Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 03:39:26 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris  (Đọc 197632 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #120 vào lúc: 10 Tháng Chín, 2009, 11:18:22 am »

Một tuần sau, Guthrie được mời đến sứ quán Việt Nam. Đồng chí Lê Trang đề nghị phía Mỹ giải thích thêm một số điểm: thế nào là thu xếp hoàn toàn có bảo đảm, lập trường cụ thể của Mỹ là gì? Một cuộc gặp mặt ngắn ngủi.

Trong cuộc gặp đồng chí Lê Trang ngày 20 tháng 1, ông Guthrie đáp ứng các yêu cầu của phía Việt Nam:

- Mỹ muốn giữ thật bí mật các cuộc thảo luận giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ. Mỹ sẵn sàng gặp đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bất cứ ở đâu. Mỹ sẵn sàng xem xét bất cứ vấn đề nào mà phía Việt Nam đề ra.

Tới đây, Guthrie đưa ra một danh mục các vấn đề làm thí dụ: Ngừng bắn hoặc giảm chiến sự, rút lực lượng bên ngoài ra khỏi miền Nam Việt Nam, quyền tự do quyết định của miền Bắc và miền Nam Việt Nam về vấn đề thống nhất Việt Nam, vấn đề độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của hai miền hoặc cả nước Việt Nam nếu như nhân dân Việt Nam đồng ý thống nhất, vị trí quốc tế, cơ cấu chính trị của miền Nam Việt Nam và cuối cùng là biện pháp bảo đảm những điều khoản đã thoả thuận.

Các vấn đề Mỹ nêu ra chỉ là danh mục làm ví dụ, chưa phải là lập trường của Mỹ để giải quyết vấn đề Việt Nam. Thực chất đây vẫn là "lập trường thương lượng không điều kiện" đã đưa ra hai năm trước, vẫn là ngừng ném bom có điều kiện. Rõ ràng Mỹ muốn đưa Việt Nam vào con đường tiếp xúc bí mật trong khi Mỹ tiếp tục ném bom miền Bắc, vừa tỏ thiện chí hoà bình, vừa đẩy mạnh chiến tranh ở cả hai miền, vừa thăm dò khả năng có một giải pháp có lợi cho Mỹ.

Trong lúc Mỹ làm ra vẻ bí mật đi tìm cách tiếp xúc với Hà Nội để thăm dò một khả năng dẫn tới cuộc nói chuyện với Hà Nội thì toàn thế giới đều biết lập trường của Hà Nội về khả năng đó. Ngày 2 tháng 1, tức là bốn ngày trước khi Guthrie yêu cầu gặp Lê Trang, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố rõ ràng lập trường bốn điểm là cơ sở cho một giải pháp chứ không phải là điều kiện tiên quyết. Đó cũng là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói với hai ông Ashmore và Baggs.

Ngày 27 tháng 1, Lê Trang trao cho ông Guthrie một bị vong lục của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nêu rõ lập trường bốn điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là cơ sở cho một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam và nhấn mạnh:

"Chỉ sau khi Mỹ ngừng không điều kiện việc đánh phá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì mới có thể trao đổi với Mỹ về địa điểm và thời gian hai bên tiếp xúc như Mỹ đề nghị trong công hàm ngày 10 tháng 1 năm 1967".

Guthrie hỏi lại xem có phải bản bị vong lục này là trả lời công hàm ngày 10 tháng 1 năm 1967 không? Lê Trang cho ông biết cách hiểu như vậy là đúng và nói:

- Lời bình luận về các vấn đề ông nêu lên hôm 20 tháng 1 sẽ được đưa ra vào thời gian thích hợp.

Guthric biểu lộ một nỗi vui mừng kín đáo.

Ngày 28 tháng 1, trả lời phỏng vấn của nhà báo Australia W.Bớc-sét, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh tuyên bố càng rõ ràng hơn:

"Mỹ đã có lần tuyên bố cần có những cuộc nói chuyện trực tiếp hay tiếp xúc giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nếu quả thật Mỹ muốn nói chuyện thì trước hết Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Mỹ mới có thể nói chuyện được với nhau”.

Như vậy, quan điểm của Hà Nội về vấn đề nói chuyện với Mỹ, từ chỗ mới nói riêng với hai ông Ashmore và Baggs, với ông Salsbury đã được các nhà lãnh đạo có trách nhiệm Việt Nam đưa ra chính thức và công khai. Khi đó nhiều đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở nước ngoài như Phnôm Pênh, Cai ro v.v... đã họp báo tuyên bố rõ ràng "sẽ" nói chuyện chứ không phải "có thể" nói chuyện với Mỹ. Các đại diện ngoại giao của các nước tại Hà Nội cũng đã được thông báo về tuyên bố đó.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #121 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:39:55 am »

Đưa tin về việc này, tờ Thời báo (Mỹ) ngày 20 tháng 2 viết: Tuy lời lẽ rất có điều kiện và ít hoà giải nhưng nhiều Chính phủ có lãnh sự quán ở Hà Nội đã được những người cộng sản báo cho biết "tuyên bố đó là đầy tín hiệu”. Vì vậy các Chính phủ đó chuyển lại đến Washington lời ngụ ý rằng một cuộc ngừng ném bom miền Bắc có thể đưa đến cuộc nói chuyện hoà bình.

Cùng ngày Guthric trao cho Lê Trang một công hàm của Bộ Ngoại giao Mỹ lời lẽ tỏ ra mềm mỏng trong đó có đoạn đáng chú ý như sau:

"Hoa Kỳ mong muốn duy trì cuộc nói chuyện trực tiếp với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà... mong Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ đưa ra các tuyên bố hoàn toàn bí mật qua con đường này... Hoa Kỳ đã thi hành một bước xuống thang từ hơn một tháng nay: không ném bom phạm vi mười dặm kể từ trung tâm Hà Nội. "Việc chấm dứt ném bom sẽ được tiến hành như một hành động đơn phương có trước. Trước khi làm việc đó, Hoa Kỳ mong muốn có sự hiểu biết riêng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về những bước tiếp theo sẽ được thực hiện để giảm bớt các hành động đối địch một cách công bằng và có đi có lại ".

Cuối cùng Mỹ đề nghị sử dụng việc ngừng bắn trong dịp Tết sắp tới là thời cơ đặc biệt thuận lợi cho việc thảo luận và mong được trả lời sớm, vì Tết đã đến nơi rồi. Hôm đó là ngày 23 tháng Chạp ta (Xem thêm George Herring: Sđd, tr. 417 đến 426.).

Đây vẫn chỉ là kế hoạch hai giai đoạn trong vụ Bông cúc vạn thọ.

Hai giờ sáng ngày 8 tháng 2 năm 1967, Guthrie vội đến sứ quán ta trao cho Lê Trang thư của Tổng thống Johnson gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thư có đoạn viết:

Tôi sẵn sàng ra lệnh ngừng ném bom nước Ngài và chấm dứt việc tăng quân Mỹ và Nam Việt Nam ngay khi nào tôi nhận được bảo đảm rằng các việc thâm nhập bằng đường bộ và đường thuỷ vào Nam Việt Nam đã chấm dứt".

Nhiều vấn đề quan trọng không được nói đến: vấn đề rút quân Mỹ, vấn đề thi hành Hiệp nghị Genêve v.v...

Towsent. Hoopes, nguyên Thứ trưởng không lực Mỹ, đã bình luận trong cuốn Những giới hạn của sự can thiệp:

“Đó là một bức thư cốt bảo đảm tạo ra một câu trả lời tiêu cực” (Towsent Hoopes: Sđd, tr. 122.)

Lúc này Chính quyền Johnson đang tích cực thực hiện "chiến lược chiến thắng" để chuẩn bị bước vào năm bầu cử với phương châm "tìm và diệt" của tướng Westmoreland và tin công khai cho biết chiến dịch ATTLEBORO, bắt đầu ngày 14 tháng 9 năm 1966 và kết thúc với những kết quả to lớn đánh vào cơ quan lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng tại tỉnh Tây Ninh và cuộc tấn công Cedar Fall, đánh vào khu "tam giác sắt" ở cửa ngõ Sài Gòn ngày 8 tháng 1 năm 1967 đang gây nhiều tổn thất cho Việt cộng. Tiếp đó là chiến dịch Junction City lớn nhất trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Đông Nam Á một lần nữa lại đánh tỉnh Tây Ninh. Họ tỏ ra quyết tâm lao vào chiến lược đó nên hoạt động ngoại giao, mọi cố gắng thăm dò chỉ nhằm phục vụ thắng lợi hoặc buộc phía bên kia thương lượng theo điều kiện của họ.

Johnson đã không đợi trả lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ngày 14 tháng 2, sau bảy ngày ngừng ném bom trong dịp Tết Đinh Mùi, ông ta đã ra lệnh ném bom trở lại miền Bắc. Thật ra nếu có chờ thư của Chủ tịch thêm thời gian cũng không phải là lâu lắm vì ngày 15 tháng 2 trả lời đó đã được chuyển cho Johnson qua sứ quán Mỹ ở Mát-xcơ-va.

Ngày 21 tháng 3, Hà Nội cho công bố cả bức thư ngày 8 tháng 2 của Tổng thống Johnson và bức thư trả lời ngày 15 tháng 2 của Chủ tịch Hồ Chí Minh để dư luận thấy rõ ai có thiện chí, ai không có thiện chí.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #122 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:42:43 am »

Ngày 6 tháng 4, sứ quán Mỹ tại Mát-xcơ-va cho người mang tới sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bức thư thứ hai của Tổng thống Johnson gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh, một bức thư bỏ ngỏ. Nội dung có nói đến Hiệp nghị Genève năm 1954, quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, vấn đề thống nhất nước Việt Nam, nhưng lại không nói gì đến việc rút đội quân viễn chinh Mỹ ra khỏi miền Nam. Vấn đề nói chuyện giữa hai bên vẫn trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại

Trả lời của phía Việt Nam: Sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã trả lại bức thư đó cho sứ quán Mỹ. 

Đợt thăm dò của Mỹ ở Mát-xcơ-va đến đây đã chấm dứt.

Trong thời gian có các cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa hai đại diện Lê Trang và Guthrie tại Mát-xcơ-va, Thủ tướng Anh Wilson cũng tiến hành thăm dò theo yêu cầu của Nhà Trắng trong những điều kiện không ngờ là bi kịch.

Ai cũng biết rằng ngay từ đầu, cuộc chiến tranh của Johnson ở Việt Nam đã được sự ủng hộ không che giấu của Chính phủ Công đảng Anh. Nếu nói rằng có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Washington và Luân Đôn cũng không có gì quá đáng.

Khi Mỹ vi phạm các nguyên tắc lớn và các điều khoản quân sự của Hiệp nghị Genève năm 1954, tuy là một Chủ tịch của Hội nghị Genève về Đông Dương. Anh đã làm ngơ. Khi Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam và đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam Việt Nam, Anh công khai bênh vực lập trường của Mỹ. Khi Mỹ bắt đầu đưa thủ đoạn "thương lượng không điều kiện", Anh đã nhiều lần và dưới nhiều hình thức hưởng ứng các cố gắng của Mỹ trong lĩnh vực này.

Ngày 23 tháng 2 năm 1966, khi đi thăm Liên Xô, Thủ tướng Anh Wilson đã cử một thành viên trong đoàn của ông, Huân tước Chalfont, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, đến sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Mát-xcơ-va nhằm thuyết phục Việt Nam đi vào nói chuyện với Mỹ.

Đại biện Lê Trang đã tiếp ông. Sau khi nghe ông trình bày thiện chí của Anh trong việc thi hành Hiệp nghị Genève về Việt Nam, đồng chí đã nêu vai trò tích cực của Chính phủ Anh trong Hội nghị Genève năm 1954 nhưng cũng chỉ rõ rằng Chính phủ Anh về sau đã không làm đúng nhiệm vụ của một đồng Chủ tịch Hội nghị đó.

Ông Chalfont cố thanh minh và sau đó đã chuyển cho phía Việt Nam ý kiến của Thủ tướng Wilson đại ý như sau:

Anh đã sẵn sàng nhận thông điệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Nữ hoàng Anh với thái độ nghiêm chỉnh và Thủ tướng Wilson đề nghị có tiếp xúc cá nhân với đại diện cá nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Mát-xcơ-va. Chính phủ Anh mong muốn và tin rằng Chính phủ Mỹ cũng như Chính phủ Anh mong muốn giải quyết cuộc xung đột ở Việt Nam bằng con đường thương lượng.

Lập trường của Bắc Việt Nam và lập trường của Mỹ là những lập trường khó có thể phù hợp với nhau được. Chúng tôi hy vọng rằng bằng phương pháp gặp gỡ cá nhân và bí mật chúng ta có thể tìm ra cơ sở này hay cơ sở khác cho phép chúng ta bắt đầu cuộc thương lượng.
Thủ tướng uỷ nhiệm cho tôi nói rõ một số điểm trong thông điệp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi cho Nữ hoàng Anh ngày 24 tháng 1 năm 1966

Điểm thứ nhất có liên quan đến việc Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia vào cuộc thương lượng với điều kiện là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam sẽ có đại diện tham gia thương lượng ngang với các Chính phủ miền Bắc và miền Nam Việt Nam thì Thủ tướng chúng tôi sẵn sàng chuyển đề nghị đó cho Chính phủ Mỹ. Còn nếu như gạt Chính phủ miền Nam Việt Nam ra khỏi phòng Hội nghị thì Thủ tướng chúng tôi thấy rằng Chính phủ Mỹ sẽ không bao giờ tán thành điều đó và bản thân Thủ tướng sẽ không sẵn sàng đề nghị như vậy.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #123 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:43:56 am »

Điều thứ hai có liên quan đến điểm 1 trong bốn điểm của ông Phạm Văn Đồng: Nếu như điều đó có nghĩa là tất cả các lực lượng vũ trang của Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam trước khi bắt đầu thương lượng hoặc điều đó có nghĩa là khi bắt đầu thương lượng, Mỹ phải cam kết hoàn toàn rút quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam trước một thời hạn nhất định nào đó mặc dù chưa biết trong quá trình thương lượng có đạt được thoả thuận hay không, thì theo ý kiến của Thủ tướngg chúng tôi, không nên chờ đợi Chính phủ Mỹ sẽ tiếp nhận những ý kiến như vậy và bản thân Thủ tướng sẽ không có thể khuyên nên tiếp nhận những điều kiện như thế.

Còn nếu như điều đó có ý nghĩa là Mỹ cần phải rút quân đội trong một thời hạn nhất định sau khi đã đạt được một hiệp nghị qua con đường thương lượng và với điều kiện là tôn trọng mọi bảo đảm trong hiệp nghị thì Thủ tướng chúng tôi sẽ rất lấy làm cảm ơn đối với sự giải thích thêm về vấn đề này.

Điều thứ ba có liên quan đến điểm 3 của ông Phạm Văn Đồng. Nếu như điều đó có nghĩa là Chính phủ Mỹ trước khi tiến hành thương lượng phải nhận để Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trở thành Chính quyền tối cao ở miền Nam Việt Nam mặc dù chưa biết kết quả của thương lượng ra sao, thì Thủ tướng chúng tôi không thấy một khả năng nào để tán thành được điều đó

Còn nếu như điều đó có nghĩa là vai trò tương lai của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là một trong những điểm được quyết định trong một hiệp nghị đạt được do kết quả thương lượng thì Thủ tướng chúng tôi lấy làm cảm ơn đối với lời giải thích thêm về vấn đề này.

Điểm thứ tư có liên quan đến lời Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đình chỉ những cuộc oanh tạc và tất cả những hành động quân sự khác chống lại Bắc Việt Nam.

Nếu như việc đó sẽ chỉ là nhượng bộ một chiều của phía Mỹ thì Thủ tướng chúng tôi cho rằng điều đó sẽ là một trở ngại nghiêm trọng cho việc tiên hành thương lượng sau này.

Còn nếu như Chính phủ Bắc Việt Nam về phía mình cũng sẵn sàng có một nhượng bộ thích ứng nào cho Chính phủ Mỹ. Thủ tướng chúng tôi chỉ định làm việc đó với danh nghĩa là người trung gian. ..”.


Đại biện Lê Trang hứa sẽ chuyển những ý kiến của Thủ tướng Anh về Hà Nội.  

Sau khi trở về Luân Đôn, Thủ tướng Anh tuyên bố rằng Hà Nội nắm chắc chìa khoá hoà bình, có nghĩa là Việt Nam chịu trách nhiệm về hoà bình hay tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam.

Khi Mỹ leo thang đánh phá thủ đô Hà Nội và cảng Hải Phòng, ngày 1 tháng 7, Thủ tướng Wilson tỏ ý tiếc về việc ném bom đó nhưng lại nêu lại cách nhìn trên: cơ hội chấm dứt chiến tranh đã mở cho Hà Nội. Trách nhiệm tiếp tục chiến tranh cũng là ở Hà Nội.

Ngày 22 tháng 9, đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc Arthur Goldberg đưa ra đề nghị ba điểm để giải quyết vấn đề Việt Nam. Nội dung tóm tắt là Mỹ sẵn sàng rút quân khỏi miền Nam Việt Nam làm nhiều đợt nếu Bắc Việt Nam chấp nhận rút quân đồng thời. Ngày 6 tháng 10, tại Hội nghị hàng năm của Công đảng Anh. Ngoại trưởng Anh George Brown đưa ra kế hoạch hoà bình sáu điểm thực tế là nêu lại đề nghị tăng cường Uỷ ban Quốc tế bằng một lực lượng gìn giữ hoà bình như ở Síp để bảo đảm cho việc thi hành giải pháp đó.

Ngày 25 tháng 10, Hội nghị Manila tuyên bố các nước phía Mỹ tham chiến ở miền Nam Việt Nam sẽ rút quân trong vòng sáu tháng nếu Bắc Việt Nam cũng rút quân thì ngày 30 tháng 12 Chính phủ Anh kêu gọi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mỹ và Chính quyền Sài Gòn họp lại để sắp xếp việc đình chỉ chiến sự, Mỹ và Bắc Việt Nam rút quân khỏi miền Nam Việt Nam.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:19:28 pm gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #124 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:44:36 am »

Đầu tháng 2 năm 1967, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô A.N.Kossiguine sang thăm Vương quốc Anh. Liên Xô và Anh là hai đồng chủ tịch của Hội nghị Genève năm 1954 về Đông Dương thì đương nhiên với tư cách đó Chủ tịch Kossiguine, và Thủ tướng Wilson sẽ bàn về tình hình Việt Nam.

Nhà Trắng đã cử C.L.Cooper, cộng sự thân cận của Averell Harriman sang Luân Đôn giới thiệu kế hoạch Giai đoạn A và Giai đoạn B để chuẩn bị cho Wilson hội đàm với Kosssiguine. Xin phép nhắc lại rằng theo sự giải thích của Johnson trong hồi ký, Giai đoạn A liên quan đến vấn đề Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, Giai đoạn B liên quan đến vấn đề giảm bớt mức chiến sự ở miền Nam Việt Nam và các vấn đề khác; Mỹ sẽ đồng ý ngừng ném bom miền Bắc (giai đoạn A) chỉ sau khi hoàn toàn thoả thuận với Bắc Việt Nam những biện pháp lớn sẽ áp dụng nhằm giảm bớt chiến sự (giai đoạn B). Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa lập trường của Việt Nam và Mỹ: Việt Nam đòi Mỹ chấm dứt ném bom trước rồi hai bên mới nói chuyện, Mỹ đòi Việt Nam thoả thuận cùng giảm mức chiến sự trước thì mới ngừng ném bom và đi vào nói chuyện. Yêu cầu của Việt Nam để đi vào nói chuyện là Mỹ chấm dứt ném bom, còn yêu cầu của Mỹ là việc chấm dứt ném bom phải trên nguyên tắc có đi có lại.

Giả thiết kế hoạch hai Giai đoạn A và B được chấp nhận, có một vấn đề thực tế cần đề cập và giải quyết thoả đáng: khoảng cách giữa hai giai đoạn đó là bao lâu? Nếu vấn đề đó được giải quyết thì vấn đề thời cơ không có khó khăn, vì hai bên đã chấp nhận trên thực tế ngừng bắn trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam, với thời cơ đó không bên nào sợ mất mặt cả. Năm đó Tết cổ truyền vào ngày 8 tháng 2 năm 1967.

Cooper kể: khi ông rời Washington đi Luân Đôn, ông được biết là các nhà vạch kế hoạch Mỹ nói chung đã thoả thuận với nhau là khoảng cách giữa hai giai đoạn là ba tuần hay hơn một chút. Ông ta còn được xem bức thư đề ngày 2 tháng 2 năm 1967 mà Tổng thống dự định gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bức thư đó sau này được sửa lại hoàn toàn để trở thành bức thư cứng rắn ngày 8 tháng 2 năm 1967 mà mọi người đã biết.

Cooper đã làm việc tỉ mỉ với Wilson và Ngoại trưởng G.Brown ông ta nói đã được uỷ nhiệm nhân danh Johnson để khẳng định đây là kịch bản đã được vạch ra.

Wilson tỏ ra rất lạc quan.

Trong cuộc hội đàm với Kossiguine, Wilson nêu vấn đề Việt Nam đầu tiên. Chủ tịch Kossiguine nêu bước thứ nhất là Mỹ phải chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam. Bước đó là cần thiết, như Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nói, để tạo ra khả năng nói chuyện giữa Mỹ và Việt Nam. Điều đó cũng phù hợp với thực tế. Sau khi có tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh, ngày 30 tháng 1, đại sứ Liên Xô tại Việt Nam I. Cherbacop chuyển ý kiến của lãnh đạo Liên Xô tới Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Trong tình hình hiện nay Việt Nam nên tăng cường đấu tranh ngoại giao vấn đề Việt Nam, mũi nhọn tập trung vào việc đòi Mỹ đình chỉ ném bom miền Bắc và tiếp xúc với Mỹ; sau khi tiếp xúc sẽ chuyển sang giai đoạn mới để giải quyết các vấn đề chính trị cơ bản, ý kiến đó phù hợp với chủ trương của Việt Nam khi chuẩn bị đợt tiến công ngoại giao. Khi đó chủng ta dự kiến tình hình có thể diễn ra theo ba khả năng:

Một: Mỹ bác bỏ thẳng thừng và tiếp tục leo thang.

Hai; Mỹ đưa ra điều kiện để mặc cả, sau đó có thể hoặc là xuyên tạc lập trường của ta, đổ lỗi cho ta để tiếp tục leo thang, hoặc là có thể ngừng ném bom trên thực tế để đi vào nói chuyện.

Ba: Mỹ nhận điều kiện của ta và ngừng ném bom để đi vào nói chuyện .

Chúng ta cho khả năng thứ hai là có triển vọng nhất. Cho nên, ngày 4 tháng 2, ta trao cho phía Liên Xô một bị vong lục nói lên nhận định và chủ trương của chúng ta tiếp tục đấu tranh về mọi mặt và đề nghị Liên Xô ủng hộ lập trường của Việt Nam và hưởng ứng tuyên bố ngày 28 tháng 1 năm 1967 của Bộ trưởng Bộ Ngoại giaoNguyễn Duy Trinh. Kossiguine trong thời gian ở thăm Anh luôn luôn nhắc đến tuyên bố của Nguyễn Duy Trinh, coi đó là con đường thoát cho tình trạng bế tắc không có nói chuyện hiện nay.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:20:17 pm gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #125 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:45:13 am »

Thủ tướng Wilson căn cứ vào các lời tuyên bố công khai của Tổng thống Johnson thấy rằng tuyên bố ngày 28 tháng 1 của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh là một dấu hiệu mà Johnson nói là mong đợi từ lâu ở Hà Nội.

Wilson hài lòng thấy các cuộc hội đàm giữa ông và Kossiguine có chiều thuận lợi. Tuyên bố của Johnson ra lệnh ngừng bắn bốn mươi tám giờ trong dịp Tết Việt Nam càng củng cố sự lạc quan của ông.

Wilson và Cooper cùng thảo ra một văn bản về các điều đã thoả thuận với Liên Xô theo yêu cầu của Liên Xô và cũng là phù hợp với các tuyên bố công khai của Mỹ. Một bản được trao cho Chủ tịch Kossiguine; một bản gửi về Washington. Đại sứ Mỹ tại Luân Đôn D.Bruce, người đã tham gia thảo văn kiện, hết sức hoan nghênh và đánh giá hành động của Thủ tướng Wilson là "một đòn ngoại giao lớn nhất trong thế kỷ này" (W.Burchetl:Sđd, tr.340.).

Hai ngày trôi qua yên ổn, cả Wilson và Cooper đều tin rằng mọi việc đã ổn thoả. Thật ra, đây mới là khởi đầu của những rắc rối.
Đêm hôm thứ hai, Cooper xin gặp Thủ tướng Wilson và Ngoại trưởng Brown vì có việc khẩn. Số là lúc Cooper đang ngủ thì được đánh thức dậy để nói điện thoại với Rostow, Cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ. Rostow cho biết "đang soạn một văn bản mới hoàn toàn khác với bản Wilson đã đưa cho Kossiguine và sẽ thay thế cho bản đó". Sau này Cooper viết: "Tim tôi như rụng xuống. Chúng tôi đang đi vào một cuộc chơi hoàn toàn mới" (Xem C.L.Cooper: Sđd, tr. 361, 363.).

Theo cách diễn đạt mới, Washington sẽ chấm dứt ném bom và ngừng đưa quân vào miền Nam sau khi được bảo đảm rằng Hà Nội đã chấm dứt thật sự việc thâm nhập vào miền Nam Việt Nam. Và như thế, kịch bản trong Giai đoạn A và Giai đoạn B bị đảo ngược, toàn bộ công thức bị biến dạng. Đó là một đề nghị hoàn toàn trái với sự giải thích của Dean Rusk về lập trường mười bốn điểm vừa mới công bố hôm trước. Cooper hết sức bực bội. Wilson giận dữ. Ông ta giải thích cho Cooper rằng công hàm mới của Washington làm cho ông ta lúng túng và hại cho ông ta (Xem C.L.Cooper: Sđd, tí. 361, 363.l).

Lý do Johnson đưa ra việc thay đổi đột ngột này là trong lúc ngừng bắn dịp Tết, sự vận chuyển người và phương tiện rất lớn hướng về phía Nam đã diễn ra trước khu phi quân sự.

Yêu cầu của Washington là sửa lại ngay lập tức bản thoả thuận với Liên Xô trước khi nó tới Mát-xcơ-va hay ít nhất cũng trước khi lời hứa của Wilson tới Hà Nội.

Năm giờ sáng ngày 10, một phụ tá của Wilson phóng ô tô ra ga xe lửa, chạy thục mạng qua cửa ga, gặp hết người này đến người khác. Chủ tịch sắp lên xe lửa đi thăm sứ Ê-cốt. Với vẻ mặt lúng túng, khổ sở, ông ta đề nghị với Chủ tịch Kossiguine cho xin lại bản thoả thuận mà Thủ tướng Anh đã đưa cho Chủ tịch, trước sự ngạc nhiên và khó chịu của Chủ tịch và những người cùng đi.

Tối ngày 12, ngày cuối cùng của chuyến đi thăm Anh của đoàn Đại biểu Chính phủ Liên Xô, sau tiệc chiêu đãi, hai vị Thủ tướng chia tay nhau lúc gần nửa đêm để sáng hôm sau Chủ tịch Kossiguine rời Luân Đôn về
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #126 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:46:19 am »

Mọi việc tưởng như đã ổn đối với Wilson. Không ngờ lúc một giờ sáng ngày 13, tức là hai giờ sau khi chia tay tại tiệc chiêu đãi, ông lại cùng Ngoại trưởng Brown vội vã đến biệt thự Kossiguine ở. Ông nói là vừa mới nói chuyện xong với Johnson và Johnson yêu cầu ông chuyển ngay cho Hà Nội một thông điệp mới:

Hoa Kỳ sẽ thôi không ném bom lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nghĩa là đồng ý kéo dài ngừng bắn trong dịp Tết, với điều kiện là Chính phủ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tuyên bố bí mật trực tiếp với Mỹ, hoặc qua Wilson, hoặc qua Chủ tịch Kossiguine, rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không chuyển người và hàng tiếp tế vào miền Nam Việt Nam. Như vậy thì việc ngừng ném bom sẽ kéo dài vô thời hạn và sau đó mấy ngày Hoa Kỳ sẽ đình chỉ việc tăng quân vào miền Nam và trong trường hợp đó Hoa Kỳ hy vọng có thể bắt đầu cuộc thương lượng".

Mỹ đặt điều kiện là Hà Nội phải trả lời trước mười giờ sáng ngày 13 tháng 2 (giờ Luân Đôn). Nếu tới lúc đó mà chưa có trả lời thì Wilson sẽ nói với Johnson kéo dài thêm vài giờ nữa.

Theo như Cooper kể lại, trước khi đến gặp Kossiguine lúc nửa đêm cả Wilson, Brown và Cooper đều thấy rằng thời hạn buộc Hà Nội trả lời trước mười giờ sáng hôm sau là không thích hợp. Muốn chấm dứt thâm nhập từ miền Bắc vào miền Nam ít nhất phải mất nhiều ngày có khi cả tuần lễ mới có thể làm được. Cooper gọi điện thoại cho Rostow. Wilson dùng đường dây nóng nói chuyện với Washington. Cooper không rõ Wilson đã gặp ai nhưng hai giờ trôi qua mà không có tin tức gì. Cuối cùng, Wilson phải làm cái mà người ta gọi là "sứ mệnh nửa đêm", đến gặp Chủ tịch Kossiguin. Đại sứ Brurce cũng gọi điện thoại cho Bộ trưởng Rusk và nói thẳng thời hạn cuối cùng đó là lố bịch, cần phải nhiều ngày cho Hà Nội trả lời, do đó ông đề nghị Rusk gặp Tổng thống và xin thêm thời hạn. Cooper không biết câu trả lời của Rusk thế nào nhưng ông “đọc thấy nó trên nét mặt của đại sứ”. Bất thình lình Rusk chúc Bruce ngủ ngon và yêu cầu Bruce đừng gọi lại ông ta về việc này nữa (C.L.Cooper: Sđd, tr. 339, 366, 367.).

Chiều ngày 13 tháng 2, Wilson họp báo tuyên bố.

Tôi tin rằng con đường đi tới giải pháp đã mở, ngay dù chúng ta thất vọng trong dịp này thì cũng không có lý do gì một lúc khác con đường đó lại không mở lại" .

Nửa giờ sau khi Wilson họp báo, Johnson ra lệnh tiếp tục chiến sự trên toàn lãnh thổ Việt Nam, chấm dứt đợt ngừng bắn bảy ngày trong dịp Tết Việt Nam năm 1967.

Nhà Trắng đưa ra một thông cáo:

Bất chấp các cố gắng của chúng ta và của những bên thứ ba, không có sự đáp ứng nào của Hà Nội... Nhưng cửa vẫn mở và chúng ta sẵn sàng bất cứ lúc nào đi quá nửa đường để đáp ứng một đề nghị công bằng của phía bên kia".

Trong hồi ký, Johnson thanh minh rằng ông đã nói cho Wilson biết trước đề nghị của ông "thay cho kế hoạch hai giai đoạn A và B đã đề nghị trước đây với người Anh và đã đề nghị với Hà Nội". Johnson viết:

"Người Anh giao cho ông ta (Kossiguine) một tài liệu không được sự đồng ý cụ thể của Washington. Đó là một sai lầm, mặc dù tôi tin họ làm việc đó với thiện chí. Kết quả là một mớ bòng bong về ngoại giao mà chúng ta phải chịu một phần trách nhiệm"(L.B.Johnson: Sđd, tr. 309-310.)

Lời tự chỉ trích quá nhẹ nhàng đó của Johnson làm sao giải thích được việc phái Cooper sang trình bày lập trường của Mỹ cho Wilson, chuẩn bị cho ông đi vào hội đàm với Kossinguine, việc Cooper đã cùng Wilson và Brown thảo ra bản thoả thuận đã được đưa cho Kossiguine? Chính Wilson sau này đã viết trong một cuốn sách của ông:

"Trả lời thư của tôi là một văn bản mới của Washington do Rostsw thảo đưa ra nhiều điều kiện mới, một sự đảo ngược hoàn toàn chính sách của Mỹ đã đưa ra. Một lý do tôi không muốn tin là Nhà Trắng đã đánh lừa tôi và do đó đánh lừa cả ông Kossiguine. Lý do thứ hai chắc chắn nhất là bọn diều hâu đã tiến hành một sự tiếp quản thành công”.

Các tác giả Cuốn Cuộc bí mật tìm kiếm hoà bình ở Việt Nam đánh giá khách quan hơn:

"Cuộc nói chuyện Wilson - Kossiguine là một việc làm vô ích và bối rối. Nó là một tấn bi kịch".

Gióc-giơ C.Herring, giáo sư chủ nhiệm tạp chí Lịch sử ngoại giao, chuyên gia về quan hệ quốc tế nhận xét về vụ Hoa Hướng dương (mật danh mà Mỹ dành cho cuộc tiếp xúc của Guthrie - Lê Trang ở Mát-xcơ-va và cuộc hội đàm Kossinguine - Wilson ở Luân Đôn đầu năm 1967) viết: “Đây là câu chuyện về một âm mưu phức tạp lộn xộn, mập mờ".

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #127 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:47:40 am »

CHƯƠNG XVII
PENSYLVANIA

Từ năm 1967, Nhà Trắng mở một kênh liên lạc với Việt Nam qua người Pháp và đặt cho nó mật danh là Pensylvania.

*
*   *

Sự tàn lụi của kế hoạch Marigold có nghĩa là bỏ lỡ cơ hội tiếp xúc chính thức đầu tiên giữa hai bên. Nhưng sự tàn lụi của Kế hoạch Hoa Hướng Dương, lại có nghĩa là mọi đường liên lạc của Washington với Hà Nội đã bị cắt đứt. Trong cả hai trường hợp, nguyên nhân là Washington đề nghị nói chuyện với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhưng không chờ trả lời đã ném bom ác liệt trung tâm Hà Nội. 

Từ đó, Washington lại trông chờ một cơ hội nối lại liên lạc trực tiếp hay gián tiếp với Hà Nội. Từ tháng 7, Chính quyền Johnson yêu cầu Tiến sĩ Henry Kissinger làm công việc của người trung gian để khởi động một quá trình thương lượng.

Ngày 5 tháng 6 năm 1967, nổ ra cuộc chiến tranh giữa Israel và Ai Cập. Quân Ai Cập tiến vào sa mạc Sinai, đóng cửa vịnh Aqaba. Quân Israel tiến vào Sinai, Jordarni, chiếm thành phố Jérusalem cổ, tấn công vịnh Aqaba. Nhiều nước Arập như Ai Cập, Algéri, Syri, Iraq, Xu Đăng, Yemen cắt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Tình hình Trung Đông rất nghiêm trọng.

Dư luận thế giới, nhiều tổ chức quốc tế bày tỏ sự lo lắng, trong số đó có Prugwash. Prugwash là một tổ chức chống chiến tranh hạt nhân, gồm nhiều nhà khoa học nhiều nước như Mỹ, Liên Xô, Anh, Pháp v.v... Khi xảy ra cuộc chiến tranh Ai Cập và Israel, Tổng thư lý Prugwash, giáo sư Rodblat triệu tập một cuộc họp khẩn cấp của tổ chức tại Paris từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 6 để bàn việc tỏ thái độ với cuộc chiến tranh đó. Tham gia kỳ họp có Henry Kissinger. Nhưng khi cuộc họp bắt đầu thì cuộc chiến tranh đã kết thúc. Hội nghị quay ra bàn vấn đề Trung Đông và vấn đề Việt Nam. Người ta nhất trí thử nghiệm dùng hai nhà khoa học Pháp làm "sứ giả" giữa Washington và Hà Nội, với mục tiêu tiến tới sự gặp gỡ giữa người đại diện có thẩm quyền của hai Chính phủ Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước hoặc sau việc ngừng ném bom Bắc Việt Nam: Mỹ chấm dứt ném bom, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhận tiến hành thương lượng.

Giáo sư người Pháp Herbert Marcovich, nhà sinh học phân tử làm việc tại Viện Pasteur Paris và giáo sư người Pháp D’astier de La Vigérie, một nhân vật thuộc cánh tả phái De Gaulle, được nhất trí cử đi. Nhưng D'astier phải từ chối vì lý do sức khỏe. Sau đó người ta mời giáo sư Raymond Aubrac là người Pháp. Ông Aubrac đã quen Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1946 thời Hội nghị Fontainebleau. Ông đã từng được tướng De Gaulle giao nhiệm vụ tổ chức "đội quân ngầm" ở miền Nam nước Pháp trong vùng bị phát xít Đức kiểm soát. Sau khi nước Pháp được giải phóng năm 1944, ông được cử làm Uỷ viên Cộng hoà ở Marseille. Ông đã chăm lo đời sống cho số người Việt Nam làm trong các công binh xưởng và bị tập trung ở Marseille từ năm 1940.

Khi sang Pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảm ơn ông, sau đó lại có thời gian đến ở nhà ông ở ngoại thành Paris. Quan hệ của ông Aubrac với Chủ tịch Hồ Chí Minh trở nên thắm thiết và Chủ tịch đã nhận đỡ đầu cháu Elisabeth, con thứ ba của ông bà Aubrac.

Để giữ bí mật, Marcovich và Aubrac xin sang Việt Nam, với nhiệm vụ công khai là phái viên của Viện Pasteur Paris sang làm việc với Viện Vệ sinh dịch tễ Hà Nội, đồng thời nghiên cứu khả năng tổ chức ở Phnôm Pênh một Hội nghị khu vực bàn những vấn đề hợp tác quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực y tế và phòng bệnh.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #128 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:48:29 am »

Rời Paris ngày 18 tháng 7 năm 1967, dừng chân tại Phnôm Pênh, hai ông tới Hà Nội ngày 21, sau đó làm việc với Bộ trưởng Bộ Y tế Phạm Ngọc Thạch và đi thăm một số bệnh viện. Ngày 24, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp người bạn cũ tại nhà sàn. Lúc đó Chủ tịch đang nói chuyện với Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hỏi thăm bà Lucie Aubrac và các cháu, nhất là cháu Elisabeth. Người rất hài lòng nhận quả trứng bằng đá quý mà Elisabeth gửi tặng Người. Sau câu chuyện hàn huyên, ông Aubrac nói về cuộc họp của Pugwash ở Paris, giới thiệu Pugwash là gì và nói ông có nhiệm vụ chuyển tới Chủ tịch một thông điệp của Tổ chức này nhằm tìm một giải pháp cho vấn đề Việt Nam. Chủ tịch nói về lịch sử Việt Nam, cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta và yêu cầu Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom bắn phá nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thì sẽ nói chuyện.

Ông Aubrac cảm thấy có dấu hiệu mới mẻ cần thông báo cho Johnson. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói nếu ông có thể làm được thì Người không phản đối.

Nói tới đây, Chủ tịch quay sang phía đồng chí Phạm Văn Đồng và nói:

- Ngày mai chú tiếp ông Aubrac và bạn của ông, chú giải thích tình hình và giải đáp các câu hỏi của họ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho ông Aubrac món quà gửi Elisabeth, ôm hôn ông thắm thiết để chia tay. 

Cùng ngày 24 và ngày hôm sau 25 tháng 7, hai ông Aubrac và Mácvôvích đến làm việc với Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Cùng dự với Thủ tướng có Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch. Dĩ nhiên nội dung các cuộc nói chuyện chủ yếu về tình hình Việt Nam và cách đi tới một giải pháp.

Cần nói thêm rằng ông Aubrac đã hai lần từ chối làm trung gian: trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và trong cuộc chiến tranh lần này ông cũng đã từ chối đi với La Pi ra sang Việt Nam.

Aubrac nói về lý do tại sao hai ông tới Hà Nội và Marcovich nói thêm rằng công việc này rất bí mật - ở Mỹ chỉ có vài người biết như Johnson, Macnamara, Dean Rusk, Harriman... - Và ở Pháp, De Gaulle dặn không cho Bộ Ngoại giao biết. Cuộc nói chuyện đi vào vấn đề chủ yếu:

Aubrac: 

- Đây là một kịch bản vạch ra từ những nét lớn của một cách giải quyết mà một số người, với tư cách cá nhân, cho là có thể chấp nhận được. Kissinger đã nói với tôi: "Tôi bảo đảm chín mươi phần trăm là có sự đồng tình của Washington". Trước khi lên đường tôi đã gọi điện thoại cho ông ấy ở Mỹ, ông ấy lại nói: bảo đảm chín mươi tám phần trăm. Kịch bản này dự kiến:

- Đình chỉ các cuộc ném bom miền Bắc Việt Nam.

- Giữ mức chi viện quân sự cho toàn miền Nam Việt Nam như trong thời kỳ còn ném bom.

- Thương lượng sau một thời gian nào đó.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #129 vào lúc: 11 Tháng Chín, 2009, 10:49:47 am »

Marcovich:

- Việc Mỹ ném bom đã hạn chế chi viện của miền Bắc đối với Mặt trận Dân tộc Giải phóng ở một mức nào đó, không phải dễ dàng nâng lên... Mức đó, độ mười phần trăm các ông cứ duy trì sau khi không có ném bom nữa. Sau một thời gian, không lâu lắm, có thể đi vào thương lượng. Do đó đề nghị: 

- Giữ mức chi viện của miền Bắc cho miền Nam.

- Không tăng cường lực lượng Mỹ ở miền Nam.


Bây giờ tôi xin nêu thêm một vài chi tiết. Ở Marienbad cách đây một tháng rưỡi, Uỷ ban thường trực của Pugwash đã quyết định họp một Hội nghị để thảo luận về hiệp ước không phổ biến (vũ khí nguyên tử). Chúng tôi họp vào lúc vịnh Aqaba bị đóng cửa. Chúng tôi quyết định gửi thư tới Tổng thống Nasser. Thứ hai, ngày 5 tháng 6 chiến tranh nổ ra giữa Israel và người Ai Cập. Chúng tôi nhận thấy các quyết định của chúng tôi đã lỗi thời và chúng tôi quyết định họp một cuộc Hội nghị khác để thảo luận các vấn đề Trung Đông và Việt Nam. Đại diện Xô Viết đồng ý. Ngày 16 tháng 6 là phiên họp đầu tiên với sự hiện diện của Aubrac, Kissinger, Francis Perrier... Tổ chức Pugwash gồm những người có thiện chí tin cậy lẫn nhau.

Aubrac:

- Trước khi lên đường, tôi đã nói với Kissinger rằng tai hại sẽ lớn nếu trong khi chúng tôi đang vận động lại có một đợt leo thang mạnh của Mỹ. Kissinger đã bảo đảm với tôi rằng ông ấy sẽ hết sức cố gắng để không có leo thang, nhưng nếu chẳng may điều đó xảy ra thì đó là điều đã được quyết định từ trước rất lâu.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

- Tôi xin cảm ơn các bạn đã đến đây. Cũng xin cảm ơn các thông tin của các bạn. Đây là vấn đề cực kỳ mật. Đây là vấn đề nói chuyện. Tôi sẽ trình bày lập trường của chúng tôi, sau đó các bạn làm gì thì tuỳ.

Marcovich:

- Chúng tôi chỉ làm cái gì mà Việt Nam vui lòng.

Aubrac:

- Có một điểm chúng tôi đã quên không nêu: đó là vấn đề kiểm soát.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng:

- Tôi có nghĩ đến.

Marcovich:

- Thủ tướng biết rất rõ các vũ khí mà Mỹ có ở Việt Nam. Người Mỹ có những máy bay có thể chụp ảnh các đường giao thông để xem số lượng xe tải có tăng lên không. Do đó, chúng tôi đã đề nghị sẽ không có kiểm soát trong bước một. Mỗi bên sử dụng những phương tiện riêng của mình. Sẽ không có kiểm soát tại chỗ.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM