Dự thảo Hiệp định của Hà Nội dự định đưa ngày 8 tháng 10 là căn cứ vào đề nghị mười điểm của ta ngày 26 tháng 9 và mười điểm của Mỹ ngày 27 tháng 9 gồm 10 chương, 23 điều khoản ngoài Lời nói đầu.
Chương I: Chỉ có một điều khoản là Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam: hoà bình, độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Chương II và III chấm dứt chiến sự ở miền Nam, miền Bắc, ngừng bắn, rút quân Mỹ (trong bốn mươi lăm ngày), trao trả những người của các bên bị bắt.
Chương IV là về thực hiện các quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Chương này, theo điện của Nguyễn Duy Trinh nói trên, gác lại những điều cụ thể về tổ chức cơ quan hoà hợp dân tộc ở miền Nam. Chỉ ghi nguyên tắc về quyền tự quyết, tổng tuyển cử, giừ gìn hoà bình, hoà hợp dân tộc và ghi một câu ngắn "thành lập Chính quyền hoà hợp dân tộc các cấp gồm ba thành phần với nhiệm vụ đôn đốc và giám sát các bên thi hành các Hiệp định ký kết".
Các chương tiếp theo là về vấn đề thống nhất Việt Nam, việc hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục kinh tế hai miền, Ban liên hợp, Uỷ ban quốc tế, Hội nghị quốc tế, đối với Lào và Campuchia; quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và các điều khoản khác.
Những điều khoản về quân sự, ngừng bắn, rút quân Mỹ được đề ra rất cụ thể, ký xong là thi hành ngay. Còn các vấn đề chính trị miền Nam thì sau ngừng bắn hai bên miền Nam sẽ hiệp thương để giải quyết. Uỷ ban quốc tế, Nguyễn Duy Trinh còn nói thêm: "Vấn đề này rất phức tạp nên điều gì rất cần thiết mới nói, điều gì chưa thật cần thiết thì đế sau này giải quyết".
Ngoài dự thảo Hiệp định ra, Hà Nội còn chuẩn bị một bản “Thoả thuận về những nguyên tắc thực hiện quyền tự quyết của nhân dân miền Nam" trong đó cụ thể hoá một số các chức năng, cách làm việc của cơ quan hoà hợp dân tộc và hệ thống các cấp.
Yêu cầu của ta trong các vấn đề này là ký được “Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam" vào khoảng 15 tháng 10 năm 1972, cùng lắm có thể kéo dài đến 20 tháng 10. Nếu chậm nữa thì Nixon sẽ vượt tuyển cử mà ta không còn thời gian để chuyển hướng đấu tranh.
Về cách ký kết, chỉ thị ngày 4 tháng 10 cho Paris chỉ rõ: “ta cần chủ động... buộc Kissinger phải tiến hành cuộc gặp riêng tới theo ý đồ của ta”. Theo tinh thần đó, Hà Nội chủ trương ngày 6 tháng 10, đoàn ta gửi trước văn kiện cho Mỹ, buộc Mỹ phải trả lời vào ngày mồng 8, nhưng đoàn ta ở Paris lui lại. Còn văn bản về quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, Hà Nội cho Paris biết: "Ký một lúc hoặc sau cũng được, nếu ký được thì tốt, không ký được thì thôi”. Nhưng thực tế sau này ngày 17 tháng 10, ta trao cho Mỹ và cả hai bên cũng không đề cập đến vấn đề đó nữa. Về việc ký kết, Hà Nội chủ trương Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mỹ với sự thoả thuận của đồng minh ký là đủ.
Để rút ngắn thời gian, ta chủ trương không ký các Nghị định thư nữa vì nội dung chính các Nghị định thư đã đưa vào Hiệp định.
Chỉ thị cũng nói thêm:
“Nếu trong cuộc gặp gỡ ngày 8, 9, 10 tháng 10 này ta và Mỹ đạt được thoả thuận cơ bản về nội dung Hiệp định thì ta đồng ý Kissinger vào Hà Nội một vài ngày sau cuộc gặp riêng... để cùng hoàn thành việc giải quyết vấn đề Việt Nam và bàn các vấn đề hai bên quan tâm... với điều kiện là Mỹ chấm dứt hoàn toàn ném bom và thả mìn Bắc Việt Nam".
Hà Nội cũng báo cho Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ chủ trương cần tranh thủ Liên Xô và Trung Quốc đồng tình với ta gây thêm sức ép với Mỹ. Vào khoảng mồng 6 tháng 10 Nguyễn Duy Trinh sẽ đi Liên Xô. Lê Thanh Nghị sẽ đi Trung Quốc thông báo chủ trương của ta và về hai văn kiện ta sẽ trao cho Mỹ (gần cùng một lúc với việc ta trao văn kiện đó cho Mỹ).
Thực tế thì trong ngày 9 tháng 10 tại Matxcơva, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brêgiơnép tiếp Nguyễn Duy Trinh và ở Bắc Kinh, Thủ tướng Chu Ân Lai tiếp Lê Thanh Nghị.
Brêgiơnép đánh giá cao chủ trương đưa dự thảo Hiệp định của ta và cho rằng đạt được hai mục tiêu cơ bản chấm dứt dính líu quân sự của Mỹ, công nhận thực tế ở miền Nam có hai Chính quyền là thắng lợi rất quan trọng. .
Còn Thủ tướng Chu Ân Lai bày tỏ “đồng tình với sách lược đấu tranh của Việt Nam và hứa quyết tâm ủng hộ Việt Nam”.
*
* *
Gần bốn năm qua, trong điều kiện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam chưa thuận lợi cho ta, ta kiên trì đòi giải quyết hai vấn đề quân sự và chính trị song song. Đó đúng là chiến lược chờ đợi chưa giải quyết như có lúc Kissinger đã nói. Đến nay ta chủ trương giải quyết vấn đề theo hai bước đầu tiên là vấn đề quân sự và một số nguyên tắc về vấn đề chính trị ở miền Nam, bước hai là để hai bên miền Nam giải quyết các vấn đề nội bộ miền Nam. Chủ trương đó phù hợp với thực tế khách quan ở miền Nam Việt Nam và xu hướng của đa số nhân dân và chính giới Mỹ lúc bấy giờ. Trước đây Kissinger cũng đã đề ra phương hướng tương tự nhưng ta chưa chấp nhận được. Thực tế lúc này đã khác. Sự linh hoạt của Hà Nội đã tỏ ra sáng suốt và đúng đắn.