Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:57:01 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris  (Đọc 197634 lần)
0 Thành viên và 2 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #240 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2009, 03:00:24 pm »

Vấn đề đối với Việt Nam là tiếp tục đòi giải quyết toàn bộ và tăng sức ép đòi Mỹ rút quân, buộc Mỹ định thời hạn rút hết quân trong năm 1971. Phía Việt Nam gắn vấn đề tù binh vào vấn đề rút hết quân Mỹ. Vấn đề tù binh mà Chính quyển Nixon dùng để kích động dư luận Mỹ và thế giới chống Việt Nam nay trở thành vấn đề mà họ phải đối phó.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời tập trung mũi nhọn vào Thiệu, vừa tăng sức mạnh tấn công vừa phân hoá tập đoàn lãnh đạo Sài Gòn, tranh thủ được dư luận. Chính phủ cách mạng Lâm thời chủ trương lập Chính phủ hòa hợp dân tộc thay vì lập Chính phủ liên hiệp lâm thời.

Ngoài ra, Chính phủ Cách mạng Lâm thời nói rõ thêm về chính sách hoà bình trung lập của miền Nam Việt Nam, nhấn mạnh khả năng mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá sau chiến tranh giữa miền Nam Việt Nam và các nước trên thế giới và với Mỹ.

Từ tháng 10 năm 1970, không có cuộc gặp riêng nào giữa Xuân Thuỷ và Kissinger nữa.

Cuối tháng 1 năm 1971, đại sứ Liên Xô I, Secbacôp ở Hà Nội thông báo cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng rằng: “Trung tuần tháng 1, Kissinger đã nói với Đôbrinin - đại sứ Liên Xô tại Washington - như sau:

- “Nếu như Mỹ cam kết đến một thời hạn cụ thể nào đó (mà Mỹ sẽ thông báo cho Việt Nam) rút hết quân Mỹ và Mỹ có thể không đòi cùng rút Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra khỏi miền Nam Việt Nam (vì đòi hỏi đó đối với Hà Nội là điều không chấp nhận được, Hà Nội không bao giờ thừa nhận có quân đội của mình ở đó) thì quan trọng là người Bắc Việt Nam cam kết ngùng bắn trong thời gian quân Mỹ rút, cộng thêm một thời gian nào đó không dài lắm sau khi quân Mỹ đã rút (Kissinger không nêu thời gian cụ thể).

- Nếu bản thân người Việt Nam sớm thoả thuận được với nhau về một sự thoả hiệp hợp lý và nếu sau đó chiến tranh lại nổ ra giữa miền Bắc và Nam Việt Nam thì việc đó không còn là việc của người Mỹ nữa mà là việc của bản thân người Việt Nam vì Mỹ sẽ không còn nữa, nó sẽ vượt thời gian Nixon cầm quyền.

- Sự diễn biến như vậy sẽ làm cho bản thân người Mỹ thoát khỏi sự cần thiết phải tiến hành những cuộc đàm phán kéo dài và thực tế là không có kết quả về một giải pháp chính trị ở Nam Việt Nam và trong trường hợp Quân đội Mỹ rút ra khỏi nơi đó rồi thì tất cả công việc này sẽ chỉ liên quan trực tiếp đến bản thân người Việt Nam".

Ngày 3 tháng 2, Thủ tướng nói với Secbacốp: Mở đầu cuộc nói chuyện với Đôbrinin, Kissinger đã đe doạ Việt Nam. Thật ra ý của Kissinger không có gì mới. Đại diện Việt Nam đã nhiều lần nói với Mỹ ở Paris về ngừng bắn. (Thủ tướng nhắc lại ba điểm Xuân Thuỷ đưa ra ngày 10 tháng 12). Về việc Kissinger nói sẵn sàng gặp lại Việt Nam thì thái độ Việt Nam đã rõ ràng: Việt Nam sẵn sàng, vẫn để ngỏ cửa ít ra cũng để tỏ thiện chí và trình bày lập trường của mình.

Năm ngày sau, ngày 8 tháng 2, chiến dịch Lam Sơn 719 bắt đầu.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #241 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2009, 03:01:17 pm »

*
*   *

Tháng 4 năm 1971, Giải vô địch bóng bàn thế giới đang diễn ra tại Tokyo. Ngày 6, Trương Tác Đống, trưởng đoàn Trung Quốc gặp trưởng đoàn bóng bàn Mỹ và chuyển lời mời đoàn Mỹ sang thăm Trung Quốc trước sự ngạc nhiên của chính trưởng đoàn Mỹ. Trái với mọi dự đoán. Mỹ đã nhận lời và một đoàn bóng bàn Mỹ đã tới Bắc Kinh. Đoàn không chỉ được các vận động viên Trung Quốc đón tiếp nhiệt tình mà còn được Thủ tướng Chu Ân Lai tiếp trọng thể tại Đại lễ đường. Ngày 21 tháng 4, Thủ tướng Chu Ân Lai chính thức gửi thư mời Tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc.

Trung Quốc, dù có những bất đồng với Việt Nam, vẫn là người đang tích cực chi viện cho Việt Nam đánh Mỹ, tại sao họ lại cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ lúc này? Nhất là trong lúc Mỹ vừa thất bại nặng nề ở cả Campuchia và Lào. Thật ra cái gọi là "ngoại giao bóng bàn" là một cử chỉ cụ thể phản ánh một quá trình đã bắt đầu trước đó.

Năm 1969, cuộc đại cách mạng văn hoá ở Trung Quốc về cơ bản đã hoàn thành, Chủ tịch Mao Trạch Đông ra sức củng cố quyền lãnh đạo của mình. Về đối ngoại, Trung Quốc điều chỉnh chính sách của mình, coi Liên Xô là kẻ thù số một và tìm cách cải thiện tiến đến bình thường hoá quan hệ với Mỹ, nhất là sau khi Nixon vào Nhà Trắng. Từ tháng 11 năm 1968, Trung Quốc tỏ ý muốn nối lại các cuộc đàm phán Trung - Mỹ ở Vacxava và cùng với Mỹ ký một thoả thuận cùng tồn tại hoà bình. Tháng 6 năm 1970, Trung Quốc và Mỹ thoả thuận là đại sứ Trung Quốc ở Paris Hoàng Chấn và Kissinger sẽ tiến hành những cuộc đàm phán bí mật mỗi lần Kissinger đến Paris đàm phán với phía Việt Nam. Ngày 10 tháng 12, Chủ tịch Mao Trạch Đông, qua Edgar Snow, gửi lời mời Tổng thống Nixon sang thăm Trung Quốc.

Lời mời đoàn bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc mở một con đường liên lạc tiếp tục cuộc gặp gỡ Vacxava và sẽ được con đường liên lạc Pakistan nối tiếp: Kissinger rồi Tổng thống Nixon sẽ đi Trung Quốc.

Trước đó Trung Quốc không tán thành Việt Nam vừa đánh vừa đàm vì Trung Quốc còn gặp khó khăn bên trong. Nay cách mạng văn hoá đã hoàn thành, Chính quyền của Mao Trạch Đông được củng cố, Trung Quốc lại có con chủ bài Việt Nam nên tìm cách bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Tất nhiên Trung Quốc trước hết tính đến lợi ích của Trung Quốc. Mỹ có một chỗ dựa mới để ép Việt Nam. Việt Nam phải tiếp tục cuộc chiến tranh chống Mỹ trong những điều kiện mới, khó khăn, phức tạp.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #242 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2009, 03:03:01 pm »

Niềm hy vọng khác thường của Kissinger

Ngày 24 tháng 4 năm 1971, ba ngày sau khi Chu Ân Lai mời Nixon sang thăm Trung Quốc, tại Paris tướng Walters gặp Võ Văn Sung để chuyển thông điệp của Kissinger đề nghị gặp lại Bộ trưởng Xuân Thuỷ và Cố vấn Lê Đức Thọ vào ngày 16 tháng 5 "để nối lại cuộc thảo luận trên cơ sở những đề cập mới".

Ngày 14 tháng 5, Võ Văn Sung báo cho phía Mỹ biết Bộ trưởng Xuân Thuỷ chấp nhận cuộc gặp đó nhưng đề nghị ngày họp vào 30 tháng 5. Mỹ không chịu nhận thời hạn do ta ấn định nên đề nghị lui lại một ngày.

Cuộc họp ngày 31 tháng 5 vẫn diễn ra ở 11 phố Darthé.

Đến cuộc họp, sau khi chào Xuân Thuỷ, Kissinger gửi lời chào Lê Đức Thọ và ngỏ lời mời Bộ trưởng và Cố vấn đặc biệt của ông sang Mỹ sau khi chiến tranh chấm dứt. Đáp lại, Xuân Thuỷ mong được đón Kissinger ở Hà Nội.

Kissinger nói rằng ông ta đã đi thăm Sài Gòn và rất muốn đi thăm Hà Nội, rằng ông khâm phục sâu sắc lòng dũng cảm và sự tự trọng của nhân dân Việt Nam. Ông ta còn nói càng kính trọng và khâm phục sự thông minh của hai ông Lê Đức Thọ và Xuân Thuỷ. Nếu có phản đối thì phản đối sự quá kiên trì của hai ông.

Đi vào nội dung, ông ta nói: 

- Tôi đến đây nhằm đạt được tiến bộ thật sự kèm theo nụ cười. Nhưng muốn có đàm phán thật sự thì bắt đầu vào lúc này... Tổng thống Nixon cử tôi đến đây để cố gắng một lần cuối cùng phá vỡ sự bế tắc hiện nay. “Đó là đề nghị cuối cùng của chúng tôi”. Rồi ông ta đưa ra một chương trình bảy điểm, tóm tắt như sau:

1 - Hoa Kỳ sẵn sàng ấn định một thời hạn cho việc rút tất cả lực lượng Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.

2 - Người Việt Nam và người các nước Đông Dương sẽ thảo luận với nhau cách thức rút tất cả lực lượng ngoại nhập khác ra khỏi Đông Dương.

3 - Ngừng bắn tại chỗ trên toàn Đông Dương bắt đầu khi rút quân Mỹ.

4 - Không được đưa thêm vào các nước Đông Dương các lực lượng ngoại nhập.

5 - Giám sát quốc tế về ngừng bắn và các điều khoản quân sự.

6 - Tôn trọng các Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và năm 1962 về Lào, có thể được chính thức hoá tại một Hội nghị Quốc tế. 

7 - Phóng thích tất cả tù binh và thường dân vô tội toàn Đông Dương trên cơ sở nhân đạo hoặc một bộ phận của giải pháp bắt đầu với việc rút quân Mỹ (Toàn văn. Xem. Kissinger, nhà Trắng. Sđd, tr 1537-1538.).

Mong phía Việt Nam xem xét các đề nghị cuối cùng của Mỹ với tinh thần xây dựng.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #243 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2009, 03:04:11 pm »

Kết thúc bản trình bày, ông ta nhấn mạnh sẵn sàng thảo luận cụ thể và đạt tiến bộ nhanh chóng và mong Việt Nam cũng có “những đề nghị cuối cùng” có tính xây dựng như thế. Ông ta cũng không quên đe doạ rằng: Tất nhiên tuỳ phía Việt Nam xem xét.   

- Nếu chiến đấu thêm với những người không còn là mối đe doạ lâu dài của Việt Nam nữa thì các ông chỉ đạt thêm một số thắng lợi phụ nhưng phải xem những thắng lợi đó có bõ với những đau thương và thiệt hại thêm hay không...

Ông ta cũng nói hai bên cần chấm dứt làm áp lực quân sự với nhau trong khi hai bên tiến bộ nhanh trong đàm phán. Kissinger trả lời các câu hỏi của Xuân Thuỷ như thường lệ rồi nghỉ.

Sau đó Bộ trưởng phát biểu, nhắc lại ba điểm mà ông đã đưa ra trong phiên họp công khai thứ 109 sau khi gặp Kissinger tháng 9 năm 1970.

- Hoặc Mỹ rút hết quân vào 30 tháng 6 năm 1971, hoặc đưa ra một thời hạn để thảo luận, và nhấn mạnh là điểm cấp thiết nhất.

- Thành lập ở Sài Gòn một Chính quyền không có Thiệu - Kỳ - Khiêm như Chính phủ Cách mạng Lâm thời đề nghị.

- Chính phủ Hoa Kỳ phải thật sự cam kết chấm dứt mọi sự vi phạm chủ quyền và an ninh của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Tiếp đó Bộ trưởng nói về hai điểm trong bảy điểm của Mỹ:

- Hoa Kỳ chỉ nói là sẵn sàng đưa ra một thời hạn rút quân chứ không nói dứt khoát ngày nào tháng nào năm nào Mỹ sẽ rút hết. (Kissinger xen vào: Suốt đời tôi cũng không làm được việc đó).

Xuân Thuỷ xem như không nghe thấy câu đó. cứ tiếp:

- Thứ hai là ông Cố vấn đã thoả thuận là trong gặp riêng thì thảo luận cả vấn đề quân sự và chính trị, nay ông lại tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị... Nếu các ông trở lại ý kiến ban đầu là không bàn vấn đề chính trị thì không giải quyết được một trong những vấn đề cơ bản. Bây giờ ở miền Nam Việt Nam dư luận nói nhiều đến cuộc bầu cử sắp tới. Các ông thường nói với chúng tôi rằng các ông không muốn tự nhiên lại có thay đổi gì ở miền Nam Việt Nam... Chính lúc này là lúc các ông phải tính nếu có thay đổi gì thì không có gì là đột ngột cả. Chính lúc này là dịp các ông biểu thị thật sự muốn giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam cả về quân sự lẫn chính trị.

Bộ trưởng cũng nói đến vấn đề tù binh mà Mỹ đã dùng để tuyên truyền lừa bịp dư luận. 

Về vấn đề Lào và Campuchia, Xuân Thuỷ nhắc lại Việt Nam tôn trọng Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và năm 1962 về Lào, và thêm:

- Hiện nay ở Viêng Chăn đang có cuộc gặp gỡ giữa đại diện của ông Suphanuvông và đại diện của ông Phuma. Chúng tôi mong muốn những người Lào sẽ giải quyết hoà bình với nhau công việc của họ theo hướng đó.

Bộ trưởng nhấn mạnh:

- Việt Nam sẵn sàng giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam. Bộ trưởng đã ở Paris từ 1968. Ông và Cố vấn Lê Đức Thọ, một nhà lãnh đạo Việt Nam có đủ thẩm quyền để giải quyết. Xuân Thuỷ nhắc lại lần thứ hai sẽ nghiên cứu kỹ bảy điểm của Mỹ và hỏi Kissinger điểm nào phía Việt Nam thật sự phải chú ý hoặc điểm nào Kissinger thấy phía Việt Nam hiểu chưa thật rõ thì đề nghị giải thích thêm.

Kissinger không trả lời thẳng câu này mà nói:

- Chừng nào Bộ trưởng nói rằng đề nghị cơ bản này chấp nhận được nghĩa là tất cả các điều được nêu lên kể cả vấn đề tù binh thì lúc đó chúng tôi mới nói ngày rút quân.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #244 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2009, 03:08:02 pm »

Về vấn đề chính trị và bầu cử ở Nam Việt Nam, ông nói:

- Hoa Kỳ không can thiệp vào quá trình chính trị của cuộc bầu cử sắp tới ở Nam Việt Nam.

- Nếu chúng ta đạt được thoả thuận về quân sự mùa hè năm nay với sự hiểu biết đầy đủ về tình hình quân sự sẽ xảy ra như thế nào trong năm tới thì nhân dân Nam Việt Nam có thể có sự quyết định của mình đối với quá trình đó. Họ sẽ biết mức độ về sự có mặt của quân Hoa Kỳ trong thời gian tới như thế nào. Khi biết như vậy họ sẽ có quyết định phù hợp với tình hình.

Hai bên định ngày gặp lại nhau. Kissinger có ý muốn vào tháng 7, nhưng Xuân Thuỷ muốn sớm hơn và đồng ý sẽ gặp lại vào 26 tháng 6. Xuân Thuỷ một lần nữa hứa nghiên cứu kỹ đề nghị của Mỹ. Còn Kissinger đề nghị rằng giữa khoảng cách hai cuộc gặp riêng, hai bên không có hành động gì nổ bùng và yêu cầu ta không đưa ra công khai nội dung cuộc gặp.

Kế hoạch bảy điểm của Kissinger đã được sự đồng ý của Nguyễn Văn Thiệu, và được ông coi là bước ngoặt trong chính sách ngoại giao của Mỹ về Việt Nam. Đây là lần đầu tiên Mỹ đưa ra một giải pháp toàn Đông Dương, nhưng họ lại tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị mặc dù trước đây họ đã nhận sẽ bàn cả gói.

Đây cũng là lần đầu tiên Mỹ nói sẵn sàng ấn định một thời hạn rút hết quân khỏi miền Nam Việt Nam, nêu vấn đề rút quân ngoại nhập (quân miền Bắc) thành một điểm riêng giải quyết giữa các nước Đông Dương, mặc dù trước đây họ gắn vấn đề rút quân miền Bắc với vấn đề rút quân Mỹ trong một lịch cùng rút quân. Mỹ đề nghị ngừng bắn sau khi Mỹ bắt đầu rút quân theo thời gian biểu thoả thuận và nhận vấn đề tù binh là một bộ phận trong giải pháp.

So với đề nghị của Kissinger mà đại sứ Liên Xô ở Mỹ Đôbrinin nói, có hai điểm giống nhau cơ bản: Mỹ ấn định thời hạn rút quân đổi lấy việc Việt Nam chấp nhận ngừng bắn toàn Đông Dương. Đề nghị mới này của Mỹ không nêu cách giải quyết cả gói về quân sự và chính trị mà chỉ tập trung giải quyết vấn đề quân sự. Thực tế Mỹ bị thúc ép về thời gian muốn giải quyết sớm vấn đề quân sự trong mùa hè này hoặc trong năm nay, nhằm ngăn chặn hành động sắp tới của Việt Nam, chuẩn bị cho đợt rút quân mới vào tháng 11 tới và tạo điều kiện củng cố nguỵ quyền trong tuyển cử vào tháng 10 năm đó.

Mỹ dùng việc ấn định thời hạn rút hết quân Mỹ đổi lấy việc ta chấp nhận ngừng bắn toàn bộ và thả tù binh trước khi họ rút hết quân mà vẫn duy trì nguyên trạng chính trị. Hoa Kỳ còn đòi lực lượng Việt Nam rút ra khỏi ba chiến trường miền Nam, Lào và Campuchia cùng một lúc hoặc sau khi Mỹ rút.

Tuy nhiên Mỹ tỏ ra mềm dẻo hơn trước trong một số vấn đề, thăm dò ý đồ ta nhằm đi tới một giải pháp có lợi cho Mỹ như: Mỹ sẵn sàng định thời hạn rút hết quân Mỹ, còn việc rút quân của Việt Nam do người Đông Dương giải quyết với nhau ... ngừng bắn toàn Đông Dương sau khi quân Mỹ bắt đầu rút theo thời gian biểu thoả thuận... Mỹ công nhận vấn đề tù binh là một bộ phận của giải pháp và gắn với thời hạn rút quân. Về chính trị, họ nói mập mờ giải quyết vấn đề quân sự sẽ có tác động đến vấn đề chính trị.

Nếu Việt Nam có đáp ứng kế hoạch bảy điểm, tỏ ra muốn giải quyết thì có khả năng Mỹ đi vào mặc cả với Việt Nam tìm ra một giải pháp hai bên đều chấp nhận được vào cuối năm 1972.

Nếu trong thăm dò, Mỹ thấy ta không muốn giải quyết thì có khả năng Mỹ tiếp tục Việt Nam hoá, không tìm giải pháp trong năm 1972.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #245 vào lúc: 28 Tháng Chín, 2009, 03:09:38 pm »

Xuất phát từ đánh giá và chủ trương trên, trước thời hạn họp ít lâu Hà Nội đưa tin công khai: Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Xuân Thuỷ, trở lại Paris sau gần 14 tháng vắng mặt.

Ngày 2 tháng 6, Kissinger đã nhận được lời mời sang thăm Bắc Kinh, nay lại thêm tin sẽ được gặp Cố vấn Lê Đức Thọ tại Paris. Như ông đã viết trong hồi ký: “Đây là thời điểm hy vọng khác thường" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, tr 1074.). 

Tuy vậy, trên đường đi Paris gặp các nhà thương lượng Việt Nam, ông không phải không vấn vương nhiều lo âu thật sự. Ngày 22 tháng 6, Thượng nghị viện chấp thuận bằng 57 phiếu thuận trên 42, một tu bổ án của Mansfleld yêu cầu Tổng thống rút tất cả các lực lượng Mỹ khỏi Việt Nam trong vòng 9 tháng nếu Hà Nội bằng lòng thả hết tù binh. Thế thì kế hoạch năm điểm của ông hỏng bét vì năm trong bảy điểm đó, do nghị quyết này, sẽ mất tác dụng. Như thế Hà Nội biết khả năng của Chính quyền Nixon bị hạn chế, phía Việt Nam có thể không cần thương lượng một cuộc ngừng bắn hay định một thời hạn chấm dứt thâm nhập miền Nam.

Tuy nhiên ông vẫn hy vọng. Bước vào số nhà 11 phố Darthé quen thuộc, ông đã nhận thấy ngay hình ảnh về một cuộc nói chuyện hoà bình: Không nói về thái độ vui vẻ của chủ nhà, lần đầu tiên trên bàn làm việc có trải thảm xanh! Và trong giờ giải lao Lê Đức Thọ còn mời ông ra ngoài vườn nói chuyện có vẻ ý hợp tâm đầu.

Theo yêu cầu của Xuân Thuỷ, Kissinger lại giải thích thêm một lần nữa đề nghị bảy điểm đưa ra lần trước. Rõ ràng là Hà Nội rất quan tâm. Ông nói vui sau khi giải thích:

- Chúng tôi đã cố gắng theo sự chỉ dẫn của ngài Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ năm ngoái là phải nhìn vào thực tế khách quan.

Lê Đức Thọ:

- Nhưng ông chưa khách quan lắm!

Kissinger: 

- Đã có tiến bộ chút nào chưa?

Lê Đức Thọ:

- Chưa nhích được tí nào.

Kissinger:

- Ngài là một giáo sư khó tính quá.

Xuân Thuỷ lại hỏi Kissinger về Hội nghị Quốc tế trong đề nghị của Mỹ và sau khi được giải thích, nhường lời cho Lê Đức Thọ.

Ông Thọ nói: 

- Tính đến nay, ông Bộ trưởng Xuân Thuỷ và tôi đã gặp ông bảy lần (Kissinger thêm: đây là lần thứ tám), chúng tôi đã nhìn lại các cuộc gặp đó để rút ra những kết luận và để xem gặp ông có thể giải quyết được gì.

- Lần gặp thứ nhất, tháng 8 năm 1969 thì đến tháng 9 các ông mở cuộc tấn công Cánh Đồng Chum ở Lào. 

- Lần thứ hai, chúng tôi gặp ông tháng 2 năm 1970. Lần này chúng tôi gặp ông đến hai, ba buổi liền. Nếu ông xem lại thì chúng tôi đang đi vào thực chất của vấn đề.

Kissinger:

- Đồng ý.

Lê Đức Thọ: 

- Nhưng các ông lại tiến hành đảo chính ở Campuchia và mở cuộc tấn công lên Campuchia nên cuộc hội đàm giữa chúng tôi và các ông lại gián đoạn.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #246 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2009, 11:15:19 am »

Kissinger cải chính là Mỹ không dính líu gì đến cuộc đảo chính ở Campuchia, thì Lê Đức Thọ nói tiếp:

- Chúng tôi tạm thời cho là các ông không làm đảo chính ở Campuchia, nhưng vào cuối tháng 4 năm 1970 ai đưa hàng chục vạn quân Mỹ và quân Sài Gòn tấn công Campuchia?

Kissinger nói rằng quan điểm hai bên về vấn đề trung lập Campuchia có khác nhau và không muốn nhắc lại quá khứ. Ông cũng cho lời ông Thọ nói rằng Hoa Kỳ phá hoại nền trung lập của Campuchia là không đúng. Lê Đức Thọ cũng không tranh cãi về vấn đề này mà chỉ nói rằng sự thật vẫn là sự thật, rồi tiếp:

- Lần thứ ba, Bộ trưởng Xuân Thuỷ gặp ông tháng 9 năm 1970 thì đến tháng 11 các ông dùng không quân đánh ra miền Bắc, một cuộc tấn công lớn nhất kể từ khi Mỹ chính thức chấm dứt ném bom miền Bắc. Các ông đã dùng trực thăng đổ biệt kích xuống gần Hà Nội.

Đến tháng 1 năm 1971, qua đại sứ Liên Xô ở Mỹ ông đề nghị gặp chúng tôi và đưa ra một số đề nghị. Chúng tôi đã trả lời là chúng tôi đồng ý gặp thì tháng 2 năm 1971, các ông mở cuộc tấn công lên đường 9 Nam Lào.

Thành ra mỗi lần chúng tôi gặp các ông để giải quyết vấn đề thì sau đó các ông đều tiến hành các cuộc tấn công quân sự, dùng sức mạnh quân sự ép chúng tôi trong đàm phán.

Kissinger nói rằng ông gặp Đôbrinin hôm 9 tháng 1 năm 1971 và chỉ nhận được trả lời của đại sứ Liên Xô hôm 23 tháng 2, tức là hai tuần lễ sau cuộc tấn công ở Lào.

Hai bên không bàn thêm về điều này và Lê Đức Thọ tiếp:

- Chúng tôi không dùng trung gian, nhưng chính các ông dùng trung gian nên chúng tôi phải trả lời qua trung gian.

Kết luận Lê Đức Thọ nói:

- Không biết sau lần gặp này các ông định làm gì nữa đây. Các ông có thật sự giải quyết hay còn giở nhiều thủ đoạn nữa. Đó là điều chúng tôi rất băn khoăn nghi ngờ vì qua các đề nghị của ông chúng tôi thấy các ông chưa thật sự muốn giải quyết. Các ông đặt cách giải quyết vấn đề chưa đúng. 

Trước hết, các ông muốn tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị. Nhưng đó là một đề nghị không thực tế. Hồi đầu năm 1970, các ông đã đồng ý thảo luận vấn đề quân sự và vấn đề chính trị đi đôi. Không có cuộc chiến tranh nào mà lại không có mục đích chính trị. Quân sự chỉ là một thủ đoạn, một phương tiện để đạt mục đích chính trị mà thôi. Nếu tách vấn đề quân sự với vấn đề chính trị thì không giải quyết được vấn đề. Nếu cuộc chiến đấu của chúng tôi không đạt được mục đích chính trị, tức là hoà bình, tự do, độc lập thật sự, thì cuộc chiến đấu đó còn tiếp tục. Các ông đề nghị giải quyết vấn đề quân sự rồi ngừng bắn ngay trong khi chưa giải quyết vấn đề chính trị là nhằm mục đích củng cố nguỵ quyền tay sai. Các ông dùng bọn tay sai để tiếp tục thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt, dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới.

Các ông lấy đề nghị quân sự để ép chúng tôi về vấn đề chính trị. Các ông lại nói đề nghị bảy điểm của các ông là đề nghị cuối cùng. Đó là tối hậu thư. Chúng tôi nghĩ rằng trong cuộc đàm phán thương lượng thật sự thì không có đề nghị cuối cùng được. Với tất cả đề nghị như vậy thì làm sao giải quyết được vấn đề và tin được rằng các ông muốn thương lượng nghiêm chỉnh.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #247 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2009, 11:24:08 am »

Lê Đức Thọ còn nói nhiều đến sai lầm trước đây của Mỹ, đến tương lai thất bại của Việt Nam hoá chiến tranh. Ông nói:

“Các ông đã đưa chủ lực Ngụy ra mở các cuộc tấn công, nhưng quân Ngụy, cái xương sống của Việt Nam hoá chiến tranh, vừa qua đã liên tiếp bị đánh bại... Các cuộc bình định của các ông cũng không đạt được mục đích, chúng tôi nghĩ từ nay đến hết nhiệm kỳ của ông Nixon hoặc ông Nixon có trúng cử một nhiệm kỳ nữa cũng không thể thực hiện được. Thời gian không ủng hộ các ông...

Chiến tranh đã diễn ra trên toàn Đông Dương. Chúng tôi muốn giải quyết hoà bình khu vực này. Chúng tôi muốn Nam Việt Nam, Lào và Campuchia là một khu vực hoà bình, độc lập, trung lập và không liên kết thật sự. Miền Nam Việt Nam không thể trở thành thuộc địa kiểu thực dân mới, nhưng cũng không phải xã hội chủ nghĩa mà phải thật sự độc lập và trung lập, phải có một Chính phủ hoà hợp dân tộc gồm có các bên. Phải có một Chính quyền thật sự độc lập, dân chủ, trung lập, mong muốn hoà bình đế nói chuyện thật sự với Chính phủ Cách mạng Lâm thời, giải quyết hoà bình vấn đề Nam Việt Nam. Nếu các ông còn duy trì Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu thì không giải quyết được vấn đề".

Về vấn đề Lào và Campuchia, Lê Đức Thọ nói Việt Nam sẵn sàng góp phần vào việc giải quyết vấn đề Lào và Campuchia sẵn sàng bàn với các bạn Lào và Campuchia... rồi lại nhắc lại phải giải quyết cả vấn đề quân sự và chính trị. Có giải quyết xong toàn bộ vấn đề như vậy mới có thể đi đến ngừng bắn có giám sát quốc tế và bảo đảm quốc tế.

Kissinger cho rằng phát biểu của Lê Đức Thọ là rất hùng hồn và quan trọng. Ông ta cũng nói rằng hai bên nghi ngờ lẫn nhau muốn dùng lợi thế quân sự để ép đối phương. Ông ta cho rằng phía Việt Nam có cách đề cập dựa trên những nguyên tắc chặt chẽ, lập luận của phía Việt Nam xuất phát từ các nguyên tắc chung, cho nên Việt Nam chỉ nhân nhượng một điểm nào đó. sau một thời gian rất dài. Người Hoa Kỳ nghĩ rằng người Việt Nam chẳng thương lượng gì cả. Ông nhắc lại mục tiêu của Mỹ và nói thêm:

- Quả thật đây là đề nghị cuối cùng của chúng tôi, nhưng các ngài có thể đưa ra đề nghị của các ngài. Chúng tôi đàm phán chứ không phải chúng tôi đưa ra tối hậu thư!

Kissinger cũng bào chữa cho Chính quyền Thiệu và nói Nixon thành thật muốn hoà bình. Xuân Thuỷ đề nghị nghỉ giải lao. Lê Đức Thọ mời Kissinger ra vườn dạo chơi. Còn Xuân Thuỷ lên gác, có lẽ để sửa chữa bản phát biểu của mình.

Khi trở lại phòng họp, nỗi vui mừng của Kissinger tăng thêm - và đúng như ông ta nói - thấy hy vọng khác thường khi Xuân Thuỷ trình bày đề nghị chín điểm:

1 - Rút hết quân Hoa Kỳ và quân nước ngoài thuộc phe Hoa Kỳ trong năm 1971. 

2 - Việc thả hết quân nhân và thường dân bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành cùng một lúc với việc rút quân nói trên.

3 - Hoa Kỳ phải chấm dứt ủng hộ Thiệu -Kỳ - Khiêm, lập ra ở Sài Gòn một Chính quyền mới tán thành hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập. Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ nói chuyện với Chính quyền đó để giải quyết công việc nội bộ miền Nam và thực hiện hoà hợp dân tộc.

4 - Hoa Kỳ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm, phải bồi thường những thiệt hại do Mỹ gây ra cho cả nước Việt Nam.

5 - Hoa Kỳ phải tôn trọng các Hiệp định Genève năm 1954 về Campuchia và năm 1962 về Lào, chấm dứt can thiệp và xâm lược các nước Đông Dương.

6 - Các vấn đề liên quan đến các nước Đông Dương sẽ do các bên Đông Dương giải quyết. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tham gia vào việc giải quyết các vấn đề đó.

7 - Các bên sẽ thực hiện ngừng bắn sau khi Hiệp nghị được ký kết.

8 - Qui định giám sát quốc tế.

9 - Có bảo đảm quốc tế đối với các quyền dân tộc cơ bản của các nước Đông Dương.

Những điểm trên đây là một thể thống nhất.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #248 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2009, 11:26:01 am »

Kissinger hỏi rõ thêm nhiều điểm, hứa sẽ nghiên cứu kỹ, nhưng trước hết ông có nhận xét về điểm 4 (bồi thường chiến tranh). Ông nói rằng Mỹ không thể chấp nhận được vì Hoa Kỳ là một nước lớn. Chúng tôi đã nói nhiều lần là chúng tôi đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế tự nguyện và thiện chí vì đó là nguyên tắc và danh dự của Tổng thống.

Xuân Thuỷ:

- Nước Mỹ được người ta quí trọng không phải Mỹ có nhiều vũ khí và đô la. Điều cao quí ở đời là sự bình đẳng giữa các dân tộc dù lớn hay nhỏ. Mỹ đã gây ra thiệt hại, tất nhiên Mỹ phải đền bù. Đó là chuyện bình thường.

Đến đây cuộc gặp tạm dừng. Hai bên nói sẽ giữ bí mật và nghiên cứu ý kiến của nhau. Xuân Thuỷ cho Kissinger biết rằng bà Nguyễn Thị Bình muốn gặp đại diện cấp cao của Chính phủ Mỹ để nói rõ ý kiến của bà ấy.

Kissinger:

- Tôi sợ bà ấy lắm!

Xuân Thuỷ:

- Bà ấy là một phụ nữ mềm mỏng.

Kissinger: .

- Nhưng bà ấy ghê lắm. Để xem chúng ta có tiến bộ trong nói chuyện hay không, để xem triển vọng thế nào đã.

Kissinger nhấn mạnh rằng:

- Nếu bà Bình công bố chín điểm thì Hoa Kỳ sẽ công bố bảy

Xuân Thuỷ:

- Chúng tôi giữ bí mật những điều nói trong diễn đàn này, nhưng chúng tôi làm sao ảnh hưởng đến bà Bình được.

Khi từ biệt, Kissinger còn nói thêm rằng ông ta xem xét chín điểm với thiện cảm và cố gắng tìm những điểm tương đồng chứ không phải giữ bất đồng. Ông tin rằng đây là thời gian then chốt để hai bên có những cố gắng lớn lao nhằm đạt được thoả thuận.

Về sau, ông ta viết về cuộc họp đó:

Các dòng nghiệp của tôi và tôi tràn đầy phấn khởi khi nghĩ rằng lần đầu tiên Hà Nội đã đáp ứng lại một trong các đề nghị của chúng ta, dù rằng sự đáp ứng đó còn rất khó để nói là một dấu ấn của sự độ lượng" (Ở nhà Trắng. Sđd, tr 1078.).

Trong báo cáo về Nhà Trắng ông ta cũng viết:

"Những nhà lãnh đạo của họ (Hà Nội - Tác giả) đã đi gần tới cách nhìn của chúng ta... Đề nghị của họ có nhiều điểm tích cực đồng thời có nhiều điểm khó nuốt - Rõ ràng họ muốn thúc đẩy cuộc thương lượng xa hơn và một cách cụ thể” (H.Kissinger. Ở nhà trắng ,tr 1079.).

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #249 vào lúc: 30 Tháng Chín, 2009, 11:27:04 am »

Cũng trong thời gian này, Hà Nội hạ quyết tâm:

Giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị kiên trì đẩy mạnh kháng chiến trong trường hợp chiến tranh còn kéo dài” (Lịch sử KCCM. ĩ./1, tr 102l).

Trong thư ngày 29 tháng 6 năm 1971 gửi Trung ương cục miền Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn viết:

"Lúc này ta có khả năng kéo Mỹ xuống một bước nữa để giành một thắng lợi căn bản tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn... Muốn kéo Mỹ xuống nữa... phải dùng chính trị, ngoại giao kết hợp với quân sự... Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của ta trong mùa Xuân 1971, việc Mỹ rút thêm quân cuối năm nay và cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1972 là những sự kiện do trùng hợp với nhau mà tạo nên thời cơ thuận lợi" (Lê Duẩn, Thư vào Nam. Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 19S5, tr 271-272.).

Để phối hợp đấu tranh công khai và thương lượng bí mật, ngày 1 tháng 7 năm 1971 - tức là năm ngày sau cuộc gặp riêng - giữa hai bên nói trên - Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời tại Hội nghị bốn bên đưa ra đề nghị bảy điểm.

Vấn đề đầu tiên là đòi Mỹ rút quân Mỹ và quân nước ngoài thuộc phe Mỹ trong năm 1971 đồng thời thả tù binh cùng thời gian đó. Điều này phù hợp với Nghị quyết của Thượng nghị viện Mỹ thông qua ngày 22 tháng 6 năm đó.

Vấn đề lớn thứ hai là đòi chấm dứt ủng hộ nhóm cầm quyền do Thiệu cầm đầu, đòi chấm dứt mọi thủ đoạn, kể cả tuyển cử gian lận để duy trì bọn này và lập một Chính phủ hoà hợp dân tộc rộng rãi gồm ba thành phần ở miền Nam Việt Nam.

Về các vấn đề khác như vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam, vấn đề thống nhất Việt Nam, chính sách ngoại giao hoà bình, trung lập của miền Nam, vấn đề trách nhiệm của Mỹ trong việc giải quyết hậu quả chiến tranh, bảo đảm quốc tế... Chính phủ Cách mạng Lâm thời vẫn giữ như cũ không có gì mới.

Bảy điểm này gần giống như chín điểm nhưng chỉ thu hẹp trong phạm vi miền Nam Việt Nam và chĩa vào Thiệu nhằm tác động đến tuyển cừ sắp tới ở Sài Gòn.

Việc đưa ra đề nghị này lại làm cho dư luận rộ lên về vấn đề Việt Nam và Hội nghị Paris. Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ cũng luôn gặp gỡ các báo chí Mỹ và đại diện các nước. Phong trào chống chiến tranh ở Mỹ lại bùng lên. Kissinger nhận xét rằng "Kế hoạch của bà Bình đã được soạn thảo một cách rất thông minh đế lồng nó vào cuộc tranh luận công khai đang diễn ra ở Hoa Kỳ" (H.Kissinger. Ở nhà Trắng. Sđd, tr 1079.).

Quốc hội và báo chí Mỹ lại đòi Chính phủ đừng bỏ qua một dịp chưa từng có để lập lại hoà bình.

Chính quyền Nixon không dám bác bỏ ngay, mà còn nghiên cứu. Tại Sài Gòn, lúc đầu Chính quyền Thiệu cũng lên tiếng bác bỏ, nhưng trước sự hưởng ứng của dư luận cũng phải tìm cách né tránh, nói giống như Nixon.

Ngày 3 tháng 7, Kissinger đi Sài Gòn gặp Thiệu - Kỳ và Chủ tịch Thượng nghị viện ở đây. Ông còn gặp cả tướng Dương Văn Minh, người đã nắm quyền ba tháng sau khi Ngô Đình Liệm bị Mỹ lật đổ năm 1963, lúc đó có tin sẽ ra tranh cử Tổng thống với Thiệu vào tháng 10 tới.
« Sửa lần cuối: 05 Tháng Mười, 2009, 09:03:52 pm gửi bởi macbupda » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM