai là vũng tàu Sha-lui-tien, và cả sông Pei-ho trở nên vắng tanh, thật hiu quạnh sau khi hơn 400 tàu đã nhổ neo. Tàu Impératrice-Eugénie, kéo cờ hiệu của phó đô đốc Charner, tàu Echo dùng làm tàu truyền lệnh, cả hai lên đường đến Tche-fou, nơi đây chỉ cách Ta-kou hơn 60 dặm. Hai tàu đã đến nơi chiều ngày 6 tháng 12. Sau khi xắp xếp chi tiết công việc tại đây xong, phó đô đốc tổng tư lịnh cùng với hai tàu lại lên đường ngày 7, đến Woo-sung tiền đồn của Shang-haĩ vào ngày 10 tháng 12. Các chiến hạm khác chậm trễ vì công tác cũng lần lượt tới nơi.

baogt:
Chỉ huy trưởng viễn chinh là phó đô đốc Charner có toàn quyền gây chiến hay làm hòa với xứ Annam. Từ Hoàng Hải, eo biển Sakhaline, biển Nhật Bản cho đến eo biển Malacca và eo biển quần đảo Sonde, suốt 1800 dặm, tất cả tàu bè trương cờ Pháp phải chịu mệnh lệnh của ông. Trọng trách của ông rất lớn: vì tình trạng chiến tranh, vì cách xa mẫu quốc, thêm việc nắm giữ hai trọng trách một lúc, vừa là chỉ huy trưởng viễn chinh, vừa là sứ thần, thêm số chiến thuyền quan trọng dưới quyền chỉ huy của mình; tất cả các trách nhiệm hệ trọng đó đã góp phần làm chói lòa thanh danh của phó đô đốc. Chính đây là sự ủy quyền rộng rãi nhất từ thời Ðệ nhất đế chế[21] giao cho một vị tuớng lãnh hải quân.


Quyền chỉ huy của ông bao trùm một hải đội hơn 60 chiếc, gồm 1 đại chiến hạm chủ lực[22], 2 khu trục hạm loại một chạy bằng chân vịt, 5 khu trục hạm loại một chạy bằng buồm[23], 1 khu trục hạm loại hai chạy buồm[24], 1 chiến hạm[25] trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 chiến hạm chạy chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm[26] loại một chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 hộ tống hạm loại nhẹ[27] chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại một chạy bánh xe, 5 hộ tống hạm loại nhẹ chạy bánh xe, 6 chiến thuyền hạng nhẹ[28] chạy buồm, 5 pháo thuyền[29] loại một chạy chân vịt, 16 pháo thuyền có thể tháo lắp được[30], 2 tàu vận tải chạy chân vịt có trang bị mỗi tàu hai giàn đại pháo[31], 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực gồm có 4 sĩ quan cấp tướng[32], 13 Đại tá[33], 22 Trung tá[34], 95 Đại úy[35], 105 Trung úy[36], khoảng chừng 100 chuẩn úy, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chánh, 8.000 lính thủy. Sức mạnh hỏa lực gồm 475 miệng lửa; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và viễn đông được thuê bao để nối liền các cứ điểm từ bờ biển nước Tàu đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lịnh chọn lựa và biệt phái sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý tới.


Ðiều không được may là một số các chiến hạm đã chiến đấu từ 4 năm nay, vài chiếc đã bước vào năm thứ 5. Thiết bị trên tàu ở vào tình trạng hư hao, các nồi hơi súp-de[37] của 4 pháo hạm lớn và 3 hộ tống hạm gần như rã rời từng mảnh. Tuy nhiên thủy thủ đoàn tốt, sĩ quan xuất sắc, rất thành thạo sau 4 năm chiến đấu. Có thể nói rằng họ tuy có mòn mỏi nhưng không phải là kiệt lực, họ được khích động bằng một luồng sinh khí anh hùng. Trong số các sĩ quan rời Pháp đã lâu, có nhiều người khi đến Tàu vẫn còn là vị thành niên. Họ già đi trong gian khổ và chỉ còn biết nước Pháp qua các bức tranh họ mang theo, họ cũng chẳng hiểu gì hết về thói tục của những dân tộc trước mặt họ, biết đâu họ cũng chỉ vô tình như những thủy thủ khác mà thôi. Những năm tốt đẹp nhất của đời họ đã trôi đi trong khắc khổ, thiếu hẳn sự gần gũi với xã hội chung quanh; sự chung đụng mà ta thấy nơi nào trên trái đất cũng có, nhưng tuyệt nhiên thiếu hẳn ở cái đất Tàu này. Chẳng có gì để làm rung động quả tim của người trai trẻ mới 25 tuổi đời[38]. Vì thế họ đành chú tâm đến những chuyện khác vậy. Họ kể chuyện xông pha chiến đấu, những thành tích xuất sắc trong ngành nghề của mình, họ bàn với nhau về bảng thăng thưởng. Rốt lại cũng là lợi lộc (tôi muốn nói ở đây là danh dự chớ không phải là tiền bạc) đã làm món mồi để lôi cuốn tham vọng, làm mất đi ý nghĩa hy sinh cao cả của đời họ, kể cả những sở thích riêng tư họ cũng phải hy sinh, nhưng lúc nào họ cũng sẵn sàng hy sinh thêm, họ coi giá trị của huân chương và cấp bực từ trên ban xuống thật xứng đáng với sự hy sinh của họ. Không còn ai non dại. Họ đều có vẻ rắn rỏi và năng hoạt; người nào trước kia dù có nông nổi cũng đã trở nên nghiêm trang hơn; nhiều người đúng ra đã bước vào tuổi thích nghỉ ngơi nhưng vẫn tỏ ra rất hăng hái. Họ dễ bị khích động vì vinh quang, vì danh dự để bảo tồn thanh danh của người thủy thủ; họ tạo thành một khối quân nhân đoàn kết chặt chẽ, nếu sau này có tan rã thì dù cho có gặp hoàn cảnh thuận lợi như trước cũng biết đâu không bao giờ còn tái tạo lại được một khối chặt chẽ như vậy, vì những người đã từng tạo ra nó không còn nữa. Không cần phải khó khăn tìm tòi, ta cũng nhận thấy họ là những người của biển cả, những chiến sĩ, những nhà địa lý thủy học, bác học, ngôn ngữ học; vị chỉ huy trưởng nào chẳng sung sướng thấy dưới tay điều khiển của mình có những đại úy thuyền trưởng[39] mới 30 tuổi, chiến đấu không ngừng với sóng gió trên mặt biển xứ Tàu, cặp bờ vào đất Shang-haĩ ở bất cứ thời tiết nào, mặc dù bờ biển nơi đây được coi là khó khăn nhất thế giới. Khả năng quyết định được đem ra thử thách liên tục ở mọi sự kiện, ngay khi hành động đang xảy ra, đã tạo cho mỗi người con đường đi lên. Người chỉ huy có thể trông cậy và tin cẩn ở những con người như thế.


Công bố cuộc viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ với một lực lượng hùng hậu cũng giống như có một dòng máu mới bơm vào huyết quản của họ, những huyết quản đã bao lần sôi sục.


Giai đoạn chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ làm bùng dậy tinh thần đồng đội; nhiều người đã từ lâu được quyền trở về Pháp cũng không muốn nhắc đến chuyện này. Người nào cũng muốn dự phần vào các cuộc hành quân sắp diễn ra.


Woo-sung là một làng Tàu nghèo nàn ở ngã ba sông Yang-tze[40] và Wam-poo[41]. Làng là bến đậu và chỗ họp của hạm đội. Vùng đồng ruộng chung quanh thật bằng phẳng, chỉ hơi nhấp nhô một vài nơi: gồm có ruộng lúa và ruộng trồng bông vải thấp lè tè. Cảnh vật buồn tênh. Tất cả sinh hoạt đều dồn trên mặt sông Shang-haĩ, thuyền buồm ngược xuôi không ngừng; nhiều chiếc trọng tải đến 300 tấn: có đủ khả năng đi biển, rất linh hoạt, xoay trở thật tài tình nhờ bánh lái có đục lỗ. Tàu bè Âu châu từ khắp nơi trên thế giới đến, xuôi dòng trên sông nhưng thường thì không ghé vào Woo-sung. Hải quân bỏ neo thành hàng dài thật oai nghiêm bên phía tả ngạn vì nước sâu hơn; phía hữu ngạn nước cạn có nhiều cồn. Từ trên cột buồm của chiến hạm Impératrice-Eugénie có thể nhìn thấy thành phố Shang-haĩ[42]; liên lạc thường xuyên từ tàu với thành phố Shang-haĩ nhờ vào các pháo hạm bằng sắt, thuyền buồm hay kỵ mã do hải quân thuê mướn. Tướng Cousin-Montauban đặt bộ chỉ huy tại Shang-haĩ gồm đến 2.000 người thuộc quân đội Pháp.


Chính từ Woo-sung cuộc viễn chinh được tiếp tục chuẩn bị và quyết định từng chi tiết một. Hoàng đế[43] ra quyết định là một phần quân số viễn chinh ở Tàu sẽ đặt dưới quyền điều khiển của phó đô đốc Charner. Vị chỉ huy trưởng Charner liền hội ý với tướng Montauban và cùng nhau đưa ra các quyết định như sau:


Chuẩn tướng[44] de Vassoigne sẽ chỉ huy các binh đoàn viễn chinh, dưới quyền của vị chỉ huy trưởng. Bộ binh, lính đánh bộ người Phi châu, pháo binh, công binh, hậu cần gồm chung là 85 sĩ quan, 1.303 quân sĩ, 272 vừa ngựa vừa lừa[45]. Quân sĩ rút bỏ các đảo Chu-san. Biệt đội bộ binh đóng giữ các hòn đảo này sẽ chuyển về Hong-kong. Ðội thủy quân lục chiến trước đây đặt dưới quyền chỉ huy của đô đốc do một quyết nghị chung của đồng minh ở Ta-kou, gồm 800 người[46], nay đem sát nhập vào binh đoàn viễn chinh. Một sĩ quan tùy viên quân sự của bộ tổng tham mưu được biệt phái thêm cho binh đoàn[47] để bảo quản việc điều động quân lính và thực thi quân kỷ trong các cơ quan. Công tác lập doanh trại, cứu thương, lương thực sẽ do ủy ban kế toán quân đội đảm trách, ủy ban do một vị phụ tá quân nhu trưởng chỉ huy. Sở ngân khố và bưu điện được thiết lập thường trực tại Saĩgon. Một viên chức liên lạc được đặt tại Singapour để tiếp nhận công hàm, văn thư từ Âu châu chuyển sang Nam Kỳ.


Như vậy là binh đoàn viễn chinh đã được tổ chức xong. Nếu kể thêm đội thủy quân lục chiến sẵn có trong thành phần quân lính đóng tại Saĩgon, cùng với ban chỉ huy đã thành thạo của đội ngũ này, thì số binh đoàn nhỏ tại Nam Kỳ cũng đã tăng lên đến 4.000 người. Hiển nhiên đây là một binh đoàn[48] đủ sức tiến lên, chiến đấu, cắm quân và tiếp tục chiến đấu nữa; không như các toán quân mà sáng thì đổ bộ, chiều phải rút về điểm xuất phát, nếu muốn sống còn.


Kinh nghiệm ở bắc nước Tàu đã cho thấy sự ích lợi của phu khuân vác người Tàu. Dưới khí hậu nóng bức, nhiễm độc vì bịnh sốt rét kinh khiếp này, bọn cu-li[49] lại còn cần thiết hơn nữa. Vì thế ta có chiều hướng đặt người Âu châu giữ vai trò chiến đấu mà thôi. Một đội quân đánh thuê gồm 600 người được tuyển mộ và huấn luyện do đại tá hải quân[50] chỉ huy trưởng Canton là Coupvent-Debois đảm trách.


Tiền bạc, lương thực, than được tồn kho và phân chia cất giữ ở Hong-kong, theo những chỉ thị và tiêu chuẩn đặc biệt thích nghi và phù hợp cho nhu cầu của cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Chuẩn đô đốc Page nhận chỉ thị phải cho lịnh các tàu chiến từ Pháp sắp đến đây phải chuyển vào Hong-kong 13.000 đồng tiền[51] Mễ Tây Cơ mà các tàu này mang theo. Tàu Persévérante giữ trọng trách cất giữ số tiền đã được chia cho Pháp quy định trong hiệp ước Tien-tsin và thỏa ước Bắc Kinh. Bốn trăm ngàn khẩu phần lương thực tồn trữ ở Hong-kong xem như đã đủ cho số lượng phòng cơ. Tất cả các tàu chuyên chở lương thực phải được gởi về Saĩgon. Trong số 8.000 tấn than trên các tàu của chính phủ Pháp thuê đang cặp bến Hong-kong, thì 4.000 tấn được chuyển lên bờ, 4.000 tấn còn lại phải chở đến Saĩgon.


Ðể kết thúc bảng thống kê chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ cũng phải kể ra đây phần đóng góp của nước Tây Ban Nha. Trước đây đội ngũ người Tây Ban Nha đóng tại Saĩgon thu hẹp chỉ còn 230 bộ binh. Phó đô đốc Charner thông báo các việc đang được chuẩn bị và đã được thực hiện đến đại tá đại diện toàn quyền Hoàng gia Thiên Chúa Tây Ban Nha là Palanca Gutierrez, cùng viên toàn quyền Phi Luật Tân. Sau đây là lời ông nói với đại tá Palanca, người mà ông vẫn giữ mối liên lạc cá nhân quí mến và thân thiện: “Người Tây Ban Nha là những người đồng minh chớ không phải là thành phần phụ thuộc. Nhưng không thể nào có chuyện phân chia lãnh thổ Saĩgon được. Phải chờ sau này và ở một nơi khác, tức là Tonquin[52], thì Tây Ban Nha mới có thể được đền bù cho sự hy sinh vinh quang của mình. Ðó là tinh thần các chỉ thị của Hoàng đế Nã Phá Luân ban xuống”. Còn về việc đánh nhau thì đô đốc kêu gọi đến tinh thần nhất trí. Ông tin vào sự hợp tác mà vị toàn quyền Tây Ban Nha hứa hẹn. Nói với đại úy đại diện Phi Luật Tân, vị thủ lãnh viễn chinh cũng đòi hỏi một tinh thần như vừa kể. Theo thứ tự ưu tiên ông đòi phía Tây Ban Nha phải gởi thêm cho ông 150 kỵ binh, 400 lính bộ và 300 thủy binh gốc người Tagal[53]. Manille phải đặc biệt cung ứng 150 kỵ binh cả người và ngựa; cũng dễ hiểu là vai trò của kỵ binh rất hữu ích ở Nam Kỳ. Sự tăng viện này đã không hề xảy ra. Nhưng bù lại, đô đốc tìm thấy nơi đại tá Palanca Gutierrez một sự hợp tác trung thành và nhiệt tâm, điều này giúp ông có thể tin cẩn vào tinh thần hào hiệp của vị sĩ quan Tây Ban Nha.

Tất cả các công tác không liên quan gì đến chiến dịch viễn chinh cũng được giải quyết ở Woo-sung. Các chiến hạm Prégent, Dordogne, Gironde lên đường thực hiện công tác riêng. Chiến hạm Prégent được biệt phái đến Fou-chow-fou[54], trên bờ biển Fo-kien[55] để nhận tiền bồi thường cho nước Pháp đã được quy định trong hiệp ước Bắc Kinh. Chuyện này thật gai góc, nhưng đã được thực hiện tốt và thành công. Tàu Prégent là chiến hạm Pháp đầu tiên xuất hiện trên sông Min[56], hai bên bờ sông là thành phố Fou-chow. Tàu Dordogne đến Nhật Bản, nơi đây tình trạng của các nhà ngoại giao và lãnh sự ở Yeddo[57], vừa được cải thiện chưa được vài ngày nhờ sự hiện diện quân sự của Pháp và Anh đặt dưới quyền chỉ huy của các chuẩn đô đốc Page và Jones, lại đột nhiên trở lại cảnh như trong tù. Tàu Gironde đi Bang-cock[58] để đón các sứ thần Xiêm La.

Những công tác chuẩn bị sau cùng được tận lực thúc đẩy. Các chiến thuyền hư hại[59] đều cặp bến an toàn ở vũng tàu Shang-haĩ để sửa chữa. Từ 15 đến 21 tháng 1, thủy thủ đoàn và thiết bị lần lượt cho lên tàu để lên đường đi Saĩgon. Ngày 24 tháng 1, vị tổng chỉ huy rời Woo-sung, ngày ông rời Woo-sung ông đã quyết định từ trước. Vừa lúc chiến hạm Impératrice-Eugénie của đô đốc vượt cửa sông Yang-tze-kiang[60], thì tàu Dryade do chuẩn đô đốc Protet chỉ huy cũng vừa tiến vào cửa sông để cặp bến Shang-haĩ.

baogt:
Tàu Impératrice-Eugénie chỉ ghé Hong-kong có 4 hôm để nghỉ ngơi. Tại Hong-kong tất cả đã được chuẩn đô đốc Page sửa soạn chu đáo từ trước, còn chính ông thì đã đến Nhật được 20 ngày rồi. Các tàu Fusée và Calvados vẫn còn tiếp tục sửa chữa. Thủy quân lục chiến được chuyển nhanh chóng lên tàu Impératrice-Eugénie để tàu nhổ neo đi Nam Kỳ. Ngày 7 tháng 2, tàu ngược sông Don-naĩ[61], hai bên bờ sông cây cỏ xanh tươi và bằng phẳng, tàu thả neo trên sông trước mặt thành phố Saĩgon.

------------------------------------------------------------------------------------------------------
[1] Nguyên bản là “Cochinchine”. - TN

[2] Tức Hàm Phong (1831–1861), Hoàng đế nhà Thanh 1850–1861 - TN

[3] Tức Nhiệt Hà - TN

[4] Tức Thiên Tân - TN

[5] Chưa tìm được tên gốc của các phiên âm. “Takou” phải chăng là “Đại Cổ”? - TN

[6] Tức Cung thân vương Dịch Hân (1833-1898) - TN

[7] Tức là nước Nga. (ghi chú của người dịch (ND)).

[8] Tức Nikolai Pavlovich Ignatiev (1832–1908), Bá tước Nga - TN

[9] Nước Anh và nước Pháp liên kết đi đánh Tàu. - ND

[10] Tức Napoleon đệ tam. - ND

[11] Chưa rõ phiên âm Tche-fou. Shang-haĩ chính là Thượng Hải. - TN

[12] Tức Quảng Đông - TN

[13] Thật ra thì vào lúc đó, tình thế của Saĩgon đã dươc cải thiện, nhưng vị chỉ huy trưởng Canton buộc phải tuân lịnh của Tổng tư lịnh gởi đi từ tháng 7 năm 1860 bắt phải chuyển một đại đội bộ binh đến Saĩgon. Trong khi ấy trại quân Saĩgon vừa được bổ xung một trăm thủy quân chiến đấu do tàu Weser chở tới. Hai trăm quân bổ sung khác sẽ còn được liên tục chở đến sau. – Tác giả (TG)

[14] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Thực ra, “Général” chỉ có nghĩa là “tướng” nói chung, còn
“Général d’armée” mới có nghĩa là “Đại tướng”. Jamin giữ cấp bậc “Général de brigade”, tương đương
Chuẩn tướng. – TN

[15] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Collineau giữ cấp bậc “Général de brigade”, tương đương Chuẩn tướng. – TN

[16] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Tuy nhiên cấp bậc của Montauban lúc bấy giờ là “Général de division”, tương đương “Thiếu tướng”.

[17] Tức sông Bạch Hà, nay gọi là sông Hải Hà ở Turng Quốc. - TN

[18] Mỗi dặm là 4,445 km. - ND

[19] Ðó là dấu hiệu trọng vọng lớn lao, nhưng hơi khác với cờ của tổng tư lịnh trong hải quân, cũng gần giống như vậy. - TG.

[20] Tức Ngô Tùng. - TN

[21] Ðệ nhất đế chế: là chế độ chính trị Pháp từ tháng 5 năm 1804 đến tháng 4 năm 1814, Napoleon đệ nhất làm hoàng đế. - ND

[22] Nguyên văn bản dịch là “tàu chuyên chở có trọng tải nặng”. Thực ra “vaisseau de ligne” có nghĩa là “đại chiến hạm chủ lực” - TN.

[23] Frégate de premier rang: Tàu chiến loại lớn có 3 cột buồm. – ND. Nguyên văn bản dịch là “tàu chiến đấu”. - TN

[24] Frégate de deuxième rang: Tàu chiến loại nhỏ hơn có 2 cột buồm. - ND

[25] Nguyên văn bản dịch là “Đại pháo hạm”. Thực ra “corvette” có nghĩa là “chiến hạm” - TN

[26] Nguyên bản là “aviso”. - TN

[27] Nguyên bản là “aviso de flottille”. - TN

[28] Nguyên văn bản dịch là “chiến hạm”. Thực ra “bâtiment de flottille” có nghĩa là “chiến thuyền hạng nhẹ” - TN

[29] Nguyên văn bản dịch là “pháo hạm”. Thực ra “canonnière” có nghĩa là “pháo thuyền” - TN

[30] Nguyên văn bản dịch là “thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp được”. - TN

[31] Nguyên văn bản dịch là “tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu hai giàn đại pháo”. - TN

[32] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. - TN

[33] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng đại chiến hạm”. - TN

[34] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng tàu chiến đấu”. - TN

[35] Nguyên văn bản dịch là “trung úy chiến hạm”. - TN

[36] Nguyên văn bản dịch là “sĩ quan hải quân cấp trung úy”. - TN

[37] Nguyên bản ghi “chaudière”, nghĩa là “nồi hơi”. - TN

[38] Tiếc quá, tác giả chẳng tìm được cô gái Tàu nào ở Thượng Hải sao? Có thể đây là cách viết của tác giả để tự ám chỉ mình một cách kín đáo? - ND

[39] Dịch sát nghĩa từ “Capitaine”, tương đương cấp sĩ quan cấp Tá trong Hải quân Pháp. - TN

[40] Tức sông Dương Tử. – TN

[41] Tức sông Hoàng Phố. - TN

[42] Câu này cho ta đoán có thể tác giả là người ở trên Chiến hạm Impératrice-Eugénie, hoặc thuộc đạo quân thủy quân lục chiến được đưa lên tàu đi Nam Kỳ. - ND

[43] “Hoàng đế quyết định hôm nay ở hội đồng chính phủ truyền cho thống chế bộ trưởng chiến tranh ra lịnh bằng văn thư ngày tức khắc cho tướng Montauban để bàn thảo và hội ý với ông trong mục đích chiếm giữ cho nước Pháp vị trí thật quan trọng là Saĩgon”.

Và kế tiếp: “Hoàng đế, ông biết không, đã sai viết thư cho tướng Montauban bảo ông này phải đặt dưới quyền của ông 1.800 quân”

(Hai đoạn trên trích từ 2 công văn của bộ trưởng hải quân gởi cho phó đô đốc Charner, ngày 26 tháng 9 và 10 tháng 12 năm 1860). - TG

[44] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng lữ đoàn”. - TN

[45] Ghi chú của TG                                                         Sĩ quan             Lính      Ngựa

 Bộ binh ----------------                   39                     709       22

 Bộ binh người Phi châu             3                      29         31

 Pháo binh---------------                  15                     316       184

 Công binh---------------                  4                      77         13

 Hậu cần------------------                 24                     172       22

[46] Tướng O’Malley, trên nguyên tắc, phải rời bỏ Tien-tsin cùng với trung đoàn chiến đấu 101 đến Saĩgon. Nhưng việc này không được thực thi đúng như vậy, vì sau đó chuẩn tướng de Vassoigne (thủy binh lục chiến) được chỉ định bằng công hàm bộ trưởng giữ chức phó chỉ huy trong binh đoàn viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ. ‘’...Tôi có sai tham mưu trưởng bộ tổng tham mưu viết thư cho tướng O’Malley, ngay khi có thể thực hiện được, sẽ cùng với tiểu đoàn chiến đấu 101 đến Saĩgon xáp nhập với ông.’’ (Trích thư của tướng Cousin-Montauban gởi cho phó đô đốc Charner, ngày 14 tháng giêng 1861). – TG. Cả O’Malley và de Vassoigne đều mang cấp bậc “général de brigade”. - TN

[47] Vị chỉ huy trưởng kỵ binh của Bộ tham mưu được chỉ định giữ chức vụ này, và một đại úy cũng của Bộ tham mưu làm phụ tá cho ông. - TG

[48] Nguyên văn bản dịch là “quân đoàn”. - TN

[49] Nguyên bản là “coolie”. - TN

[50] Nguyên văn bản dịch là “đại úy hải quân”. - TN

[51] Nguyên bản là “piastre”. - TN

[52] Câu ‘’hớ” này cho biết ý đồ của người Pháp sẽ đánh chiếm hết xứ Annam, chớ không phải chỉ nhắm vào hai tỉnh Gia Ðịnh và Ðịnh Tường. – ND

Trong bản dịch ghi là Bắc Kỳ, nay giữ lại như nguyên bản. - TN

[53] Người Philippine gốc Malaysia. - ND.

[54] Tức Phúc Châu phủ. - TN

[55] Tức Phúc Kiến. - TN

[56] Tức sông Mân Giang. - TN

[57] Tức Yedo, Nhật Bản. - TN

[58] Tức Bangkok. - TN

[59] Gồm các chiến hạm : Dragonne, Mitraille, Alarme, Prégent, Alom-prah. - TG

[60] Tức Dương Tử Giang. - TN

[61] Tức sông Đồng Nai. - TN

baogt:
CHƯƠNG II

Ðề cương:


Chiến địa và tình trạng hai phe đối thủ - Cơ bản địa lý của đế quốc Annam - Tầm quan trọng quân sự và chính trị của thành Ki-hoa[1].

Ðế quốc Annam gồm ba xứ mà trước kia hoàn toàn riêng biệt:

- Xứ Bắc Kỳ[2], mà người Tàu gọi là Giao-chou[3], có nghĩa là Xứ sông ngòi[4], người dân sinh sống tại đây gọi là người Nam Kỳ Dong ngoai[5], xứ Bắc Kỳ còn gọi là Xứ bên ngoài, và theo một tài liệu Hòa Lan thì phải gọi là Annam phía Bắc[6];

-Xứ Trung Kỳ[7], hay là Nam Kỳ miền trung[8], còn gọi là tỉnh Huế, hay gọi đúng hơn là Dong trong[9], có nghĩa là Xứ miền trong, hay đúng hơn nữa là Annam phía Nam[10];

-Nam Kỳ miền dưới[11], mà nhiều tài liệu ghi sai là tỉnh Saĩgon, miền này các bản đồ xưa đều ghi là Cao Miên[12]. Thật vậy, trước cuộc chinh phục của các Chúa nhà Nguyễn[13], thì vùng đất này thuộc lãnh thổ của vương quốc Cao Miên.

Ngoài ra đế quốc Annam còn gồm một số nước bảo hộ phải triều cống. Ðây là tình trạng đế quốc Annam bắt đầu từ năm 1802 cho đến nay.

Một dãy núi kéo dài 800 dặm, tiếp nối từ vùng núi non Tây Tạng, không xa cao nguyên Khou-khou-noor, đổ dài xuống phía nam song song với vùng biển Tàu, phân định vị trí hai vùng vương quốc xưa nhất của đế quốc Annam. Một bên là núi và một bên là biển làm ranh giới thiên nhiên cho hai vương quốc Annam phía Bắc và Annam phía Nam; nếu dùng danh xưng không được đúng lắm nhưng thông dụng hơn thì gọi là Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ là một vùng đồng bằng rộng lớn, phù sa, phì nhiêu và phong phú nhờ sông Sang-koi hay Song-ca[14] và các phụ lưu bồi đắp. Nam Kỳ là một dải đất chỉ rộng từ 30 đến 50 dặm, kéo dài từ bắc xuống nam; dọc theo một dãy núi bao bọc nằm bên phía tây. Nước đổ ra biển bằng các sông ngòi ít ngoằn ngoèo, nước chảy cuồn cuộn, từ hướng tây ra hướng đông. Ðây là dãy núi xa nhất về phía đông trong số 5 dãy núi lớn tạo ra các vùng thung lũng rộng là xứ Miến Điện, xứ Xiêm La, xứ Cao Miên và xứ Annam. Núi trải dài từ vĩ độ 11 thành từng vùng thấp dần theo một đường uốn cong bắt đầu từ núi Vi và đổ ra sát tới biển, tạo ra một bức trường thành rộng lớn và một ngọn đèo, chỉ chừa lại một dải đất hẹp là Phan-thiet[15], làm ranh giới thiên nhiên giữa Nam Kỳ miền dưới và Nam Kỳ miền trung.

Trở xuống phía tây nam vẫn còn các núi đồi nhỏ thưa thớt, nơi đây có thể coi là vùng chuyển tiếp của ranh giới Nam Kỳ miền trung: sông ngòi ít ngoằn ngoèo, vài kinh rạch, thiên nhiên hoặc do người đào, chảy giữa các vùng núi và đồi nhỏ. Càng xuống dần phía nam thì chỉ thấy trước mặt một vùng đất mềm gồm cát, bùn và 5 con sông lớn cùng các kinh rạch thiên nhiên chia cắt thành hàng ngàn đảo. Cát thì được mang từ biển vào[16], bùn đất thì do sông Cambodge[17] bào mòn những vùng núi non chảy ngang đem bồi đắp trong mùa nước lũ. Trong quá khứ chắc rằng biển đã bao phủ cả miền Nam Kỳ ngày nay. Một vịnh hình vòng cung nằm lọt giữa hai vùng núi là Ha-tien[18] và cap Saint-Jacques[19]; sông Don-naĩ chỉ là một dòng thác; hai nhánh sông Vaĩ-co[20] tạo ra hai con sông riêng biệt. Tỉnh Long-hô (Vinh-luong)[21] lúc đó chưa thành lập; các tỉnh Gia-dinh[22], My-thô[23], An-gian[24] và Ha-tien gồm một vùng đất dựa vào núi một phần, một phần giáp ranh với vương quốc Cao Miên. Bùn đất phù sa và các bãi san hô giữa Saĩgon và Tay-ninh[25] chứng minh cho thấy vùng đất này trước kia do sông ngòi và biển tạo ra. Cát dồn lại thành cồn dọc bờ sông hòa với phù sa tạo ra ruộng đồng phong phú. Sự hình thành đất đai do sông ngòi vẫn còn đang tiếp diễn tại vùng này của xứ Annam, người Tàu gọi nơi đây là xứ sông ngòi; bùn và cát hòa lẫn nhau không phải là nước cũng không phải là đất. Những người Bắc Kỳ mạo hiểm đến đây dùng ván để trườn và lướt đi trên bùn.

Hai dãy núi kéo dài ra tới biển tại hai địa điểm là Phan-thiet và Ha-tien, giữa hai dãy núi là sông Cambodge. Biển là ranh giới thiên nhiên rõ rệt của xứ Nam Kỳ miền dưới. Tiếp giáp với xứ của người Mọi và xứ của người Chàm[26], nơi đây biên giới kém rõ ràng hơn. Khi nhìn vào bản đồ 6 tỉnh Nam Kỳ miền dưới, từ bờ biển hiện nay cho đến vĩ độ Tram-ban[27], người ta có thể nhận thấy biển vẫn còn giữ lại vết tích trong vùng đất phù sa; toàn vùng chỉ là đảo và chung quanh thủy triều dâng lên hay rút xuống đều nhận thấy rõ rệt. Tàu bè lưu thông như trên biển rộng; nước sâu, không nguy hiểm, các đường di chuyển được kẽ vạch rõ ràng.

Năm con sông lớn chảy ngang Nam Kỳ miền dưới đổ ra biển bằng một trong những cửa sông rộng lớn nhất thế giới: Năm con sông này gồm có sông Don-naĩ, sông Don-trang[28], sông Soi-rap[29], sông Vaĩ-co, sông Cambodge. Sông Cambodge bị ngáng bởi nhiều cồn chỉ có tàu bè đáy sâu dưới 14 chân[30] mới di chuyển được. Hướng và độ sâu của kinh rạch thay đổi theo mùa gió. Bờ biển thấp, cây cối xanh tươi và bằng phẳng; không một ngọn cây nào vượt cao hơn các cây đước, cây mắm để có thể dùng làm điểm chuẩn cho tàu bè định hướng. Khó khăn thiên nhiên cản trở lưu thông của tàu bè lớn nhưng không gây khó khăn gì cho các thủy thủ Annam, Xiêm, Tàu và Nhật. Họ lái các tàu ven bờ thật hay, tàu của họ có đáy rất cạn. Các nhà viết sử người Hòa Lan chép rằng sông Cambodge đổ ra biển bằng 3 cửa: cửa Umbequamme, danh xưng này theo tiếng Pháp có nghĩa là “bất tiện” Incommode, cửa Nhật Bản và cửa Saĩgon. Chiến tranh Nam Kỳ giúp thêm cho việc nghiên cứu địa lý thủy học của sông Cambodge; hiện nay người ta biết rằng sông Cambodge có 7 nhánh chính. Umbéquamme[31] là cửa đổ ra biển của một nhánh sông tách ra từ sông chánh gần Chau-doc[32], sông Nhật Bản gồm hai nhánh bắc và nam My-thô[33]. Còn về phần cửa Saĩgon thì chỉ được coi như cửa đổ ra biển của sông Don-naĩ mà thôi, sông này trước đây được xem như một trong nhiều nhánh của sông Cambodge. Trên thực tế sông Saĩgon nối liền với sông Cambodge bằng các kinh trong đất liền, sông Don-naĩ là một con sông riêng biệt tiến sâu về phía bắc, hướng vào lãnh thổ Stieng.

Các dòng sông lớn thông thương với nhau nhờ các kinh thẳng góc với hướng chính của sông. Bàn tay người ta tượng trưng rất chính xác hình ảnh hệ thống sông ngòi của Nam Kỳ miền dưới. Cách so sánh như thế cũng dễ hiểu, hình như con người hay tìm kiếm ở bối cảnh chung quanh hình ảnh của chính mình. Những nét dọc lớn của chữ M là các con sông, trừ vài chỗ tuy sông có đổi hướng cũng không làm sai lệch hình ảnh này; các đường gạch ngang của chữ M thì tượng trưng cho kinh rạch. Một số kinh do chính tay người đào, hoặc là kinh thiên nhiên do tay người sửa cho đều và vét đáy. Những kinh rạch khác là do thiên nhiên đào xới. Kinh nối hai con sông với nhau vì thế kinh có thể thông ra biển bằng hai cửa khác nhau; đáy kinh rạch có chỗ sâu chỗ cạn; chỗ cạn là nơi hai dòng nước gặp nhau bùn đất bị dồn lại. Hai bờ kinh cây cối bao phủ tạo ra vẻ dịu dàng, mềm mại, duyên dáng và ưa nhìn, nhưng không có cái vẻ lộng lẫy của rừng rậm nhiệt đới. Cây cối gồm có xoài, đước, dừa nước, cây có bông trắng như bông lài, nhiều cây có lá giống như lá cây ở Âu châu và có đủ loại màu xanh, từ màu xanh mét bịnh hoạn của cây liễu rũ cho đến màu xanh xậm có vẻ kim loại của cây hoa trà[34]. Gần bờ nước thì có loại dừa duyên dáng nhất trên trái đất, thân giống như là những cây cột của lâu đài Hy Lạp nhưng lại có sự sống, đó là cây cau. Cỏ cao, dây leo, cây dứa[35], xương rồng đầy gai tạo thành các bụi rậm mà người Âu châu không thể chui qua lọt, nhưng đối với người Annam thì họ trườn, bò và rình rập dễ dàng trong đó. Nhiều chỗ nước ăn sâu vào bờ kinh tạo ra những chỗ phục kích bất ngờ: đây là những nhánh kinh lấn sâu vào đất, nằm song song với kinh chánh, cửa vào thì có dây leo rũ xuống che kín; các hóc kẹt thiên nhiên đó có thể làm chỗ núp cho một người, một chiếc ghe hay một nhóm quân nhỏ: không có chỗ nào có thể làm chỗ phục kích chắc chắn hơn những chỗ như vậy. Kinh rạch tạo cho chiến tranh Nam Kỳ một bộ mặt thật riêng biệt. Lần đầu thấy những bờ kinh như thế, người ta tưởng dễ, thử phá gai lội bùn để vượt ngang, nhưng rồi sẽ bị ngập trong lầy, mặt mày rách nát, trở nên bất lực vì cỏ vừa mềm vừa cao quấn chặt; người ta tự hỏi không biết phải làm thế nào để chống lại quân phục kích, họ thì coi các chướng ngại này như không có. Các pháo hạm nhỏ bằng sắt là linh hồn của trận chiến Nam Kỳ, nếu không hữu dụng ngay trong khi hành quân, thì cũng rất ích lợi về sau là như vậy.

Quang cảnh của Nam Kỳ thật là bằng phẳng, buồn thảm, giống như tất cả các xứ đồng ruộng khác. Khi có một lỗ hở do cọp, nai đi ngang còn lưu lại thì tầm mắt mới vượt ra khỏi hai bên bờ kinh, nhưng cũng chẳng thấy gì lạ ngoài những cánh đồng xanh tươi đôi khi gợn sóng như mặt biển. Ðồng ruộng là đất Phật, chẳng có gì buộc chặt tâm hồn với đất đai. Thiếu chiều sâu của sự sống. Ðất nhường chỗ cho bùn; chỉ có tư tưởng mới có thể lướt đi trên vùng xanh tươi vô tận này mà thôi; xác thân sẽ lún chìm tại chỗ. Những cọng cỏ muôn thuở nối tiếp nhau, từng cọng một đều giống hệt như nhau. Trước cảnh sình lầy và bằng phẳng, nghị lực mềm yếu, chỉ có linh hồn tự vượt ra mà thoát đi. Quả thật là nơi phải gọi là cảnh toàn phúc tối thượng, xin tạm mượn chữ như vậy, - cái thoát tục vẹn toàn nhất, cái chấm dứt của buồn thảm, của nhớ nhung[36]. Tuy vậy, về phía bắc, khi đến gần một trong hai vùng núi, đất đai trở nên cao hơn, bờ sông cũng dốc hơn, rừng chen kẽ với ruộng đồng. Trong rừng có nhiều thứ dùng làm thuốc tàu, giá bán đắt hơn vàng.

Kinh rạch nối liền 5 con sông lớn ở Nam Kỳ tạo ra vô số đường di chuyển vô cùng hữu ích cho thương mãi, chiến tranh mà cũng tiện lợi cho đạo tặc nữa. Mỗi thị trấn đúng ra phải là một trung tâm vừa quân sự vừa thương mại, và nếu đúng như thế thì sự đánh chiếm của ta sẽ gọn gàng hơn; nhưng thật ra thì hai tánh cách này tách rời hẳn nhau: Saĩgon là trung tâm quân sự, My-thô là trung tâm thương mại. Các ghe thuyền của người Nhật, người Tàu, người Annam, người Xiêm có đáy cạn dễ di chuyển trên sông, nhờ vào địa điểm gần nơi sản xuất gạo, kinh lạch lại dồn hết vào sông Cambodge, thêm vào truyền thống của dân chúng địa phương từ bao nhiêu thế kỷ, tất cả góp lại làm My-thô trở thành trung tâm buôn bán lớn nhất của Nam Kỳ miền dưới trước khi người Âu châu tới đây. Saĩgon, dựa vào thành lũy và vị trí nằm chắn ngang các đường ra Huế, lên Cao Miên và xứ Mọi đã trở thành trung tâm quân sự và hành chính của cả sáu tỉnh. Hai trung tâm thương mại và quân sự là Saĩgon và My-thô dựa vào nhau bằng đường thủy vận; đó là con kinh Tàu[37] mà tầm quan trọng chiến lược phải kể vào bậc nhất.

Saĩgon, nơi trước đây có trại binh nhỏ của Pháp và Tây Ban Nha bị phong tỏa, không hẳn là một thành phố theo đúng nghĩa của Âu châu. Saĩgon cũng không phải vị trí có thành lũy kiên cố, có tầm ảnh hưởng trải rộng như trước đây, vì đang bị ta phong tỏa và thành lũy thì hư nát, thành mới hiện nay kém hẳn tầm quan trọng[38]. Nơi các cơ xưởng đóng tàu, vào năm 1819, trước khi có giặc phản loạn, người ta còn thấy hai thuyền chiến lớn theo kiểu Âu châu và 190 thuyền chiến dùng chèo. Thành quách rộng lớn trước kia và cơ xưởng đóng tàu không còn vết tích gì nữa. Nhiều lắm là hai bên bờ sông Don-naĩ còn thấy vài cơ sở có tính cách tạm thời, là những vớt vát thu góp lại sau khi Touranne[39] bị ta chiếm đóng. Dân số, ngày xưa lên đến 150.000 người, đã rút xuống một cách đáng kể. Du khách đến Saĩgon sẽ nhận thấy trên hữu ngạn sông[40] một con đường đứt đoạn và hang lỗ. Nhà cửa phần lớn bằng cây, lợp lá dừa nước. Một số ít làm bằng đá có mái lợp ngói đỏ làm vui mắt và an tâm hơn. Tiếp đó là những mái chùa thật cong; kinh Tàu và hai kinh phụ, mặt nước phẳng lỳ, dùng làm bến cho thuyền bè trong xứ; vì bối cảnh chung quanh nên nhìn thấy kinh Tàu như ngắn hẳn lại; một nhà kho xiêu vẹo dùng làm chợ, mái hình như sẵn sàng đổ xuống phía bên phải. Hậu cảnh là những chòm cau có vẻ hoà hợp với bầu trời nóng bức; cây cối khác không có gì đặc biệt. Hàng ngàn ghe xuồng chen nhau ở bờ sông tạo ra một thành phố nổi nho nhỏ. Người Annam, người Tàu, người Ấn, vài người lính Pháp, lính Tagal tới lui nhộn nhịp, thoạt tiên tạo ra một quang cảnh ngoạn mục. Nhưng sau đó thì chẳng có gì để xem ở Saĩgon, họa chăng là dọc theo bờ kinh Tàu, có nhiều nhà bằng đá khá sạch sẽ và vài nhà xưa tránh khỏi giặc phản loạn tàn phá. Trong các khu nhiều cây cau đôi khi có nông trại của người Annam cất theo lối ba gian hai chái, rất thanh lịch và kín đáo; xa hơn, nơi khu đất cao là nhà của vị chỉ huy Pháp, của đại tá Tây Ban Nha, doanh trại của nho quan Annam; đại khái chỉ có vậy. Con phố lầy lội và ổ gà, nhà cửa thưa thớt, hợp lại thành một quang cảnh khá nghèo nàn, đó là Gia-dinh-thanh[41] mà ta gọi là Saĩgon[42]. Các thành phố khác như Batavia[43], Singapour, Hong-kong cũng chỉ như vậy thôi trước khi người Âu châu đến. Có thể rồi một ngày nào đó một thành phố đẹp đẽ và đông đúc sẽ mọc lên ở vị trí của cái làng Annam bị trận chiến diệt chủng tàn phá mà ta đang thấy hôm nay[44]. Trên vùng đất cao là vòng thành cũ do người Nam Kỳ xây năm 1837[45]. Hố sâu quanh thành chỉ bị lấp ở một vài chỗ; chỉ cần vét lại là xong. Nhà cửa bên trong thành đều đổ nát. Bụi trắng tạo thành hai lằn dài trắng xóa, ở giữa là lối đi. Ðó là gạo bị đốt cháy từ năm 1859 mà đến nay vẫn còn cháy[46]. Lửa âm ỉ 24 tháng mà vẫn chưa tắt. Các hạt gạo, ở một vài chỗ vẫn còn giữ nguyên hình dáng; nhưng thật ra đã hoá thành tro; gió hoặc chỉ chạm nhẹ sẽ làm tan ra thành bụi. Truyền thuyết cho rằng một kho tàng rất lớn còn nằm trong đống lửa lớn đó.

Navigation

[0] Message Index

[#] Next page