Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 01:10:54 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sấm sét trên Thái Bình Dương  (Đọc 64665 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #70 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:36:03 am »

Khi chiếc Mac Cawley vừa mới chạy ngang mũi Rendova thì một đàn 50 phi cơ Nhật lao vào đoàn công voa. Một trận không chiến mới lại xảy ra giữa Corsair và Zéro, và nhiều phi cơ phóng thuỷ lôi bay sát mặt biển diễn tiến đến gần các hải vận hạm. Khu trục hạm Farenholt là chiếc đầu tiên bị trúng đạn nhưng trái thuỷ lôi không nổ nhưng đó chỉ bị thiệt hại nhẹ. Rồi đến lượt chiếc Mac Cawley, lần này nó bị rung chuyển vì tiếng nổ dữ dội. Chiến hạm bị nghiêng đến mức phải di tản. Turner chuyển qua chiếc Farenholt, bỏ lại đằng sau chiếc chiến hạm kỳ cựu mà một tàu tuần duyên cố dùng nó đưa trở lại Rendova. Đoàn cônv voa tiếp tục hải hành mà không bị một cuộc báo động nào mới và biến mất trong bóng đêm.


Một giờ sau, các khinh tốc đỉnh của đại uý Kelly, chỉ huy trưởng hải đội chiến sĩ kỳ cựu tại Guadalcanal trở về căn cứ sau cuộc tuần tiễu ngoài khơi. Kelly thoáng thấy một bóng đen nổi bật trước mặt đất liền và vì người ta đã nói rằng các hải vận hạm Mỹ đã nhổ neo từ trưa, nên ông nghĩ rằng đây chỉ có thể là một chiến hạm Nhật. Ông nhào tới với tốc độ 30 gút phóng các thuỷ lôi và vui sướng nghe hai tiếng nổ mạnh.


Khi trở về Rendova, rất hãnh diện với chiến công của mình, Kelly báo cáo cho vị chỉ huy trưởng căn cứ. Ông này nhướng mày. Cả ai liền cúi xuống bản đồ, đối chiếu các lộ trình, giờ giấc… Không còn nghi ngờ gì nữa, chính chiếc Mac Cawley đáng thương đã bị Kelly lạng quạng phóng thuỷ lôi! Lần này thì kết quả tốt dẹp, bởi vì ông đã đánh chìm nó.


Khi biết được sự việc, Turner tỏ ra rộng lượng. Ông vừa được bổ nhiệm làm tư lệnh một lực lượng chuyển vận đổ bộ mới đang được thành lập tại Trân Châu Cảng trong mục đích chuẩnb ị cho các cuộc hành quân sắp đến trong vùng Thái Bình Dương. “Ai cũng có thể lầm cả”, ông đành nói vậy, “nhưng cần phải khuyến cáo viên sĩ quan trẻ tuổi ấy đừng có phóng thuỷ lôi vào các soái hạm nữa”.

Cùng với hồi chung cục của soái hạm Mac Cawley và sự ra đi của Turner, một trang lịch sử đã được lật qua.


Hình phạt duy nhất mà các khinh tốc đỉnh của Kelly phải chịu đựng là bị cấm không cho ló mũi ra khơi mỗi khi có chiến hạm Mỹ lui tới trên các eo biển. Thật ra, hình phạt quá nẹh, vì các tdh của Halsey ít khi mạo hiểm hải hành qua các eo biển ấy. Ngay khi vừa ra khỏi eo biển, chúng liền bị các khu trục hạm Nhạt hành hạ hung dữ đến nỗi chúng chỉ còn mạo hiểm tới ranh giới tối đa trong các vùng biển cũng nguy hiểm như vịnh Kula hay eo biển Blackett.


Trong đêm 5 tháng 7, hải đội của đô đốc Ainsworth gồm có chiếc Helena, Honolulu và chiếc Saint-Loius vừa đến pháo kích vào Kolombangara, lại được tung về phía Kula để chặn một đoàn công voa Nhật chở theo quân sĩ. Cuộc gặp gỡ xảy ra bất ngờ lúc 1 giờ 30 sáng ngày 6 tháng 7. Các tdh Mỹ thấy xuất hiện trên màn ảnh rada một đoàn kth Nhật, liền khai hoả trước lúc còn cách chúng 15.000 thước trong khi vẫn mở hết tốc độ tiến đến gần. Ainsworth tin chắc là vẫn nằm ngoài tầm thuỷ lôi địch nên tiếp tục nổ súng vài phút trước khi chạy lẩn tránh. Ông đâu ngờ rằng từ một khoảng cách khó tin như thế, các khu trục hạm Nhật đã phóng ra cả một chùm thuỷ lôi kiểu mới mạnh hơn kiểu cũ nhiều và có tầm hoạt động tăng gấp đôi. Kết quả thật bi thảm: chiếc Helena nhận liên tiếp ba trái gần như bị cắt ra làm đôi. Hai chiéc khác rút lui để mặc cho các khu trục hạm săn sóc chiếc Helena sắp chìm. Nhờ chiến thắng này mà quân Nhật đổ bộ được lên hải cảng nhỏ Vila gần 4.000 quân và lập tức được chở băng qua eo biển để đến Munda. Trái với ước lượng của quân Mỹ, đội quân trú phòng của Nhật chỉ mới có 3.500 người, nay nhờ sự kiện này, đã tăng lên gấp đôi trước khi chiến trận bắt đầu.
Nhưng vụ Helena chưa xong sau khi bị rủi ro, bởi vì nó đưa đến một công cuộc cấp cứu mà tất cả mọi điểm đều xứng đáng được ghi vào truyện truyền kỳ trên mặt biển phía nam Thái Bình Dương.


Các khu trục hạm đã cặp vào xác tàu và đưa qua được gần 600 người thuộc đoàn thuỷ thủ, sau đó vội vàng rút lui để khỏi bị phi cơ Nhật tấn công thình lình khi trời sáng. Chúng đã để lại đàng sau hơn 200 bĩnh sĩ đáng thương đang bám chặt vào xác chiến hạm. Hôm sau, một chiếc PB-Y đã đến ném cho họ các xuồng cấp cứu bằng cao su, họ tập họp bám chung quanh bè và bắt đầu lội về phía bờ gần nhất, nhưng than ôi, gió và hải lưu đã hợp sức để đẩy họ theo chiều ngược lại. Người thâm niên nhất của nhóm thuỷ thủ bị đắm tàu lúc đó lấy một quyết định hùng tráng là bắt họ quay lưng bờ vào để mưu toan lội qua vùng biển rộng ngăn cách họ với đảo Vella Lavella.


Đêm đầu tiên trôi qua thật kinh khủng. Một trong những người bị thương tắt thở trên bè. Vài người bỏ bè lội trở về Kolombangara. Nhiều người khác ngủ mê luôn dưới nước hoặc không chịu bơi nữa. Không bao giờ ta còn nghe nhắc lại các người ấy nữa. Khi trời sáng, chiếc bè như vậy là nhẹ bớt đi nên trôi nhanh hơn, và niềm hy vọng lại khích động con tim của những kẻ bị đắm tàu. Sau một ngày và một đêm khác cố gắng vượt sức người, hai chiếc bè đến vùng có thể trông thấy được bờ đất hứa. Vella Lavella hiện ra rất gần và các thuỷ thủ lội giỏi nhất bỏ bè lội vào trước để làm cho bè nhẹ hơn. Một giờ sau, họ được những người Mélanésiens với màu da đen đẹp đẽ nhất đón tiếp với những cử chỉ biểu lộ niềm thân ái rất ấm lòng. Trước lúc dứng bóng, tất cả những kẻ bị chìm tàu đều đến được bờ biển mà không bị máy bay Nhật trông thấy. Tạm thời họ thoát nguy.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #71 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:36:54 am »

Trên đảo có hai Coast Watchers, các trung uý Josselyn và Firth, đều gan dạ như nhau. Mặc dầu có các toán tuần tiễu Nhật Bản đổ đến săn đuổi, họ cũng rời khỏi chỗ ẩn nấp để mang cho những kẻ bị đắm tàu tất cả số lương thực dự trữ và để cho các hướng đạo viên lo việc canh gác, họ điện về Guadalcanal yêu cầu đến rước gấp dùm những miệng ăn vô ích đang ngốn hết tất cả thực phẩm dự trù trong tháng của họ. Cuộc tiếp cứu tế nhị đến nỗi phải cần sáu ngày để chuẩn bị. Sáu ngày trong đó các thuỷ thủ Mỹ quá mệt đến không ý thức nổi nguy cơ đe doạ, nhưng là cả một cơn ác mộng đối với những Coast Watchers Tân Tây Lan và các bạn người bản xứ của họ. Nhiều lần quân Nhật tiến gần đến các trại tạm trú. Chỉ cần họ có mộ tí táo bạo thôi là đủ tiêu diệt những người gần như hoàn toàn bị giải giới ấy; nhưng chắc họ tin rằng đây là một bộ phận tiền phương đang giăng bẫy, bởi vì mỗi lần như thế họ lại lảng xa mà không tấn công.


Ngay giữa đêm tối ngày 13 tháng 7, các trinh sát viên của trại tạm trú thấy bóng hai phóng ngư lôi hạm đến bỏ neo gần sát bờ cát. Hai giờ sau, 13 sĩ quan và 152 thuỷ thủ sống tó của thuỷ thủ đoàn thuộc tdh Helena rời xa dần bờ biển tâm hồn tràn ngập lòng biết ơn những người Coast Watchers và dân chúng bản xứ quảng đại, vốn đã giúp họ thoát chết bằng cách đem cả mạng sống của chính mình ra thử thách với nguy cơ.


Các khu trục hạm của Halsey hôm đó đã thực hiện một công cuộc tiếp cứu đáng chú ý nhất trong chiến tranh.

Trong lúc câu chuyện đầy tình cảm trên đây xảy ra, sự việc tại Tân-Géorgie không tốt đẹp chút nào. Nhiều đoàn bộ binh từ Rendova, vượt ngang qua vùng biển san hô nhỏ hẹp đến đổ bộ lên bờ đối diện, bị lún dưới một tấm bọt biển vĩ đại mà không còn ai biết được chuyện gì đã xảy ra nữa. Những binh sĩ Mỹ khốn khổ vùng vẫy trong những cánh đồng lầy phù sa trong khi đi tìm các lối mòn mà người ta chỉ cho họ, và khi tìm ra được chúng một cách tình cờ, thì chúng lại bị cắt ngang bởi những con lạch ngập nước không thể nào vượt qua được. Vũ khí cổ điển từng giúp cho thuỷ quân lục chiến Mỹ phòng thủ được tại các cứ điểm được thiết lập, tại đây hoàn toàn vô hiệu vì là một cuộc tiến quân. Một vài chiến xa nhẹ đổ bộ lên bờ biển liền bị sa lầy ngay lập tức. Các súng đại liên mà đầu đạn đội lên trên cành cây gần như không mang lại tác dụng nào. Tình trạng không thể nào cho phép binh sĩ nghỉ ngơi một chút, các binh sĩ vừa từ những doanh trại tương đối tiện nghi của Mỹ đến, đã kéo theo những hậu quả còn trầm trọng hơn cả những viên đạn bắn sẻ của các xạ thủ Nhật mai phục trên cây. Sau tám ngày bị thử thách một cách vô nhân đạo, hai trung đoàn bộ binh mệt nhọc điều quân tiến thẳng góc với bờ biển với hy vọng bao vây Munda. Vài xe cơ giới và xe ủi đấ vừa bắt đầu vạch các đường mòn sau hậu cứ của họ. Cuộc tiến quân chậm chạp đến tuyệt vọng và tinh thần binh sĩ đã bộc lộ điều đó. Mặc dầu có mùng cá nhân, các đám mây muỗi đòn sóc dày đặc đến nỗi binh sĩ phải nuốt chúng mỗi khi hít thở. Phần thuốc kí ninh cho mỗi người không đủ và các cơn sốt đốt cháy binh sĩ khiến họ càng dễ bị làm mồi choc ác xạ thủ vô hình. Thay vì mang lại đôi chút nghỉ ngơi sau những gian lao ban ngày, thì đêm tối lại biến chúng thành những cơn ác mộng tàn bạo. Quân Nhật dùng các mưu chước quái gở. Rừng sâu tối đen tràn ngập tiếng rú lạ lùng thỉnh thoảng lại điểm một lời cầu cứu bằng tiếng Anh. Khốn nạn cho những ai dám mạo hiểm bước ra khỏi chỗ ẩn nấp để đến tiếp cứu những người gọi là bị thương đó! Anh ta sẽ bị một viên đạn gạ gục ngay hay bị một lát kiếm hớt bay đầu.


Sau 15 ngày sống trong một điều kiện như thế, người ta trông thấy đi ngược về phía biển hàng dãy người mắt lạc thần, biến thành một khối bùn rõ rệt, như là bị đánh bằng roi. Các trường hợp suy nhược thần kinh và cả trường hợp điên loạn nữa đã vượt xa số người bị thương.


Thiếu tướng Helster chỉ huy cuộc hành quân quá bất ngờ này, đang lo âu chờ đợi tin tức vài tiểu đoàn được đổ bộ lên phía bắc đảo để đánh bọc hậu vào Munda. Công chờ đợi của ông vô ích, bởi vì sau một cuộc khởi đầu tương đối dễ dàng, họ cũng bị rừng già chặn đứng. Các hướng đạo viên bản xứ đã bị lạc, và họ cứ tiến cầ may dọc theo các con sông, rồi dừng ngay lại, hoàn toàn bị lạc lối. Nhu cầu sống còn trong rừng rậm và sự bảo toàn vũ khí đã đặt ra cho đoàn quân những vấn đề khó khăn đến nỗi họ từ chối đụng độ với địch.


Được thông báo các biến cố đó, Halsey nóng nảy sôi sục. Không lực của ông đã làm tê liệt phi trường Munda và phi trường mới được quân Nhật thiết lập tại Vila1 (Vila nằm trên bờ phía nam đảo Kolombangara kế cận) chỉ còn có vài khu trục cơ hoạt động. Ông không hiểu tại sao Helster, với các phương tiện khổng lồ nắm trong tay, lại không tràn ngập được trong vòng 15 ngày các vị trí rõ rệt là rất trống trải mà điểm tựa duy nhất gồm có ba ngọn đồi nằm về phía đông bắc phi trường.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #72 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:38:12 am »

Tất cả những điều đó có thể đúng trên giấy tờ, nhưng thực tại thì khác xa. Tướng Sazaki, người được Tướng Hyakutaké giao trọng trách phòng thủ phi trường Munda, là mộ chuyên gia phi thường trong chiến thuật chiến đấu trong rừng. Ông đã huấn luyện quân sĩ từ nhiều tháng qua cách đánh kiếm trên một bãi tập dượt kế cận phi đạo và các người dân bản xứ đã phải kết luận rằng quân Nhật cử động trong các dáng điệu đơn giản nhất, rồi bất thần nhào đến các hình nộm và dùng gậy đánh vào đó. Toàn diện quang cảnh đó được nhịp theo bằng những tiếng thét nghe giống như các câu thần chú quái gở. Thạt ra đó là một công cuộc huấn luyện quân sự được qui định cho đến từng chi tiết nhỏ. Một khi đã thông thạo với kỹ thuật đáng sợ đó, các kiếm sĩ ưu tú của Sazaki ban đêm len lỏi vào hệ thống kinh rạch chằng chịt mê hồn theo sau mtọ trưởng toán cách một khoảng ngắn. Mỗi binh sĩ mang trên nón một chiếc lồng nhẹ đan bằng tre trong chứa đom đóm. Vì trong rừng sâu, đom đóm tràn đầy, phải là các cặp mắt mẫn nhuệ mới phân biệt được đường bay của các con bị nhốt với các con khác được bay tự do. Một cái lắc đầu nhẹ là đủ để ra hiệu đổi hướng. Viên sĩ quan hướng dẫn toán của mình xuyên qua phòng tuyến, và trên đường đim hành quyết một hay hai lính Mỹ và các vị trí ẩn nấp làm bằng thân cây sau hậu tuyến đột nhiên bị xáo trộn vì những tiếng lựu đạn nổ ngay giữa các tiếng rú cuồng loạn. Những binh sĩ đáng thương bỏ chạy trốn liền bị sa xuống các con đường mòn mà không khí ẩm ướt ban đêm biến thành các bãi trượt tuyết. Không một người nào đứng dậy nổi. Lần khác, chính một bộ chỉ huy phát hoả hay một kho đạn phát nổ không có lý do rõ rệt. Các sĩ quan Mỹ chẳng hiểu gì ráo về các vụ đột nhập bất thình lình ấy và các báo cáo mơ hồ được chuyển trình vị tư lệnh cũng không soi sáng thêm cho tình hình được bao nhiêu. Điều khiến cho cơn thịnh nộ của Halsey tràn đầy chính là ngay cả lực lượng hải quân của ông cũng không chứng tỏ đủ sức đối phó với tình thế. Công cuộc canh phòng của các tuần dương hạm dưới quyền Ainsworth giữa  Kolombangara và Tân Géorie đã bất lực không ngăn chặn nổi các khu trục hạm vận tải của địch. Trong đêm 12 rạng ngày 13 tháng 7 năm 1943, chiếc tuần dương hạm Leander của Anh cũng chịu chung số phận như chiếc Helena mà nó vừa được phái đến để thay thế1 (Đó là một tuần dương hạm của hải đội dưới quyền Crutchley do Mac Arthur cho mượn. Nó không bị chìm nhưng không còn sửa chữa lại được nữa). Hai chiếc Saint-Louis và Honolulu chạy thoát trong đường tơ kẽ tóc nhưng bị hư hại nặng. Kể từ lúc ấy, chỉ còn lại các khinh tốc đỉnh để lo canh phòng các eo biển mà thôi. Mặc dầu có sự táo bạo và sự khéo léo của các hạm trưởng, chúng cũng không luôn luôn ngăn cản được các ghe buồm Nhật Bản vượt từ đảo này đến đảo kia.


Kể từ khi có các cuộc chiến đấu tại Guadalcanal, những chiến hạm nhỏ này đã phục vụ trng vô càn sứ mạng và bộ tư lệnh quen tiêu thụ chúng bất kể.

Vào thời kỳ mà chúng ta đang nói đến đây, các sĩ quan trên khinh tốc đỉnh hầu hết là các sinh viên trẻ tuổi thuộc đạo quân trù bị. Sau một công cuộc huấn luyện nhanh chóng tại California, họ được gửi đến Thái Bình Dương. Chừng vài tháng kinh nghiệm sau đó, những người tài ba nhất sẽ được chỉ huy một khinh tốc đỉnh.


Không có gì khích động hơn là sống trên một chiếc khinh tốc đỉnh. Trong phòng lái vừa dùng làm đài chỉ huy, chính hạm trưởng phải cầm lái tàu. Bên cạnh là sĩ quan phóng thuỷ lôi-một Midship vừa mới ra trường xong. Sĩ quan tác xạ đại bác đứng đằng trước, bám chắc vào khẩu Poms-Poms. Vả chăng ai nấy cũng phải bám chắc vào một cái gì trên chiếc chiến hạm ồn ào cứ chực giật nẩy mình trên mỗi đợt sóng nhỏ ấy. Đàng sau, các cơ khí viên, bị nhốt kín trong hầm máy, cũng ngồi co quắp trước ba động cơ rung chuyển phun khói mù mịt.


Nội dung của nhiệm vụ gần như luôn luôn chỉ là một: ra khỏi hải càng khi trời vừa tối, các chiến hạm nhỏ lướt đi trong đêm mà không có một tiếp xúc nào với bên ngoài ngoại trừ vài lời trao đổi ngắn qua vô tuyến điện thoại với chiếc gần nhất, và không có cuộc báo động nào khác ngoài tiếng động xa xa của một cuộc chạm súng thỉnh thoảng vọng đến.


Kể từ khi có cuộc đụng độ với các tuần dương hạm của Ainsworth, quân Nhật ít dám liều lĩnh thường xuyên đưa các khu trục hạm chạy vào các eo biển. Công cuộc tiếp tế cho Kolombangara được thực hiện bằng thuyền buồm. Gần như đêm nào các khinh tốc đỉnh cũng tấn công bằng đại bác vào các chiếc ghe bọc sắt và được võ trang hùng hậu chạy sát bờ biển dưới sự che chở của các ổ trọng pháo được đặt khuất trong rừng. Cả hai bên đều tổn thất nặng. Mặc dầu cơ nguy thường trực phải thấy chiến thuyền mong manh của mình biến thành cây đuốc bởi ngay cả một viên đạn nhỏ, các thuỷ thủ đoàn Mỹ đã chứng tỏ có rất nhiều hùng khí có thể so sánh ở mọi điểm với tinh thần đối phương.


Các trận đánh được lập đi lập lại này thường kết thúc với kết quả là huề. Một chiếc ghe buồm bị chặn lại, nhiều chiếc khác vượt qua được. Được tiếp tế đầy đủ vũ khí cũng như thực phẩm, các toán quân phòng vệ Munda còn có thể đứng vững lâu dài và bắt đối phương phải trả giá đắt cho mạng sống của họ.


Ngày 20 tháng 7 năm 1943, lực lượng 30.000 quân của Helster vẫn luôn luôn bị kẹt cứng cách phi trường vài cây số. Điên tiết vì sự chậm trễ này, Ngũ giác đài liền cách chức Helster và cử Thiếu tướng Clayton Vogel thay thế. Biện pháp vừa bất công vừa vô hiệu chỉ mang lại một yếu tố mới cho căn bệnh trong đoàn quân đổ bộ mà thôi.


Tuy vậy ngày 30 tháng 7, nhờ chiến xa cách quân bên trái tiến dọc theo bờ biển đã trông thấy được vườn dừa viền quanh Munda. Nhưng cuộc tiến quân trong rừng thì được đếm từng thước. Để trả lời một viên Đại tá chỉ cho các binh sĩ dưới quyền phi trường Munda và nói với họ: “Các anh thấy kia! Chỉ còn cách 4.000 bộ theo đường chim bay”, một chiến binh kỳ cựu nói: “Phải rồi, nhưng… chúng ta đâu phải là chim”.


Ba ngày sau, rốt cuộc tin mừng đầu tiên đã được đưa đến: các tiền sát viên đi kiếm đoàn quân từ phía bắc đến đã tiếp xúc được với nó rồi. Hôm qua ngày 3 tháng 8, hai cánh quân tiếp hợp được với nhau, phi trường bị bao vây.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #73 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:40:42 am »

Tướng Hykutaké lúc ấy hiểu rằng kháng cự là vô ích, và vì lẽ giờ đây quân sĩ của ông đã đồn trú vững chắc tại Kolombangara dưới sự che chở của không lực đặt căn cứ tại Vila, ông ra lệnh cho Sazaki di tản khỏi Munda. Đoàn quân trú phòng chỉ còn lại 6.000 rút lui từng toán nhỏ và vượt qua được eo biển mà không làm kinh động địch quân. Ngày 5 tháng 8, quân Mỹ tiến vào phi trường không gặp kháng cự. Chỉ hai ngày cũng đủ cho các đơn vị Seabees sửa sang lại phi trường, nhưng các ổ đại liên địch còn hoạt động trên các cao điểm kế cận và phải mất hai ngày chiến đấu mới bắt chúng im lặng được.


Trong khi các binh sĩ bất khuất phòng vệ phi trường Munda chờ chết trong các hầm trú ẩn của họ, thì một biến cố đã xảy ra suýt làm dòng lịch sử thay đổi bằng cách làm thiếu mất một vị tổng thống tương lại của Hoa Kỳ. Một trong các khinh tốc đỉnh thuộc nhóm Kelly, chiếc PT 109, được chỉ huy bởi con trai một nhà triệuphú tên là John Fitzgerald Kennedy. Đấy là một lực sĩ từ bé đã quen thuộc với các môn thể thao dưới nước. Trong đêm 2 rạng ngày 3 tháng 8 năm 1943, chiếc PT 109 tuần tiễu trong eo biển Blackett với bốn chiếc khinh tốc đỉnh bạn để chặn một đoàn công voa nhỏ mà các nhân viên Coast Watchers báo hiệu đến gần. Đêm tối đen và các khinh tốc đỉnh phải chạy chậm để khỏi bị khám phá vì các luồng sóng sau tàu.


Vào khoảng 1 giờ sáng, đột nhiên, Kolombangara như một khối đen sậm được chiếu sáng về bên phải.

Đạn chiếu sáng, súng nổ rồi im lặng trở lại. Cuộc báo động này đã làm các hạm trưởng xao lãng trong một chốc lát việc lưu ý đến nhau và một cơn mưa rào nhiệt đới làm họ mất hút bóng dáng chiếc tàu bạn chạy kế cận. John Kennedy tiếp tục hải trình một cách hoàn toàn đơn độc. Mọi người trên chiếc PT 109 quan sát chân trời qua ống dòm để tìm lại chiếc tàu bạn gần nhất. Sau vài phút chờ đợi đầy lo âu, một trinh sát viên đêm báo hiệu có một bóng đen bên phải. Kennedy bẻ tay lái để áp lại gần nhưng thấy ngay đó không phải là một khinh tốc đỉnh mà là một chiến hạm lớn hơn nhiều đang xông đến hết tốc lực.


“Chuẩn bị phóng thuỷ lôi! Chạy thẳng hết tốc lực” ông thét trong loa truyền âm và bẻ hết tay lái… Quá chậm! Một sự đụng chạm ghê rợn làm rung chuyển chiếc PT 109 lúc đó bị lật nghiêng trên mặt biển. Mũi một khu trục hạm Nhật đang cắt nó ra làm hai làm lửa bắn tung toé. Xăng bắt đầu cháy đàng sau. Thế là hết! Mọi người nằm sát bất động phía trước mũi tàu, bị sức chạm làm ngã lộn nhào, chờ đợi tiếng nổ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: chiếc khu trục hạm đã chạy qua và sự chuyển động các chong chóng quạt nước đã nhận phần sau của chiếc khinh tốc đỉnh xuống nước và nó bị chìm ngay tức khắc. Phần phía trước còn nổi và thuỷ thủ đoàn sau khi hoàn hồn liền kiếm vài miếng ván để làm một chiếc bè nhỏ. Kennedy lao xuống biển để vớt hai cơ khí viên đang còn nổi trên mặt biển mặc dầu bị phỏng nặng. Ông đưa họ bơi dọc theo xác tàu và cho thả bè xuống nước. Đã đến lúc phải di tản khỏi chiếc PT 109 vì nó đang chìm nhanh dưới sóng biển.


Chiếc bè trên đó có những người bị thương trôi theo gió, do các người còn mạnh bơi dưới nước đầy đỉ. Khị họ đến được một hòn đảo san hô tí hon thì trời vừa sáng. Mọi người mệt nhoài nằm sóng sượt xuống đất và uống nước dừa để lại sức. Đến tối Kennedy phục hồi sức khoẻ và mặc dầu xương sống đau tàn nhẫn, ông quyết định lội về phía eo biển Ferguson mà ông tin là rất gần đó, hy vọng gặp một chiếc khinh tốc đỉnh đang đi tuần, vì ông biết rằng ai cũng nghĩ là ông đã chết và chẳng ai lại có ý tưởng đến tìm kiếm ông trên hòn đảo san hô hẻo lánh ấy.


Một cuộc bơi lâu dài trong cuộn sóng biển quả là một nỗi thống khổ thật sự. Ông lội suốt đêm. Đến sáng vẫn không thấy có một khinh tốc dỉnh nào. Sau một thời gian chờ đợi rất lâu trên một tảng đá ngầm có mũi nhọn sắc như dao, Kennedy quay trở lại đảo san hô của mình. Nhưng lần này dòng hải lưu chảy ngược chiều ông bơi. Sau khi lội suốt đêm mà gần như không tiến lên được, ông kiệt sức phải dừng lại trên đảo san hô đầu tiên nào đó được gặp. Phải mất hai mươi bốn giờ mới lấy lại sức và một ngày lội nữa mới gặp lại các bạn đồng hành. Ông được tiếp đón bằng một tiếng hoan hô vang dội và ngạc nhiên thấy những người bản xứ đứng chung quanh các bạn, những người bản xứ này dường như biểu lộ ý tốt. Họ để lại cho các nạn nhân đắm tàu một chiếc xuồng độc mộc, và Kennedy giao cho họ một điệp văn khắc bằng dao trên một chiếc vỏ dừa để trong trường hợp đang lưới mà họ gặp được một chiến hạm Mỹ.


Đêm đến, vì hy vọng một cuộc gặp gỡ như thế rất mong manh, Kennedy cùng sĩ quan phụ tá ra đi trên chiếc xuồng để đến eo biển Ferguson một lần nữa. Chiếc xuồng quá nhẹ và các tay chèo thì vụng về. Sau hai giờ đường, xuồng bị chìm và một lần nữa hai sĩ quan phải quay trở về bằng cách lội ngược dòng hải lưu. Nỗi thống khổ còn tệ hơn lần trước. Hai chàng trai trẻ, kiệt sức và run lập cập vì bị sốt, đặt chân lên một tảng đá ngầm. Phải mất hai ngày nữa họ mới về đến hòn đảo của mình, và lần này họ quyết định đưa tất cả mọi người đến một đảo san hô ít hẻo lánh hơn. Chiếc bè nhỏ được tăng cường thêm một chút được hạ thuỷ cùng với các thương binh, và cuộc thiên di bắt đầu trong những điều kiện khổ nhọc nhất. Bình minh ngày 7 tháng 8, trong khi các kẻ bị đắm tàu kiệt sức bắt đầu tuyệt vọng, thì nhièu xuồng của dân bản xứ cặp vào bãi biển đao san hô mới của họ. Một người Mélanésien chìa cho họ một tờ giây. Trên đầu có ghi một địa chỉ hết sức mơ hồ:

”Gửi cho người có cấp bậc cao nhất còn sống sót của chiếc PT 109”

Nhưng văn bản tiếp theo đó thì vang dội như đoạn kết của một chuyện thần tiên:
“Những người mang điệp văn này có nhiệm vụ đưa anhd dến Wana Wana để tổ chức việc hồi hương cho thuỷ thủ đoàn của anh”.

Ký tên:
Trung uý Evans. Coast Watcher tại Kolombangara.



Vài ngày sau, trong khi trung uý John F.Kennedy cùng các thuộc viên chờ đợi tại Guadalcanal để được hồi hương, thì Evans và Josselyn xin các nhà chức trách cho họ từ chức Coast Watchers, trong cuộc cút bắt ghê rợn được thực hiện trên các đảo để tìm kiếm các binh sĩ Nhật cuối cùng, quân Mỹ đã oanh tạc các làng bản xứ và bắn cầu may vào rừng rậm, tàn sát tất cả những gì cử động. Hai người Úc không thể nào chịu đựng được sự hổ thẹn khi thấy những chiến sĩ nhỏ con đầy can trường đã giúp đỡ họ nhiều biết bao nhiêu trong suốt cuộc chiến, bị gục ngã gần như dưới mắt họ.


Cuộc đời trôi qua như thế, chiến tranh tiếp diễn như thế, qua những con đường lót bằng xương máu chiến sĩ vô danh, viền hai bên là những gương anh hùng không tên tuổi. Và giá như sự tình cờ đã không làm cho một vị trong các vị anh hùng của cuộc mạo hiểm ấy trở thành Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, thì có lẽ chẳng bao giờ có ai nghe nói đến nó nữa.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #74 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:41:19 am »

Những bước nhảy ếch

Nếu tổn thất về nhân mạng và chiến cụ của không và hải lực Mỹ rất nặng nề trong năm đầu tiên của cuộc phản công này, thì tổn thất của bộ binh lại rất thấp đáng ngạc nhiên. Trong các cánh rừng sâu ấy, nơi mà các đầu đạn bắn phỏng chừng, bệnh tật đã tàn hại mạnh hơn là vũ khí. Chỉ có 1.600 quân Mỹ tử trận tại Guadalcanal, không đầy 1.000 tại Tân-Georgie. Bảng tổng kết thành tích cũng không kém phần chán nản: trong vòng 12 tháng, vòng đai chu vi Đại Đông Á chỉ thụt lùi có 450 cây số. Tại Munda, một đội quân trú phòng 8.000 binh sĩ Nhật, gần như không được sự yểm trợ của không lẫn hải quân, đã làm cho 36.000 quân Mỹ phải thất bại trong suốt 66 ngày. Bên phía kia của hàng rào “Bismarch Barrier”, nơi mà mặc dầu Mac Arthur có trong tay 8 sư đoàn (5 sư đoàn của Úc), bước nhảy bọ chét cũng chỉ ngang cỡ đó: 400 cây số. Vì thiếu phương tiện chuyển vận đổ bộ và bị địa hình núi non bên trong làm tê liệt, các lực lượng đồng minh hoàn toàn thiếu hẳn sự yểm trợ của không lực, vẫn còn kẹt cứng trước các pháo đài kiên cố tại Lar và Salamaua. Cuộc đổ bộ lên Tân-Irlande, nguyên thuỷ được trù liệu vào tháng 6 năm 1943, đã được hoãn lại đến một ngày vô định… Với cái đà này, muốn đến được Đông Kinh phải kể đến hàng chục năm!


Không bao giờ Nimitz ủng hộ hoàn toàn cuộc đổ bộ lên Tân-Géorie, cũng như cuộc tiến quân của Mac Arthur dọc theo xương sống của Tân-Géorie. Chính uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh do sự khẩn nài của ông Tướng, đã ra lệnh mở hai cuộc hành quân đó. Nhưng kết quả đáng chán của những bước nhảy bọ chét này đã cung cấp cho ông một bằng cớ tốt đẹp để lại lôi ra khỏi chồng hồ sơ một dự án mà ông ấp ủ từ lâu.


Tại sao lại để cho bị kiệt sức như thế bằng cách nhảy từ đảo này sang đảo kia trên một đoạn phòng tuyến được phòng thủ quá mạnh? Nhảy những bước bất ngờ trên một khoảng cách lớn hơn bằng cách chồm lên trên các đảo khó chiếm để đặt chân lên các đảo khác được phòng thủ yếu hơn, há chẳng phải là hay hơn sao? Với các phương tiện vật liệu đã bắt đầu được đưa đến, rất có thể cô lập hoá các trung tâm đề kháng rồi để mặc cho chúng tự tan rã mai một. Nguyên tắc này trái với giáo điều quân sự chính thống đến nỗi đã bị Uỷ bản tham mưu hỗn hợp đồng minh nêu lên các sự chống đối kịch liệt.


Nimitz là một tay làm chính trị tế nhị, thay vì trở lại đòi hỏi, ông tổ chức một cuộc hành quân nhỏ trên một chiến trường phụ thuộc để làm cách nào có thể chứng tỏ quan điểm của ông là đúng.


Vào tháng 5 năm 1943, trong lúc Hasley vất vả chuẩn bị cho cuộc xâm chiếm Tân-Géorgie, Nimitz tập họp một lực lượng đặc nhiệm hùng mạnh-ít ra cũng là trên giấy tờ-gồm có ba thiết giáp hạm sống sót tại Trân Châu Cảng mà không ai biết sử dụng làm gì, và một lực lượng chuyển vận đổ bộ nhỏ chở hai trung đoàn để tái chiếm hai đảo Attu và Kiska thuộc quần đảo Aléoutienns bị quân Nhật chiếm đóng từ trận chiến Midway. Thời tiết xấu liên miên và những khó khăn trong việc tiếp tế đã ngăn cản quân Nhật khai thác lợi điểm và sau cùng họ phải tập họp tất cả lực lượng của hai đạo quân trú phòng lên đảo Kiska, đảo gần căn cứ Dutch Harbor của Mỹ nhất.


Cơ hội rất tốt đẹp để toan tính một bước nhảy ếch lên đảo Attu bằng cách “by passant” đảo Kiska1 (Do dach từ Anh “by-pass” có nghĩa là qua mặt để cô lập hoá). Kinh nghiệm có tính cách rất xác minh. Đội quân trú phòng bị cô lập hoá phải bỏ cuộc sau hai tháng.


Vững tâm với thành công này, Nimitz làm cho uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh chấp thuận một bước nhảy ếch tương tự qua đảo Kolombangara, nơi các đạo quân trú phòng vừa được tăng cường các tay kiếm rùng rợn của Sazaki và được phi cơ tại căn cứ Vila che chở, sẵn sàng cầm cự một cuộc bao vây bất tuyệt.


Ngày 15 tháng 8 năm 1943, trong khi đôi bên đang đánh nhau tại Tân-Géorgie, một lực lượng chuyển vận đổ bộ do Đo đốc Wilkinson chỉ huy đã bất thình lình đổ lên bờ đảo Vella Lavella 6.000 bộ binh và 8.000 tấn quân dụng. Chừng 500 quân trú phòng Nhật Bản phải rút lui vào trong một cánh rừng già và bị bỏ mặc cho số phận tù hãm trong đó. Sau nhiều cố gắng vô vọng để tiếp tế cho họ, tướng Hyakutaké đành phải cho mười chiếc khu trục hạm và vài khinh tốc đỉnh đến tìm và di tản họ. Các tuần dương hạm Mỹ có nhiệm vụ phong toả, đảo đã cố gắng can thiệp. Rủi cho chúng. Nhờ ưu thế các thuỷ lôi mới, quân Nhật đánh chìm ba tuần dương hạm Mỹ và chỉ bị tổn thất một. Nhưng kết quả thì đã đạt được. Quân Nhật chỉ hồi hương được phần còn lại của một đạo quân trú phòng đói khát.


Lần này Nimitz đã chứng tỏ là chính sách nhảy ếch được trả giá. Kolombangara như thế là bị qua mặt và bị cô lập hoá và phần Wilkinson, lực lượng chuyển vận đổ bộ được tăng cường thêm nhiều chiến hạm, sẵn sàng toan tính một bước nhảy khác.


Sự chọn lựa mục tiêu kế tiếp đã gây ra nhiều cuộc tranh luận phũ phàng. Nimitz thì bằng bất cứ giá nào cũng không muốn tấn công một hòn đảo được quân Nhật bố phòng vững chắc. Thế mà chung quanh Rabaul, hòn đảo nào cũng được bố phòng vững chắc cả. Các đảo Shortland, Bougainville, Tân Bretagne và Tân Irlande, đều là các pháo đài kiên cố không thể bị chiếm được, lại do một không lực hùng mạnh che chở với vô số phi trường trong tay. Đô đốc Koga, kế vị Yamamoto, luôn luôn theo sát các huấn thị của vị tiền nhiệm sáng chói của ông, và quyết tâm sẵn sàng khai thác bất cứ một vụng về nhỏ bé nào của các Đô đốc Mỹ chủ lực của hạm đội mẫu hạm của ông đang rình rập trong các căn cứ lớn tại Truk hoặc tại Ponape và, trong những ngày cuối thu 1943 ấy, các mẫu hạm mới của Mỹ đang còn được chạy thử tại San Diego hay tại Trân Châu Cảng. Mạo hiểm đưa hai mẫu hạm già nua Enterprise và Saratoga vào các hải phận bị canh phòng chặt chẽ giống như vùng biển Corail (San hô) hay là biển Bismarck, thì đúng là đưa mồi cho đối phương.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #75 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:43:13 am »

Trong khi Mac Arthur thì nóng nảy cuống cuồng. Giờ đây dưới quyền ông đã có cả một quân đoàn không lực: Quân đoàn V mới được thành lập do một tướng lĩnh sáng chói chỉ huy, Tướng Kenney. Chính bản thân ông cũng đã rút ra các bài học hữu ích về những sai lầm đã phạm phải tại Phi Luật Tân, và giờ đây ông là người biết cách vận dụng các đơn vị không quân hơn phần đông tướng lĩnh Mỹ. Lực lượng đổ bộ thứ VII của ông do Đề đốc Barbey chỉ huy rất thiện chiến trong các cuộc hành quân đổ bộ. Ông ước tính là có thể thanh toán Lae và Salamaua rồi đuổi lực lượng Nhật ra khỏi bán đảo Huon để từ đó nhảy lên Tân-Bretagne. Uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh cho ông toàn quyền với trừ lệ duy nhất là ông không được đòi hỏi bất cứ hợp tác nào của hạm đội Halsey và phải bằng lòng với hải đoàn Anh-Mỹ vẫn do Đô đốc Crutchley chỉ huy.


Các cuộc hành quân tại Tân-Guinée đã phát động ngay từ đầu tháng 9 năm 1943. Kenney oanh tạc các phi trường Nhật hữu hiệu đến nỗi ông có thể thực hiện một cuộc hành quân không vận ngày 5 tháng 9 trên phi trường Nizab, phía bắc Salamaua, sự chiếm đóng phi trường này đảm bảo cho ông quyền làm chủ tuyệt đối không phận bên trên hai cứ điểm bị bao vây. Quân Úc đổ bộ gần Lae và chiếm đóng các vị trí của Nhật một cách sáng chói và đến lượt Salamaua thất thủ ngày 16 tháng 9. Ngày 2 tháng mười, bán đảo Huon được giải phóng ngoại trừ một ốc đảo còn kháng cự hải cảng Finschafen, đối diện với Tân-Bretagne. Sau những trận đánh trì hoãn cực kỳ dữ dội với quân Nhật đành phải di tản khỏi cứ điểm và quân của Mac Arthur tiến vào đấy ngày 20 tháng 10 năm 1943. Phần đầu của chiến dịch đánh Rabaul đã chấm dứt, và phương cách sáng chói được áp dụng trong đoạn cuối, đã làm cho uy tín của Mac Arthur được nâng cao gấp bội, khiến cho uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng mình đã chấp thuận một mưu toan đổ bộ lên Bougainville để khắp chặt mũi thứ hai của gọng kìm.


Kế hoạch hành quân này đã bị sửa đổi nhiều lần vì Nimitz không chịu thi hành ngay. Sau nhiều cuộc trao đổi quan điểm chua cay với Mac Arthur, ông bằng lòng giới hạn vào một cuộc đổ bộ lên phần chính giữa của hòn đảo to lớn ấy, tại vịnh Nữ hoàng Augusta, và vào sự thiết lập một vòng đai chu vi phòng thủ vài cây số giữa núi và biển. Vì vòng đai này nằm cách đều Buka và Buin, là hai cứ điểm tập trung lực lượng của Nhật, nên các tác giả của kế hoạch ước tính rằng địch quân phải mất ba tháng mới vượt qua được các cánh rừng già che chở chung quanh khu vực phòng thủ. Thời hạn này có thể giúp quân Mỹ xây dựng một phi trường và thiết lập các công sự phòng thủ kiên cố.


Kế hoạch này được thi hành không mấy khó khăn vào tháng 11 năm 1943. Đô đốc Wilkinson, kế vị Turner, người đã thành công rực rỡ tại Vella Lavella, đã chứng tỏ còn khéo léo hơn người tiền nhiệm của ông nhiều, trong việc điều động các đoàn tàu chuyển vận đổ bộ lớn lao, riêng phần tướng chỉ huy đoàn thuỷ quân lục chiến thì bị ngã chết vài ngày trước ngày J, khiến cho chính Vandegrift, mới được thăng Trung tướng ít lâu, đã được triệu dụng đến thay thế. Với một cấp chỉ huy khí phách như thế, thành quả đã được đảm bảo rồi. Vài giàn đại pháo phòng duyên chế ngự vịnh Nữ hoàng Augusta bị các cuộc oanh tạc làm câm họng và bị chiếm giữ bằng lưỡi lê bởi một toán cảm tử thuỷ quân lục chiến. Bình minh ngày 1 tháng 11, hạm đội của Wilkinson đổ bộ lên bờ 14.00 quân và 6.200 tấn quân dụng. Mười hai hải vận hạm đưa quân đến đã có thể nhổ neo ngay đêm đó mặc dầu có hai cuộc oanh tạc của Nhật. Các oanh tạc cơ Nhật bị khu trục cơ Corsair Mỹ từ phi trường Munda đẩy lùi, nhờ một phương pháp hành quân hoàn toàn mới: sự hướng dẫn khu trục cơ bằng rađa và vô tuyến điện thoại do một bộ chỉ huy đặt bản doanh trên một khu trục hạm điều khiển.


Đêm 1 rạng ngày 2 tháng 11 năm 1943, một hải lực của Nhật gồm bốn tuần dương hạm và sau khu trục hạm do Đề đốc Omori chỉ huy đến tấn công lực lượng đặc nhiệm của Đề đốc Merril đang che chờ cho đầu cầu đổ bộ cách vịnh 15 cây số ngoài khơi. Cuộc dạ chiến này đem ưu thế về cho phía Mỹ nhờ các rađa được bổ chính tuyệt vời khám phá kịp thời đoàn chiến thuyền địch đang lao đến. Mặc dầu Merril không đưa được lợi thế về số lượng nhưng ông cũng đánh chìm được một tuần dương và một khu trục hạm của Nhật mà không mất một chiến hạm nào. Đề đốc Omori hy vọng tái lập chiến công của Mikawa tại đảo Savo, phải chịu kết quả ngược lại. Đến sáng ông rút lui với ảo tưởng là đã giáng cho quân Mỹ những tổn thất nặng nề trong lúc thật ra quân Mỹ chỉ có ba chiến hạm bị hư hại nhẹ.


Thời gian đã thay đổi và Halsey, được khích lệ nhờ chiến công đầu tiên này, liền mạo hiểm đưa hai trong các mẫu hạm của ông đến oanh tạc Rabaul. Thật vậy ông vừa nhận được chiếc Princetown, một mẫu hạm nhẹ 12.000 tấn được trang bị những thiết trí hướng dẫn phi cơ kiểu tối tân nhất sẽ giúp tăng cường sự che chở cho mẫu hạm Saratoga cũ kỹ. Cuộc oanh tạc hải cảng Rabaul do hai mẫu hạm này thực hiện ngày 5 tháng 11 năm 1943 đã làm hư hại các tuần dương hạm của Koga nặng nề đến nỗi ông phải cho rút lui tất cả về Truk và không bao giờ còn dám mạo hiểm đưa chúng đến hải phận Bougainville. Nhưng phản ứng của không quân thì rất ác liệt khiến Nimitz phải cho tiếp cứu thuộc viên của mình. Mặc dầu đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác, ông cũng phải cho tách khỏi Trân Châu Cảng nơi đang tổ chức công cuộc huấn luyện, hai hàng không mẫu hạm mới trọng tải 30.000 tấn. Essex và Banker Hill và mẫu hạm nhẹ Independence để tấn công từ phía đông, phi trường Rabaul. Cuộc phản công của không quân Nhật mặc dầu rất mạnh mẽ nhưng đã bị cương quyết đẩy lùi và trong dịp này Koga tổn thất 50 phi cơ của hải quân và các phi công bất khả thay thế mà vẫn không đánh trúng được các mẫu hạm của Mỹ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #76 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:44:02 am »

Sự đột nhập của ba hàng không mẫu hạm mới thuộc quyền Nimitz đã gieo rắc bối rối bên phe Nhật Bản. Kế hoạch đầy tham vọng của Yamamonton nhằm lôi kéo, hải lực yếu ớt của Mỹ đến khá gần Rabaul để huỷ diệt trong một trận đánh quyết định, nay không còn một cơ may thành công nào nữa. Với ba mẫu hạm tăng cường thêm và một ưu thế không quân ngày càng được xác nhận, quân Mỹ đã lấy lại thế chủ động. Giờ đây chính họ mới có lợi nếu một cuộc đụng độ toàn diện xảy ra. Vị Đô đốc thận trọng Koga lùi bước trước viễn cảnh này và quyết định không gửi tăng viện cho Rabaul lẫn Bougainville nữa. Ông rút lui chủ lực của các hạm đội về Palua và về Truk nằm ngoài tầm các phi trường vừa mới được quân Mỹ xây dựng.


Một lý do khác đã bắt buộc phải áp dụng biện pháp này: xăng và dầu máy bay bắt đầu thiếu hụt. Cho đến lúc đó tiềm thuỷ đỉnh Mỹ vốn nổi bật vì sự vắng mặt trên các trục hải hành chính yếu giữa Nhật và thuộc địa Hoà Lan, đột nhien bắt đầu hành động. Nhiều tàu dầu bị đánh đắm và những tổn thất ấy đã kéo theo một sự xáo trộn trầm trọng trong việc tiếp dầu cặn cho hạm đội và xăng cho phi cơ. Trong thời chiến tuy sự tổn thất vài chiếc tàu dầu là sự kiện tầm thường và có thể tiên liệu được, nhưng với niềm tin mù quáng vào một chiến thắng mau lẹ, người Nhật chẳng làm gì để đối phó với viễn ảnh này. Thay vì xây dựng lại các nhà máy lọc dầu của Hoà Lan và của Anh tại Bornéo và tại Java, họ lại chỉ lo mang dầu thô về Nhật và gửi các chế phẩm trở lại cho các căn cứ trên Thái Bình Dương để thoả mãn nhu cầu của các đơn vị. Phương thức này không những chỉ làm giảm một phần ba hiệu suất tiếp tế dầu, mà còn gia tăng gấp đôi sự phô bày các tàu dầu cho các cuộc tấn công của tiềm thuỷ đỉnh Mỹ.


Ta có quyền ngạc nhiên tự hỏi, tại sao người Mỹ phải mất đến cả hai năm trời mới ý thức được điểm yếu đó của đối phương và không khởi động sớm hơn một cuộc tấn công qui mô bằng tiềm thuỷ đỉnh vốn có thể làm cho Nhật bị mắc nghẽn. Sự kiện lại càng đáng ngạc nhiên hơn nữa vì các thương thuyền của Mỹ vừa chịu đựng các cuộc càn quét của tiềm thuỷ đỉnh Đức trên Đại Tây Dương. Trong lúc 20 tàu ngầm của hạm đội Thái Bình Dương chỉ đánh chìm được có 350.000 tấn thương thuyền Nhật, từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1942, thì chừng 20 U-boote của Đô đốc Doenitz đã gửi xuống đáy biển trong cùng thời gian đó, ba triệu tấn thuyền bè Mỹ. Quả không cần làm gì hơn để cho nỗ lực chiến tranh của Nhật vốn hoàn toàn lệ thuộc vào sự vận chuyển trên mặt biển bị tiêu diệt.


Thay vì rút ra từ những con số ấy các kết luận áp đảo, Bộ tư lệnh Mỹ, vì bị ám ảnh bởi sức mạnh của hạm đội liên hợp Nhật còn nguyên vẹn với hai thiết giáp hạm 70.000 tấn, chín mẫu hạm và bốn mươi tuần dương hạm của nó, nên đã phân phối các tàu ngầm của mình cho nhiều hải đoàn khác nhau để thực hiện sứ mạng yểm trợ chúng. Sự phân tán này đã gây ra quá nhiều hậu quả đáng giận. Luôn luôn bị sử dụng trong các công tác phụ đới, các hạm trưởng tàu ngầm không được thi thố nghề nghiệp thật sự của mình. Hơn nữa, thuỷ lôi của họ cũng cho thấy là hoàn toàn vô hiệu; hoặc giả là chạy lạc lối hoặc giả là bị tịt ngòi không nổ. Sự đối chiếu kết quả trở nên khá khó khăn vì khoảng cách xa giữa các đơn vị và căn cứ mẹ của chúng tại Mare Island (San Francisco) không có nỗ lực nào được thực hiện để điều chỉnh các quái tượng này. Vô số báo cáo đã được chuyển trình nhưng chỉ nhận được các câu trả lời diên kỳ. Phải đợi đến khi xảy ra chứng nghiệm kỳ dị của tiềm thuỷ đỉnh Tinosa thì các giới chức hữu quyền tại Hoa Thịnh Đốn mới xúc động: sau khi phóng hai thuỷ lôi làm hư hại một tàu dầu lớn của Nhật, tiềm thuỷ đỉnh Tinosa đã cố sức thanh toán nó bằng cách phóng thêm mười một thuỷ lôi nữa, nhưng vô ích, cả mười một quả đạn đều trúng địch nhưng không một quả nào nổ. Viên hạm trưởng đáng thương của chiếc Tinosa chắc phải là người bình tĩnh ghê gớm mới cho giữ lại quả thuỷ lôi thứ 14 và quả cuối cùng để gửi về Mare Island xin tháo mở ra xem xét… Lần này đã có lệnh mở cuộc điều tra, nhiều sự trừng phạt đã được áp dụng và vài tháng sau, hai kiểu thuỷ lôi tuyệt diệu mới đã hoàn thành bởi công binh xưởng tại Mare Island. Chúng được gửi đến khu vực nam Thái Bình Dương vào tháng 11 năm 1943 và lập tức con số trọng tấn tàu Nhật bị đánh chìm hàng tháng đã từ 100.000 vượt lên 200.000 tấn!


Nhưng ngọn lửa bùng lên không được bao lâu. Các cuộc hành quân đại qui mô do Đô đốc Nimitz chuẩn bị tại khu vực trung ương Thái Bình Dương sắp đưa về chiến trường này gần như tất cả hải lực của Mỹ và bắt buộc các tiềm thuỷ đỉnh phải rời bỏ khu vực săn mồ trên biển Nam Hải để đảm trách lại vai trò con chó chăn cừu, nhằm bảo vệ cho các lực lượng hải quân chạy trên mặt biển. Vả chăng, chúng sẽ được hào quang chiến thắng bao phủ nhân các trận đại chiến trên biển Phi Luật Tân.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #77 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:44:41 am »

Suy tư trên cấp thượng đỉnh

Ý tưởng tấn công vào vòng đai Đại Đông Á ngay nơi phần chính giữa Thái Bình Dương và là phần nằm gần Nhật Bản nhất đã tỏ ra có tiến bộ nơi các nhân vật chung quanh Roosevlet. Nhiều người có hảo ý nghĩ rằng “nên vặn cổ con mực ma hơn là chặt từng cái vòi một của nó”. Thiếu tá Alexandre De Seversky, một chuyên gia đóng phi cơ cừ khôi và lý thuyết gia về kỹ thuật oanh tạc tầm xa, đã hăng hái bênh vực một dự án nhằm tiêu diệt kỹ nghệ hàng không và những hải lộ giao thông của Nhật bằng cách oanh tạc các nhà máy và các khu vực kế cận hải cảng tại chính quốc. Ông muốn rằng nỗ lực chiến tranh của Mỹ phải được ưu tiên hướng đến sản xuất các pháo đài bay mới B-29 vốn có một bán kính hoạt động đủ để bay đến Nhật từ các phi trường tại Trung Hoa và trên các đảo thuộc quần đảo Aléoutiennes. Luận đề này được hỗ trợ bởi Tướng Chennault, vẫn còn nắm quyền Tư lệnh Không lực 14 tại Trùng Khánh và vẫn đề nghị dùng phi cơ B-25 oanh tạc tàu bè Nhật đang tự di di chuyển dọc theo bờ biển Nam Hải.


Uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh bác bỏ chủ trương này; sợ rằng sự sử dụng các phi trường Trung Hoa sẽ khiêu khích một cuộc tổng tấn công tại miền trung Trung Hoa nơi quân đội Tưởng Giới Thạch không thể kháng cự và, về phần quần đảo Aléoutiennes, thời tiết đáng ghét ở đấy thường làm cho hoạt động của không quân bị tê liệt suốt 8 tháng trời mỗi năm.


Các biến công tiếp diễn sau đó chứng tỏ rằng chỉ có sự chống đối thứ hai là có giá trị, và sự chống đối vì lập luận liên quan đến các phi trường Trung Hoa không đúng. Dầu sao chăng nữa, những đề nghị nói trên cũng đã không được Uỷ ban tham mưu hỗn hợp giữ lại, Uỷ ban cũng không muốn gia tăng cường độ của cuộc chiến tranh tiềm thuỷ đỉnh. Phòng hành quân của Đô đốc King liền đệ trình một kế hoạch tấn công vào các quần đảo tại khu vực trung ương Thái Bình Dương bằng các lực lượng đổ bộ được các hàng không mẫu hạm che chở, chính ke này đã được Uỷ ban chấp thuận. Quyền chỉ huy lại được giao về cho Nimitz là người đã nhận thức được kế hoạch ấy. Ông được ưu tiên cung cấp các mẫu hạm và hải vận hạm khi chúng dần dần được đưa ra khỏi công xưởng. Vì chiến trường Âu châu nhận phần lớn nhất trong sự phân phối các sản phẩm chiến tranh của Mỹ, cho nên các phương tiện được hứa hẹn này bị giảm thiểu không thể nào giúp cho cuộc tiến quân của Mac Arthur ngược lên Phi Luật Tân có thể cũng được xúc tiến song song. Về phương diện chính thức thì người ta không ra lệnh cho ông dừng lại, nhưng người ta để cho ông hiểu rằng từ nay ông chỉ có thể sở cậy vào chính lực lượng của mình.


Không cần phải nói với ông Tướng sôi nổi chẳng bao giờ vui vẻ chấp nhận một vố cản trở mà người ta đã áp đặt như thế. Trong một văn thư dữ dội như sấm sét, ông cảnh giác Hoa Thịnh Đốn phải chống lại “một loại xung phong bằng quân đổ bộ được yểm trợ bởi các phi cơ của mẫu hạm nhằm đánh các cứ điểm được bộ binh, hải lực và phi cơ đặt căn cứ trên đất liền phòng thủ vững chắc” và nói thêm rằng “gương Midway còn đó để chứng tỏ các cuộc hành quân liều lĩnh giống nhau đến mức nào”. Nhưng uỷ ban tham mưu ước tính rằng các điều kiện khác nhau và bỏ mặc ác điểm ông lưu ý.


Nếu tất cả mọi người đồng ý từ bỏ con đường quá dài đưa đến Đông Kinh ngang qua Tân-Guinée và Phi Luật Tân, thì đã không có sự nhất trí liên quan đến địa điểm tấn công phải chọn lựa đầu tiên nằm trên viền phía đông chu vi Đại Đông Á. Đô đốc King vẫn luôn luôn đề nghị quần đảo Marshall vì nếu chiếm được thì sẽ có thể tiếp tục nhảy đến quần đảo Mariannes và từ đó có thể oanh tạc trực tiếp lên đất Nhật. Thế nhưng King phải bay lượn trong các địa hạt của những giới chức cao cấp, và các ưu tư liên quan đến công cuộc đổ bộ tại Âu châu đã bắt buộc ông phải giao lại cho các cấp thuộc quyền suy tính-đặc biệt là Nimitz, người chủ chốt trong nội vụ. Mà Nimitz thì coi kế hoạch này như quá liều lĩnh. Ngoài việc ông không được tin tức chính xác về tình trạng phòng thủ của Nhật trên các đảo san hô, vị trí kế cận của pháo đài Tarawa kiên cố, trong quần đảo nhỏ Gilbert nằm cạnh phía đông nam quần đảo Marshall, đã gợi cho ông nhiều âu lo sôi động nhất. Mặc dầu là người đầu tiên chủ trương chính sách “By-Pass”, ông cho rằng, trong trường hợp này, chính sách ấy quá nguy hiểm. Hơn nữa, Tarawa nằm trong vòng bán kính hoạt động của các phi cơ đặt căn cứ trên nhiều phi trường của Mỹ trên quần đảo Ellice, trong khi đó thì căn cứ Kwajalein hùng mạnh của Nhật thì không bị lâm vào tình trạng như thế. Cuộc tấn công thẳng vào căn cứ này phải được thực hiện với sự yểm trợ duy nhất của các phi cơ trên mẫu hạm của ông và ông ước tính rằng số lượng mẫu hạm chưa đủ để đảm bảo cho sự thành công. Ông đặt vấn đề cho ủy ban tham mưu hỗn hợp đồng minh dưới hình thức một thế lưỡng đao: hoặc tấn công Kwajalein, trong trường hợp này phải đợi các mẫu hạm được đưa đến (và như thế là giúp cho quân Nhật có đủ thì giờ tăng cường kiên cố thêm nữa các đảo san hô thuộc quần đảo Marshall) hoặc là tấn công Tarawa ngay lập tức (nghĩa là ngắt ngang các lực lượng tăng viện của ông). Và vì vấn đề tuần trăng và giờ thuỷ triều lên bắt buộc phải chọn lựa ngày 20 tháng 11, uỷ ban tham mưu bị thì giờ thúc giục nên phải nghe theo. Nimitz ra lệnh áp dụng ngay lập tức cuộc hành quân Galvanic: đổ bộ lên các đảo san hô Tarawa.


Lúc ấy không ai biết rằng vùng biển san hô hẻo lánh, chung quanh bị một chuỗi đá ngầm hình tam giác bao bọc, lại là một trong các cứ điểm được phòng thủ vững chắc hơn cả trên Thái Bình Dương và trận đánh sắp đến là một trong các trận đẫm máu nhất trong chiến tranh.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #78 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:46:36 am »

Chiến trường trung ương Thái Bình Dương

Thảm cảnh tại Bétio

Ma quỉ nào đã thúc đẩy trung sĩ nhất Price, vừa mới được gắn huy chương tại Guadalcanal, xin thuyên chuyển về trung đoàn 2 thuỷ quân lục chiến? Chỉ có anh mới có thể trả lời được. Đơn vị của anh đang dưỡng quân tại Wellington sau sáu tháng chiến đấu kiệt sức, và nhiều bạn hữu của anh đã được gửi về Hoa Kỳ trong những vị trí hoàn toàn yên nghỉ. Anh vẫn còn có thể nghỉ ngơi ít lâu nữa mà không mất chức vụ huấn luyện viên rất xứng đáng do kinh nghiệm chiến đấu trong rừng của anh. Nhưng Price là người có bản chất quân sự từ tâm hồn. Sau vụ Midway và sau các trận xáp lá cà hung dữ tại Henderson Field, anh đã có ý tưởng rất cao cả về vai trò trung đội trưởng bộ binh của mình. Anh tính toán hữu lý rằng, dẫn một toán người được đào tạo theo hình ảnh của anh và hoàn toàn ngưỡng mộ anh tiến lên xung phong, là một trong các sứ mạng cao cả nhất và phấn khởi nhất của hệ cấp quân đội. Khi được biết rằng vị chỉ huy cũ của mình tại Guadalcanal, trung tá Shoup, đã lần lượt được thăng cấp Đại tá và được bơm lên làm trung đoàn trưởng trung đoàn thuỷ quân lục chiến, nhiệt tâm anh bùng lên. Không những là một trong các trung đoàn danh tiếng nhất của thuỷ quân lục chiến mà Shoup còn là một trong những người mà anh cũng thích được tháp tùng để dấn mình vào cuộc mạo hiểm. Hơn nữa, trung sĩ Price vừa được biết rằng giờ đây là một cuộc hành quân vào miền trung Thái Bình Dương và anh nghĩ, nhớ các kinh nghiệm tại Midway, anh có thể mang lại sự giúp đỡ quí báu cho vị Đại tá của mình. Anh không muốn nói đến một thứ tình hoài hương đối với các đảo san hô ấy, nhưng dầu sao, ý tưởng được đánh nhau dưới bầu trời lồng lộng gió biển thay vì vùng vẫy bất tận giữa những cây đước và cây dứa dại, cũng không phải là một ý tưởng không làm anh hài lòng. Qua hệ thống quân giai anh viết một lá đơn cho vị chỉ huy cũ và nhận được lệnh thuyên chuyển ngay khi người bưu tín viên trở lại.


Khi đến trung đoàn 2, anh được bổ nghiệm vào một toán tiền sát viên do một trung uý có tên Hawkins chỉ huy, một cậu bé to con nhõng nhẽo mới hai mươi ba tuổi, vừa gia nhập vào thuỷ quân lục chiến từ tháng giêng năm 1942, mà đã kiếm lon ngay tại mặt trận theo một mức độ mau lẹ khó tin. Thoạt tiên, có phần ganh tị với sự thăng thưởng khác thường ấy, nhưng Price bị chinh phục mau lẹ bởi sự giản dị, và sự tươi vui của người chỉ huy trẻ tuổi ấy, người đã tiếp anh với thái độ như muốn xin lỗi vì phải chỉ huy một chiến sĩ kỳ cựu như anh.


Toán tiền sát viên đang được huấn luyện cho một cuộc đổ bộ bằng phương tiện hải quân. Mỗi ngày các quân nhân theo học các lớp lý thuyết chen vào giữa là các cuộc thực tập lên tàu và đổ bộ thật nhanh trên các chiếc L.C.P. và các máy kéo lội nước, một kiểu xe kéo chạy xích mới đang được chất đống như cá mồi trên bến tàu, được trang bị với cả một kho vũ khí tự động thật sự.


Tin đồn lan truyền mau lẹ rằng mục tiêu xung phong sắp đến là quần đảo Gilbert đánh dấu ranh giới giữa quần đảo Ellice do Mỹ chiếm đóng, và quần đảo Marshall và người ta nói là quân Nhật đã xây dựng một hành trì không thể đánh chiếm được.


Nhìn lên bảo đồ, Price nhận thấy rằng quần đảo Gilbert này có một đặc điểm về địa lý độc nhất trên địa cầu:” vĩ độ số không, kinh độ 180. Cưỡi lên đường xích đạo như thế là cách đều hai địa cực, và lại còn nằm cách đều hai lục địa Á châu và Mỹ châu. Có lẽ người bản xứ ở đây đã chọn lựa nơi này trong số hàng ngàn đảo để được cách biệt mọi người càng xa càng tốt và có thể sống bình an không bị ai quấy rầy. Căn cứ theo cuốn Guide Bleu mà anh có trong túi, Price thấy rằng sự chọn lựa này rất chí lý. Chẳng ai chú ý đến các đảo san hô này trong nhiều thế kỷ và ngay cả cuộc viếng thăm của các thuyền trưởng Anh quốc Marshall và Gilbert năm 1788 cũng không làm xáo trộn sự yên tĩnh của họ. Trong thế kỷ 19, khách hàng cũng rất hiếm hoi: vài kẻ buôn cùi dừa khô tài tử, và sau đó một là viên chức hành chính người Anh thích cảnh cô tịch. Thoả mãn với những hiểu biết tổng quát này, Price, như một triết gia, chờ đợi được các cấp chỉ huy của mình nói nhiều hơn về mục tiêu thật sự của cuộc tấn công trong tương lai.


Các điểm giải thích chính xác còn lâu mới được đưa đến. Mặc dầu Đô đốc Nimitz biết nhiều chi tiết hơn trung sĩ Price về quần đảo Gilbert và những người mới đến chiếm đóng, nhưng các tin tức ông có cũng đầy dẫy thiếu sót. Ông biết rằng quân Nhật đã chọn các đảo san hô Bétio và Makin để thiết lập các phi trường, nhưng tất cả các tin tức gần như chỉ có thế.


Bétio là một trong 16 đảo san hô thuộc nhóm đảo Tarawa, một nhóm đảo nằm rải lên trên các cạnh không đều của một tam giác vuông mà đường huyền là một dãy đá ngầm. Nằm ở cực tây của cạnh ngắn nhất, nó có lợi điểm là kế cận được lối đi qua duy nhất có thể cho phép tàu bè với một trọng tải nào đó tiến vào vùng biển san hô. Riêng phần đảo Marshall thì được quân Nhật chọn lựa vì nằm gần các đảo san hô kế cận thuộc quần đảo Marshall.


Tất cả những điều đó, Nimitz đã biết, nhưng điều ông chưa biết là bản chất và công cuộc bố trí phòng thủ cũng như số quân trú phòng trên đảo.

Lợi ích của quần đảo Gilbert đối với quân Nhật đã thay đổi trong hai năm chiếm đóng. Ngay khi vừa thiết lập xong phi trường tại đấy, thì hoạt động chiến tranh của họ được chuyển đến Rabaul. Makin và Bétio có đôi phần bị bỏ quên cho đến khi quân Mỹ đến xây cất phi trường tại quần đảo Ellice kế cận. Kể từ lúc đó, nhiều chuyến tàu vận tải đi đi lại lại giữa căn cứ hải quân lớn lao Truk và đảo san hô Tarawa.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #79 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:47:24 am »

Tháng 7 năm 1943, Đô đốc Koga chấp nhận viễn ảnh phải hy sinh Rabaul, ông quyết định tăng cường chu vi phòng thủ phía đông và giao cho Đô đốc Shibasaki quyền tư lệnh nhóm đảo Tarawa. Với 4.000 thuỷ quân lục chiến và 3.000 nhân công Cao Ly, Shibasaki biến đảo san hô Bétio thành pháo đài. Đó là một cấp chỉ huy cực kỳ sinh động trở thành bậc thầy trong nghệ thuật tổ chức thành luỹ kiên cố. Trong tháng 10 năm 1943, ông đã đoan quyết với Koga rằng “phải có ba triệu quân Mỹ và 100 năm cố gắng mới chiếm được Bétio”. Các chiến luỹ được xây cất bằng thân cây dừa nối với nhau nhờ các màu thép, được củng cố bằng các khối san hô nghiền vụn, sẽ mau lẹ chứng tỏ sức chịu dựng kỳ lạ của chúng. Các mệnh lệnh do ông ban hành cho các sĩ quan đều rất đơn giản và rất hợp lẽ phải: “Hãy chờ đợi các tàu chờ quân tấn công được tập họp để đổ quân trước khi khai hoả. Chỉ nhắm bắn các chiến hạm. Nếu địch bắt đầu đổ bộ, hãy bắn xối xả vào các tàu chuyển quân bằng tất cả vũ khí trong suốt đoạn đường chúng tiến vào bãi biển. Sau đó, hãy tập trung hoả lực vào các thành phần đầu tiên đặt chân lên ven bãi biển. Vì lẽ địch chỉ có một khoảng cách 20 giữa mé nước này và bức tường chiến luỹ liên tục của anh, họ sẽ không thể nào tập họp các đơn vị lần lượt thực hiện một đợt phá khẩu để thiết lập một đầu cầu”.


Kế hoạch này sẽ được áp dụng sát khi quân Mỹ đổ bộ và thật khó mà không thành công.

Các không ảnh và kết quả quan sát của các hạm trưởng tiềm thuỷ đỉnh đã cho Nimitz thấy tầm quan trọng của các hệ thống phòng thủ ấy, ông liền quyết định tiêu diệt chúng bằng các cuộc hải pháo và oanh tạc liên tục trong một tuần lễ, rồi sau đó tràn ngập chúng nhờ ưu thế đề bẹp về số lượng của lực lượng đổ bộ vốn lên đến 14.000 quân, nhiều chiến xa nhẹ và pháo binh. Điều làm ông lo âu hơn cả là hệ thống phòng vệ bao quanh bờ biển của đảo. Mức thuỷ triều lên xuống thay đổi đáng kể lại thêm một ẩn số mới vào chiều sâu bất định được ghi trên bản đồ. Các chuyên viên của bộ tham mưu khuyên nên chờ đợi con nước lớn vào cuối tháng 12, nhưng thì giờ thôi thúc quá, cuộc hành quân phải được thực hiện càng sớm càng tốt để cho quân Nhật không có đủ thì giờ hoàn thiện hệ thống phòng thủ. Rủi thay, con nước lớn của tháng 11 lại hạ xuống quá sớm. Ngày thích hợp nhất phải được ấn định là khoảng 15 tháng 11, điều này khiến Nimitz có quá ít thời gian để tập họp số lượng chiến thuyền, phi cơ và binh sĩ khổng lồ để đổ bộ. Bất chấp cơ nguy của một tình trạng lộn xộn nào đó, ông muốn toan tính thực hiện trò đu dây này hơn là trì hoãn ngày mở cuộc hành quân.


Sau cùng ngày J được ấn định là ngày 20 tháng 11 năm 1943, ngày giới hạn tối đa mà thuỷ truyền lên cao. Cuộc hành quân mang ám danh “Galvanic” ấy, được đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Spruance, cựu tư lệnh lực lượng đặc nhiệm của mẫu hạm Hornet tại Midway, giờ đây đang chỉ huy hạm đội thứ 5 gồm có sáu mẫu hạm mới, sáu thiết giáp hạm, bốn tuần dương và hai mươi mốt khu trục hạm. Lực lượng hải quân quan trọng này phải che chở từ ngoài khơi cho các cuộc hành quân đổ bộ và tham dự vào cuộc hải pháo cũng như không kích. Lực lượng hải vận hạm chở quân đổ bộ do Đô đốc Turner chỉ huy và tư lệnh quân đoàn đổ bộ là Thiếu tướng Holland Smith thuộc thuỷ quân lục chiến. Một lực lượng hải quân che chở khác, gồm có các thiết giáp hạm cũ, các tuần dương và khu trục hạm sẽ đảm bảo công cuộc yểm trợ tiếp vận và đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Hill.


Số lượng các giới chức tham dự, sự qui định mơ hồ về chức trưởng của họ và sự phân tán các lực lượng của họ sẽ không làm cho diễn tiến của cuộc đổ bộ được dễ dàng.

Sự sử dụng một hải đoàn thiết giáp hạm để hải pháo bờ vào một bờ biển được phòng thủ vững chắc từ một khoảng cách ngắn là một quyết định chưa bao giờ được toan tính kể từ kinh nghiệm tai hại tại eo biển Dardanelle năm 1915. Tướng Julian Smith, tư lệnh đạo quân phải đổ bộ lên Bétio, tiên liệu rằng người ta sẽ tung binh sĩ thuộc quyền ông vào các công sự pháo đài của Nhật viền theo bờ biển trong những điều kiện tương tự như các điều kiện của Anzac tại Gallipoli, nên sợ rằng sẽ thấy binh sĩ của ông cũng chịu đựng một số phận thảm thương như thế. Trong một phiên họp tham mưu duy nhất giữa các giới chức có trách nhiệm về cuộc hành quân, ông phát biểu sự nghi ngờ về hiệu năng của các cuộc hải pháo. Đô đốc Hill tỏ ra rất khó chịu vì các điểm lưu ý này và tuyên bố rằng “tất cả những gì cưỡng lại được các cuộc oanh tạc sẽ, không những bị vô hiệu hoá, mà còn bị nghiền ra bột bởi trọng pháo của các chiến hạm thuộc quyền ông vốn không ngần ngại tiến sát vào bờ biển”. Ông đã lôi kéo câu trả lời thật cứng rắn của tướng Julian Smith: “Tàu chiến của ông có thể tiến gần cách bờ biển 1.000 thước, nhưng tôi được nghe nói rằng chúng được giáp sắt che chở, trong khi chúng tôi phải băng qua bãi biển chỉ cách địch vài thước, thì lại chỉ có lưỡi lê và không có thứ áo giáp nào khác hơn là chiếc áo kaki của chúng tôi”.


Chính ông Tướng thuỷ quân lục chiến là người có lý. Từ đầu đến cuối, cuộc hành quân Galvanic, chỉ là một cuộc xung phong liên tục vào các công sự phòng thủ còn nguyên vẹn, do bởi những chiến binh không được võ trang đầy đủ và chỉ có chiếc áo kaki, ướt đẫm vì sóng biển, che thân.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM