Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 06:14:12 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sấm sét trên Thái Bình Dương  (Đọc 64649 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #60 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2010, 08:23:47 am »

Anh hùng ca của thuỷ quân lục chiến

Các tin tức đáng lo ngại từ Melbourne chuyển đến cho Ghormley đã xuất phát từ một nguồn cung cấp vừa bất ngờ vừa phi chính thống, nguồn tin mà cho đến lúc ấy quân Mỹ chấp nhận với rất ít tin tưởng.


Các nhà chức trách của Liên hiệp Anh và chính phủ Úc đã mô phỏng theo kiểu cơ quan tình báo Anh, tổ chức một màng lưới nhân viên tình báo gọi là “coast watchers” (trinh sát viên duyên hải) trên các đảo thuộc quyền tại phía nam Thái Bình Dương. Các nhân viên này được tuyển mộ hoặc trong số công chức của cơ quan hành chính, hoặc trong số các chủ đồn điền sống trên các đảo từ lâu. Phần đông đấy là những người bạo gan, biết rất rõ rừng sâu và rất quen thuộc với phong tục tập quán của dân bản xứ mà họ có thể giao tiếp bằng thổ ngữ. Họ đã được huấn luyện từ thời bình về các sứ mạng tình báo và mỗi người có một máy phát tin xách tay giúp họ có thể liên lạc được với Melbourne. Khi quân Nhật đến chiếm đảo, họ rút lui vào rừng với các hướng đạo viên bản xứ. Trên các đảo như Tân Bretagne, họ vẫn ẩn trốn trong rừng nhờ sự thông đồng của dân bản xứ. Tại Bongainville, viên chức Read rút lên phía bắc đảo, trong khi phía nam, chủ đồn điền Paul Mason, một người nhỏ thó chừng 40 tuổi mà dưới một vẻ bề ngoài hiền lành nhu nhược, ẩn giấu cả một ý chí và một tinh thần táo bạo khó tin, thì canh chừng các eo biển cho đến đảo Shortland. Cả hai người này sẽ vẫn giữ vững cứ điểm của mình cho đến khi lãnh thổ họ được giải phóng, bất chấp các thử thách tàn bạo, mà không hề được tưởng thưởng, được thăng cấp gì cả, và trong gần một năm trời đã liên tục cung cấp nhiều tin tức vô giá.


Tại Tân Georgie, chính viên chức hành chính Tân Tây Lan, tên Đonal Kennedy phụ trách việc canh chừng địch. Sau vô số nghịch cảnh phải chịu đựng, ông đến ở trên bán đảo Ségi nằm về phía cực nam của đảo, tại đó ông sống trong một ngôi nhà xa hoa theo kiểu một nhân vật của Jack London. Không những chỉ thông báo cho Henderson Field các phi đoàn và hải lực địch đi qua, ông còn thu lượm các phi công bị bắn hạ và cùng với các cảm tử quân bản xứ luôn luôn làm cho các toán quân Nhật đi lùng kiếm phải chịu thất bại.


Vào cuối tháng 8, được ông báo cho biết rằng hải quân Nhật đang thể hiện một mức hoạt động không ngừng gia tăng giữa Rabaul và Shortland, Ghormley ra lệnh cho Fletcher nhổ neo với các mẫu hạm Enterprise và Saratoga được hộ tống bởi một thiết giáp hạm (đây là chiếc North Carolina vừa mới được tách khỏi hạm đội Đại Tây Dương để đến tăng cường cho hạm đội của Ghormley), bốn thiết dương hạm và mười khu trục hạm.


Về phía Nhật, Yamamoto phái Nagumo với các mẫu hạm Shokaku, Zuikaku và tiểu hạm Ryujo đến phía đông quần đảo Salomon để che chở tầm xa cuộc đổ bộ quân của tướng Kawaguchi.


Hai lực lượng hải quân Nhật, Mỹ gặp nhau ngày 24 tháng 8 trong các điều kiện gần tương tự với trường hợp xảy ra trong biển Corail. Các phi đoàn Mỹ bay đến chiếc tiểu mẫu hạm Tyujo đi đầu, trong khi đó phi cơ của chiếc Zuikaku tấn công chiếc Enterprise và chiếc thiết giáp hạm North Carolina. Nhiều trận không chiến cực kỳ dữ dội đã nối tiếp nhau không ngừng suốt buổi sáng mà không quyết định được kết quả cuộc chiến. Chiếc Enterprise bị trúng ba quả bom, tay lái bị hư Riêng chiếc Ryujo thì bị chìm ngay đợt tấn công đầu tiên.


Vào quá trưa, bầu trời phủ đầy mây và hai bên đối thủ tách rời nhau ra. Đến tối Fletcher quyết định dứt chiến và đưa chiến hạm của ông trở về Espiritu Santo.

Cuộc đụng độ không có kết quả rõ rệt này một lần nữa lại được hai bên coi là chiến thắng của mình. Có lẽ đó là một chiến thắng của Mỹ thật nếu như chiếc Saratoga lại không bị trúng thuỷ lôi của một tàu ngầm Nhật khiến bị hư hại nặng trên đường về. Các cuộc giao đấu ấy gia dĩ lại không có ảnh hưởng gì đến tình hình tại Guadalcanal. Chúng không ngăn cản được lữ đoàn bộ binh của Kawaguchi đổ bộ trong đêm tối về phía đông nhờ các khu trục hạm đi đi lại lại.


Lần này Vandegrift bị đe doạ bởi một lực lượng quan trọng khác hẳn với đoàn quân của Ichiki: hơn bảy ngàn người nay đã có mặt trên đảo và đang chuẩn bị một cuộc xung phong mới.

Trong thời gian hai tuần lễ tiếp theo, hai bên đối thủ phân phối lực lượng, dự liệu cho cuộc chiến đấu. Vandegrift nhận thêm được hai trung đoàn tăng viện của sư đoàn 2 thuỷ quân lục chiến đang được thành lập và Kawaguchi tiếp đón các binh sĩ tiên phong của công binh và đã cực nhọc vạch được một con đường mòn khá rộng trong rừng rậm giúp bọc vòng chu vi phòng thủ của Mỹ về phía nam và nối tiếp được với các thuỷ quân lục chiến Nhật đang đóng tại phía tây sông Lunga từ đầu cuộc chiến.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #61 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2010, 08:25:15 am »

Ngày 12 tháng 9, ngay giữa đêm tối, tiếng súng vang động như sấm và ánh hoả châu đã đánh dấu phút khởi đầu của cuộc tấn công. Một giờ trước đó, áp dụng một phương pháp mà sau đó sẽ được hoàn thiện mỹ mãn, Kawaguchi đã biệt phái các toán “đánh trộm” chỉ võ trang bằng kiếm, xâm nhập vào phòng tuyến sau khi cắt cổ lính gác mà họ không kịp kêu một tiếng nào. Ngay từ khi bắt đầu hành động, nhiều kẽ hở thật sâu bị mở toang trên sườn phía nam của chu vi phòng thủ. Nhiều trận đụng độ khốc liệt đã xảy ra suốt đêm và, khi bình minh vừa ló dạng, hàng trăm oanh tạc cơ Nhật bay đến hết đợt này đến đợt khác dưới sự yểm trợ của vài khu trục cơ. Một cuộc trình diễn bi thảm bên trên các chiến binh, trong một bầu trời tối sẫm vì tiếng nổ và khói từ các phi cơ bị bắn hạ. Sau hai ngày đụng độ ác liệt, các tiểu đoàn của Kawaguchi đã bắt buộc quân Mỹ lùi lại một cây số trên cạnh sườn một đỉnh núi san hô tơi tả, song song với dòng sông Lunga, được quân Mỹ đặt cho tên “Bloody Ridge” (Đỉnh đồi máu). Nhiều cuộc xâm nhập đã xảy ra và bộ chỉ huy của Vandegrift suýt bị tiêu diệt… Kiệt sức vì ba mươi sáu giờ chiến đấu liên tục trong không khí nóng bức ngột ngạt của rừng già, thuỷ quân lục chiến Mỹ sắp sửa buông xuôi. Nhưng thái độ anh hùng của các sĩ quan và sự hiện diện liên tục của ông tướng tư lệnh tại điểm bị tấn công mạnh nhất đã nâng đỡ được tinh thần dũng cảm của binh sĩ. Về phía quân Nhật, họ bị những tổn thất kinh khủng. Thấy lực lượng của mình giảm dần, Kawaguchi từ bỏ việc theo đuổi cuộc tấn công và ra lệnh rút lui toàn diện.


Trong tâm trí ông, đấy chỉ là một cuộc rút lui chiến lược. Trận đánh này đã cung ứng cho ông các bài học mà ông tìm kiếm. Ông đã hoàn thiện chiến thuật chiến đấu trong rừng rậm và đối với ông, chắc chắn ông sẽ chiến thắng ngay khi nhận được vài tiểu đoàn hiện đang bị thiếu hụt.


Rủi thay cho ông ta, Turner, nhờ các mối giao thiệp cao cấp mà ông còn giữ được với Ngũ giác đài, đã nhận được trong thời gian ấy tăng viện về vũ khí, phi cơ và người. Ngày 18 tháng 9, một đoàn công voa đầu tiên với sáu hải vận hạm-trong đó có chiếc Mac Cawley táo bạo đổ bộ 4.000 người và 147 xe thiết giáp trên bờ biển Lunga dưới sự che chở của khu trục cơ và oanh tạc cơ đâm bổ. Thành công của chiến dịch sẽ toàn vẹn nếu chiếc mẫu hạm Wasp, mà Fletcher phái đến để tung các phi cơ lên trên Henderson Field, lúc quay về không bị rơi vào ổ phục kích của tàu ngầm Nhật, và bị thuỷ lôi của chúng đánh chìm.


Bất chấp vụ què quặt mới xảy đến cho hạm đội che chở ấy, Turner tiếp tục một cách can đảm các chuyến đi về tiếp tế và đổ thêm lên bãi biển vài tiểu đoàn nữa.

Vững mạnh nhờ ưư thế về số lượng, Vandegrift quyết định tấn công bãi biển đổ bộ của Nhật tại phía tây sông Lunga. Ông đã thất bại. Địa thế rất khó khăn. Hàng trăm thuỷ quân lục chiến suýt bị bao vây gữa hai con sông. Cuộc tấn công bị huỷ bỏ ngay cả trước khi bắt đầu.


Kết quả của cuộc điều quân này là đưa quân Nhật lên đóng trên núi Austen, một ngọn đồi cao chung quanh bao phủ bởi một khu rừng già nổi danh là không thể xuyên qua được, từ đó họ chế ngự được vòng đai phòng thủ và có thể quan sát được tất cả hoạt động của Henderson Field.


Đến đầu tháng 10 năm 1942, đội quân trú phòng của Vandegrift đã được nâng lên đến 19.500 người, quân số của Kawaguchi chỉ mới được là 12.000 người, nhưng các vị trí của ông thì không thể nào bị chiếm được và tạo thành các cc xuất phát tuyệt diệu. Ngoài ra, gần như hàng đêm ông nhận được tiếp viện nhờ các đoàn công voa nhỏ gồm có các khu trục hạm chuyển vận mà quân Mỹ đặt cho cái tên là “chuyến tốc hành Đông Kinh”.


Từ đó, trận đánh tại Henderson Field mang một hình thái khác. Tất cả mọi hoạt động của hải quân và không quân đều được tập trung vào phi trường này làm như nó là trung tâm điểm của trái đất. Một cuộc chạy đua bằng tốc độ được tung ra cho bên nào đến trước đổ được nhiều quân và chiến cụ nhiều nhất. Trong các trận đánh kéo dài bất tận đó, cả hai đối thủ đều sẽ chứng tỏ cùng can đảm như nhau cùng lì lợm như nhau và-cần phải nói điều này-cùng thiếu óc tưởng tượng như nhau. Thay vì tử tìm cách khác-chẳng hạn như xây dựng một phi trường cạnh đó-họ bám cứng ngắt ở đó như các con cừu đực húc đầ gài sừng vào nhau và không thể nào tách rời nhau ra được nữa…


Đến giữa tháng 10, rốt cuộc hiểu rằng họ sẽ không bao giờ thắng được nếu chính họ không mang đến đại pháo và thiết giáp, quân Nhật quyết định phá huỷ các kho dự trữ xăng và các cơ sở tại Henderson Field bằng các cuộc hải pháo. Một lực lượng đặc nhiệm Nhật gồm nhiều thiết dương hạm và hai thiết giáp hạm được tập họp tại Shortland.


Được Mason đảm lược báo trước, ông ta vẫn luôn luôn canh chừng địch bất chấp các thử thách Ghormley cũng vậy, phái các thiết dương hạm của mình đến xung quanh đảo Savo để chặn ngang eo biển. Nhiều cuộc đụng độ rối loạn xảy ra trong đêm tối trước mũi Espérance, nhưng chúng không ngăn cản được quân Nhật cày nát Henderson Field bằng các cuộc hải pháo vĩ đại từ các thiết dương hạm và thiết giáp hạm.


Các cuộc pháo kích này đã đạt đến mức tột đỉnh trong đêm 15 rạng 16 tháng 10 năm 1942. Ánh mặt trời lên cao chiếu sáng một quang cảnh lăng nhục nhất. Những thuỷ quân lục chiến còn đang ngô ngô thất thểu vì những tiếng nổ của đạn pháo từ các chiến hạm và của những phuy xăng, khi bước ra khỏi hầm trú ẩn liền thấy bốn hạơc năm tàu chở hàng của Nhật đổ quân lên bãi như trong một cuộc thực tập. Không một khu trục cơ nào của Mỹ còn sót lại sau cuộc tận diệt có thể cất cánh, và viên sĩ quan chỉ huy trưởng căn cứ hò hét ầm ĩ: “Trời ơi! Các anh hãy đi tìm xăng đi, và lẹ lên!”. Các binh sĩ phân tán khắp phi trường và chạy hụt hơi tìm kiếm các thùng xăng dự trữ được che giấu. họ tìm được vài thùng, rồi chuyển bằng ống cao su vào bình chứa của các pháo đài bay B-17 vừa từ Úc đến, tất cả đều ít nhiều bị hư hại vì cuộc hải pháo. Một giờ sau, các khu trục cơ đầu tiên cất cánh để che chờ cho các phi cơ vận tải chờ xăng được Turner hấp tấp phái đến. Buổi tối, một tàu ngầm đem đến thêm 30 tấn nữa. Nhờ đó Henderson Field lại được diên trì thêm một lần nữa, nhưng chưa bao giờ các quân nhân phòng thủ lại cảm thấy khốn khổ đến như thế.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #62 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2010, 08:26:00 am »

Cùng ngày hôm đó, Đô đốc Nimitz, vốn cam tâm chịu đựng thái độ dửng dưng của Bộ Quốc phòng từ trước đến nay, đã tóm tắt tình hình trong mấy dòng sau: “Đã có chứng cớ cho thấy chúng ta không có khả năng kiểm soát hải phận trong khu vực Guadalcanal nữa. Vì vậy chúng ta không thể tiếp tục tiếp tế cho các cứ điểm bạn với giá những hy sinh quá lớn lao tình hình không đến nỗi tuyệt vọng, nhưng đã quá đỗi hiểm nguy”.


Sự lượng giá rất đụng chạm này vốn của một người luôn luôn mềm dẻo như ông đã đem lại kết quả mong muốn. Đô đốc King, mặc dầu bị thu hút hoàn toàn vào mối ưu tư dành cho các đoàn công voa lớn lao tiến tới Bắc Phi vừa nhổ neo ra khơi, đã thông báo kịp thời cho Roosevelt. Tổng thống Mỹ lập tức gửi một điệp văn đầy đe doạ cho các thành viên uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh, truyền lệnh “tăng viện cho Guadalcanal, và làm mau…”.


Một loạt các biện pháp mạnh mẽ được áp dụng mà biện pháp đầu tiên-và chắc chắn là biện pháp ít thích nghi nhất là-một sự xáo trộn toàn diện bộ chỉ huy cao cấp. Đô đốc Halsey, với sức khoẻ đã khả quan, đến thay Ghormley. Đô đốc Kinkaid đến thế chỗ nhân vật đảm lược Fletcher người bị trách cứ là đã rút lui các mẫu hạm quá sớm trong đêm 8 tháng 8. Quả thật là một vụ thay đổi xà ích ngay khúc sông cạn…


Nhiều biện pháp khác tiếp tục được áp dụng mang lại cho các chiến sĩ bảo vệ Henderson Field một sự tiếp cứu rõ rệt hơn. Một thiết giáp hạm mới 35.000 tấn, chiếc South Dakota vừa mới được trang bị một rừng cao xạ DCA, 6 tuần dương hạm, 90 oanh tạc cơ đâm bổ, 75 khu trục cơ của lục quân, 2 phi đoàn B-17, 24 tiềm thuỷ đỉnh, và một hải đoàn khinh tốc đỉnh, đấy là món quà mừng lên chức của vị tư lệnh mới.
Vì bếit rằng sự bổ nhiệm vừa qua bắt nguồn ở danh tiếng hiếu chiến của ông, Halsey lập tức ra lệnh cho tất cả chiến hạm dưới quyền nhổ neo ra khơi.


Về phía Nhật, Bộ tư lệnh cũng chịu đựng các thay đổi tương tự. Kawaguchi bị đặt dưới quyền Đại tướng Maruyama vừa đến cùng với quân tăng viện và Đô đốc Kondo, mặc dầu liên tục chiến đấu ngay từ đầu, đã thay thế Nagumo chỉ huy hạm đội hàng không mẫu hạm. Trong lúc Maruyama tung ra một đợt tấn công mới và cày nát Henderson Field từ trên cao đỉnh Austen, Lực lượng Đặc nhiệm của Kondo chạy xuống nam dọc theo phía đông quần đảo Salômn hy vọg gặp hạm đội Mỹ, mà theo các tin tức ông có được, thì chỉ còn lại có một mẫu hạm.


Ít ra cùng là trên điểm này, dự đoán của ông quá lạc quan. Ngoài mẫu hạm Hornet, Halsey còn có chiếc Enterprise vừa được sửa chữa vội vàng, đã trở lại chiến tranh chiến đấu. Hai thiết giáp hạm, hai tuần dương hạm nặng và ba tuần dương hạm phòng không bổ huyết cho Lực lượng Đặc nhiệm của Hoa Kỳ như thế là được trang bị một hoả lực phòng không tập trung mạnh mẽ cho đến lúc ấy chưa bao giờ được thực hiện.


Bình minh ngày 26 tháng 10 năm 1942, trong lúc mẫu hạm Enterprise và Hornet tiến ngược lên theo phía đông quần đảo Salomon đến ngang đảo Guadalcanal, một PB-Y Catalian báo hiệu thấy hạm đội địch. Bất chấp lực lượng chênh lệch, ông Tư lệnh hăng hái Halsey tung ra một hiệu lệnh rất đúng kiểu của ông: “Tấn công! Tấn công! Tôi lặp lại: Tấn công!”. Mẫu hạm Enterprise vốn đã phóng lên một phi đoàn oanh tạc cơ tuần tiễu, liền chuyển cho nó mệnh lệnh tấn công này. Thấy chiếc tiểu mẫu hạm Zuiho đi đầu Lực lượng Đặc nhiệm Nhật, các oanh tạc cơ đâm bổ nhào vào và đánh chìm nó trong vài phút. Nhưng các phi đoàn của mẫu hạm Zuikaku và Shokaku đã lên đường. Chúng gặp các phi cơ của mẫu hạm Enterprise, và các khu trục cơ Zéro, ẩn nấp trong mây, đâm bổ từ 7000 thước xuống để tiêu diệt địch. Một nửa tổng số oanh tạc cơ Mỹ bị hạ. Những chiếc khác theo đuổi cuộc tấn công và đánh trúng chiếc Shokaku rồi tiếp đến lại các phi đoàn của chiếc Hornet bay đến oanh tạc.


Trong thời gian đó các phi đoàn Nhật vượt qua mẫu hạm Enterprise vốn được một cơn mưa rào nhiệt đới thiên nhiên che chở. Thấy chiếc Hornet chúng đổ dòn đến tấn công bất chấp hàng rào phòng không kín mít của các giàn cao xạ trên những tuần dương hạm. Viên phi công một oanh tạc cơ bị bốc cháy điều khiển để phi cơ đâm vào sàn tàu mẫu hạm, trong lúc đó phi công một phi cơ phóng thuỷ lôi tấn công hụt, tự ý đâm sầm phi cơ xuống phi đạo của mẫu hạm, thế là họ đã khai mào cho chiến thuật tự sát ghê rợn, mà hai năm sau sẽ được tổng quá hoá một cách bi thảm. Bị cháy từ trước ra sau và không thể nào điều khiển được nữa, chiếc mẫu hạm đáng thương biến thành tấm bia cho các đợt phi cơ tiếp nối nhau và sau cùng bị thuỷ thủ đoàn bỏ lại. Sau đó ít lúc, nó chìm luôn. Đến lượt mẫu hạm Enterprise bị tấn công, nó nhận lãnh hai quả bom, mà một quả trúng thang máy nâng phi cơ và chỉ nhờ vào hoả lực của chiếc thiết giáp hạm South Dakota mới thoát khỏi tay những phi cơ tấn công.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #63 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2010, 08:29:59 am »

Về phía Nhật, Kondo cũng chịu đựng nhiều tổn thất. Mẫu hạm Shokaku lại bị trúng bom nữa và chiếc Ruyho bị đánh chìm và mang theo chừng 30 phi cơ cùng chừng ấy phi công. Khi được báo cáo là chiếc Hornet và chiếc Enterprise “bốc cháy”, vị tư lệnh hạm đội Nhật quyết định không theo đuổi cuộc tấn công nữa. Đến 11 giờ sáng ngày một bản tin chiến thắng quá lạc quan của tướng Maruyama lại khiến ông nghĩ rằng việc chiếm Henderson Field chỉ còn là vấn đề thời gian. Ông liền tập họp hạm đội và trở về Rabaul tin rằng đã mang về một đại chiến công.


Đấy là một chiến thắng theo kiểu Pyrrhus. Quân Nhật mất 100 phi cơ và 80 phi công phần đông không thể thay thế được vì họ là nhóm ưu tú nhất của không lực thuộc hải quân Nhâậ. Tình hình bên phía Mỹ cũng trầm trọng như thế. Ngoài việc mất chiếc Hornet và 75 phi cơ, những hư hỏng xảy đến cho chiếc Enterprise sắp khiến cho hạm đội của Halsey không còn lại hàng không mẫu hạm nào đúng vào lúc các đơn vị phòng thủ Henderson Field phải chịu đựng cuộc tấn công quy mô nhất trong trận chiến.


Trong tình trạng không thể cung ứng cho Turner sự che chở bằng không quân cần thiết để thực hiện cuộc đổ bộ các lực lượng tăng viện và tiếp tế cho Guadalcanal vào ban ngày, Halsey ra lệnh cho ông phái các hải vận hạm đến ban đêm trước Lunga theo kiểu “chuyến tốc hành Đông Kinh”.


Không muốn tái diễn kinh nghiệm đáng buồn đêm 9 tháng 8 tại đảo Savo, Turner điều nghiên thật kỹ các biện pháp phải làm trước khi bắt đầu công tác nguy hiểm này. Trong tám ngày liền, ông phái các phi cơ B.17 và B25 từ Espiritu Santo đến oanh tạc các vị trí Nhật để tiêu diệt các ổ súng phòng thủ bãi biển và cho tập họp tất cả tuần dương và khu trục hạm để chặn ngang eo biển trong khi có cuộc đổ bộ. Ông còn yêu cầu cả Halsey cho biệt phái khi cần hai thiết giáp hạm thuộc quyền, chiếc South Dakât và chiếc Washington vừa mới đến. Ý tưởng sử dụng các đại chiến hạm như thế này rất cách mạng, được Halsey chấp thuận trên nguyên tắc.


Kể từ 11 tháng 11 năm 1942, các hải vận hạm của Turner gần như đi lại hàng đêm và một thứ trò chơi cút bắt kỳ lạ đã xảy ra giữa các tuần dương hạm Mỹ đảm bảo sự che chở chung quanh đảo Savo và các tuần dương hạm cùng khu trục hạm của “chuyến tốc hành Đông Kinh” tìm cách vượt qua eo biển. Khi các cuộc đụng độ xảy ra, thường thường chính quân Nhật nắm thế chủ động bởi vì, mặc dầu có ưu thế lớn lao nhờ vài giàn rada tinh xảo mà quân Mỹ có trong tay, tình trạng thiếu huấn luyện cho các chuyên viên chưa cho phép quân Mỹ vượt trội hơn các trinh sát viên đêm của Nhật vốn có khả năng phi thường. Các chiến hạm Mỹ thường bị bất ngờ vì ánh lửa léo lên đột ngột do tiếng nổ của một thuỷ lôi Nhật và tiếp theo đó những ánh chớp rung chuyển của tiếng đại bác. Nhờ có số đông, chiến hạm Mỹ trả đũa bằng một màn hoả lực thường không chính xác nhưng cũng đủ nguy hiểm chết người khiến phải e dè. Cuộc mạo hiểm kết thúc bằng các trận đánh đối phương cận chiến tương tự lạ lùng với những trận chiến tại Lépante năm 1571. Điểm khác biệt duy nhất là chúng chỉ kéo dài có 30 hoặc 40 phút thay vì suốt ngày, nhưng cũng giống như tại Lépante, các bên đối thủ tản mác đi nơi khác mà không biết ai là kẻ thắng trận.


Cuộc đụng độ bi tráng sau cùng thuộc loại này đã xảy ra đêm 14 rạng ngày 15 tháng 11 năm 1943 tại eo biển rất xấu giữa Savo và mũi Espérance. Hai đối thủ đã tung ra tất cả các lực lượng cơ hữu. Phía nhật thì thiết giáp hạm Kirishima, ba tuần dương và mười khu trục của Đô đốc Kondo, bên phía Mỹ thì hai thiết giáp hạm Washington và South Dakota do bốn khu trục hạm hộ tống - tất cả các tuần dương hạm của Mỹ đều bị đánh đắm hay bị hư hại nặng trong những lần đụng độ trước. Trận chiến khởi đầu rất tệ cho bên Mỹ vì vài khu trục hạm hộ tống đã bị áp đảo bởi ưu thế tuyệt đối về kỹ thuật cũng như về số lượng của khu trục hạm Nhật. Ngoài ra rủi ro còn muốn cho chiếc South Dakota bị hỏng điện nên không thể bắn được. Chính Đô đốc Lee, trên thiết giáp hạm Washington, là người đã cứu vãn tình thế. Vừa cho chiến hạm chạy lên ngang chỗ các khu trục hạm bị tàn sát và vừa ném bè cấp cứu xuống cho các thuỷ thủ đoàn đang vùng vẫy trong mặt nước đầy dầu cặn, ông khám phá qua máy rada các tuần dương hạm của Kondo và chiếc thiết giáp hạm Kirishima đang nhào đến Lunga để tiêu diệt phi trường Henderson Field. Biết rằng không bị địch trông thấy, ông để cho họ tiến đến gần còn 8.000 thước và, đúng 12 giờ đêm, ông ra lệnh khai hoả. 75 đạn pháo 480 ly, chỉ trong vài phút, rơi xuống thiết giáp hạm Nhật khiến nó biến ngay thành một xác tàu cháy đỏ rực, trong khi Đô đốc Kondo và các tuần dương hạm của ông phải mở hết tốc lực rút lui. Yamamoto không bao giờ tha thứ hành động chạy trốn này, và mặc dầu có một quá khứ sáng chói, ông ta cũng bị Yamamoto tước quyền tư lệnh ngay.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #64 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2010, 08:30:47 am »

Trong khi xảy ra các trận hải chiến ác liệt này, lực lượng thuỷ quân lục chiến của Vandegrift đã được tăng viện gần như toàn diện sư đoàn 2 và một sư đoàn bộ binh được thành lập vội vàng tại Tân-Calédonie và mang một danh xưng rất mỹ lệ: Americal Division (American Caledoian Division). Vandegrift đã mở lại cuộc tấn công dọc theo bờ biển hướng về con sông Manitaku và sắp vượt qua. Quân Nhật mưu toan thực hiện một cuộc đổ bộ lên phía đông của chu vi phòng thủ nơi mà Yamamoto ra lệnh phải lập một phi trường khác, nhưng họ đã bị thất bại đổ máu. Tiếp theo cuộc hành quân đắt giá này, quân Nhật tập trung về phía bắc và phía tây chu vi phòng thủ Mỹ, nơi đây họ còn có thể bám chắt ven biên nhờ cứ điểm kinh khủng trên đồi Austen.


Tình trạng mất quân bình lực lượng ngày càng gia tăng. Bị báo động vì các tổn thất về chiến thuyền và nhất là phi cơ, Yamamoto đề nghị với Tojo bỏ Guadalcanal. Vừa mới từ bỏ kế hoạch đẩy Mac Arthur ra khỏi Tân-Guinée, để có thể tăng viện cho Guadalcanal quân đoàn của Maruyama, Tojo từ chối cuộc rút lui nhục nhã ấy.

Yamamoto phải nhượng bộ, nhưng dường như, ngay từ lúc ấy, ông đã coi như canh bài đã bị thua, vì không bao gìơ ông còn tái diễn một cuộc hành quân qui mô nào để đánh Henderson Field nữa. “Chuyến tốc hành Đông Kinh” chót có tầm khá quan trọng đã vượt qua các eo biển ngày 30 tháng 11 trong một đêm trời tối đen như mực. Điểm đổ bộ được dự liệu là một bãi cát gần một vùng biển nhỏ đầy đá gọi là Tassafaronga. Đoàn công voa gồm có tám khu trục hạm không có tuần dương hạm nào hộ tống. Mặc dầu các cầu tàu chật ních quân lính, phuy xăng và thùng lương thực đạn dược tiếp liệu, các chiến hạm nhỏ này đã thực hiện một thành tích đẹp đẽ nhất trong cuộc chiến bằng cách phóng thuỷ lôi vào bốn tuần dương hạm Mỹ đến chặn đầu chúng. Một trong các tuần dương hạm bị đánh chìm, và ba chiếc khác bị hư hại nặng nề đến nỗi phải trở về Mỹ. Hành động sáng chói này nếu đã có thể giúp mang lại đôi chút thoải mái cho các đoàn quân Nhật Bản mệt nhoài và thiếu ăn, thì cũng là một hành động vô vọng chót.


Từ đầu tháng 12 năm 1942, quân số của Mỹ trên đảo gia tăng đến 40.000 người; quân số của Nhật rớt xuống còn 25.000 trong tình trạng thể chất và tinh thần tệ hại. Đây là lúc thích nghi nhất để cho di tản Sư đoàn 1 thuỷ quân lục chiến vốn phải chịu dựng trong năm tháng liền những trận đánh hàng ngày trong các điều kiện vô nhân đạo. Những trường hợp mắc bệnh sốt rét, kiết lỵ và suy nhược thần kinh đã vọt tăng nguy hiểm. Đã đến lúc phải cho đơn vị vinh quang này nghỉ ngơi.


Ngày 9 tháng 12, tướng Vandegrift bàn giao quyền chỉ huy lại cho tướng Patch, tư lệnh Sư đoàn Americal, và vĩnh viễn rời luôn Guadalcanal cùng với các bộ phận còn lại của Sư đoàn ông. Những người mới đến, hầu hết đều thuộc Lục quân, phải mất ít lâu mới làm quen được với rừng già Guadalcanal và khí hậu ghê rợn tại đấy. Cho đến cuối năm ấy, hai bên đối phương án binh chờ đợi, quân Nhật đành phải tiếp tế tằng tiện cho binh sĩ của họ bằng cách phái các tàu ngầm ban đêm chở đến một số thực phẩm, phuy xăng, phần quân Mỹ thì ngày nào cũng gửi dương vận hạm đến, dưới sự che chở của một lực lượng không quân khổng lồ.


Trong tháng giêng năm 1943, cuộc tấn công đầu tiên vào cứ điểm đồi Austen đã chạm phải một hệ thống phòng thủ không thể vượt qua được. Không dám tiến quân trước khi vô hiệu hoá cứ điểm ấy, Patch chờ được tăng viện thêm người và vật liệu để bao vây ngọn đồi, do đó mặt trận trở nên ổn định.


Về phía Halsey, ông đã rút ra bài học nhân các sự thất bại vừa qua. Nimitz, đã theo ý kiến của ông, viết một phúc trình cho rằng nguyên nhân của các thất bại ấy là sự huấn luyện đáng phàn nàn của các tuần dương hạm và khu trục hạm theo chiều hướng chỉ biết có sứ mạng hộ tống khiến cho chúng mất hết các ý tưởng tấn công. Sự ổn định tình hình tại Guadalcanal và sự biến dần các “chuyến tốc hành Đông Kinh” dường như cho thấy một chiều hướng mới trong chiến lược của Nhật, Halsey liền gọi các chiến hạm trở về phía nam để tập họp lại và huấn luyện chúng.


Trong hai tuần đầu của tháng giêng, cuộc tấn công lên đồi Austen bị hoãn lại ngày này đến ngày khác vì lý do thiếu hụt chiến xa nhẹ và tình trạng bi đát của các phi đạo bị các con sông đầy bùn lầy cản trở. Tuy vâth ngày 18 tháng giêng, ba chiến xa nhẹ cũng tấn công lên sườn phía tây. Hai chiếc bị sa lầy nhưng chiếc thứ ba bò lên được đến đỉnh. Trong khi nó pháo và phía sau pháo đài Gifu, nơi dường như còn các binh sĩ khoẻ mạnh cuối cùng của Nhật rút vào ẩn nấp, các thông dịch viên Mỹ dùng loa phóng thanh thúc giục họ đầu hàng. Lời kêu gọi chẳng có kết quả gì. Một vài tù binh bị bắt khi được thẩm vấn đã cho rằng một số binh sĩ không mong gì hơn là được đầu hàng, nhưng họ sợ các sĩ quan và cũng chẳng còn sức đâu mà đi tới được nữa…


Nhiều chiến xa đã tiếp nối được chiếc đầu tiên chạy đến tận pháo đài Gifu, sau hai ngày oanh tạc dữ dội, Patch ra lệnh thử tấn công. Một chiến xa chọc thủng được phòng tuyến và một cuộc cận chiến hung tàn xảy ra sau nó, trong hệ thống mê cung gồm hang hốc và các hầm trú ẩn che đậy bằng các thân cây. Đến 2 giờ sáng đêm 22 rạng 23 tháng giêng, chừng 100 binh sĩ Nhật nhảy ra khỏi chỗ ẩn nấp theo lệnh của thiếu tá Inagaki, chỉ huy trưởng cứ điểm, vừa ném lựu đạn vừa nổ súng tự động. Tất cả toán quân đều bị đốn ngã mau lẹ. Khi trời sáng, 85 xác chết nằm sóng sượt trước các hầm ẩn nấp trong đó hai đại đội bộ binh Mỹ rút vào để đẩy lùi cuộc phản công tự sát này. Trong số xác chết có Inagaki, một tiểu đoàn trưởng khác, tám đại uý và mười lăm trung uý. Khi tiến vào pháo đài, quân Mỹ chỉ tìm thấy những sinh vật ngơ ngẩn hình dáng chỉ còn lại bộ xương và những thương binh đang hấp hối.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #65 vào lúc: 03 Tháng Giêng, 2010, 08:31:47 am »

Vừa được báo tin, lập tức Patch cho tiến quân qua phía tây trên một mặt trận rộng lớn. Cuộc tiến quân qua các bờ sông dựng đứng giúp cho quân Nhạt tung ra nhiều trận đánh trì hoãn. Từ ngày 26 tháng giêng cho đến ngày 6 tháng 2 năm 1943, quân Mỹ tiến được mười lăm cây số, lần lượt vượt qua các bãi biển đầy xác tàu được dùng để đổ quân và vật liệu từ các “chuyến tốc hành Đông Kinh”. Địch quân vừa đánh vừa rút lui, nhưng càng lúc họ phải bọ lại càng nhiều xe cộ và trọng pháo.


Tại Henderson Field, mỗi ngày nghe tiếng súng rời xa hơn, bộ tham mưu của Patch bắt đầu tiếp đón các cuộc viếng thăm. Sau Đonal Kennedy, Halsey đã đến. Rồi do sự thiếu kín đáo, một đài phát thanh đã loan khắp căn cứ một sửng sốt: không những các Đô đốc Nitmitz và King được loan báo, mà cả Bộ trươởn Hải quân, Frank Knox cũng đã rời Washington đáp máy bay đến viếng thăm Guadalcanal! Rõ ràng là các nhân vật ấy muốn chứng kiến tận mắt chiến trường của các trận đánh đã từng gây cho họ biết bao lo âu đó. Họ cũng muốn thảo luận tại chỗ các bài học rút ra được từ trận chiến đắt giá này và để biết trong điều kiện nào có thể bắt đầu trận kế tiếp. Có lẽ họ cũng hy vọng chứng kiến cuộc bao vây và cuộc đầu hàng quân Nhật. Về điểm này, họ bị thất vọng. Cuộc tiến quân của Mỹ diễn tiến rất chậm chạp và tiếng súng như sấm động liên tục vẫn rung chuyển ngày đêm.


Bình minh ngày 8 tháng 2, cường độ tác xạ pháo binh đột nhiên gia tăng. Tại nhiều nơi, địch quân tung ra nhiều cuộc phản công ác liệt đánh bất ngờ vào đạo quân của Patch. Đến tối, quân Mỹ vấp phải một hàng rào chống cự tàn khốc với nhiều cuộc cận chiến tương tự như trường hợp tại pháo đài Gifu. Rồi đến nửa đêm, trật tự lại được ổn định. Lúc trời sáng, một không khí bình an kỳ dị đột nhiên nối tiếp những tràng súng đạn liên miên mà từ sáu tháng nay vẫn chám phá các đêm thức trắng canh phòng của đạo quân tại phi trường Henderson. Binh sĩ vốn quen với tiếng động, nhảy ra khỏi hố cá nhân với một cảm tưởng khó chịu như bị bệnh. Mặt trời lên cao trên một cảnh rừng già bình yên, đang còn ngái ngủ trong sương sớm.


Trên đảo không còn bóng dáng một quân sĩ Nhật nào nữa. Họ hoàn toàn biến mất như có phép lạ… “Chuyến tốc hành Đông Kinh” cuối cùng đã cặp vào làng Visale nay tại chỗ đức cha Aubin tiếp những người Nhật đầu tiên cách sáu tháng trước. Các hạm trưởng khu trục hạm Nhật đã thành công phi thường trong việc cặp tàu vào hải cảng tí hon, đưa lên tàu gần 10.000 người và ra đi trước khi trời sáng mà không hề làm cho quân Mỹ chú ý.


Các tiền thám viên đầu tiên đến Visale trông thấy các kiến trúc của phái bộ truyền giáo bị cướp phá. Dân bản xứ chạy trốn vào rừng đã trở về từng nhóm nhỏ. Nhờ đó, quân Mỹ mới biết được rằng tất cả các tu sĩ đều rút lui được vào rừng sâu do các hướng đạo viên của các Coast Watchers hướng dẫn, ngoại trừ hai linh mục và một nữ tu sĩ bị bắn bỏ.


Các sử gia Hoa Kỳ kể lại rằng những binh sĩ Nhật Bản kiêu dũng vốn đã đương đầu với một chống mười trước cuộc tiến quân của Patch được tiếp đón rất tệ bạc tại Rabaul, vì bị sa thải hết tại chỗ, “để tránh cho họ mối nhục phải trở về nước trong tư thế những người bại trận”. Điều này khá đúng sự thật, vì sau những khổ đau mà họ phải chịu đựng, họ không còn có ích nữa và vì bộ tư lệnh Nhật muốn dấu công luận tin tức về cuộc thối lui nhục nhã này.


Ta có thể tìm thấy trong các xứ khác nhiều tấm gương vô ơn bạc nghĩa cũng khó chịu như vậy. Chỉ nói đến Mỹ thôi, cũng không ai ngạc nhiên khi biết không có một vị Đô đốc nào tham dự ngay từ đầu “cuộc mạo hiểm ghê rợn ấy lại được tưởng thưởng xứng với công lao của họ. Sau khi bị tước quyền tư lệnh chỉ vì quá thận trọng, Fletcher chìm trong bóng tối cho đến khi hết chiến tranh, và Ghirmley thì không được giữ một chức vụ quan trọng nào khác. Khi cơn nguy hiểm vừa qua, ai cũng quên ngày những trách nhiệm ngàn cân từ rất lâu đè nặgn trên vai những người phòng vệ pháo đài cuối cùng.


Chính ngay cả Vandegrift cũng vậy, mặc dầu được thăng lên trung tướng và được huy chương phủ đầy ngực, cũng không được sự tôn kính long trọng như ông xứng đáng được hưởng. Có lẽ người ta đã xét đoán rằng ông ta có đôi phần lăng nhục khi thú nhận rằng, nếu không có nhiệt tâm bất khuất của một ông thiếu tướng và một nhóm nhỏ thuỷ quân lục chiến, thì chiến thắng đã lọt vào tay quân địch từ lâu.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #66 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:30:08 am »

Cuộc phản công

Thanh toán Yamamoto

Ngay khi sự kháng cự của Nhật tại Guadalcanal sụp đổ, Mac Arthur cũng đã gửi đi bản tin về chiến thắng đầu tiên của ông: sau sáu tháng nỗ lực ông đã đuổi được quân Nhật ra khỏi hai cứ điểm tiền phương Gona và Buna nằm về phía cực nam của Tân-Guinée. Chiến công này rất xứng đáng bởi vì về phía đất liền, quân Nhật được che chở bởi một vùng rừng rậm cũng đáng sợ như tại Guadalcanal, và các sư đoàn Mỹ-Úc, vì không thể trông cậy vào sự yểm trợ nào của Hải quân chỉ có thể tiến quân nhờ các đợt thả quân dù tăng viện.


Hãnh diện với thành quả này, Mac Arthur trơ lại làm áp lực để đòi hỏi mở màn giai đoạn thứ hai của cuộc tấn công vào Rabaul mà ông sẽ đảm trách nhiệm vụ chỉ huy tối cao. Nimitz liền nại cớ rằng vì hạm đội Thái Bình Dương của ông chỉ trong vòng ba tháng mà đã mất ba mẫu hạm, bảy tuần dương hạm và mười bốn khu trục hạm, nên không thể nào cùng một lúc đảm bảo sự yểm trợ bằng hải quân và không quân cho cả Tan-Guinée lẫn quần đảo Salomon.


Uỷ ban tham mưu hỗn hợp đồng minh hậu thuẫn ý kiến này và quyết định giới hạn hoạt động của hai chiến trường vào các cuộc hành quân thuần tuý bằng không quân cho đến khi hạm đội của Halsey được tăng cường bởi các mẫu hạm đang được đóng, nghĩa là cho đến mùa thu.


Bên kia phòng tuyến, nay được cụ thể hoá bằng quần đảo Bismarck (người Mỹ gọi là “Bismarck barrier”), Yamamoto cũng tu chỉnh lại các kế hoạch. Mục tiêu của ông thì luôn luôn vẫn như cũ: tiêu diệt hạm đội Mỹ trước khi nó kịp được thành lập lại. Không biết rằng ông bị lọt vào mưu chước của bộ máy Magic, ông gán cho thất bại tại Midway nguyên nhân vì ở quá xa các căn cứ khiến ông không thể nào che chở hạm đội bằng không lực lúc nguy hiểm xảy đến. Nhưng giờ đây, ông đã đóng vững chắc sau Bismarck Barrier, nếu như được vài mẫu hạm hiếm hoi của Mỹ còn chạy được về phía tổ ong vò vẽ Rabaul, thì ông có thể tham chiến trong những điều kiện tốt đẹp nhất. Hai mẫu hạm mới- chiếc Juyno và chiếc Hiyo-vừa đem ra sử dụng trong lúc bên phía Mỹ chỉ còn lại chiếc Enterprise và chiếc mẫu hạm xưa cũ Saratoga. Cần phải lợi dụng cấp kỳ vì cơ may đặc biệt này rất có thể không bao giờ xuất hiện một lần nữa.


Kế hoạch của vị Đô đốc trứ danh liền được trình cho Tổng hành dinh Thiên hoàng và một lẫnn được chấp thuận, Yamamoto liền rời khỏi chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Musachi-sister ship của chiếc Yomoto-vừa mới được hạ thuỷ, để đặt bộ tư lệnh tại Rabaul.


Đây là lần đầu tiên trong lịch mà một vị Tư lệnh hạm đội Nhật lại rời bỏ soái hạm để đặt bản doanh trên đất liền ngay giữa chiến trận, nghĩa là kế bên không lực của hải quân. Dường như trong tâm trí ông, cử chỉ này có một giá trị tượng trưng và bằng sự hiện diện của mình ngay giữa các phi công, ông muốn nhấn mạnh rằng chiến thắng từ nay sẽ lệ thuộc vào các phi công ấy.


Vừa đến Rabaul, Yamamoto liền phân phối tất cả các không đoàn cơ hữu đến các căn cứ tại Salomon và tại Tân-Guinée kể cả phi đoàn trên các mẫu hạm tạm thời bị giải giới. Thật vậy, giai đoạn đầu của “kế hoạch A” gồm có việc làm cho đời sống tại căn cứ Mỹ khó chịu đựng nổi bằng các cuộc oanh tạc vĩ đại khiến cho hạm đội Mỹ phải đến can thiệp. Trước khi mở cuộc tấn công, vị Tổng tư lệnh tập họp các phi đoàn trưởng và thẳng thắn trình bày với họ tính cách trầm trọng của tình hình. “Chúng ta sẽ, ông nói, tung ra nhiều trận đánh gay go trên mặt biển và trên không trung. Kết quả của các trận đánh ấy và do đó kết cục của cuộc chiến, phần lớn lệ thuộc vào cung cách hành động mà các anh chứng tỏ trong các cuộc không chiến”. Tất cả những người tham dự đều bị lời nói của ông ghi những ấn tượng sâu sắc. Giờ đây họ hiểu rằng một thất bại mới sẽ kéo theo những hậu quả như thế nào.


Cuộc tấn công đầu tiên được tung ra ngày 8 tháng 4 năm 1943. 70 oanh tạc cơ và hưon 100 khu trục cơ cất cánh từ Buin (Bongainville) hướng về Tulagi và Henderson Field. Ba ngày sau, đến lượt các phi trường mà Mac Arthu đã vô cùng cực nhọc cho xây dựng trên triền phía bắc dãy trường sơn tại Tân-Guinée bị tấn công. Rồi ngày 14 tháng 4 Milne Bay và Morserby được 43 oanh tạc cơ do 130 khu trục cơ hộ tống đến viếng thăm.


Trong giai đoạn đầu của “kế hoạch A” đó, Yamamoto thường đến viếng thăm các đơn vị không lực. Ông bước ra khỏi một oanh tạc cơ một cách bất chợt và tiến qua các vũng bùn lầy, với bộ quân phục kaki của không lực hải quân. Các phi hành đoàn tập họp trên phi trường, những người không bao giờ tưởng tượng ra ông trong hình dáng nào khác hơn là trong bộ quân phục trắng tinh tua tủa dây biểu chương, đã xúc động sâu xa khi thấy vị chỉ huy tối cao cũng chia sẻ những hiểm nguy giống như họ, chịu đựng cùng thời tiết xấu trong cùng bộ quân phục như họ. Tất cả những người ra đi chiến đấu đều cảm thấy ấm lòng.


Khi cuộc oanh kích sau cùng chấm dứt, Đô đốc nghiên cứu báo cáo của các đơn vị trưởng. Kết quả dường như rất thuận lợi: 1 tuần dương, 2 khu trục và 25 hải vận hạm bị đánh chìm, 150 phi cơ bị hạ. Không phải là không nghi ngờ các sự ước lượng ấy quá lạc quan, ông giao hoàn lại các phi công về với các mẫu hạm của họ rồi bắt đầu một vòng thanh sát mới khắp các căn cứ trong vùng chiến đấu. Ông nhìn tương lại với sự yên tâm. Ông có trong tay bốn mẫu hạm nặng, hai mẫu hạm nhẹ tương trưng một tổng số 400 phi cơ, 190 phi cơ thuộc không đoàn 2 đặt căn cứ tại Kavieng (tân-Irlande) vfa tại Bum (Bougainuille) và 300 phi cơ của lục quân được phân phối trên các phi trường khác. Hải đoàn mẫu hạm thứ nhất do Phó Đô đốc Ozawa, người đã từng được tôn vinh tại Mã Lai, chỉ huy, hải đoàn thứ 2 do Phó Đô đốc Kusaka, một trong các phi công danh tiếng nhất của không lực hải quân. Với các thiết giáp hạm Yamato và Musachi hậu vệ và chừng mười lăm tuần dương hạm cùng bốn mươi khu trục hạm, hạm đội liên hợp vượt hẳn hạm đội của Halsey đến mức độ chiến thắng trong một cuộc đụng độ ctoàn diện là điều không thể còn nghi ngờ gì nữa. Tất cả vấn đề bây giờ là làm sao khiêu khích nó.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #67 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:31:28 am »

Ngày 18 tháng 4 năm 1943, lúc 6 giờ sáng Đô đốc Yamamoto bước lên một oanh tạc cơ hai máy Mitsubishi với ba trong số các sĩ quan của ông. Đô đốc Ugaki, tham mưu trưởng của ông, bước lên chiếc thứ hai cùng loại. Cuộc viếng thăm đầu tiên của ông sẽ dành cho tướng Hyakudaté, tư lệnh Lộ quân 17, vừa rời khởi Rabaul để đến đặt bản doanh ở căn cứ tiền phương Buin tại Bougainville; nhưng ông đã dự liệu dừng chân trên hòn đảo nhro Ballale nơi đặt ban chỉ huy của hải đoàn mẫu hạm thứ hai. Các giới chức chỉ huy liên hệ đã báo trước bằng một công điện mã hoá ghi rõ giờ đến của các phi cơ.


Sau khi cất cánh từ Rabaul và được chín khu trục cơ hộ tống, các oanh tạc cơ bay vòng miệng núi lửa bao quanh vịnh và hướng thẳng đến Bougainville. Các điều kiện phi hành đều rất tôt đẹp và các đỉnh núi xanh có sương mù bao phủ trên chóp đã bắt đầu hiện rõ. Đến 7 giờ 15 phút, các oanh tạc cơ bắt đầu giảm cao độ để tiến gần đến bờ biển và bay trên rừng rậm ở cao độ 600 thước trong khi các khu trục cơ vẫn giữ cao độ cũ. Đúng 7 giờ 30, tức là còn cách Ballade 15 phút bay, một trong các khu trục cơ hộ tống vừa trông thấy một toán phi cơ P.38 bay trên đầu, nên muốn báo hiệu cho Đô đốc càng sớm càng hay. Hành động này được các phi công oanh tạc cơ giải thích như là một sự thông báo cần hạ thấp xuống hầu đê trống xạ trường cho các khu trục cơ, và cả hai chiếc oanh tạc cơ đều chúi xuống thấp về phía rừng già. Nỗ lực điều động máy bay của họ vô ích. Nhờ có tốc độ cực lớn khi đâm bổ xuống các phi cơ P.38 bỏ xa dần các khu trục cơ Nhật và lao vào các oanh tạc cơ xả súng bắn ác liệt. Chiếc phi cơ của Đô đốc là chiếc bị trúng đạn đầu tiên và rơi tan tành xuống rừng già sau khi bốc cháy. Chiếc oanh tạc cơ thứ hai lái vòng ra biển cũng bị rượt kịp và bị bắn rơi xuống biển. Các phi cơ tuần thám bờ biển hấp tấp bay đến phía chiếc oanh tạc cơ đã chìm mất một nửa và kéo ra được Đô đốc Ugaki vốn bị thương rất nặng. Nhờ chỉ dẫn của các khu trục cơ, xác chiếc phi cơ của Yamamoto được đánh dấu và một đoàn quân thám sát vạch được một lối đi cho đến đó. Hai phần ba phi cơ bị cháy ra tro, nhưng chiếc ghế của Đô đốc bị văng ra xa khi phi cơ chạm đất. Xác ông có vẻ gần như nguyên vẹn và ông còn nắm chặt đuôi kiếm trong tay. Bốn sĩ quan tuỳ tùng của ông chỉ còn lại các mảnh vụn không nhận diện được. Viên bác sĩ khám nghiệm xác Đô đốc khám phá thấy các vết đạn trong đó có một viên trúng và tạo ra cái chết tức thời.


Xác Yamamoto được đưa về Buin để hoả thiêu tại đấy. Tro tàn của người anh hùng Trân Châu Cảng được để trong một bình đựng di hài đặt trên một nấm mộ nhỏ kế cạnh bộ chỉ huy.

Tin tức về tai hoạ này không thể nào giữ bí mật được lâu. Nó tạo ra một nỗi kinh hoàng vô bờ bến tại Nhật Bản. Dân chúng vốn bị giấu kín về cuộc thảm bại tại Midway, vốn luôn luôn coi Yamamoto như một vị tư lệnh không thể nào bị thua trận. Chắc chắn là niềm tin ấy không có gì sai lầm cả bởi vì sự thất bại này đã lệ thuộc vào một sự tình cờ có thể nói là kỳ diệu của các điều do máy Magic khám phá.


Tại Hoa Kỳ, tin loan báo cái chết bị thảm của vị Tổng tư lệnh quân Nhật gây ra cả một cơn vui sướng bùng nổ thật sự. Rốt cuộc rồi Đáng toàn năng cũng đã trừng phạt kẻ có trách nhiệm về cuộc xâm lăng xảo trá tại Trân Châu Cảng! Đối với các lãnh tụ cao cấp của Hải quân, tin ấy không gây ngạc nhiên, vì một lần nữa bộ máy Magic lại đã hướng dẫn uy lực của công lý.


Chiều ngày 17 tháng 4, Bộ trưởng Hải quân Frank Knox, đã được sở kiểm báo trình một điện văn đã được mở khoá, nhờ máy Magic, mặc khải tất cả chi tiết liên hệ đến chuyến thanh tra của vị Tổng tư lệnh hạm đội liên hợp với giờ giấc hạ cánh và cất cánh. Sau khi tham khảo mau chóng với Đô đốc King, ông quyết định ra lệnh cho Halsey tổ chức một cuộc mai phục để loại trừ đối thủ nguy hiểm này. Buổi tối, một công điện tối mật được gửi đến cho đại uý Mitchell, không đoàn trưởng P.38 đặt căn cứ tại Henderson Field. Công điện ghi tất cả các tin tức về lộ trình và thành phần của đoàn phi cơ. Bình minh ngày 18, 16 chiếc P.38 cất cánh bay về phía Bougainville và đúng 7 giờ thì đến nơi. Phi đoàn bay vòng trên khu vực kế cận bờ biển bằng cách ẩn nấp trong mây ở cao độ rất lớn. Đúng 7 giờ 30, họ trông thấy các khu trục cơ hộ tống toàn phi cơ Nhật và mở cuộc tấn công. Chính đại uý Lanphier là người đuổi theo phi cơ của Yamamoto. Ông bắn một tràng dài vào động cơ bên phải từ phía sau và lập tức bay trốn khi thấy chiếc cánh phát hoả và tách ra khỏi phi cơ. Lần này bộ máy Magic tuyệt hảo đã vĩnh viễn khoá chặt số phận của nạn nhân.


Hành động không có vẻ mã thượng tí nào. Cuộc phục kích tại Bogainville phảng phất khó chịu mùi vị của các cuộc thanh toán giữa bọn bất lương. Nhưng vết thương Trân Châu Cảng còn tươi rói và các nỗi khổ đau tại Guadalcanal cũng chưa dịu hẳn được. Vả chăng người ta có còn dừng lại mãi đó đâu! Nhiều trận đánh trên các đảo và chung quanh đảo đã trở nên vô cùng khốc liệt. Chẳng có một đồn trại nào và rất ít hoặc không có tù binh. Từ lâu chiến tranh tiềm thuỷ đỉnh đã là “không hạn chế” và từ lâu, các khu trục hạm Mỹ đã làm lơ khi chạy ngang qua các hàng lớp binh sĩ Nhật vùng vẫy trong mặt biển ngập đầy dầu máy. Quân Mỹ được khuyến khích bởi chính quân Nhật, vì họ không bao giờ dừng chiến hạm lại để cứu vớt đồng bào của họ. Chắc chắn là họ đã tuân phục một cách vô thức nguyên tắc dửng dưng với cái chết vốn rất thông thường tại Viễn Đông: bớt đi một tên lính Nhật là có thêm một hột gạo cho những người khác, phải không nào… Nhưng mặc dầu không thú nhận lộ liễu, Bộ tư lệnh tối cao Nhật cũng không có gì là không bằng lòng khi thấy nguyên tắc ấy được áp dụng trong mọi trường hợp. Điều mà họ thiếu thốn không phải là người, mà là vật liệu chiến tranh. Mất thì giờ và đặt chiến hạm vào tình trạng nguy hiểm trong một vụ cấp cứu là hành động không đáng được nghĩ đến đối với một binh sĩ Nhật rồi. Người Mỹ cũng thường áp dụng nguyên tắc này, nhưng chỉ khi nào bị nhu cầu bắt buộc. Mỗi khi có thể, họ cứu vớt những thuỷ thủ bị đắm tàu. Ngoài tất cả các vấn đề tình cảm, họ đã ước tính rằng tinh thần binh sĩ sẽ có thể được giữ vững trong một khung cảnh có tình liên đới toàn diện. Hơn nữa, họ là những người đầu tiên hiểu được rằng mạng sống của một phi công đánh giá bằng cả một tiểu đoàn bộ binh. Do đó nhiều khi họ đã không ngần ngại tổ chức cả một cuộc hành quân thu hồi thật sư với các thủy phi cơ và tiềm thủy đỉnh. Công cuộc tiếp cứu các phi hành đoàn bị hạ trong rừng rậm đã trở thành một trong các sứ mạng chính yếu của các Coast Watchers.


Yamamoto không sớm hiểu được sự tái lượng gia đột ngột ấy về mạng sống con người vốn đã từng kéo theo ưu thế của không lực mặc dầu ông là người đầu tiên tạo ra nó. Sự bỏ rơi các phi công ưu tú của các mẫu hạm mặc cho số phận hẩm hiu của họ, trong lúc mà một tổ chức kết hợp có thể cứu vớt hàng trăm người, đã là một trong các nguyên nhân đưa đến sự suy tàn của hạm đội liên hợp. Đúng lúc Yamamoto ngã gục dưới làn đạn của Lanphier, không phải ông ta đã thiếu chiến hạm và phi cơ, mà chính là thiếu các phi công ưu tú. Và ông đã chẳng làm gì để chặn đứng một cơn trích huyết mới.


Sự thờ ơ này lại càng đáng ngạc nhiên hơn khi mà các công binh xưởng của hải quân Nhật đang đổ ra các cố gắng lớn lao để hoàn thành các mẫu hạm Taiho, Unruyu và Chitose, và để biến thành một hàng không mẫu hạm không lổ, chiếc Shinano, thiết giáp hạm vĩ đại thứ ba đồng loại với chiếc Yamato, đang được đóng tại Yokosuka. Làm sao ông có thể hy vọng cấp cho chiến hạm ấy phi cơ và phi công, trong khi ông hy sinh họ bất kể tại các căn cứ đặt trên các đảo mà lại không có một nỗ lực song hành nào được thực hiện để thay thế họ?


Người ta không thể không nghĩ rằng, tay cao cờ bất trị ấy đã tung không lực của ông ra để hoặc là sạch nợ hoặc là ăn gấp đôi, vì biết rằng trong trường hợp thất bại, xứ sở ông vĩnh viễn bị bại trận.


Giá trị của giả thuyết này dường như đã được xác nhận bởi mối suy tư của vị tư lệnh cuối cùng của hạm đội liên hợp, người được quân Mỹ thẩm vấn sau chiến tranh về kế hoạch của vị tiền nhiệm, đã chỉ trả lời:

-Yamamoto đã gặp may. Ông chết rất đúng lúc.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #68 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:32:39 am »

Trinh sát viên Coast Watchers

Cái chết của vị Tư lệnh hạm đội Nhật Bản đã gây ra một hậu quả bất ngờ: nó xác nhận với người Nhật sự bành trướng kịch liệt các hoạt động của những trinh sát viên Coast Watchers. Ít lâu nay họ đã dò tìm được vị trí phát tin của Read và của Mason tại Bougainville, nhưng họ nghĩ đó chỉ là việc đối phó với một vài người lẻ loi đơn độc, ẩn náu trong rừng, huấn luyện dân bản xứ để làm lợi cho đồng minh. Trong tình trạng mù tịt về sự hiện hữu của bộ máy Magic, đột nhiên họ có ý tưởng là một vụ khủng bố có thể đã xảy ra nhắm vào Yamamoto do một tổ chức bí mật có chi bộ khắp trên quần đảo Salomon. Ngay khi vừa đến Rabaul, người kế vị Yamamoto, Đô đốc Koga, liền cho lệnh các cấp chỉ huy quân trú phòng trên đảo phải dứt bỏ cho ông những kẻ lì lợm này.


Nạn nhân đầu tiên của mẻ lưới là ông Mason đáng thương khiến ông ra phải rút lui vào khu rừng sâu nhất của Bougainville cùng với vài phi công được cứu thoát. Read và các tu sĩ cũng bị truy nã không thương tiếc. Nhiều biện pháp trừng trị liên hệ cũng lan tràn trên khắp quần đảo.


Tại Tân-Géorgie các cuộc hành quân trừng phạt đã được tổ chức để toan tính đuổi Donald Kennedy ra khỏi chỗ trú ẩn trên bán đảo Ségi. Trước các dấu hiệu hoạt động gia tăng của quân Nhật chung quanh Munda, phía đảo này, Kennedy vừa mới yêu cầu Melbourne tăng viện. Đại tá Hải quân Feldt thuộc Hải quân Úc, người lãnh đạo tổ chức, vừa gửi đến cho ông thêm các trung uý Horton, Evans và Josselyn, để ông có thể phân phối đến các đảo lân cận Rendova, Kolombangara và Vella Lavella. Như thế ông ta hy vọng rằng con người táo bạo ấy, vốn đứng vững như một con nhện nằm giữa mành lưới của mình, có thể cung cấp tin tức về tất cả các hoạt động của Nhật trong khu vực.


Trái với các đảo lân cận thuộc quần đảo Salomon, các bờ biển của đảo Tân-Géorgie bị đứt đoạn rất nhiều. Người ta nói rằng Thượng đế đã giỡn chơi bằng cách giáng cho nó mất lát búa; những mảnh vỡ nhỏ nằm rải rác chung quanh mảnh lớn nhất có hình dáng một con cá ngựa. Bên trên chiếc mõm của nó, trông iống như một con lật đật, đó là hòn đảo tròn trịa Kolombangra, bên dưới là Rendova, mắc vào nó như một quả lắc đồng hồ. Giữa hai đảo ấy là một số mảnh vụn mỏng: Arundel và Wana Wana. Về phía nam, nhiều vùng san hô ngầm kết chặt tại đó và hoàn toàn làm cho cái mê lộ này thêm phức tạp, chỉ có những ngư phủ bản xứ mới có thể đi lại trên các chiếc xuồng được giữ thăng bằng rất thanh lịch của họ. Chính nhờ thành luỹ đá ngầm che chở đó mfa Donald Kennedy chọn lựa bán đảo Ségi làm nơi ẩn trốn. Hoàn toàn không thể đến được bằng đường biển, nó lại còn được che chờ về phía đất liền bởi cánh rừng xốp nhất quần đảo, điều này không phải nói ngoa.


Trước khi các phụ tá, mà người ta đã hứa với ông, đến Donald Kennedy phải đương đầu với các binh sĩ Nhật đang dùng những xà lan bản xứ để đổ bộ lên bờ biển. Các chiến binh bản xứ của ông tác xạ rất hữu hiệu, nhưng cuộc đụng độ khiến số đạn dược của ông bị hao huụ nhiều. Ông nóng lòng muốn số dự trữ phải được tái lập ngay vì thế ông yêu cầu gửi một phi cơ liên lạc đến.


Vài ngày sau, ông được báo tin mừng: một Catalina đến! Chiếc thuỷ phi cơ lượn nhiều vòng trên vũng nước ở giữa đảo san hô, làm như nó không nhớ rõ lắm phải đáp nơi nào, rồi chắc chắn nhờ thấy các cử chỉ ra hiệu của dân bản xứ, nó bay là ngang dừa và đáp đọt cây tức khắc xuống mặt nước chẻ đôi mặt biển phẳng lặng như viên kim cương trên mũi dao cắt kiến. Sau đó, phi cơ chạy từ từ, chiếc mũi to lớn làm bốc hơi từng đám bọt ngũ sắc.


Không một ai đứng trên bờ tại góc trời hẻo lánh này lại bằng lòng với tiếng động ồn ào như thế, nhưng tất cả mọi người đều chờ đợi người thông tin viên này đến với biết bao nhiêu là âu lo đến nỗi họ sắp thành vòng tròn trên bãi cát để giúp sức đẩy xuống nước một chiếc xuồng thằng bằng bản xứ. Đó là chiếc xuồng của vị tù trưởng nên sống mũi thuyền được khảm xà cừ. Chiếc xuồng cặp ngay vào sườn phi cơ và các tay chèo bám chặt vào cánh trong khi chờ đợi bốc dỡ các kiện hàng xuống. Thông thường đó là các thùng đạn, súng ống, thực phẩm đóng hộp và thuốc men quí gia như của trời cho, khiến có thể giúp phân phối mau lẹ sau đó cho các cứ điểm hẻo lánh trong rừng. Cửa phi cơ mở ra trong sự im lặng hoàn toàn nhưng quang cảnh diễn ra đã nhận chìm tất cả những người đứng xem vào một trạng thái kinh hoàng: thay vì các thùng, xách, họ thấy một nữ tu sĩ và hai người Trung Hoa bước xuống! Viên sĩ quan đi theo họ đóng cửa phi cơ và tiếng gầm của động cơ hoàn toàn làm mối hy vọng tiêu tan sụp đổ: chiếc Catalina lại ra đi…


Vị lãnh chúa tại Ségi đã tiếp đón quan khách với một thái độ không hào hứng mấy. Viên sĩ quan nói chuyện với ông tên là Horton và là trung uý trừ bị thuộc Hải quân Úc mà Feldt gửi đến làm phụ tá cho ông. Anh giải thích lý do tại sao đã đến tay không: chiếc Catalina đổi hướng về Bougainville vì tình hình ở đây nguy ngập, trại của Masoan bị đánh thình lình và vài phi cồng được cứu thoát phải chạy trốn mãi tận trong rừng sâu, bị quân Nhật, nay đã kiểm soát toàn đảo, săn đuổi không ngừng. Tại điểm hẹn, chiếc Catalina chỉ thấy có 2 tu sĩ Trung Hoa và một nữ tu sĩ do các hướng đạo viên của Mason đưa đến. Sau khi chờ đợi các phi công Mỹ hơn một giờ, chính anh chịu trách nhiệm quyết định để lại cho toán quân của Mason toàn thể tiếp liệu dự tính sẽ đưa đến Ségi, vì hoàn cảnh của họ hết sức nguy nan.


Mặc dầu mẹ bề trên với chiếc áo bằng sơ sống bị nhiều vết máu vấ bẩn phất phơ trên một thân thể chỉ còn xương da, đã gợi cho ông một niềm thương sâu xa. Kennedy cũng không thể không nghĩ rằng tốt hơn là người ta nên cho họ đến nơi khác. Tin tức do các tiền thám viên của ông mang về không làm ông yên tâm. Một toán 250 quân sĩ Nhật đã đổ bộ lên hải cảng nhỏ bé Viru, cách vùng biển san hô không đầy 30 cây số. Cuộc chiếm đóng đảo Tân-Géorgie nới rộng dần như vết dầu loang. Ông quyết định ngay đêm đó phái Horton đi thám sát rừng già chung quanh Munda để kiếm một vị trí quan sát thích hợp. Viên sĩ quan này nguyên là một viên chức hành chánh biết rất rõ vùng này. Anh ta xin sáu người và một máy phát tin. Chất đống tất cả xuống một chiếc xuồng và ra đi thực hiện sứ mạng hiểm nghèo.


Đến đêm, chiếc xuồng của Horton tiến vào cùng biển san hô bao chung quanh Munda. Bầu trời hoàn toàn tối đen và chỉ có tiếng động mơ hồ lộn xộn đôi lúc làm xáo trộn không khí im lặng. Đột nhiên có tiếng động cơ. Mọi người đều nằm dán sát xuống mặt xuồng. Tiếng động đang xa rồi trở lại hai ba lần. Horton liều lĩnh ngước đầu lên nhìn… Một quang cảnh kỳ lạ bày ra trước mắt anh. Chiếc xuồng trôi lửng lơ và bây giờ đang ở rất gần vườn dừa ven bờ biển. Nhiều đèn phản chiếu máng trên thân cây chiếu sáng mặt đất trên đó nhiều xe ủi đất đi lại. Bên trên ánh sáng lờ mờ chiếu một cách yếu ớt vào những vòng cung của một chiếc lưới vĩ đại. Những cành lá dừa cao được dây nối lại với nhau đỡ các tấm lưới phủ đầy lá cây. Nhờ cách nguỵ trang tài tình này, quân Nhật đã dọn dẹp một phi trường mà không bị các phi cơ trinh sát trông thấy.


Chiếc xuồng chạy trốn ngay lập tức. Giờ đây Horton đã biết phải làm gì. Anh phải tìm một địa điểm thích hợp để đặt vọng quan sát.

Sau nhiều mưu toan vô ích, anh đành từ bỏ ý định đổ bộ lên bờ biển và rời xa cái tổ ong ồn ào mà chu vi được canh quá kỹ ấy. Theo lời khuyên của các hướng đạo viên địa phương, anh sẽ đến chiếm đảo Rendoua một thứ bánh đường bao phủ rừng gia, nổi lên trên một vụng biển san hô khác cáh Munda câu cây số. Chưa có một binh sĩ Nhật nào trên đảo và Horton có đủ thì giờ chọn lựa một vị trí quan sát được nguỵ trang kỹ. Khi mọi chuyện đều sẵn sàng, anh báo tin cho Kennedy và chờ đợi các biến cố.


Nắm được tin tức quí báu này, Kennedy khẩn cấp yêu cầu gửi một chiếc Catalina đến để ông đi hội kiến với tướng Patch. Ông này hiểu ngay mối đe doạ kinh khủng do bởi một căn cứ không quân mới của Nhật nằm cách Henderson Field không đầy 300 cây số, và xin phép Halsey phái đến Ségi một đơn vị cảm tử thuỷ quân lục chiến và một đại đội Seabees1 (SEABEES: Tiểu đoàn công binh kiến tạo. Các chữ đầu C.B của Construction Batalion đọc tương tự với chữ Seabee (ong biển)) để thiết lập tại đấy một phi trường tạm thời. Danh tiếng của Donald Kennedy lớn đến nỗi Halsey chấp thuận ngay kế hoạch của Patch và vị lãnh chúa Ségi trở về bán đảo của mình trên một khu trục hạm với một đơn vị cảm tử thuỷ quân lục chiến. Tương lai thế là được đảo bảo ngay.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #69 vào lúc: 28 Tháng Hai, 2010, 08:34:21 am »

Những bước nhảy bọ chét

Khi hội nghị Trident được khai mạc tại Washington ngày 12 tháng 5 năm 1943, tình hình của đồng minh đều được cải thiện trên khắp tất cả các mặt trận. Tại Bắc Phi, đệ bát lộ quân của Anh đã đẩy Rommel lui về Lybia và lực lượng Pháp-Mỹ đã vượt qua biên giới Tunisie để đánh bọc hậu vào đoàn quân thiết giáp Đức. Tại Stalingrad, đạo quân của Von Paulus coi như đã bị tiêu diệt. Tại Miến Điện và Trung Hoa, các lực lượng của Wavell và của tướng Tưởng Giới Thạch được kết nối với nhau bằng một cầu không vận ngang qua Hi Mã Lạp Sơn, bắt đầu chuyển qua thế chủ động. Công cuộc sản xuất cho chiến tranh tại Hoa Kỳ được dự liệu theo một kế hoạch khổng lồ nguyên thuỷ, đã khởi đầu một cách chậm chạp, nhưng giờ đây đang ở mức độ năng suất tối đa và thừa sức cung cấp cho nhu cầu các đạo quân tham chiến tại Bắc Phi. Và vì sau cùng đã có quyết định cho dời cuộc đổ bộ lên các bờ biển Pháp lại sang năm 1944, nên đã có thể trích vài chiến hạm và vài phi cơ để tăng cường cho chiến trường Thái Bình Dương.


Thứ mà Halsey thiếu thốn nhất là hàng không mẫu hạm. Vì lẽ không có mẫu hạm nào đang đóng có thể hoàn thành sẵn sàng trước mùa thu, nên tất cả các cuộc hành quân qui mô đều không thể tổ chức được cho đến lúc đó. Ngược lại, ông đã được cấp cho rất nhiều tàu đổ bộ kiểu mới: Landing Ships Tanks (L.S.T), Landing Craft Infantry (L.C.I) và Landing Craft Personal (L.C.P) v.v… được sản xuất sau khi rút kinh nghiệm tại Bắc Phi. Đó là các chiến hạm có cửa nghiêng hạ xuống nâng lên được, có thể tự làm mắc cạn trên bãi biển và lùi ra khỏi bãi biển bằng phương tiện riêng. Do đó, với các chiến hạm này có thể thực hiện các bước nhảy bọ chét ngắn từ đảo này đến đảo kia hay dọc theo bờ biẻn, với điều kiện được không quân che chở mạnh mẽ.


Khẩn cấp nhất là đổ bộ lên Tân-Géorge để vô hiệu hoá phi trường Munda bắt đầu gây khó chịu. Kế hoạch hành quân đã được chấp thuận từ tháng giêng năm 1943 và ngày tấn công được ấn định là tháng 5. Nhưng, vì không có vấn đề bắt các sư đoàn mới chiến đấu tại Guadalcanal, chịu đựng thêm thử thách mới, cho nên phải đợi hai sư đoàn bộ binh, mới hấp tấp thành lập, được huấn luyện đầy đủ. Theo các tin tức do Horton cung cấp, Munda được bảo vệ bởi 10.000 quân Nhật đồn trú và, vùng bờ biển bao vây phải đổ bộ về phía đông ngay giữa rừng già trong các điều kiện khó khăn.
Sau một công cuộc chuẩn bị cần mẫn, ngày tấn công bị hoãn nhiều lần được ấn định là ngày 1 tháng 7 năm 1943. Đô đốc Turner nhổ neo cùng với chiếc Mac Cawley theo sau 9 hải vận hạm, 12 khu trục vận tải và 20 L.S.T hoặc L.C.I. Hòn đảo nhỏ Rendova trên đó có sự hiện diện của Horton đã được quân Nhật di tản khỏi, do đó nó được chọn làm giai đoạn chuyển tiếp trước khi đổ bộ lên Tân-Géorgie. Các hướng đạo viên bản xứ của Horton phải hướng dẫn các chiến thuyền đầu tiên vượt qua lối vào vũng nước phẳng trong vùng biển san hô nhờ các dấu hiệu thích nghi. Công việc dường như không biểu hiện một khó khăn nào.


Rủi thay, vào lúc bình minh ngày 1 tháng 7, khi các L.C.I đến trước vũng nước nhỏ phía bắc Rendova, nơi sẽ đổ quân, thì bị tiếng súng tiếp đón… Vì nghi ngờ Horton có mặt trên đảo quân Nhật phái 300 binh sĩ đến bắt, và chính họ đã khai hoả lúc trông thấy các chiến thuyền có dáng điệu khác thường.


Mặc dầu bị trở ngại bất ngờ gieo rắc vài lộn xộn đó, Turner ra lệnh tiếp tục cuộc đổ bộ theo đúng thời biểu. Các tàu L.C.I và L.S.T chuồi lên bãi từ sáng sớm, hạ các cửa cầu tàu xuống bất kể hay dở, và đoàn chiến xa cùng bộ binh bắt đầu diễn hành dưới một hoả lực yểm trợ bắn chặn điếc tai làm cho những cây dừa đẹp nhất thế giới bị tiện ngang đầu.


Đến 8 giờ, mọi việc dường như đều tốt đẹp. Nếu cuộc đổ bộ tiếp tục với nhịp độ này, Turner tính rằng ông có thể nhổ neo đoàn tàu trống rỗng vào lúc giữa trưa, vừa đúng lúc trước các phi cơ của Nhật từ Buin bay đến. Nhưng trung đoàn đầu tiên vừa mới đổ bộ xong, bầu trời bị mây che phủ một cách đáng ngại, và thình lình Rendova biến mất trong một cơn mưa như thác lũ. Ai chưa thấy mưa tại Rendova thì chưa biết được thế nào là mưa. Tất cả đều bị chìm ngập, tiêu tan, biến mất tăm; tiếng huyên náo của cuộc đổ bộ bị tiếng ào ào vĩ đại của những giọt mưa đè bẹp, chung quanh các chiến hạm, mặt biển dường như bị sôi sục và ta không thể trông thấy gì rõ cách khoảng 20 thước. Trên bờ, các binh sĩ đáng thương bị chôn chặt tại chỗ. Hàng dãy cam nhông chạy xuống cửa tàu bị sa lầy cho đến trục xe. Những người khuân vác vật liệu đổ bộ vứt tất cả dồn đống trên bãi cát trong một quang cảnh rối loạn hãi hùng…


May thay tình trạng không kéo dài quá lâu. Các đám mây đen tan còn nhanh hơn khi tụ lại và bầu trời chiếu sáng lấp lánh trên khu rừng già ngập nước.

Thời gian ngừng nghỉ này làm lợi cho các xạ thủ ưu tú của Nhật bám chặt trên đọt cây. Rồi đến phiên phi cơ thám thính đến bắn vài tràng đại liên. Những người bị thương rú lên, những binh sĩ khác chạy tán loạn đến ẩn giữa đống thùng vật liệu và các thân cây bị hạ nổi lều bều như các hòn đảo giữa một biển bùn lầy. Hơi nước bốc lên dưới ánh mặt trời soi chiếu vào một tình thế vốn đã rất rối loạn. Phải nhờ đến tất cả cường lực của một đại tá bị thương vì nhiều vết đạn chửi bới binh sĩ như sấm mới tái lập được trật tự.


Cuộc đổ bộ tiếp tục, nhẩn nha, giữa vũng nước, nhưng đến 11 giờ một nửa hải vận hạm chưa được bốc dỡ. Mặc dầu bị đe doạ bị một cuộc oanh tạc cấp kỳ, Turner quyết định ở lại. Ông sở cậy vào sự che chở của không lực tại Henderson Field sắp đến. Quả thật chúng đến vừa lúc để đối phó với các khu trục cơ Zéro hộ tống đợt oanh tạc đầu tiên. Và lần này các điều kiện không còn tương tự như tại Guadalcanal nữa. Các khu trục cơ mới của Mỹ Hellcat và Corsair vượt hơn hẳn các đối thủ một cách rõ rệt và vì thế các oanh tạc cơ Nhật thả bom một cách cầu âu. Cuộc đổ bộ tiếp tục.


Đến 16 giờ, tất cả hải vận hạm đều trống rỗng và Turner nhổ neo với chiếc Mac Cawley, lực lượng tàu đổ bộ theo sát bên. Tình hình tại Rendova ổn định, các trọng pháo sẵn sàng nã đạn về phía Munda. Turner không còn phải thấy hải cảng nhỏ bé mà các khinh tốc đỉnh của Guadalcanal vừa chạy vừa trú ẩn. Từ nay có lẽ chúng là các chiến hạm độc nhất lo đảm bảo công cuộc canh phòng các eo biển.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM