Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:58:07 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Sấm sét trên Thái Bình Dương  (Đọc 64528 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #40 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:15:40 am »

Ổn định và lật ngược thế cờ

Chu vi Đại Đông Á

Trong khi tại Đông Nam Á các trận đánh diễn ra như chúng ta vừa thuật lại, Hải quân Nhật đã bí mật nới rộng cuộc chinh phục đến các quần đảo nhỏ tại trung bộ Thái Bình Dương. Một số quần đảo đó như Mariannes, Carolines và Marshall, đã từng thuộc về họ trong trận đại chiến trước. Các quần đảo khác được đặt thuộc quyền uỷ trị của Mỹ, Úc hay Anh. Ngoài các đảo Wake và Guam được dùng làm trạm tiếp nối của Mỹ giữa Hạ Uy Di và Phi Luật Tân, không một quần đảo nào được đặt trong tình trạng phòng vệ, đến nỗi công việc chiếm hữu chúng trông giống như một cuộc đi dạo của lực lượng quân sự.


Trong vùng Tây Nam Thái Bình Dương, cuộc tiến quân của Nhật cũng dễ dàng như thế. Sau khi chiếm đóng các đảo lớn Halmahera và Céram ở phía nam Phi Luật Tân, các bộ phận hải quân đến đóng tại Blak và trong vài hải cảng khác nằm trên bờ biển phía bắc của Tân Guinée.


Tân Guinée là một hòn đảo rộng mênh mông, chỉ mình nó đã rộng gấp đôi quần đảo Nhật Bản, có hình dáng giống như một con khủng long bự và hơi gù lưng mà chiếc xương sống là một dãy núi dài 2.500 cây số bao phủ bởi một thứ rừng già rậm rạp nhất thế giới. Năm 1942 ngoài việc không thám sát dãy núi này, người Nhật cũng không tính chuyện vượt qua vì chẳng lợi ích gì, vì chính chiếc bụng của con khủng long cũng là một sa mạc rộng lớn. Phần duy nhất đáng chú ý của đảo là phần đuôi kéo dài của con khủng long vốn cũng bị dãy trường sơn chia đôi, nhưng tại hai viền Nam và Bắc lại có một loạt hải cảng tuyệt vời phía sau lan tràn một khu vực đầy tài nguyên khoáng sản và canh nông. Chính khúc đuôi giống như đoạn ruột thừa này đã được Tổng hành dinh Thiên hoàng lựa chọn. Vì không thể đến đó theo ngõ phía Nam do sự chật hẹp và các mối nguy hiểm của eo biển Torrès nằm giữa bụng con khủng long tại mũi York với mũi đất xa nhất của Úc châu, quân Nhật xâm chiếm theo ngõ phía Bắc. Các đoàn quân khởi hành từ đại căn cứ hải quân Truck, tháng 1 năm 1942 đã đổ bộ lên Nouvelle-Bretagne và Nouvelle-Irlande và đặt căn cứ vững chắc trong các hải cảng Rabaul và Kavieng. Chỉ cần bước một bước là có thể chiếm các hải cảng Lae và Salamaua tại Tân Guinée; cuộc hành quân này đã được thực hiện gần như chẳng phải đánh nhau gì cả, các đội quân trú phòng của Úc được lệnh rút lui dọc theo bờ biển cho đến tận Port-Moresby, hải cảng chính của bờ phía Nam.


Giờ đây cái quạt khổng lồ đã trải ra từ Miến Điện cho đến quần đảo Kouriles. Nhờ chiếm hữu được hàng rào Mã Lai, bờ biển phía Bắc của Tân Guinée, Tân Bretagne và Tân Irlande, các quần đảo Gillbert và Marshall, Nhật Bản được đảm bảo bằng một chuỗi gần như liên tục các điểm tựa, cụ thể hoá vòng đai “chu vi Đại Đông Á” trên một đường bán kính trung bình 3.500 cây số chung quanh Đông Kinh. Bên trong chu vi này, Nhật Bản hoàn toàn rảnh tay khai thác các giếng dầu hoả, mỏ khoáng sản, đồn điền cao su, ruộng lúa, tóm tắt, tất cả nguyên liệu mà Nhật Bản thiếu.


Cái giá phải trả cho những tài nguyên giàu có này thấp đến mức khó tin: Hải quân Nhật chỉ mất có năm phóng ngư lôi hạm, tám tàu ngầm và 50.000 tấn thương thuyền; Lục quân gần như đã bước ra khỏi cuộc phiêu lưu mà không bị sứt mẻ gì: 10.000 chết và 4.000 bị thương. Riêng phần thành tích chiến đấu của Hải quân, Lục quân và nhất là Không quân Nhật thì thật đáng sợ. Chín thiết giáp hạm, bảy tuần dương hạm, một hàng không mẫu hạm nhẹ (chiếc HMS Hermes bị tiêu diệt trên Ấn Độ Dương do phi cơ của Nagumo sau một cuộc đột kích tại Chlombo), vô số các chiến hạm nhỏ đủ loại, 200.000 tấn thương thuyền mà phần đông hàng hoá đều được thu hồi nguyên vẹn và đem ra sử dụng lại, không nói đến chừng 300.000 tù binh vừa quân sự vừa dân sự phải làm việc để xây dựng lại các đổ nát và tái lập sự khai thác canh nông và kỹ nghệ.


Chính tai biến khổng lồ này đã đưa toà Bạch Ốc đến chỗ phải sửa đổi lại các kế hoạch. Quyết định “Germany first” đã đặt chiến trường Thái Bình Dương vào tình trạng lu mờ như ngọn đèn đêm, nhưng ngọn đèn đêm này hoàn toàn sắp tàn lụn. Hải quân Mỹ chỉ có tổng cộng, trên Thái Bình Dương, ba hàng không mẫu hạm nhờ phép lạ thoát khỏi cuộc oanh tạc tại Trân Châu Cảng và chừng mười tuần dương hạm. Chúng đã cố sức hoạt động đáng ca ngợi bằng cách thực hiện các cuộc đột kích bên ngoài vòng đai chu vi Đại Đông Á, nhưng vô ích, đấy chỉ là vết muỗi đốt trên da voi. Gia dĩ một trong các hàng không mẫu hạm ấy, chiếc Saratoga, lại rủi ro gặp một tàu ngầm Nhật và bị nó tặng một thuỷ lôi khiến phải chạy về nằm ụ tại San Francisco nhiều tháng trời. Như vậy là chỉ còn lại hai mẫu hạm-chiếc Lexington và chiếc Enterprise-để ngăn chặn hạm đội Nhật nếu nó muốn tái diễn cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng hay nới rộng vòng vây phía Nam để bao vây luôn Úc châu (Trong số ba mẫu hạm của hạm đội Thái Bình Dương, hai chiếc, Saratoga và Lexington được đóng năm 1927. Chúng được đóng bằng thân của các tuần dương hạm sau khi thay đổi cách sắp đặt bên trong nhiều lần để thích nghi với vai trò mới. Đấy là các chiến hạm chạy nhanh (33 gút) và cũng như các tuần dương hạm được võ trang 8 khẩu 203 ly, nhưng các cơ cấu dành cho phi cơ-đặc biệt là hầm chứa xăng-thì lại tương ứng với quan niệm của một kỷ nguyên khác. Song le, vì chúng di chuyển gần cả 40.000 tấn, lại có một phi đạo 280 thươớ, chừng 80 phi cơ chở trên mỗi chiếc có thể hoạt động dễ dàng. Trái với các lợi điểm đó, thành tàu quá cao và ống khói khổng lồ của chúng tạo thành một mục tiêu dễ bị trông thấy từ đằng xa. Chiếc hàng không mẫu hạm thứ ba, chiếc Enterprise đóng năm 1938, và các nhà chế tạo đã biết lợi dụng kinh nghiệm thu thập được với các chiếc trước. Nó chỉ chở được 20.000 tấn, nhưng vì nó chỉ được trang bị súng phòng không, nó có thể chuyên chở cùng một số lượng phi cơ như hai chiếc trên. Hơn thế nữa nó còn có ưu điểm trội hơn là rất dễ vận dụng và các cơ cấu kiến trúc liên quan đến phi cơ đều toàn hảo). Đấy chính là các đe doạ có mức độ trầm trọng đối với Hoa Kỳ đến nỗi chính sách diên trì không thể nào tiếp tục được nữa. Vả chăng công luận đã bắt đầu xì xầm và báo chí thì đặt tít lớn: “Hạm đội trở thành cái quái gì rồi?” Sau khi một tàu ngầm Nhật táo tợn đến nỗi dám đến oanh tạc ban đêm vào các giếng dầu tại Texas, nội vụ sắp đến chỗ bùng nổ.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #41 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:16:18 am »

Kể từ khi có vụ bãi chức các con vật tế thần, Bộ Tư lệnh tối cao Hải quân được cải tổ hoàn toàn. Đô đốc King, trở thành tư lệnh hạm đội thế chỗ Đô đốc Stark, là một người có khí phách khác hẳn. Ông không bao giờ chấp nhận chịu đựng gian không than vãn các quyết định không ăn khớp. Nhờ vừa nắm quyền tư lệnh hạm đội Đại Tây Dương, ông có cơ hội thuận tiện để trình bày với Tổng thống về ưu tiên của cả hai chiến trường. Ông xung đột rất nặng với Bộ trưởng Hải quân Anh, Sir Dudley Pound vì theo như lời lên án của ông, thì đã không chịu tôn trọng lời cam kết tại Đông Nam Á và quá “ỷ lại” vào Hải quân Mỹ để hộ tống các đoàn công voa Anh. Vì lối ăn nói thẳng thừng như thế cho nên các cuộc can thiệp của ông tại Bộ tham mưu hỗn hợp liên quân thường được đánh dấu bằng các vụ la lối ầm ỹ.


Người thay thế Kimmel đứng đầu hạm đội Thái Bình Dương, Đô đốc Nimitz, lại là một con người khác hẳn. Chính ông cũng là một cấp chỉ huy đầy nhiệt tâm, nhưng cách hành động thì uyển chuyển hơn. Sự khéo léo và các biện pháp mà nhờ đó ông biết cách nắm một hạm đội Thái Bình Dương mất tinh thần sau vụ Trân Châu Cảng đã đảm bảo cho ông sự hậu thuẫn của tất cả các cấp thuộc quyền. Chỉ có trong tay hai mẫu hạm và mười tuần dương hạm, ông phải liên tục bổ khuyết yếu điểm. Tình trạng của ông cũng giống như một lính chữa lửa, để dập tắt đám cháy mà chỉ có một vòi phun nước bị thủng nhiều lỗ luôn luôn phải buộc đầu này thắt đầu kia. Bất kể sự tận tuỵ vô điều kiện của thuộc viên và sức chịu đựng dẻo dai lạ kỳ mà các chiến hạm của hạm đội từng chứng tỏ, tình trạng khốn khó này không thể kéo dài thêm. Nhờ sự khẩn nài của King, hàng không mẫu hạm Yorktown được gọi yừ Đại tây dương đến nhập vào hạm đội Thái Bình Dương. Sự tăng viện này giúp Nimitz thành lập ba “lực lượng đặc nhiệm”, mỗi lực lượng tiếp hợp chung quanh một hàng không mẫu hạm. Hệ thống tổ chức này cho thấy mềm dẻo hơn và thích nghi với tình hình dễ hơn là hệ thống hạm đội cũ. Trên nguyên tắc do một Đô đốc chỉ huy, các lực lượng đặc nhiệm này có thể gồm có một tuần dương hạm và khu trục hạm thay đổi, chúng có thể được tập trung cho một sứ mạng xác định và sao đó lại trở về tình trạn tự trị. Chính các Đô đốc cũng vậy, họ cũng có thể thay phiên nhau chỉ huy lực lượng này hay lực lượng kia. Hệ thống tổ chức do hoàn cảnh bắt buộc ấy đã mang lại những kết quả tốt đẹp đến nỗi được tổng quát hoá và kéo dài cho đến hết chiến tranh.


Vừa mới nhận được chiếc Yorktown tăng cường, Đô đốc Nimitz liền phái nó đến nhập đoàn với chiếc Lexington tại vùng biển Corail để thực hiện toan tính oanh tạc Rabaul đã từng bị thất bại. Cuộc hành quân dự liệu vào ngày 10 thaán 3 năm 1942 cũng không mang lại kết quả hơn lần trước, vì lẽ Rabaul có một tổ chức canh phòng quá chặt chẽ. Phó Đô đốc Brown chỉ huy lực lượng đặc nhiệm đã chứng kiến tinh thần hiếu chiến của các phi công khu trục Nhật, nên tính toán rằng hy sinh các phi công oanh tạc cơ của mình là điều vô ích. Do đó ông quay trở về nhưng lại lấy một quyết định rất thích nghi là đưa lực lượng đến Port-Moresby và cho oanh tạccơ cất cánh ra khởi bằng cách vượt lên trên dãy núi Owen Stanley-dãy núi chia đuôi của con khủng long ra làm hai phần Nam Bắc-để bất ngờ oanh tạc hai hải cảng Lae và Salamaua. Sự xuất hiện đột ngột của các oanh tạc cơ Mỹ trên các sườn núi đã thoát khỏi tầm khu trục cơ Nhật và các cơ sở hải cảng bị trúng vài quả bom. Những thiệt hại vật chất không đáng kể, nhưng hiệu quả tinh thần thì rất quan trọng. Nói chung thì đó là lần đầu tiên phi cơ Mỹ biểu dương sức mạnh, các giới chỉ huy Nhật thật không bao giờ lại có thể tưởng tượng đó là chính các phi cơ của các hàng không mẫu hạm mà họ đã đẩy lùi 15 ngày trước đó tại Rabaul. Họ tin là chúng từ Port-Moresby đến và do đó ước tính quá cao các phương tiện mà lực lượng trú phòng Úc và Tân Tây Lan có trong tay tại Tân Guinée.


Trong thực tế các phương tiện này chỉ là số không. Tại Port-Moresby chỉ có hai phi đạo không được sửa soạn kỹ, nên chỉ có các khu trục cơ là có thể cất cánh. Mac Arthur cũng mới đặt chân đến Úc châu cùng ngày hôm đó, chưa hề có chỉ thị, lẫn chiến hạm và binh sĩ nào để tăng viện cho đội quân trú phòng đang ngoắc ngoải gồm 7.000 người mất tinh thần và bị bệnh sốt rét quật ngã ấy. Nếu quân Nhật đẩy mạnh thêm về phía nam thêm một mũi tấn công nữa thì họ đã lấy được Port Moresby cũng như toàn thể phần còn lại rồi. Đô đốc Inoue chỉ huy hạm đội thứ 4 và không đoàn 24 không hải quân đã không tin rằng nên thực hiện sáng kiến này, do đó đã bỏ qua một cơ hội chắc sẽ không bao giờ còn đến lại nữa.


Tóm tắt, trong các huấn thị của Inoue, không có điểm nào có thể chính thức hoá một sáng kiến như thế. Tổng hành dinh Thiên hoàng rất chia rẽ nhau về một cơ hội mới nhằm bành trướng vòng đai chu vi Đại Đông Á. Lục quân thì vì đang tung ra toàn diện lực lượng tại Miến Điện hầu cắt đứt những liên lạc cuối cùng giữa Trung Hoa và Đồng minh cho nên nhất định không chịu phân tán lực lượng của mình trên một chiến trường thuần tuý thuộc Hải quân vốn là thứ yếu đối với Lục quân. Chính bản thân Yamamoto, người đã thực hiện xong tất cả các mục tiêu của kế hoạch miền Nam, cũng muốn giữ phần chủ lực của hạm đội liên hợp trong hải phận bản quốc, ngày nào mà ông còn chưa hết chuyện với các lực lượng hải quân Mỹ. Theo ý ông, điểm yếu của vòng đai chu vi nằm về phía đông và đông bắc, nơi đó, dãy quần đảo Hạ Uy Di và Aléoutiennes-vẫn luôn luôn nằm trong tay quân Mỹ-nh chĩa một mũi giáo nhọn hướng ngay vào quả tim Nhật Bản. Ngày nào chưa chiếm được đảo san hô Midway và các đảo Atu và Kiska, thì nền an ninh của quần đảo Nhật Bản còn chưa được đảm bảo. Và nếu, điều này rấy có thể xảy ra đối phương tung ra tất cả lực lượng hải quân vào trận chiến để phòng vệ các pháo đài chủ yếu này thì đây là một cơ hội rất tốt để tiêu diệt chúng nhờ ưu thế số lượng vĩ đại của hạm đội liên hợp.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #42 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:16:49 am »

Tình thế thật khá nghịch thường, chính Đô đốc Nagano, Tổng Tham mưu trưởng Hải quân vốn là người luôn luôn hoà dịu, lại trở thành người biện hộ cho sự bành trướng vòng đai chu vi trong vùng phía Nam Thái Bình Dương. Ông ước tính rằng phải chiếm Port-Moresby và quần đảo Salomon ngay lập tức bằng cách lợi dụng tình hình rối loạn toàn diện của Đồng minh trong khu vực này. Bằng cách khoá chặt vùng biển Corail trước Úc châu Nhật sẽ loại từ các căn cứ xuất phát cho một cuộc phản công mai hậu, và hành động này chỉ phải trả giá bằng một sự nối dài vô nghĩa lý các đường giao thông liên lạc mà thôi. Có lẽ ông ta hy vọng rằng luận cứ chót ấy sẽ làm Yamamoto hết đường biện bạc với kế hoạch tấn công vào Midway mà ông ta xét đoán là quá liều lĩnh. Thật vậy vấn đề đường giao thông liên lạc đã được đặt ra với tất cả mẫn nhuệ vì các khoảng cách quá lớn lao giữa các giếng dầu vừa chiếm được và các xưởng lọc dầu tại chính quốc. Sự huỷ diệt phần lớn các xưởng lọc dầu trên các đảo bị chinh phục khiến cho Nhật cần phải gửi dầu thô về nước và phải gửi lại các loại nhiên liệu bằng tầu dầu để tiếp tế cho lực lượng Hải quân và không quân; từ đó phát sinh cả một hệ thống giao thông vĩ dại treê một đoạn đường 6.000 hải lý (11.000 cây số), đặc biệt rất dễ bị tàu ngầm địch tấn công lại thêm vào đó phí tổn trở nên cực kỳ đắt đỏ. Một sự bành trướng mới vòng đai chu vi về hướng quần đảo Aléoutiennes và Midway sẽ gia tăng thêm một dịch vụ chuyên chở phụ tới trên một đoạn đường khứ hồi dài 4.000 hải lý mà hạm đội thương thuyền Nhật không thể nào cáng đáng nổi một cách lâu dài.


Trong khi tại Đông Kinh các cuộc thảo luận cực kỳ sôi động giữa người ủng hộ và kẻ chống đối các kế hoạch tương lai, King theo đuổi một cách có phương pháp công việc tổ chức phòng vệ những điểm tựa cuối cùng của ông trên Thái Bình Dương. Quần đảo Samoa đã nhận được một trung đoàn Thuỷ quân lục chiến (Là một đơn vị tự trị của quân đội Mỹ, có pháo binh, chiến xa và không lực riêng) và một lực lượng viễn chinh 17.000 người đã được gửi đến Tân Calédonie và được Toàn quyền Pháp Sautot, mới ngả theo phe Pháp quốc Tự do rộng tay đón tiếp. Các đảo san hô Palmyre, Canton và Christmas được sửa sang lại thành trạm tiếp nối cho các phi cơ bay ngang qua Thái Bình Dương và 4.000 kỹ thuật gia ra sức làm việc để xây cất một căn cứ tiếp liệu cho chiến hạm tại Borabora trong các quần đảo thuộc Pháp. Về phần mình, Tân Tây Lan cũng đã tăng viện cho quân trú phòng trên quần đảo Fiji và Úc cũng đã làm như thế tại Port-Moresby.


Rồi đến vấn đề định giới hạn trách nhiệm của các giới chức Hải quân và Lục quân, nghĩa là giữa Nimitz và Mac Arthur. Ý định đầu tiên của Roosevelt là giao cho Mac Arthur một thẩm quyền chỉ huy tuơng ự như cuủaavell trong cơ cấu ABDA bao trùm không phân biệt Hải hay Lục quân. Nhưng cả Marshall lẫn Nimitz không ai ưa Mac Arthur. Rõ ràng là họ sợ các phản ứng của ông và nết cứng đầu đến trở thành chuyện truyền kỳ của ông. Marshall thì sợ rằng ông không còn tâm trí mềm dẻo cần thiết để thích nghi với một quyền chỉ huy chưa từng có trong lịch sử, trong đó chiến hạm và phi cơ sẽ đóng vai trò ưu thế. Về phần King, thì không muốn nghe nói đến chuyện một Đô đốc lại thuộc quyền một tướng lĩnh bộ binh-và nhất là cái ông tướng ấy. Như vậy, họ đồng ý về nội dung, nhưng sự áp dụng xem ra cực khó. Làm sao có thể phân chia một chiến trường hoàn toàn gồm có các vùng biển mênh mông rải rác vô số đảo lớn đảo nhỏ, hay đảo san hô mà không có đặc điểm nào giúp phân biệt đảo này với đảo kia được chứ? Cuộc thảo luận kéo dây dưa đến mức Roosevelt quyết định giải quyết lấy một mình. Cố vấn Harry Hopkins của Tổng thống chủ trương rằng, nghiêng người trên một bản đồ Thái Bình Dương, ông vạch một đường viết chì theo một kinh tuyến lướt qua Phi Luật Tân và quyết định những gì xảy ra bên trái là thuộc Mac Arthur và những gì ở bên mặt thì về phần Nimitz. Phần chia cắt bất hợp lý này ít ra cũng được một điểm là đơn giản, và ai nấy đều vui vẻ nghe theo. Các huấn thị chi tiết được soạn thảo rất lâu, nhưng chúng có một đoạn mở đầu thật phân minh: “sứ mạng của ông là ngăn chặn quân địch trong các giới hạn hiện thời và sự chuẩn bị cho một cuộc phản công trong tương lai. Thật ngắn gọn, thật hay, và không ai đòi hỏi gì thêm.


Nimitz đòi hỏi ngay một Phó Đô đốc để được uỷ quyền chỉ huy tại chỗ các lực lượng đặc nhiệm đang hành quân trong khu vực Đông Nam Thái Bình Dương. King chỉ định Đô đốc Ghormeley, bản doanh của ông này được đặt tại Auckland thuộc Tân Tây Lan. Như thế, ngay trong tình thế hỗn loạn, một tổ chức chỉ huy khởi điểm đã được thành hình, cũng có giá trị như một tổ chức kia, bởi vì, sau khi được chiến trận thử thách, nó kéo dài không thay đổi cho đến cuối cùng.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #43 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:17:50 am »

Ba mươi giây trên Đông Kinh

Không một cuộc cải tổ ngoạn mục nào đã được thực hiện trên đây có thể vuốt ve được công luận Mỹ vốn phải ngậm đắng nuốt cay từ hơn bốn tháng qua. Người ta đã ráng sức làm cho công luận vui lòng với các câu chuyện tường thuật các cuộc không chiến 1 chống 10 diễn ra tại Trung Hoa dưới sự điều khiển của Tướng Claire Lê Chennault, người sát cánh với Tưởng Giới Thạch nắm quyền chỉ huy không lực Trung Hoa và nhóm American Volunteer Group, do ông ta đứng ra tuyển mộ từ năm 1939. Mặc dầu đấy là các chiến công vũ dũng phi thường, chúng chỉ chứng tỏ cho dân chúng Mỹ biết rằng trong giới trẻ tuổi Hoa Kỳ có những thanh niên can đảm tuyệt vời, nhưng vì không bao giờ nghi ngờ gì đến sự kiện đó, sự tường thuật các chiến công này càng làm trầm trọng tổng mối oán hận sự bất lực của các giới lãnh đạo.


Với ý thức vận động quần chúng bén nhạy, Roosevelt hiểu rằng phương cách duy nhất để tái lập lại lòng mến chuộng của dân chúng là tổ chức một hành động lừa dối ngoạn mục mà ông vừa có ý tưởng thoáng qua. Cơ hội đã đến do một Đại tá phi công thuộc Lục quân Mỹ, chuyên viên oanh tạc, tác giả một kế hoạch mà mục tiêu không hơn không kém là ném bom xuống Đông Kinh. Điểm xứng đáng nơi Tổng thống là quan tâm đến kế hoạch này, một kế hoạch mà ban sơ vào thời kỳ đó dường như phát sinh từ một dưỡng trí viện.


Viên Đại tá, tên James Doolittle, cam đoan là có thể cất cánh từ một hàng không mẫu hạm với các oanh tạc cơ trung bình B-25 Mitchell vừa mới được mang ra sử dụng, bay đi ném bom xuống Đông Kinh rồi sau đó cầu may bằng cách cố bay đến Vladivostok hoặc tất cả phi trường bạn trên lãnh thổ Trung Hoa. Roosevelt ra lệnh cho chỉ huy trưởng không lực thuộc Lục quân và các chuyên viên không lực thuộc Hải quân nghiên cứu dự án này. Tất cả đều có ý kiến rằng mặc dầu quá táo bạo, nhưng cũng có đủ may mắn để thành công, nên thử. Thoạt tiên có vẻ lơ là, Đô đốc King sau này cũng để cho bị thuyết phục vì ông thấy đã có hàng không mẫu hạm Hornet chiếc mới nhất cùng loại với các mẫu hạm Yorktown, Enterprise vừa chấm dứt chạy thử sau nhiều sự thay đổi. Vì chiếc mẫu hạm này cần thực hiện một chuyến hải hành để thử sức chịu đựng, cơ hội này rất tốt để thử thách nó mà không vì thế làm chậm trễ sự tham chiến của nó trên chiến trường Thái Bình Dương.


Ngày 4 tháng 4 năm 1942, hàng không mẫu hạm Hornet nhổ neo từ San Francisco với 16 oanh tạc cơ B-25 đậu trên sàn, và 80 phi công sẽ lái chúng bay đi tấn công. Sau cuộc ghé bến Trân Châu Cảng và được thông báo các tin tức cuối cùng về các phi trường có thể đáp xuống được tại Trung Hoa, chiếc Hornet lại khởi hành đến một điểm hẹn với lực lượng đặc nhiệm chung quanh chiếc Enterprise do Phó Đô đốc Halsey chỉ huy và sẽ hộ tống nó cho đến cách bờ biển Nhật Bản 700 cây số và sau đó đưa nó trở về hải cảng sau khi phóng các phi cơ lên không.


Phần đầu của cuộc hải hành không xảy ra chuyện gì, nhưng bình minh ngày 8 tháng 4 năm 1942 (ngày theo Đông Kinh), lúc đi vào hải phận do Nhật kiểm soát, lực lượng đặc nhiệm thấy một chiếc phóng ngư lôi hạm địch. Hải pháo của các hộ tống hạm hành động tức khắc và đánh chìm chiếc tàu chiến của Nhật lúc ấy dại dột muốn cắt ngang đường của hạm đội Mỹ. Trước biến cố bất ngờ này, Doolittle và Halsey kinh hoàng. Làm sao biết được liệu trước khi chìm, quân Nhật có kịp gửi đi lời kêu cứu SOS và báo động Đông Kinh hay không? Tung ngay cuộc tấn công trước giờ ấn định há chẳng hơn sao? Chiếc Hornet còn cách duyên hải Nhật đến 1.200 cây số, một khoảng cách vượt quá xa mức dự liệu, nhưng đó là cách duy nhất chắc chắn có thể đến được mục tiêu trước khi nhà cầm quyền Nhật cho áp dụng các biện pháp đề phòng.


Trong một chớp mắt quyết định đã dứt khoát. Doolittle bình tĩnh ra lệnh và đích thân xem xét mọi thứ sẵn sàng. Động cơ của 16 oanh tạc cơ bắt đầu nổ và Doolittle leo lên chiếc đầu tiên. Đến 8 giờ 18 phút, ông nhả thắng và chạy trên phi đạo đầy bọt nước biển do các lượng sóng cao phủ lên. Giờ phút ấy thật cảm động. Ai cũng rung sợ phải thấy chiếc phi cơ của vị chỉ huy đâm xuống biển. Mặc dầu sóng lớn, ông Đại tá đã cất cánh theo một kiểu cách hoàn hảo. Lợi dụng các đợt sóng nhấp nhô, 15 chiếc khác cất cánh tiếp theo cách nhau vài phút. Từ trên đài chỉ huy chiếc Enterprise, Đô đốc Halsey đưa mắt nhìn theo một lát rồi ra lệnh cho hạm đội mở hết tốc độ quay trở về Trân Châu Cảng, vì lúc bấy giờ hạm đội đang ở sâu quá trong vòng bán kiín hoạt động của các thuỷ phi cơ thám sát thuộc hải quân Nhật.


Trong lúc đó, đoàn oanh tạc cơ tập họp thành đội hình, và bay là là mặt biển để tránh khỏi bị rada đối phương khám phá, hướng thẳng đến Đông Kinh. Trên suốt đường bay, phi đoàn không hề gặp một phi cơ nào của địch. Trong thực tế, trước khi bị chìm, chiếc tàu tuần tiễu của Nhật đã kịp gửi đi hiệu lệnh kêu cứu và chỉ rõ vị trí của mình. Khoảng cách với duyên hải xa quá khiến cho tín hiệu mơ hồ đến nỗi Bộ Tư lệnh Nhật không tin là phải báo động ngay tức khắc cho các lực lượng không quân.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #44 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:18:21 am »

Cuộc đột kích của Doolittle được thực hiện đều đặn như kim đồng hồ xoay. Giữa trưa, trong khi các đường phố Đông Kinh đang bày cảnh náo nhiệt thường lệ, tiếng phi cơ gầm thét làm mọi người ngước mặt nhìn lên. Ai cũng nghĩ là một cuộc biểu dương sức mạnh mới của không quân và sau vài phút ngưỡng mộ, lưu thông trở lại nhịp bình thường. Nhưng tiếng bom đầu tiên nổ và tiếng cao xạ DCA đã mau lẹ biến niềm say sưa chiến thắng êm dịu ấy thành thái độ sửng sốt. Đám đông hỗn loạn ùa chạy để kiếm chỗ ẩn thổ sơ trong vài ngôi nhà đúc tại khu vực trung tâm. Các xe chữa lửa chạy như bay trong các đường phố chật hẹp trong khi còi báo động hú vang. Và khi khói lửa từ các đám cháy bốc cao lên bầu trời trong tiết xuân kế cạnh Hoàng cung, sự sửng sốt của quần chúng biến thành sự kinh hoàng.


Tại Tổng hành dinh Thiên hoàng, các chức sắc cao cấp sửng sốt đến nỗi phải một lát sau họ mới quyết định được các biện pháp, Nagano ra lệnh cho Yamamoto cho hạm đội nhổ neo ngay lập tức. Tất cả các khu trục cơ của Nhật đều cất cánh để ngăn chặn. Nhưng đã quá trễ! Đoàn B.25 đã bay đi mà không cần biết đến kết quả. Cả 16 chiếc đều bình an, nhưng chúng còn phải trải qua giai đoạn khó khăn nhất. Số xăng rất ít còn lại không cho các phi công cơ may bay đến các phi trường Trung Hoa. May thay một luồng gió mạnh từ đằng sau đẩy họ về phía lục địa Á châu, nhưng những cơn giông và thì giờ chậm trễ đã làm họ mất khả năng định hướng.


Những thử thách gay go đang chờ đợi họ. Các sự bố trí để đón họ trên các phi trường Trung Hoa đã không được nghiên cứu kỹ. Vì các lý do phải giữ bí mật, người ta đã lơ đễnh không báo trước rằng họ sẽ đến, cho một người duy nhất có thể đảm bảo sự thành công của họ: Tướng Claire Lee Chennault, người vẫn luôn luôn ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch nhưng giờ đây là Tư lệnh Không lực 14 của Mỹ. Ông tướng ấy là một Outsider, một người ngoài, vốn đã rời khỏi quân đội từ nhiều năm qua và được gọi trở lại phục vụ trong những điều kiện giống y như Mac Arthur nghĩa là do các biến cố thúc đẩy. Những đấng thanh giáo tại Ngũ giác đài coi ông như là một người làm trò múa rối vì ông coi thường các quy tắc ước lệ và đã cách mạng hoá chiến thuật săn giặc bằng cách bắt các phi công tập nhào lộn từng nhóm thường làm quan khách rùng mình. Nhưng kinh nghiệm cho thấy ông có lý và các kết quả phi thường đạt được trong các cuộc không chiến chống Nhật tại Trùng Khánh và Miến Điện, trong lúc trên khắp tất cả các chiến trường khác Không quân Mỹ chỉ ghi nhận toàn thất bại, đã bắt buộc Bộ Tổng Tư lệnh phải xin lỗi. Chennault đã tổ chức một hệ thống canh chừng trải dài cho đến tận khu vực bị chiếm đóng của Trung Hoa. Vậy thì chắc chắn là ông có thể hướng dẫn các oanh tạc cơ của Doolittle đến các phi trường yên ổn. Nhưng vì lý do bí mật, người ta đã lơ là không chịu báo tin cho ông.


Kết quả thật thê thảm. Ngay khi bay đến được bờ biển, các phi công nhận thấy rằng tìm một phi trường để đáp trong bóng tối bi thảm này là một điều gần như không thể được. Doolittle và phi hành đoàn, chiếc đầu tiên, nêu gương, và nhảy dù ra khỏi phi cơ. Họ được phi haàn đoàn 9 chiếc khác bắt chước ngay, 50 chiếc dù mở ra trong đêm tối, một chiếc bị tréo dây làm cho một quân nhân thiệt mạng. Các chiếc B-25 khác toan tính đáp xuống đất ngay khi họ lờ mờ phân biệt được hình dáng bờ biển, và họ đã gặp nhiều hoàn cảnh bất ngờ khác nhau. Một chiếc rơi xuống biển nhưng khá gần bờ nên phi công và phi hành đoàn bơi vào bờ được. Một chiếc khác lật úp trong ruộng lúa, may thay không bị thiệt hại nhiều. Chiếc thứ ba có số phận bi thảm hơn: đâm xuống một giải cát và tất cả phi hành đoàn đều bị thương ít nhiều. Trong số ba chiếc còn lại, một chiếc bay hướng về Mãn Châu và đáp xuống được cách Vladivostok 35 cây số. Hai chiếc khác rơi và giữa vùng bị Nhật kiểm soát. Trong số 10 nhân viên phi hành, hai người bị chết đuối trong khi cố gắng thoát ra khỏi phi cơ, 8 người khác bị bắt ngay. Bị kết án là đã oanh tạc vào vị trí không có tính cách quân sự, họ bị mang ra xét xử. Hai sĩ quan và một trung sĩ bị tử hình và bị treo cổ sau khi bị tra tấn, năm người bị đưa vào trại tập trung trong đó một người bị chết ngày vì kiệt sức.


Nhờ may mắn lạ kỳ, phần đông các phi công khác đều sống sót sau cuộc phiêu lưu kinh hồn. Nhờ sự tận tuỵ của nông dân Trung Hoa đến đón, họ thoát khỏi các đoàn tuần tiễu Nhật, và đến được Trùng Khánh sau không biết cơ man nào là nghịch cảnh. Sau nhiều tháng lo âu chờ đợi người ta được biết rằng trong số 80 nhân viên phi hành của chiếc Hornet chỉ có 8 tử trận hay bị mất tích. Rõ ràng đấy là một tỷ lệ nhỏ bé so với một cuộc đột kích táo bạo nhất trong lịch sử. Nhưng không có một chiếc B-25 nào kịp thời được thu hồi lại cả. Là người rất cần các phi cơ này và biết rằng có thể cứu chúng thoát nếu được báo tin, Chennault đã phản đối Ngũ Giác Đài một cách dữ dội. Hố chia cách giữa con người đởm lược ấy và các thượng cấp của ông sau đó không ngừng rộng thêm ra-làm cho nước Mỹ bị thiệt hại nhiều nhất, bởi vì đó không những chỉ là chiến thuật gia lỗi lạc nhất về không lực săn giặc, mà còn là người Mỹ duy nhất có các dữ kiện hính xác nhất về Trung Hoa và dân tộc xứ ấy.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #45 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:19:20 am »

Đêm canh cùng chiến trận

Kết quả đầu tiên của vụ đột kích Doolittle là đặt lại trên bàn hội nghị của Tổng hành dinh Thiên hoàng vấn đề vòng đai chu vi Đại Đông Á còn bỏ dở dang. Sau cuộc nghiên cứu các B-25 mà những mảnh vụn được tìm thấy tại trung Hoa, phải chấp nhận một sự thật hiển nhiên: các phi cơ này cất cánh từ trên một hàng không mẫu hạm. Chứng cớ cho thấy rằng quần đảo Nhật bị bỏ trống trải trên các mạn sườn phía bắc và phía đông. Một lần nữa Yamamoto đã thấy đúng. Cần phải áp dụng kế hoạch tấn công Midway của ông để ngăn không cho Thiên hoàng bị xúc phạm theo kiểu này một lần nữa. Trái bom duy nhất rơi vào trong ngự viên tại hoàng cung đã dấy lên một sự xúc động mà toàn diện mọi người đều cùng lúc cảm thấy.


Song lẽ, vì các mệnh lệnh liên quan đến cuộc xâm chiếm quần đảo Salomon phía bắc và hải cảng Port-Moresby đang được xúc tiến thi hành, Tổng Tư lệnh Nagano khẩn nài để cho các cuộc hành quân này được tiếp tục. Nhật Bản đang ở vào cực điểm của sức mạnh; do đó rất có thể mở cuộc tấn công cùng lúc trên cả hai mặt trận. Yamamoto chịu điều khiển cuộc hành quân mà không kêu gọi hai hàng không mẫu hạm đang canh chừng ngoài khơi Salomon. Lực lượng của hạm đội liên hợp có sẵn trong vùng hải phận chính quốc-4 hàng không mẫu hạm lớn, 2 mẫu hạm nhẹ, và toàn diện hạm đội thiết giáp hạm đối với ông có vẻ đủ để chiếm Midway và quần đảo Aléutiennes.


Yamamoto rời Đông Kinh với thẩm quyền toàn diện do Bộ Tổng tham mưu giao phó cho, và trở về soái hạm-chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Yamamoto-để chỉnh bị lại các kế hoạch hành quân. Tay cao cờ điên cuồng này sắp làm tiêu tan hẳn hay gia tăng gấp đôi danh tiếng vang lừng là một lãnh tụ chiến tranh của mình.


Tại Mỹ, cuộc đột kích Doolittle đã làm bùng lên một niềm phấn khởi lạ kỳ. Báo chí bất chấp liêm sỉ phóng đại tầm quan trọng của các thiệt hại vật chất đã được giáng lên đầu người Nhật, và tung ra một tấm màn trinh liệt che đậy các điều kiện tiếp đón các phi hành đoàn tại Trung Hoa. Công luận lắng dịu một thời gian. Như vậy là mục tiêu đã đạt được.


Không bị xúc động vì niềm say sưa chiến thắng hời hợt này, King không có ảo tưởng nào đối với những ngày sắp đến mà nay đang được chuẩn bị. Chiếc máy trứ danh Système Magic, vốn đang có vẻ gục từ vụ Trân Châu Cảng, vừa mới bừng tỉnh dậy ít lây nay. Cho đến lúc đó nó chỉ được khai thác để mở các khoá mật mã ngoại giao; mệnh lệnh im lặng vô tuyến dược các chiến hạm Nhật tôn trọng triệt để không cho phép thu thập đủ yếu tố thiết lập lưới mật mã của địch. Nhưng giờ đây, nhiều hạm đội Nhật được rải ra trong vô số căn cứ Hải quân phía Nam Thái Bình Dương, chúng trao đổi tín hiệu cho nhau theo một loại mật mã PK-2 mà các chuyên viên điều khiển Magic đã giao phó cho sự khôn ngoan của bộ máy kỳ diệu này. Kể từ giữa tháng 4 năm 1942, khối lượng các tín hiệu này cho phép nghĩ rằng có cái gì rất đáng nghi đang bắt đầu tại phía Nam và King đã yêu cầu các chuyên viên giải mật mã gia tăng nỗ lực gấp đôi để chọc thủng màn bí mật của khoá PK-2. Vào cuối tháng, họ gần như đã đạt kết quả và King đã có thể báo trước cho Nimitz cuộc đổ bộ rộng lớn của Nhật phía Bắc Salomon và tại Port-Morseby.


Thật dúng lúc! Hai mẫu hạm Enterprise và Hornet đã không trở về hải cảng sau chuyến khứ hồi nhằm hướng Đông Kinh chiếc Lexington thì có mặt tại Trân Châu Cảng để được tiếp tế và cho thuỷ thủ đoàn nghỉ ngơi đôi chút, sau khi liên tục chiến đấu từ đầu; chiếc Yorktown đang được chăm sóc lại tại Tongatabu (quần đảo Fiji). Nimitz liền ra lệnh cho hai chiếc sau nhổ neo đến điểm hẹn ngày 30 tháng 4 cùng với các tuần dương hạm có mặt tại phía Nam. Hơn nữa ông hứa với Ghormley là sẽ phái cho ông chiếc Enterprise càng sớm càng tốt. Giao cho Đô đốc Fletcher lực lượng đặc nhiệm được cấu tạo như thế, ông chỉ ra một huấn thị ngắn gọn “chống lại cuộc đổ bộ của địch và tiêu diệt hải lực địch”.


Ngày 2 tháng 5 năm 1942 các hàng không mẫu hạm Mỹ tiến vào biển Corail theo ngõ phía Nam đang ngay lúc vài tuần dương hạm Nhật hộ tống vài dương vận hạm đến Tulagi men dọc theo đảo lớn Bougainville mà một phần đã bị Nhật chiếm đóng. Một “trinh sát viên cận duyên” người Tân Tây Lan ở lại đảo cho đến phút chót và rút lui về Santa-Isabel cùng với chiếc máy phát tin bằng một xuồng của người bản xứ, đã cung cấp tin này cho Tổng hành dinh của Mac Arthur, Fletcher đã được báo trước, liền cho một phi cơ trinh sát cất cánh lúc rạng đông ngày 3 tháng 5. Ông nhận được điện vắn tắt sau; “Chiến hạm tập trung trong hải cảng Tulagi”.


Bắt đầu quen thuộc với biển Corail, Fletcher biết ngay Tulagi nằm ở đâu. Một hòn đảo nhỏ không có gì quan yếu, bị vô số đảo nhỏ bao bọc chung quanh, nhưng có thể neo chiến hạm rất tốt và được chọn lựa vì vị thế trung tâm như là thủ đô hành chính của quần đảo Salomon. Ông nghĩ rằng phải toan tính để trục quân Nhật ra khỏi đấy. Các hàng không mẫu hạm Yorktown và Lexington được lệnh men theo bờ phía Nam đảo Guadalcanal và phóng các oanh tạc cơ vượt ngang qua các rặng núi trên đảo xa để xuất hiện đột ngột từ trên các chiến hạm địch đang bỏ neo tại Tulagi.
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Sáu, 2010, 11:08:03 pm gửi bởi lonesome » Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #46 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:20:08 am »

Đến trưa ngày 3 tháng 5 năm 1942, các phi công trở về gần như toàn vẹn. Cứ theo lời họ thì quân Nhật hoàn toàn bị đánh bất ngờ và cửa biển Tulagi ngập đầy xác tàu. Đối với ngày chiến thắng đầu tiên các phi công Mỹ còn quá lạc quan hơn cả những đồng nghiệp Nhật Bản của họ…


Sau khi đi lại tuần phòng đến tối một cách vô ích vì không thu được tin nào mới về lực lượng hải quân địch, lực lượng đặc nhiệm của Fletcher chạy xuống phía nam để kịp đến điểm hẹn vào bình minh hôm sau với chiếc tàu dầu vĩ đại Neosho sẽ đến tiếp tế cho các chiến hạm.


Công cuộc tiếp tế kéo dài suốt ngày 4  tháng 5. Công việc kéo ngang các vòi dầu cặn giữa các chiến hạm đang chạy, việc chuyển giao thư từ do chiếc Neosho mang đến việc trao vài tân binh đổi lấy các quân nhân trừ bị được giải ngũ, đã tạo nên không khí náo nhiệt và đầy lạc quan gữa các thuỷ thủ đoàn. Rồi cuộc tuần hành lại tiếp tục hướng về bắc, và đêm tối trải qua mà không có biến cố nào làm rộn chuyến hải hành bình yên này. Đô đốc bắt đầu nghi ngờ giá trị của tin tức do Trân Châu Cảng chuyển đến trong khi nhìn thì giờ trôi qua. Các cuộc tuần tiễu bằng phi cơ thám thính liên tục từ sáng sớm đã không hề báo hiệu một tí gì về việc trông thấy “Kanawishi-thuỷ phi cơ thám thính vĩ đại của Nhật” vẫn không ngừng bay lượn trên các bờ biển Corail.


Vào khoảng 4 giờ chiều, khi các lời bình luận tuôn tràn trên các cầu tầu cũng như trong các phòng thường trực báo động, trong lúc gió kéo mây che kín một bầu trời vốn đã mờ mờ vì sương mù, thì các loa phóng thanh của tất cả các trung tâm thu tin trên các chiến hạm đã làm chấn động các hiệu thính viê đang ngủ gật:

“Ariel gọi Yorktown; Kanawishi ở phía bắc, cao độ 18.000 bộ!”

Tất cả các phi cơ đang bay đều nghiêng cánh hướng về phía kẻ nhìn trộm và các loa phóng thanh vẫn vang dội không ngừng tiếng nói chát tai; Joan gọi Ariel; hiểu rồi tôi theo anh”, ”Lily gọi Kate: tôi thấy có cái gì trong 320, tôi đến đó”…

Nhưng cơn mưa nhiệt đới đã chấm dứt những sự thổ lộ không mấy kín đáo này. Mẫu hạm Yorktown báo hiệu cho tất cả: “Trở về tàu”. Chiếc Kanawishi biến mất sau khi phát một tín hiệu, Đô đốc Nhật Bản biết chắc được thành phần và vị trí của lực lượng đặc nhiệm Mỹ.


Đêm 6 rạng ngày 7 tháng 5 năm 1942 ấy, mây tan mau lẹ trên bầu trời, làm như Thượng đế muốn cho những kẻ có thể chết vào ngày mai trông thấy một lần cuối cảnh đẹp nhất của vũ trụ. Dường như các hàng không mẫu hạm kéo theo sau dòng sông Ngân hà uốn lượn chập chờn theo làn sóng biển vỡ tan tành tô điểm một chỏm bạc trên các bóng đen di động ban đêm. Tất cả đều vĩ đại và đẹp mê hồn trong cái im lặng dửng dưng của vũ trụ ban đêm. Các thuỷ thủ trinh sát đêm đứng trên các cầu tàu, các sĩ quan trực nhật, các hạm trưởng, các hoa tiêu trong thế báo động đều ngắm nhìn quang cảnh đ nhất phô diễn trước mắt họ trong tứ ánh sáng thanh cao trác tuyệt này.

Chắc những người sống sót sau trận hải chiến sẽ không bao giờ quên được.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #47 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:20:43 am »

Biển Corail

Không nên đánh nhau trong một vùng biển san hô. Các bên đối phương của năm 1942 nhờ đấy mà có kinh nghiệm trên. Những ngày 7 và 8 tháng 5 chỉ là những ngày đầy ngộ nhận, hỗn độn và lầm lỗi to lớn.


Trong cái góc đó và vào thời kỳ này, những trò quỷ quái của thời tiết chắc chắn là đứng về phe Nhật Bản, bởi vì hạm đội của Takagi, người được Inoue giao cho quyền chỉ huy cuộc hành quân Mo-đánh Moresby-chuyển dịch dọc theo phía bắc Salomon, rồi đến tận quần đảo Louislade mà không lúc nào gió mùa ngừng mang phủ bên trên một lớp mây dày che chở. Hệ thống bố trí của Takagi gồm có 2 phần: một lực lượng đổ bộ được hộ tống bởi vài trung đoàn và một hàng không mẫu hạm nhẹ-chiếc Soho-và một lực lượng che chở gồm có hai mẫu hạm lớn nhất của hạm đội Nhật, chiếc Shokaku và chiếc Zuikaku mà sứ mạng là che chở từ xa và không quá tiến sâu vào cuộc hành quân đổ bộ dường như không có gì là khó khăn đặc biệt.


Trong khi các dương vận hạm chở quân đổ bộ và các chiến hạm hộ tống tập họp tại quần đảo Shortland phía nam Bougainville, hai chiếc Shokaku và Zuikaku thì tuần tiễu phía đông Salomon. Chúng chỉ phải tiến vào biển Corail vào phút chót để nếu cần, giáng một đòn từng phạt làm gương cho những hải lực nào của đối phương dám mạo hiểm vào đấy.


Phút chót nói đây là ngày 7 tháng 5, ngày mà các dương vận hạm chở quân đổ bộ được vài phi cơ của chiếc Soho che chở sẽ phải băng ngang qua quần đảo Shortland tại eo biển Jomard (Louiside) theo đường chéo phía bắc biển Corail.


Lúc ấy Takagi không được biết một tí gì về vị trí của lực lượng đối phương. Do vậy, ông đưa đoàn công voa chở quân đổ bộ tiến vào biển Corail mà không có một chỉ dẫn nào khác hơn là một sự nghi ngại mơ hồ rằng nhóm phi cơ nhỏ bé đã từng tấn công Tulagi ngày 4 tháng 5 rất có thể là đã cất cánh từ một hàng không mẫu hạm nào đó. Gia dĩ đó là một viễn ảnh không làm ông sợ mà còn mong cho xảy ra là đằng khác. Theo tin tức tình báo mà ông biết thì hiện có ba mẫu hạm Mỹ trong vùng bắc Thái Bình Dương và một mẫu hạm ở phía Nam, ít có thể nào-ngoại trừ phải là một phù thuỷ-mà nó lại biết ngày và giờ của cuộc tấn công Port-Moresby. Takagi tin cậy vào các phi cơ thám thính Kanawishi có tầm hoạt động rất xa để được thông báo trước các sự xê dịch của đối phương.


Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên… chiếc mẫu hạm Mỹ nói đây không phải là chiếc duy nhất và ngoài ra, vì bộ máy Magic, nó lại là một phù thuỷ.

Bình minh ngày 7 tháng 5 năm 1942, tất cả đã được khởi động với một sự mau lẹ sấm sét. Phi vụ thám thính đầu tiên do chiếc Yorktown phóng lên đã khám phá lực lượng đổ bộ Nhật trong eo biển Jomark. Bốn phi đoàn lập tức cất cánh tấn công và chiếc mẫu hạm đáng thương Sôh của Nhật bị đánh bất ngờ trước khi kịp phóng các phi cơ của mình lên không trong không đầy 15 phút đã lãnh đủ 13 trái bom và 7 thuỷ lôi. Các phi đoàn Mỹ khi rút lui còn thấy nó chìm tỏng một chùm tia lửa khổng lồ. Khi ấy các dương vận hạm chở quân đổ bộ phân tán theo lệnh của người chỉ huy lực lượng hộ tống đang xét đoán không thể nào tiếp tục cuộc tấn công vào Port-Moresby vì thiếu sự che chở của không lực.


Gần như cùng lúc đó một Kanawishi đang tuần thám báo hiệu trông thấy phía đông nam  một mẫu hạm và một tuần dương hạm đang tìm cách thoát ra khỏi biển Corail. Lập ức Đô đốc Takagi ra lệnh cho các phi cơ thuộc hai mẫu hạm Shokaku và Zuikaku lúc ấy đang ở cách điểm chỉ định chừng 30 hải lý, cất cánh đuổi theo. Cuộc tấn công cũng diễn tiến với mức độ mãnh liệt như các phi công Mỹ đã làm với chiếc Soho và kết quả cũng rất thảm hại. Chiếc “mẫu hạm” bị tấn công phát hoả từ đầu đến đuôi và chìm lỉm sau một tiếng nổ kinh hồn… Những phi công oanh tạc sau cùng rất nóng nảy muốn tấn công mà chưa được may mắn ném bom, liền ùa đến chiếc “tuần dương hạm” đang toan tính một cách tuyệt vọng chạy trốn sau một màn khói. Nó bị bắt kịp và đến lượt bị đánh chìm ngay khiến cho các phi công chiến thắng không kịp ý thức được các lầm lẫn tai hại kế tiếp nhau: Chiếc tàu lớn có hình dáng khổng lồ mà họ cho là một hàng không mẫu hạm, không gì khác hơn là chiếc tàu dầu vô tội Neosho đã trút hết dầu cho các chiến hạm; riêng chiếc “tuần dương hạm” thì thật ra đấy là chiếc khu trục hạm Sima được giao nhiệm vụ hộ tống tàu dầu.


Khi trở về mẫu hạm, các phi công Nhật được đón tiếp như thường lệ sau một đại chiến công và mãi nhiều giờ sau đó, khi đối chiếu các bằng chứng thu thập được, ban tham mưu của Takagi mới bắt đầu nghi ngờ sự thật được báo cáo.


Trong thời gian này Đô đốc Nhật Bản được biết cuộc mạo hiểm ghê rợn đã xảy đến cho mẫu hạm Soho và lần này được thông báo tin tức chính xác hơn về lực lượng đặc nhiệm Mỹ nhờ một Kanawishi khác trông thấy rõ, ông liền ra lệnh cho tất cả oanh tạc cơ có sẵn cất cánh truy lùng.


Chiều xuống đã lâu và những cơn mưa rào nhiệt đới lại bắt đầu. Một trận đụng độ hỗn loạn giữa các phi cơ đã xảy ra tại phía tây, trong đó các oanh tạc cơ cất cánh từ Rabaul đến cứu viện chiếc Soho khai hoả vào bất cứ chiến hạm nào vừa trông thấy, trong khi đó các pháo đài bay B-17 của Mac Arthur cũng làm như vậy.


Trong tiìn trạng không thể nào tái lập trật tự ngay gữa cuộc thao diễn lực lượng ấy, Fletcher đã kêu các đoàn tuần tiễu của ông trở về để giữ cho lực lượng còn nguyên vẹn dành cho trận chiến quyết định mà ông tiên liệu sẽ xảy ra ngày mai.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #48 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:21:21 am »

Vào khoảng 6 giờ chiều, tất cả phi cơ của chiếc Yorktown và chiếc Lexington đều đáp xuống mẫu hạm ngoại trừ một. Đêm tối mịt. Mưa rào nối tiếp nhau. Các toán chuyên viên làm việc trên các sàn tàu trơn trượt. Trên boong những trinh sát viên ban đêm dò xét chân trời để kiếm chiếc phi cơ về trễ.


Đột nhiên một ánh lửa chớp chớp trong mây. Đấy chỉ có thể là chiếc phi cơ đang được chờ đợi. Người ta thấy nó hạ dần xuống chiếc Lexington, và các đèn rọi được thắp sáng để đáp lại dấu hiệu nhận nhau.


Vài giây sau, ha, ba, bốn, năm ánh sáng xuất hiện tiếp theo sau chiếc thứ nhất. Từ trên đài chỉ huy chiếc Lexington người ta thấy chúng bay thành hàng theo một tứ tự không chê vào đâu được. Một phi đoàn phi cơ Nhật sắp đáp xuống chiếc Yorktown! Sự xuất hiện này đã tạo ra sửng sốt đến nỗi không ai nổ súng… Phải đợi đến lúc chiếc phi cơ về trễ ý thức được mình bị rơi vào tổ ong vò vẽ nên xả một tràng đại liên, thì các giàn cao xạ DCA trên các chiến hạm mới quyết định khai hoả. Đoàn phi cơ của mẫu hạm Shokaku (vì quả thật là chính nó) biến mất trong đêm tối không cần biết chuyện gì xảy ra sau đó.

Đấy là điểm chấm hết cho một ngày lừa phỉnh nhau. Trong cả hai bên đối thủ, thần kinh nghiệm của các phi công bị thử thách nặng nề.


Đêm tối trôi qua, sau đó quả là một đêm canh chừng đụng trận. Giờ đây, mỗi người đều biết rằng hai lực lượng đặc nhiệm cách nhau rất gần và bình minh hôm sau sẽ xảy ra trận đánh quyết định. Số phi cơ của mỗi bên đối phương gần bằng nhau: vào khoảng 120 chiếc. Riêng về phẩm chất thì rõ rệt bên phía Nhật có ưu thế hơn: khu trục cơ Zéro trội hẳn loại Wildcat của Mỹ, các oanh tạc cơ đâm bổ có giá trị bằng nhau, nhưng các phi cơ phóng thuỷ lôi Nhật và nhất là các quả thuỷ lôi của họ thì rõ rệt vượt xa những chiếc TBD Devastotor của Mỹ.


Bình minh ngày 8 tháng 5 năm 1942, các phi cơ tuần thám của 2 bên cất cánh cùng một lúc, các mẫu hạm Nhật ở phía Bắc nhờ thời tiết mưa gió nên được che chở tương đối. Chiếc Yorktown và chiếc Lexington chạy phía nam rất lộ liễu và bị khám phá trước tiên bởi một phi cơ của Shokaku nó báo động ngay lập tức.


Vài phút sau một phi cơ của chiếc Yorktown nhờ một khoảng trời sáng, may mắn trông thấy hạm đội Nhật liền thông báo vị trí cho Đô đốc Fletcher, ông cho phi đoàn của mình cất cánh ngay.


Quân Nhật đã tung phi cơ của họ để tấn công. Thế là hai đoàn phi cơ giao nhau trên không mà chẳng trông thấy nhau. Lần đầu tiên trong lịch sử, hai hạm đội sắp đương đầu với nhau ngoài tầm mắt trông rõ không phả bằng hải pháo, mà bằng không lực của mình.


Cuộc đọ sức không rõ ràng gì lắm. Được ưu thế nhờ thời tiết, phi cơ Nhật cùng lúc tấn công vào cả hai chiếc Yorktown và Lexington. Chiếc thứ nhất lãnh hai trái bom, chiếc thứ hai, ba quả trong đó có một quả nổ dưới đáy tàu. Đã có lúc Fletcher tin là bại trận rồi vì chằng có tin tức gì về cuộc tấn công của đoàn phi cơ Mỹ. Do vậy ông vô cùng thoải mái khi nghe qua loa phóng thanh giọng nói của một phi công thuộc chiếc Yorktown vốn đang la hét trong một trạng thái phấn khích vô bờ: “Mẫu hạm địch bốc cháy! Tôi đến thanh toán nó đây!”. Sau đó ông phải chờ phi cơ của mình chở về mới biết được kết quả của trận chiến.


Trong thực tế, vì bị mây cản trở, các phi đoàn Mỹ chỉ có thể tấn công một mẫu hạm Nhật mà thôi. Chiếc Shokaku vốn thật sự chỉ bị hai quả bom. Sàn đáp bị thổi bay đến nỗi không thể đón bất cứ chiếc phi cơ nào của nó được, nhưng chiếc Zuikaku thì hoàn toàn còn nguyên vẹn.


Thấy chiếc Lexington dường như đã làm chủ được ngọn lửa và có thể chạy với tốc độ 25 nút, Fletcher ra lệnh cho hạm đội xuôi về phía Nam với tốc độ này. Ông đã bẻ gãy cuộc tấn công của địch, nên ông rời bỏ chiến trường, thì cũng  là trong thế của kẻ thắng và trong sự hài lòng.


Bên phía Nhật, căn cứ vào báo cáo của các phi công, Takagi ước tính rằng hai mẫu hạm Mỹ đã bị đánh chìm và ra lệnh cho hạm đội quay trở về Rabaul.


Nói chung các Đô đốc của hai bên đều ca khúc khải hoàn và đấy là hậu quả bất ngờ của trận hải chiến theo một kiểu hoàn toàn mới lạ này.


Không một vị Đô đốc nào lại có cái nhìn bao quát về trận đánh và không ai có thể can thiệp trong khi trận đánh đang diễn tiến. Do đó không ai ngạc nhiên khi thấy con số ước lượng của họ về mức thiệt hại của đối phương có đôi phần giàu tưởng tượng. Fletcher và Takagi nói chung đều đã đánh bóng mình, và chỉ có một cuộc phân tích chặt chẽ các báo cáo của họ, các ban tham mưu mới xác định được những nét chính của một chiến thuật chiến đấu ấu trĩ.


Trong thực tế, Đô đốc khó mà làm cho thượng cấp của ông thừa nhận rằng ông đã mang về một chiến công lớn lao nếu một biến cố bất ngờ không xảy đến, để xác nhận một cách chậm trễ báo cáo khoác loác của các phi công Nhật. Chiều ngày 8 tháng 5, trong lúc các toán an ninh của chiếc Lexington tin rằng đã diệt được ngọn lửa, thì một tiếng nổ kinh hồn làm rung chuyển đáy tàu. Vì cách xếp đặt cũ các hầm chứa xăng, một hỗn hợp chất khí nổ đã lan tràn trong một hầm tàu mà các vách thép mỏng đang còn nóng bỏng. Lửa lại vùng cháy dữ dội hơn, mặc dầu các đội cứu hoả nỗ lực tối đa cũng không làm sao chế ngự được. Lập tức nhiều tiếng nổ và đám cháy khác bùng lên và chiếc Lexington đáng thương, bùng cháy như cây đuốc mất hẳn lá và dàn máy, bắt đầu trôi theo làn gió như một xác tàu hư. Đến 17 giờ hạm trưởng (Đại tá F.Sherman) ra lệnh bỏ tàu, và các tuần dương hạm, khu trục hạm do Fletcher phái đến cứu các người bị thương lên trước rồi với các thuỷ thủ lành mạnh sau. Các toán an ninh còn tiếp tục chiến đấu chống lửa cho đến khi hạm trưởng chắc chắn đã không bỏ người nào lại sau. Rồi ông lại cho họ di tản và là người sau chót rời chiếc sàn tàu nóng bỏng cùng với Đô đốc Fitch, bằng một chiếc thang dây.
« Sửa lần cuối: 18 Tháng Sáu, 2010, 11:15:18 pm gửi bởi lonesome » Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


ptlinh
Admin Độc lập
*
Bài viết: 4005



WWW
« Trả lời #49 vào lúc: 27 Tháng Mười Hai, 2009, 07:21:46 am »

Đến 18 giờ 30 một tiếng nổ kinh hồn vang dội từ chiếc xác tàu: hầm chứa thuỷ lôi của phi cơ phóng thuỷ lôi phát nổ. Ngọn lửa chiếu sáng bầu trời bốc lên cao đến nỗi Đô đốc Fletcher phải ra lệnh cho một khu trục hạm dùng thuỷ lôi đánh chìm ngọn đuốc cháy rực ấy. Chiếc chiến hạm dũng cảm mà các đoàn thuỷ thủ thân mật gọi là “Lady Lex”, và cho đến lúc ấy, một mình đã lập thành tích nhiều hơn tất cả các chiến hạm Mỹ cộng lại, chìm từ từ xuống biển và biến mất dưới một đám mây hơi nước đang dập tắt ngọn lửa của đám cháy.


Hồi chung cục bi thảm của chiếc Lexington đã đập một đòn thẳng vào con tin Đô đốc Nimitz. Thành quả tuyệt vọng của Fletcher, ngăn chặn được cuộc xâm lăng của Nhật tại biển Corail, đã giúp ông lấy lại can đảm giữa các niềm lo âu mới đang tràn ngập tâm trí ông. Thật vậy máy Magic tiên báo rằng Yamamoto đang chuẩn bị một cuộc tấn công vĩ đại nhắm vào quần đảo Midway và phía tây quần đảo Aléoutiennets. Vì đã gửi chiếc Enterprise về phía Nam để hậu thuẫn cho lực lượng đặc nhiệm của Fletcher, tại Trân Châu Cảng, ông chỉ còn lại chiếc Hornet. Đây là một chiến hạm cực tốt vừa được mang ra sử dụng và được điều khiển một cách tài tình bởi Đại tá hạm trưởng Mitscher, một trong các phi công lỗi lạc nhất thuộc không lực hải quân, nhưng chưa bao giờ đụng trận. Như vậy không thể có vấn đề một mình ông đương đầu với cả hạm đội liên hợp. Thế mà Midway lại có thể bị tấn công ngày một ngày hai. Khi nào và bằng cách nào? Ông chẳng biết gì cả, nhưg điều ông chắc chắn là nếu quân Nhật đặt chân lên được các “quần đảo này vốn là đoạn cuối cùng của một dãy đảo nhỏ kéo dài thuộc quần đảo Hạ Uy Di, thì căn cứ Trân Châu Cảng quí báu vừa được xây dựng lại với biết bao khó nhọc sẽ thất thủ cũng mau lẹ như-nếu không phải là mau lẹ hơn-Hồng Kông và Tân Gia Ba.


Tình thế nghiêm trọng đến nỗi ông phải lấy ngay lập tức quyết định chủ yếu. Để cho sự rủi ro thêm toàn vẹn, Đô đốc Halsey ngã bệnh phải đi nằm nhà thương sau chuyến đột kích Doolittle trở về. Ông triệu dụng Đô đốc Spruance (thay Halsey chỉ huy lực lượng đặc nhiệm) và Đại tá Mitschet, hạm trưởng chiếc Hornet. Tất cả đều đồng ý khẩn cấp yêu cầu Hoa Thịnh Đốn gửi tất cả không lực có sẵn đến tăng viện để phòng thủ các quần đảo và không để mất một phút gọi mẫu hạm Enterprise và nếu có thể chiếc Yorktown trở về. Đối với chiếc sau, tất cả còn lệ thuộc vào các chỗ hư hỏng chưa được xác định.


Ít ra về phương diện này, tin tức giúp yên tâm mau lẹ. Máy tàu hoạt động bình thường và sàn tàu phi đạo có thể được sửa chữa tạm thời. Việc sửa chữa toàn diện sẽ được thực hiện tại Trân Châu Cảng trong vòng ba hay bốn tuần.


Nimitz ra lệnh cho Fletcher trở về Trân Châu Cảng với tốc lực tối đa và báo cho hải quâ công xưởng biết trước chi tiết các sửa chữa cần thiết để cho công tác có thể bắt đầu ngay khi chiếc Yorktown cập bến. Phía Nam chỉ còn lại năm tuần dương hạm Mỹ và bộ phận hải quân Úc thuộc Đô đốc Grace của Anh… Mặc kệ biển Corail, mặc kệ Mac Arthur và quần đảo Salomon. Trong hoàn cảnh hiện tại, chính Midway là nơi cần cứu vãn.


Đối với những người biết được bí mật, những ngày sắp đến sẽ trôi qua trong cơn sốt và trong nỗi âu lo. Magic không còn cung cấp thêm giữa về ý định của bộ chỉ huy tối cao Nhật Bản. Một tình trạng vô tuyến báo hiệu điềm xấu đã thay thế cho cảnh lắm lời thường lệ. Một sự im lặng tương tự như thế cũng đã xảy ra trước cuộc tấn công Trân Châu Cảng. Than ôi, rất có thể là cuộc hành quân M1 đã khởi động rồi.
Logged

Hãy để những xui xẻo qua đi, biến mất khỏi chúng ta
Để săn đuổi những mục tiêu mà chính chúng ta đã chọn


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM