Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 19 Tháng Tư, 2024, 03:06:32 am


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris  (Đọc 197985 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #190 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2009, 06:18:33 pm »

Đấu tranh ngoại giao phải kiên trì và tích cực tập trung vào 4 điểm chính sau đây:

1 - Đẩy địch xuống thang một bước trên chiến trường chính, ép Mỹ đơn phương rút một bộ phận quân Mỹ.

2 - Khoét sâu mâu thuẫn khó khăn nội bộ Mỹ, nội bộ ngụy, mâu thuẫn Mỹ - Ngụy.

3 - Đề cao vai trò quốc tế của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

4 - Tranh thủ các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục ủng hộ và giúp đỡ ta về vật chất và chính trị. Đồng thời tranh thủ sự ủng hộ ngày càng mạnh mẽ và có hiệu quả của phong trào nhân dân thế giới bao gồm cả nhân dân Mỹ: đấu tranh đòi Mỹ rút nhanh, rút hết và không điều kiện khỏi miền Nam Việt Nam
”.

Về chủ trương "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ, Hà Nội cũng nhìn thấy từ đầu tuy chưa đầy đủ và toàn diện tất cả sự thâm độc nguy hiểm của nó, nhưng cũng đã thấy chỗ yếu cơ bản trong bản thân chiến lược đó không thể nào khắc phục nổi. Trong tình thế đã thất bại phải xuống thang để rút lực lượng Mỹ, nhưng Mỹ lại muốn giao cho quân nguỵ một nhiệm vụ mà cả quân Mỹ và quân nguỵ trước đây không làm nổi. Chủ trương đó không tạo ra cho Mỹ thế mạnh cần thiết. Mỹ muốn giảm thương vong, giảm chi phí nhưng Việt Nam hoá không thể làm nhanh được, do đó Mỹ không thể rút quân nhanh, và thương vong tổn phí cho chiến tranh lại càng lớn, nhân dân Mỹ không chịu đựng nổi.

Mỹ muốn rút đi, Sài Gòn muốn Mỹ ở lại, do đó mâu thuẫn hai bên lại tăng lên. Trong chiến lược quân sự “quét và giữ” cũng có nhiều mâu thuẫn. Trước đây “tìm và diệt” đã không thành, lực lượng đối phương có bị tổn thất nhưng vẫn còn nhiều - và cũng không nằm im bị động

Tuy nhiên Hà Nội cũng tính đến hai khả năng:

- Có thể do bị tổn thất nặng và gặp khó khăn lớn, Mỹ phải kết thúc chiến tranh sớm bằng một giải pháp chính trị mà họ có thể chấp nhận được.

- Hai là nếu Việt Nam tiến công không đủ mạnh, Mỹ tạm thời khắc phục một phần khó khăn của Mỹ thì Mỹ còn cố gắng kéo dài chiến tranh ở miền Nam một thời gian.

Trong hai khả năng đó, để gây sức ép với ta trước khi kết thúc chiến tranh trong tình hình nào đó, Mỹ có thể ném bom bắn phá lại miền Bắc hoặc mở rộng chiến tranh trên đất Lào và Campuchia (Nghị quyết tháng 4 năm 1969. Những sự kiện lịch sử Đảng, Tập III. Nhà xuất bản Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1985, tr. 461-462.).

Trong khi ở Paris, các đoàn Đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mặt trận tố cáo mạnh mẽ kẻ địch thì ở miền Nam lực lượng giải phóng mở hai đợt tấn công: đợt mùa xuân từ 22 tháng 2 đến 30 tháng 3, và đợt tiếp vào mùa hè từ 11 tháng 5 đến 23 tháng 6, gây cho địch một số thiệt hại nhưng không tạo được chuyển biến gì đáng kể (Đại tướng Văn Tiến Dũng. Toàn thắng. Sđd, tr. 44). 

Khả năng thứ hai trong nhận định trên đã xuất hiện.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #191 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2009, 06:20:24 pm »

Cuộc gặp đầu tiên C.Lodge - Xuân Thuỷ

Ngày 8 tháng 3, hơn một tháng sau khi bắt đầu Hội nghị bốn bên và sau khi ta pháo kích vào căn cứ Mỹ ở Tân Sơn Nhất (22 tháng 2), một cuộc tấn công xảy ra trước ngày Tổng thống Nixon đi châu Âu "Làm mất khả năng trả đũa và làm nhục Tổng thông mới" ( H.Kissinger. Ở Nhà Trắng. Fayard, Paris 1979, tr. 252.) đại sứ Lodge đến gặp Bộ trưởng Xuân Thuỷ tại số nhà 11 phố Darthé.

Ông nói rằng ông không có ý định nói gì về tính chất, nội dung hoặc hoàn cảnh trình bày lập trường của Mỹ mà đây mới là bắt đầu một cách làm việc lặng lẽ và có hiệu quả để giải quyết những vấn đề của nhau. Nhưng đi vào chuyện ông đã nói ngay đến việc ta tấn công quân Mỹ ở Sài Gòn. Ông ta đọc ngay một bản đã chuẩn bị sẵn:

Chúng tôi không hành động một cách hấp tấp nhưng sự thật là việc chúng tôi tỏ ra kiên nhẫn không thể được coi là một dấu hiệu yếu đuối".

Rồi ông nói rằng sẽ không dung thứ những việc tiếp tục vi phạm các điều đã thoả thuận, không dung thứ những cuộc tấn công gây cho binh lính Mỹ thương vong hơn nữa

"... Tôi được chỉ thị của Chính phủ tôi nhấn mạnh vào tính chất nghiêm trọng của những trận pháo kích vào Sài Gòn vi phạm thoả thuận của chúng ta...".

Ông ta đe doạ cụ thể rằng sẽ có những hành động thích đáng đáp lại như Tổng thống chúng tôi đã tuyên bố.

Xuân Thuỷ:

- Mỹ đã vi phạm Hiệp nghị Genève năm 1954, đã gây ra chiến tranh ở Việt Nam. Thất bại, Mỹ phải đơn phương chấm dứt ném bom miền Bắc, nhưng lại muốn giải quyết vấn đề trên thế mạnh, tăng cường nguỵ quân, nguỵ quyền. Mỹ vẫn bắn phá miền Bắc: tháng 1 năm 1969: 11 lần, tháng 2: 26 lần.

Xuân Thuỷ bác bỏ điều mà Lodge nói về thoả thuận trước đây và nhấn mạnh Mỹ đã làm trái với điều đã cam kết: chấm dứt ném bom không điều kiện. Ông nói: làm thế nào để giải quyết vấn đề và nêu ra:

1 - Hoa Kỳ phải rút hết quân Mỹ và chư hầu không điều kiện.

2 - Hoa Kỳ phải từ bỏ Chính quyền Sài Gòn. Nếu Hoa Kỳ cứ bám lấy Chính quyền Thiệu - Kỳ - Hương, một Chính quyền phát xít và hiếu chiến, thì không nói chuyện hoà bình được.  

3 - Chiến sự đang diễn ra trên đất Nam Việt Nam. Hoa Kỳ phải nói chuyện với Mặt trận. Hoa Kỳ không nói chuyện với Mặt trận là không hợp lý và không giải quyết được vấn đề.

Tất nhiên Mỹ không chấp nhận và Lodge còn nói rằng: miền Bắc đã được hưởng lợi ích trước mắt và trực tiếp của việc ngừng ném bom - và phía Mỹ sẵn sàng thảo luận các đề nghị của phía Việt Nam.  

Xuân Thuỷ:

- Thử hỏi: nếu máy bay Việt Nam bay trinh sát trên bầu trời nước Hoa Kỳ, liệu Hoa Kỳ có để yên không? Nếu Quân đội Việt Nam đến quấy rối trên đất Hoa Kỳ, liệu Hoa Kỳ có để yên không? Cho nên quân và dân miền Nam phải chống lại quân Mỹ và chư hầu. Chúng tôi không có trách nhiệm về những việc xảy ra ở miền Nam.

Cuộc gặp đầu tiên giữa hai trưởng đoàn là như vậy. Lúc này, trên chiến trường ta gặp khó khăn. Một số đơn vị chủ lực phải tạm trú chân trên biên giới Campuchia - và vùng này đã trở nên đất thánh mà Mỹ chưa đụng chạm tới.

« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:33:26 pm gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #192 vào lúc: 18 Tháng Chín, 2009, 06:20:31 pm »

Washington tính toán những lựa chọn khác nhau: Một là trả đũa ném bom trở lại miền Bắc - điều này sẽ đụng chạm đến phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ, và cũng không hứa hẹn một kết quả mong muốn - hai là ném bom các căn cứ hậu cần của Việt cộng trên đất Campuchia.

Và ngày 18 tháng 3 năm 1969, Mỹ đã cho máy bay chiến lược B52 làm việc đó. Lầu Năm Góc gọi đó là "Cuộc hành quân Thực đơn” (menu), đặc biệt vào căn cứ 353 ở vùng Lưỡi Câu - nơi mà theo họ là Chỉ huy sở của Việt cộng ở miền Nam Việt Nam.

Chiến dịch này của Mỹ kéo dài cho đến tháng 5 năm 1970, Những cuộc rải bom ác liệt vào dân thường sinh sống ở vùng này được Lầu Năm Góc gọi là "bữa ăn sáng", “ăn trưa" – “ăn chiều”,– “điểm tâm", v. v... (H.Kissinger: Ở Nhà Trắng, tr.258.)

Bốn ngày sau khi Washington mở "Chiến dịch Thực đơn", C Lodge lại gặp Xuân Thuỷ. Ông ta nói rằng muốn có cuộc họp này để trao đổi một cách thành thật. Ông ta nói Hoa Kỳ tin rằng những quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam phải được tôn trọng - Hoa Kỳ ủng hộ và tiếp tục ủng hộ ý muốn chính đáng của nhân dân Việt Nam là hoà bình, độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam... Hà Nội cũng như Washington đều không có quyền ép buộc nhân dân Nam Việt Nam tuân theo ý muốn của mình. Vì vậy Hoa Kỳ luôn luôn nhấn mạnh tính chất quan trọng của việc rút khỏi miền Nam Việt Nam tất cả lực lượng từ bên ngoài vào. Ông ta nói thêm: lực lượng bên ngoài là lực lượng không phải của Nam Việt Nam, là "lực lượng của hai chúng ta".

Sợ Xuân Thuỷ không hiểu, ông ta lại nói: là lực lượng miền Bắc và lực lượng của Hoa Kỳ và đồng minh của Hoa Kỳ. Lực lượng miền Bắc thâm nhập vào phải rút về miền Bắc - Cuộc rút quân có thể đồng thời càng sớm càng tốt. Rồi ông ta tuyên bố sẵn sàng bàn chi tiết về thời gian và các sắp xếp cho việc rút quân đồng thời đó.

Xuân Thuỷ nhận xét rằng lời lẽ của Lodge không có gì mới và nói:

- Ông Nixon đã nói đến hoà bình rất nhiều, nhưng việc làm thực tế thì rõ ràng ông Nixon không ngừng tăng cường chiến tranh... Số lượng quân nguỵ và quân chư hầu Mỹ được tăng thêm, việc triệt phá làng mạc gom dân lập ấp chiến lược ở miền Nam được đẩy mạnh, việc đánh phá miền Bắc cũng tăng lên.

Bộ trưởng cũng bác bỏ việc cùng rút quân mà Lodge đưa ra. Lodge trả lời rằng: phía Việt Nam đã không đạt được những thắng lợi quân sự khả dĩ đưa ra được yêu sách chỉ đòi quân Mỹ rút. Lodge còn đòi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nói chuyện với Chính quyền Sài Gòn.

Lodge vui mừng thấy Xuân Thuỷ không nhắc gì đến việc Mỹ cho máy bay chiến lược ném bom Campuchia - điều mà ông ta và Washington muốn biết. Một điều khác có lẽ làm cho C.Lodge và cả Washington hơi bất ngờ là việc Xuân Thuỷ đề cập đến xung đột Trung - Xô mới xảy ra đầu tháng ba - và cảnh cáo Mỹ đừng lợi dụng sự bất đồng giữa các nước xã hội chủ nghĩa để kéo dài chiến tranh xâm lược Việt Nam. Về việc này Kissinger có thừa nhận lúc đó tại Washington mọi người còn bị lôi cuốn quá nhiều vào vấn đề Việt Nam để phản ứng trước sự kiện mà họ chưa hiểu rõ nguyên nhân (H.Kissinger: Ở Nhà Trắng tr. 180-181.)
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #193 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2009, 11:04:27 am »

Giải pháp mười điểm của Mặt trận Dân tộc giải phóng: một bất ngờ đối với Mỹ

Trong mấy tháng đầu của cuộc đàm phán bốn bên, Việt Nam chưa có một lập trường giải pháp mới cho vấn đề Việt Nam. Đoàn ta ở Paris vẫn căn cứ vào lập trường bốn điểm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đề ra từ ngày 8 tháng 4 năm 1965 khi Mỹ mới đưa quân vào miền Nam Việt Nam mà đấu tranh. Còn Mặt trận Dân tộc Giải phóng thì căn cứ vào cương lĩnh đã công bố để đấu lý, chủ yếu là lên án Mỹ, đòi chấm dứt xâm lược, đòi rút hết quân Mỹ và đòi Mỹ từ bỏ Chính quyền Sài Gòn. 

Ngày 7 tháng 5 năm 1969, trong cuộc gặp riêng với Xuân Thuỷ, Lodge nói rằng ông ta muốn đề nghị một giải pháp mới. Ông ta đã nghiên cứu bốn điểm

(Tóm tắt bốn điểm ngày 8 tháng 4 năm 1965:

1. Thừa nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Mỹ phải rút hết quân, tháo gỡ các căn cứ quân sự, huỷ bỏ liên minh quân sự với miền Nam.

2. Trong khi chờ đợi thông nhất Việt Nam, các điều khoản quân sự của Hiệp nghị Genève phải được thi hành: Không có quân đội, căn cứ quân sự nước ngoài, không liên minh quân sự ở hai miền.

3. Công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam phải giải quyết theo cương lĩnh của Mặt trận.

4. Hoà bình thống nhất Việt Nam.)

của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Rồi ông ta đưa ra từng điểm của lập trường đó, bình luận:

Về điểm 1 - Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Mỹ chỉ tìm cách tạo ra một tình hình trong đó Bắc Việt Nam chung sống với các nước láng giềng ở Đông Nam Á nhưng miền Nam Việt Nam không thể thực hiện được quyền cơ bản đó chừng nào còn có mặt của các lực lượng từ bên ngoài xâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Ông ta đòi cùng rút quân.

Về điểm 2 - ông ta muốn bổ sung vấn đề khôi phục giới tuyến và khu phi quân sự. Ông ta còn nói đến tập kết quân và thả tù binh.

Ông ta đồng ý về điểm 4 - còn điểm 3 thì hơi khác nhau.

Nhưng ông ta thấy tuyên bố của ông Trần Bửu Kiếm trong phiên họp thứ 14 (ngày 26 tháng 4 năm 1969 - Tác giả) nói rằng tổng tuyển cử tự do có thể mở đường cho một cuộc thảo luận bổ ích, và đề nghị Mặt trận nói chuyện với Sài Gòn.

Trước khi nhận xét về phát biểu của Lodge, Xuân Thuỷ nói:

- Trước hết tôi muốn hỏi ông đại sứ rằng đối với cuộc gặp riêng ngày hôm nay, chúng ta có công bố hay không?

C. Lodge :

- Như lần gặp trước chúng ta không công bố bất kỳ điều gì về các cuộc gặp riêng.

Xuân Thuỷ:

- Tuy ông đại sứ nói như vậy nhưng Chính phủ Hoa Kỳ đã công bố về những cuộc gặp riêng như thế này. Ông Nixon ngày 6 tháng 4, ông Roger (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ - Tác giả) ngày 27 tháng 3 đều nói đến những cuộc gặp riêng này. Như thế là Hoa Kỳ đã không làm đúng những điều ông đại sứ đã nói với chúng tôi.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #194 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2009, 11:04:36 am »

Xuân Thuỷ nói rằng đó là chỉ để lưu ý phía Mỹ là đã thoả thuận với nhau thì cần làm cho đúng, còn đối với ta, công bố hay không các cuộc gặp riêng cũng được.

C. Lodge ngồi lặng im - Xuân Thuỷ nhận xét về nội dung của điều Lodge nói không có gì mới - và nhắc lại ba điểm đã nói với C. Lodge hôm trước .

Hôm đó Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ cũng có mặt. Ông Thọ nói:

- Từ khi ông Nixon vào Nhà Trắng, ông nói nhiều về hoà bình ... nhưng giải pháp mà ông Nixon muốn tìm vẫn là giải pháp trên thế mạnh.

Tiếp đó Lê Đức Thọ nói đến chủ trương Việt Nam hoá chiến tranh, tăng cường nguỵ quân, nguỵ quyền của Mỹ ở miền Nam nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, và kết luận:

- Những đề nghị của các ông cũng nhằm mục đích đó chứ không nhằm thiết thực giải quyết vấn đề. Do đó đã ba tháng rồi mà Hội nghị Paris vẫn giẫm chân tại chỗ.

Đến đây lại nổ ra cuộc tranh luận về nguồn gốc chiến tranh, ai là kẻ xâm lược, vai trò của Chính quyền Sài Gòn, của Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Sáng hôm sau, vị trưởng đoàn Hoa Kỳ đến phiên họp toàn thể của Hội nghị bốn bên với phong thái dửng dưng xem như chẳng có gì quan trọng trong buổi họp như các kỳ trước. Bỗng dưng ông ta ngồi thẳng dậy và chú ý khi ông Trần Bửu Kiếm đưa ra đề nghị giải pháp mười điểm để giải quyết vấn đề Việt Nam. Đại diện Mặt trận đọc thong thả từng điểm một, gồm các mặt quân sự, chính trị, đối nội, đối ngoại của miền Nam Việt Nam sau này - và vấn đề thống nhất lại Việt Nam. Đại sứ Mỹ càng chú ý: mười điểm còn nói đến cả việc giải quyết hậu quả chiến tranh và giám sát quốc tế. Ông ta chú ý nhiều đến hai điểm chủ yếu của giải pháp là: Hoa Kỳ phải rút hết không điều kiện và lập Chính phủ Liên hiệp lâm thời để tổ chức tổng tuyển cử... (Ông Lodge đã rõ từ lâu) nhưng khi Trần Bửu Kiếm nói:

“Lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam do các bên miền Nam giải quyết" thì Lodge ghi vội vài dòng vào cuốn sổ của ông ta.

Thực ra đây là vấn đề có ý nghĩa nhất trong giải pháp mười điểm. Đề nghị này mở đường cho Mỹ rút trong danh dự mà vẫn có khả năng giữ được Chính quyền thân Mỹ. Lần đầu tiên Mặt trận đưa ra một giải pháp thực tế tỏ rõ thiện chí muốn có nói chuyện giữa những người Nam Việt Nam để giải quyết không những vấn đề quân sự mà cả vấn đề chính trị...

Giải pháp đó còn quá cao, đòi đuổi cả Mỹ và xoá cả nguỵ cùng một lúc, nhưng dư luận thấy rõ đó là cơ sở đầu tiên và rõ ràng có thể thúc đẩy cuộc nói chuyện tiến lên.

Cố vấn An ninh Quốc gia của Nhà Trắng, H.Kissinger sau này nhận xét rằng:

“Kế hoạch đó vừa hỗn láo trong lời nói và đơn phương trong nội dung. Tuy vậy, riêng việc tồn tại một kế hoạch hoà bình của cộng sản, mặc dù bản thân nó là một sự bất ngờ đã gây ra ngay lập tức sự phản ứng trong Quốc hội, trong các phương tiện truyền thông và trong dư luận công chúng. Họ gây sức ép với Chính phủ, đừng bỏ qua cơ hội đó". (H.Kissinger: Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 282.).

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #195 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2009, 11:05:34 am »

Chính quyền Nixon ở trong tình thế bị động.

Trước đó hai tuần Bộ trưởng Xuân Thuỷ đã hỏi Lodge:

- Nếu Chính phủ Nixon đã chuẩn bị một kế hoạch hoà bình quan trọng như ông ta thường nói, tại sao ông ấy không đưa ra công khai kế hoạch đó?

Trước tình hình bị động đó, ngày 14 tháng 5, R.Nixon phải lên truyền hình và đưa ra kế hoạch đầu tiên về giải pháp cho vấn đề Việt Nam.

Trước tiên ông ta nói về thành công trong bốn tháng cầm quyền của ông như thế nào, rồi sau đó đưa ra kế hoạch hoà bình tám điểm. Ông ta nói Mỹ muốn rút quân nhanh chóng ra khỏi Nam Việt Nam, không muốn tìm kiếm căn cứ quân sự, không phản bội lại trách nhiệm của Tổng thống... Nhưng ông ta vẫn đòi hai bên cùng rút số lớn quân trong vòng 12 tháng sau khi có Hiệp định. Ông ta còn tuyên bố một cách trịch thượng rằng "Hoa Kỳ đồng ý để Mặt trận tham gia vào đời sống chính trị ở miền Nam Việt Nam, tham gia vào tổng tuyển cử tự do, có giám sát và kiểm soát quốc tế” (R.Nixon: Thememoirs.fr.Nixon. Sđd, tr39. và Bernard Kalb. Kissinger. (N.Y. Dell, 1975), tr. 59-63.). Tất nhiên ông ta không quên nói đến ngừng bắn, thả tù binh, đến Hội định Genève năm 1954 và 1962... Ông ta cũng không quên đe doạ dùng những biện pháp cứng rắn, nếu Bắc Việt Nam cho sự mềm dẻo của ông là sự suy yếu.

Đề nghị này cũng có những điểm trùng hợp với giải pháp mười điểm của Mặt trận, nhưng thực chất vẫn xem kẻ xâm lược và người bị xâm lược như nhau, vẫn giữ Chính quyền thân Mỹ và giảm nhẹ vai trò của Mặt trận. Do chênh lệch về thời gian giữa Paris và Washington, hôm ấy đoàn ta ở Paris được tin Nixon sẽ đọc diễn văn vào lúc hai giờ sáng 15 tháng 5 (giờ Paris), các cán bộ có trách nhiệm đã được động viên thức để theo dõi. Hơn một giờ sau, đoàn có văn bản đầy đủ để đánh giá và có biện pháp trả lời. Các cây bút phải thức suốt đêm để soạn bài phát biểu của Xuân Thuỷ... mười giờ sáng, khi bắt đầu làm việc ở Kléber, Bộ trưởng đã có một bài phân tích sơ bộ nhưng toàn diện tám điểm của Nixon trước sự ngạc nhiên của Lodge và đoàn Mỹ.

Loại trừ khẩu khí về ngôn từ trong đề nghị của hai bên, lần đầu tiên trên bàn đàm phán có hai kế hoạch giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam.

Hai điểm chủ yếu của Mỹ là: quân miền Bắc rút cùng quân Mỹ - và giữ Chính quyền Sài Gòn.

Còn phía Việt Nam đòi:

- Giữ quân miền Bắc ở lại miền Nam sau khi Mỹ rút.

- Xoá bỏ Chính quyền Sài Gòn. 

Đó là hai vấn đề then chốt mà hai bên mặc cả với nhau để đi tới thoả thuận sau này.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #196 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2009, 11:07:09 am »

Cuộc gặp C.Lodge và Đức Thọ

Khi đó Mỹ đang có ưu thế ở miền Nam Việt Nam, và tất nhiên Mỹ muốn giải quyết vấn đề trên thế mạnh. Phía Việt Nam phải chờ đợi thời cơ. Chúng ta cần có thời gian để khôi phục lại tình thế cách mạng và chiến tranh nhân dân ở miền Nam. Ngay trong vấn đề "Chính phủ liên hiệp" đưa ra trong hoàn cảnh hạ tầng cơ sở của ta tan rã như lúc đó, nếu địch nhận ra thì có thể cũng là một khó khăn cho ta, giống như Chính phủ Hoà hợp Quốc gia lần thứ nhất năm 1957 ở Lào. (chỉ sau một năm tồn tại, phái hữu đã đảo chính bắt giam các đại diện Pathet Lào trong đó có Hoàng thân Suphanuvông).

Tất nhiên Việt Nam phải giữ kín ý đồ của mình, và sử dụng ưu thế về chính trị để tấn công địch trên mặt trận ngoại giao cũng như trong dư luận, phục vụ cho chiến trường. Đợt tấn công ngoại giao tháng 5 năm 1969 đã đạt mục đích mong muốn và có ý nghĩa riêng của nó.

Mỹ cũng nuôi hy vọng ép được Việt Nam trong lúc cách mạng miền Nam có khó khăn trên chiến trường.

Trong giờ nghỉ phiên họp công khai thứ mười chín, ngày 29 tháng 5, e. Lodge xin gặp riêng Lê Đức Thọ vào 31 tháng 5 tại nhà riêng của đoàn Mỹ vào mười giờ ba mươi phút. Ông Thọ đồng ý ngay. Lodge tỏ ra rất mừng.  

Vào cuộc họp, đại sứ Mỹ nói ngay ý định của ông là "thăm dò tìm ra cách nào tốt đẹp nhất cho cuộc thảo luận của chúng ta tiến triển".

Xuất phát từ các kế hoạch đã có, ông ta đề ra hai vấn đề cơ bản:

1- Việc rút khỏi miền Nam mọi lực lượng không phải Nam Việt Nam.

2- Giải pháp chính trị nội bộ ở miền Nam.

Ngoài ra ông ta còn đề ra một số vấn đề cụ thể khác nữa có thể thảo luận trên cơ sở hai kế hoạch của hai bên. Nhưng ông ta nhấn mạnh là vấn đề quân sự chỉ bàn giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kỳ, còn vấn đề chính trị thì Chính phủ Việt Nam Cộng hoà và Mặt trận nên bàn với nhau. Hai cuộc thảo luận này có thể tiến hành song song.

Hôm đó Lê Đức Thọ cũng nói một số vấn đề khái quát, sau đó phát biểu một số ý kiến về tám điểm của Nixon, và cuối cùng đưa ra một số đề nghị.

Cũng như lần đầu gặp Harriman, vài ý tổng quát của Cố vấn đặc biệt là cả một bài dài về âm mưu của Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai: bành trướng thế lực, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc ở Á-Phi-Mỹ Latinh... rồi thất bại của Mỹ ở Trung Quốc, Triều Tiên, Cu Ba, quá trình xâm lược của Mỹ vào Việt Nam đến Tết Mâu Thân, rồi kết luận:

- Các ông đã không thể chiếm được miền Nam Việt Nam bằng quân sự mà phải buông ra, nhưng lại muốn nắm lại miền Nam bằng phương pháp khác. Chủ trương nói trên của các ông thể hiện trong diễn văn ngày 14 tháng 5 của ông Nixon: vẫn duy trì cam kết với nguỵ quyền Sài Gòn, tăng cường nguỵ quân, đòi cái gọi là quân miền Bắc rút đi để làm suy yếu Mặt trận Dân tộc Giải phóng, không chấp nhận Chính phủ liên hiệp mà để Thiệu - Kỳ - Hương đứng ra tổ chức tuyển cử...

« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:34:36 pm gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #197 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2009, 11:07:17 am »

- Với tất cả những điều nói trên thì làm sao chúng tôi và Mặt trận có thể chấp nhận được. 

Lê Đức Thọ lại nhắc lại những sai lầm của Mỹ và kết thúc bằng câu khẳng định:

- Việt Nam hoá của Mỹ nhất định thất bại.

Về đề nghị mới, ông nói: .

- Chúng tôi thấy cần thảo luận mười điểm của Mặt trận và tám điểm của các ông để đi tới một thoả thuận toàn bộ các vấn đề, sau đó đi đến ký kết hiệp nghị ngừng bắn.

C.Lodge liền hỏi ngay:

- Như vậy là có ký kết hiệp nghị ngừng bắn?

Lê Đức Thọ:

- Sau khi thoả thuận giải quyết toàn bộ vấn đề thì đi đến ký kết hiệp nghị ngừng bắn. Sau đó các bên sẽ thi hành tất cả các hiệp nghị được ký kết.

Về cách thức tiến hành thảo luận, ông Thọ đề nghị: Có những vấn đề liên quan đến hai bên, đến ba bên, và có những vấn đề liên quan đến bốn bên.

Hiện nay Mỹ chưa chịu nói chuyện với Mặt trận, còn Mặt trận thì chưa chịu nói chuyện với Chính quyền Sài Gòn, như vậy làm sao mà tiến hành Hội nghị được?

Lê Đức Thọ lại lên án chính quyền Sài Gòn và kết luận Thiệu - Kỳ - Hương là trở ngại lớn nhất cho hoà bình, làm cho Hội nghị chưa tiến triển được. Nếu các ông muốn tiến hành chiến tranh, các ông cũng không thể giữ Thiệu - Kỳ - Hương được. Còn nếu các ông muốn giải quyết vấn đề thì các ông cũng không thể duy trì Chính quyền Thiệu - Kỳ - Hương được.

C. Lodge bào chữa và cải chính những lời lên án của ông Thọ và thúc giục Mặt trận nên nói chuyện với Chính quyền Sài Gòn. Ông cũng đề nghị bốn bên gặp riêng, và trong các cuộc gặp riêng đó ai muốn nêu vấn đề gì thì nêu. Ông nói rằng Hoa Kỳ không phải người tạo nên những ông vua, nhưng bàn các vấn đề chính trị miền Nam Việt Nam thì Chính quyền Sài Gòn phải là một bên trong cuộc thảo luận đó.

Lê Đức Thọ nói lại:

- Giữ Thiệu - Kỳ - Hương là một sai lầm lớn của Mỹ. Còn những vấn đề thảo luận giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không phải chỉ thảo luận những vấn đề liên quan đến hai bên mà phải dựa trên cơ sở giải pháp mười điểm của Mặt trận mà thảo luận.

C. Lodge cho đó là ta đặt ra điều kiện mới nhưng cũng đồng ý là hai bên nghiên cứu quan điểm của nhau và sẽ gặp lại.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #198 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2009, 11:11:22 am »

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam: Người đối thoại mới.

Ngày 8 tháng 6 năm 1969, Tổng thống Nixon gặp Nguyễn Văn Thiệu giữa Thái Bình Dương, không phải chỉ ở đảo Hawai như Johnson đã làm mà ở đảo Midway, xa đất liền Mỹ đang sôi sục các cuộc biểu tình phản chiến. Mục đích là động viên Thiệu chấp nhận đợt rút đầu 25.000 quân Mỹ trong kế hoạch Việt Nam hoá chiến tranh. Nixon rất hài lòng với thái độ biết điều của Thiệu và coi đó là một thắng lợi chính trị.

Không ngờ cũng trong thời gian đó, từ 6 đến 8 tháng 6 - sự trùng hợp ngẫu nhiên mà chua chát - tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành vùng giải phóng Tây Ninh, một địa điểm không xa Sài Gòn, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam ở miền Nam cùng các lực lượng yêu nước khác họp Đại hội Đại biểu quốc dân miền Nam để xem xét tình hình chống Mỹ - Thiệu và nhất trí bầu ra Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam do Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, và Hội đồng Cố vấn Chính phủ do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch. Đại hội ra lời hiệu triệu quân và dân miền Nam tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Chính phủ Cách mạng Lâm thời vạch chương trình hành động mười hai điểm và các mặt đối nội và đối ngoại, trong đó đáng chú ý là tinh thần hoà hợp dân tộc và đề nghị thành lập một Chính phủ liên hiệp dân tộc rộng rãi. 

Việc thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đánh dấu bước tiến mạnh mẽ của cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta, đồng thời biểu thị quyết tâm của nhân dân Việt Nam đánh bại kế hoạch "Việt Nam hoá chiến tranh" của Nixon. Nó tạo ra tình hình mới sẽ gắn với các cuộc thương lượng ở Paris cho đến ngày kết thúc, thậm chí trở thành một vấn đề gay go hàng đầu trong thương lượng: sự xuất hiện hình thái hai Chính quyền song song tồn tại ở miền Nam Việt Nam. Không có gì đáng ngạc nhiên là ngay trong tháng 6 năm 1969, hai mươi ba nước đã công nhận Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam trong đó hai mươi mốt nước đặt quan hệ ngoại giao.

Chính phủ Cách mạng Lâm thời trở thành người đối thoại thật sự của Mỹ dù họ muốn hay không. Cuộc thương lượng chịu sự tác động của một yếu tố mới: học thuyết mà Nixon đã khởi xướng tại Guam tháng 7 năm 1969 và được hoàn thiện đầu năm 1970 làm phương hướng cho chính sách châu Á mới của Mỹ sau chiến tranh Việt Nam. Sau khi tuyên bố rút 25.000 quân Mỹ tại Midway, Nixon nói sẽ tiếp tục rút nữa dựa trên cơ sở ba tiêu chuẩn: tiến bộ trong việc huấn luyện và trang bị lực lượng vũ trang Sài Gòn, tiến bộ của các cuộc thương lượng ở Paris và mức độ hoạt động quân sự của địch.

Như vậy vấn đề rút quân Mỹ gắn với thái độ thương lượng của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Chính phủ Cách mạng Lâm thời và với khả năng chiến đấu của Quân đội Sài Gòn sau khi Mỹ rút quân. Có thể nói kế hoạch "Việt Nam hoá chiến tranh" là việc thể nghiệm đầu tiên học thuyết Nixon trong chiến tranh Việt Nam.

Những tháng đầu vào Nhà Trắng, Nixon cho rằng chính sách Việt Nam của ông ta muốn đạt tới kết quả cần phải kết hợp sức ép quân sự với sức ép công khai và sức ép của ngoại giao. Kể ra đó cũng là cách suy nghĩ và hành động của Tổng thống Johnson trước đây. Đối với Nixon, sức ép quân sự đây là các cuộc ném bom bí mật bằng B52 xuống Campuchia để đánh thẳng vào “đất thánh". Sức ép ngoại giao đây là lợi dụng nhu cầu cải thiện quan hệ với Mỹ của Liên Xô để thúc ép Liên Xô cắt viện trợ quân sự cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 30 tháng 4 năm 1969, đại sứ Liên Xô ở Hà Nội, I.Secbacôp gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng chuyển những ý kiến mà Nixon và Kissinger đã nói với đại sứ Liên Xô Đôbrinin ở Washington:

- Nixon muốn tìm ra một giải pháp danh dự có thể chấp nhận được nhưng Nixon không chấp nhận những điều kiện có tính chất đầu hàng. Nixon cố gắng một lần nữa, nếu thất bại thì tìm cách khác.

- Nixon đề nghị hai bên gặp nhau ở Matxcơva và sẵn sàng tiếp đại diện Việt Nam ở Washington, thảo luận trong vòng hai tháng và mong đạt được những thoả thuận về những nét chung của một giải pháp.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #199 vào lúc: 19 Tháng Chín, 2009, 11:11:37 am »

Nixon nêu hai vấn đề cụ thể:  

+ Cùng rút quân trên nguyên tắc bình đẳng và đình chỉ chiến sự.

+ Về chính trị, bảo đảm cho Mặt trận không bị chèn ép và có quyền tham gia vào đời sống chính trị và xã hội của đất nước đổi lấy việc Mặt trận và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ bỏ việc dùng sức mạnh. Miền Nam sẽ độc lập, tự chủ trong năm năm, sau đó sẽ không phản đối thống nhất Việt Nam. (Kissinger nói thêm: năm năm hay là thời hạn khác là vấn đề có thể thảo luận) (Kissinger: Ở Nhà Trắng. Sđd, tr. 278.).

Hoa Kỳ mong muốn đạt được thoả thuận trước tháng 8. Hoa Kỳ không thể dùng bạo lực để thay đổi những thủ lĩnh hiện nay ở Sài Gòn và thành lập Chính phủ liên hiệp với sự tham gia của Mặt trận. Nhưng nếu Mặt trận tham gia Chính phủ qua bầu cử thì Hoa Kỳ không phản đối.

Tóm lại Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận con đường chính trị mà sau thời gian nào đó miền Nam Việt Nam tự mình lựa chọn.  

Kissinger đề nghị giữ bí mật không để cho Sài Gòn biết nếu không thì Hoa Kỳ buộc phải hoàn toàn phủ nhận.

Lúc này Liên Xô và Mỹ đã thoả thuận bắt đầu mở cuộc đàm phán về hạn chế vũ khí chiến lược (SALT). Ông C.Vance, sau khi rời Hội nghị Paris đã trở thành Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ. Ông được giao nhiệm vụ đi Matxcơva đòi Liên Xô "gắn việc mở đầu cuộc nói chuyện về SALT với giải pháp tổng quát về Việt Nam" như Kissinger đã nói (Xem thêm: Kissinger, ở Nhà Trắng, Sđd, tr. 278-279.).

Việc Nixon phải chịu đơn phương rút quân Mỹ bất kể vì động cơ ban đầu nào cũng thật sự mở đầu một quá trình không thể đảo ngược được và chứng tỏ ông không có con đường nào khác là đi theo chính sách phi Mỹ hoá chiến tranh của Tổng thống tiền nhiệm. Ông ta đã có nhiều sáng kiến, mở nhiều con đường, nhưng vẫn chưa thấy tín hiệu nào về phía Việt Nam nên càng sốt ruột. Những người Việt Nam, những nạn nhân trực tiếp của cuộc xâm lược của Mỹ, làm sao có thể tin dễ dàng khi Mỹ vẫn muốn duy trì Chính quyền tay sai sau khi rút quân Mỹ, làm sao họ có thể chấp nhận kiểu đàm phán trên thế mạnh, chưa đưa đề nghị đã tung lời đe doạ?

Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ký Hiệp nghị Genève về Đông Dương, ngày 17 tháng 7 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố.

“Nhân dân Việt Nam quyết đòi tất cả quân Mỹ và quân chư hầu của Mỹ phải rút hết sạch, chứ không phải chỉ rút 25.000 hoặc 250.000 hay là 500.000, mà phải rút hết toàn bộ không điều kiện. Chỉ có như thế giới lấy lại được danh dự của nước Mỹ và tránh cho hàng vạn thanh niên Mỹ tiếp tục phải chết một cách vô ích ở miền Nam Việt Nam, tránh cho hàng chục vạn gia đình Mỹ khỏi bị tang tóc đau thương" . (Hồ Chí Minh tuyển tập, Tập II. Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1980, tr. 537-538.).

Nỉxon còn nghĩ đến mở một con đường tiếp xúc với Hà Nội, chính là con đường Kissinger - Lê Đức Thọ sẽ kéo dài đến khi Hiệp định về Việt Nam được ký kết.

Tháng 12 năm 1968, khi còn là Tổng thống đắc cử, ông Nixon đã chọn Henry Kissinger làm Cố vấn đặc biệt về An ninh Quốc gia của Nhà Trắng. Kissinger đã dạy tại trường Đại học Havard, còn là nhà ngoại giao có tài, hiểu sâu về vấn đề Việt Nam

Kissinger đã cải chính việc ông ta lấy C. Metternich (1773- 1859), nhà hoạt động chính trị áo nổi tiếng thế kỷ XIX - Tác giả) làm kiểu mẫu cho sự nghiệp của ông, "nhưng việc sử dụng giống như vậy của sự xảo trá và lừa dối, việc thao túng một cách vô lương tâm con người và sự kiện, việc dùng bạo lực và việc dựa vào sự bí mật là những bằng chứng rõ ràng" (Marvin Kalb và Bernard Kalb. Kissinger. (N. Y. Dell, 1975), tr. 59-63).
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:35:17 pm gửi bởi macbupda » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM