Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 28 Tháng Ba, 2024, 10:05:53 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris  (Đọc 197647 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #10 vào lúc: 26 Tháng Tám, 2009, 12:40:47 pm »

Seaborn cần vạch rõ qua kiểm tra xem có phải cụ Hồ Chí Minh tự đánh giá mình quá cao mà lao vào cuộc chiến hay Cụ cảm thấy rằng đồng minh Trung Quốc sẽ ủng hộ mình đến cùng. Chúng ta cần biết có phải quyết tâm hăng say hiện nay của Cụ là do áp lực của những phần tử thân Trung Quốc trong hàng ngũ Việt Nam hay do chính những tham vọng của Cụ thúc ép. Nhà báo M.Mclear gọi nhiệm vụ của ông Seaborn là một nhiệm vụ chủ yếu mang tính chất gián điệp" (M.M.Mclear: Sđd, tr. 137-138.).

Washington ngoài cái gậy còn trao cho ông một củ "cà rốt":

Nếu Hà Nội chấm dứt chiến tranh Hoà Kỳ sẽ:

Một: Hành động để nối lại buôn bán giữa Bắc và Nam Việt Nam “giúp vào việc thiếu lương thực của Bắc Việt Nam hiện nay”.

Hai: Viện trợ thực phẩm cho Bắc Việt hoặc bán cho Bắc Việt lấy tiền địa phương.

Ba: Bỏ sự kiểm soát của Hoa Kỳ đối với tích sản của Bắc Việt Nam và giảm kiểm soát của Hoa Kỳ trong buôn bán Hoa Kỳ - Bắc Việt Nam.

Bốn: Thừa nhận Bắc Việt Nam về ngoại giao và trao đổi đại diện ngoại giao.

Năm: Rút quân đội Hoa Kỳ xuống còn ba trăm năm mươi cố vấn, số lượng khi ký Hiệp nghị Genève và được Hiệp nghị này cho phép.

Sáu: Sẽ cho phép Hà Nội rút bất kỳ nhân viên Việt Cộng nào muốn rời khỏi Nam Việt Nam... Chính phủ Nam Việt Nam sẽ ân xá cho các phiến quân thôi không chống lại quyền lực của Chính phủ
(Xem G.C.Heanng: Ngoại giao bí mật trong chiến tranh Việt Nam, tr. 23.).

Ông vững lòng lên đường ra Hà Nội và lúc này đây, khi đang leo những bậc thềm đá cao của Phủ chủ tịch, ông càng vững lòng, tuy không khỏi một chút phân vân về kết quả chuyến công cán.

Thượng tá Mai Lâm, Phó trưởng phái đoàn liên lạc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam bên cạnh Uỷ ban Quốc tế, đón ông ở bậc cuối cùng với nụ cười hữu nghị. Hai người rẽ về bên phải tới phòng khách phía Tây, nơi Thủ tướng thường tiếp các đại sứ.

Ông Seaborn hơi bối rối trước sự giản dị của phòng khách và nhất là trước sự khiêm tốn niềm nở của một nhà chính trị lớn, một nhà ngoại giao có tiếng luôn luôn biểu lộ một sắc thái phương Đông.

Sau những lời chúc mừng và thăm hỏi lễ tân, ông Seaborn bày tỏ niềm vui mừng được thay mặt nước ông làm việc trong Uỷ ban Quốc tế vì hoà bình ở Đông Dương và khu vực. Ông nói những đóng góp của Canađa trong Uỷ ban Quốc tế và nếu những điều ông mới được biết về những khó khăn mà Uỷ ban Quốc tế nói chung, đoàn Canađa nói riêng, đang gặp phải trong lúc này và nói tiếp:

Canađa luôn luôn quan tâm theo dõi sự phát triển ở vùng này và thấy rằng tình hình ngày càng nghiêm trọng. Canađa quan tâm đến hoà bình và mong muốn đóng góp cố gắng của mình theo hướng đó".

Thưa Ngài Thủ tướng, Ngài biết quan hệ giữa Canađa và Hoa Kỳ là hữu nghị và rất chặt chẽ. Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi hiểu một cách sâu sắc những suy nghĩ của Hoa Kỳ, rằng Tổng thống Johnson là con người của hoà bình. Ông ta muốn tránh một sự đụng độ giữa các cường quốc lớn nhưng cũng quyết tâm không để Đông Nam Á rơi vào sự kiểm soát của cộng sản thông qua các hoạt động lật đổ và chiến tranh du kích".

Đến đây ông dừng lại - một cái dừng lại đầy kịch tính - và xin phép chuyển một thông điệp của Chính phủ Hoa Kỳ cho Chính phủ Việt Nam. Ông lại dừng lại nhìn Thủ tướng - một cái dừng của người tình báo để đó xét.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #11 vào lúc: 26 Tháng Tám, 2009, 12:42:16 pm »

Về phía Thủ tướng; không một dấu hiệu nào phản đối hay khước từ. Ông Seaborn đọc một bản đánh máy:

Một: Hoa Kỳ biết rõ là Hà Nội nắm quyền kiểm soát đối với Việt cộng ở miền Nam Việt Nam và đó là nguyên nhân gây ra tình hình nguy hiểm hiện nay trong khu vực này;

Hai: Hoa Kỳ có lợi ích phải chống đối lại một thắng lợi của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Nam Việt Nam;

Ba: Hoa Kỳ quyết tâm kiềm chế Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong phạm vi lãnh thổ do Hiệp nghị Genève quy định; .

Bốn: Hoa Kỳ bảo đảm với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là Hoa Kỳ không tìm cách lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hoặc đặt căn cứ quân sự ở Nam Việt Nam;

Năm: Tham vọng của Hoa Kỳ là có giới hạn nhưng sự kiên nhẫn của Hoa Kỳ đã trở nên hết sức mỏng manh;

Sáu: Nhiều nước cộng sản đã được lợi về kinh tế do có quan hệ chung sống hoà bình với Hoa Kỳ như Nam Tư...
".

Ông Seaborn nhấn mạnh rằng ông lo sợ một sự leo thang chiến tranh và nghĩ rằng điều đó chẳng có lợi cho ai "nếu Bắc Việt Nam bị tàn phá nặng nề".

Cuối cùng, ông hỏi Hà Nội có thông điệp gì muốn chuyển cho Tổng thống Johnson.

Từ đầu, Thủ tướng chăm chú nghe ông Seaborn trình bày, không một lần ngắt lời ông, cũng không lúc nào tỏ ra đồng tình hay chấp nhận những lời ông nói.

Khi nghe ông đại sứ hỏi có thông điệp gì chuyển cho Tổng thống Hoà Kỳ không, Thủ tướng liền trả lời:

- Không! Không! Lúc này không!

Và nói tiếp :

- Chúng tôi vui mừng được thấy Canađa trong Uỷ ban Quốc tế. Chính phủ chúng tôi và bản thân tôi có quan hệ tốt, hợp tác với Uỷ ban Quốc tế cũng như với Canađa trong mười năm qua vì chúng tôi thi hành Hiệp nghị Genève đã công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Nhưng người Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam, cản trở sự thống nhất đất nước Việt Nam. Họ đã thất bại trong chính sách phiêu lưu của họ nhưng hiện nay họ đang đẩy sự can thiệp đầy tội ác, vô cùng nguy hiểm lên một bước mới, gây nên tình hình rất nghiêm trọng ở Đông Nam Á.

Chúng ta phải học tập để cùng tồn tại trong hoà bình, tìm ra một giải pháp cho vấn đề đã làm tổn hại chúng ta, nhưng đó phải là một giải pháp đúng đắn! Phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp nghị Genève! Người Mỹ phải rút đi! Phải để công việc của miền Nam Việt Nam cho người Việt Nam giải quyết! Việc này cần có sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, không có nhóm nào đại diện cho quyền lợi của quảng đại quần chúng miền Nam Việt Nam như Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Cần có một giải pháp đúng đắn cho vấn đề thống nhất nước Việt Nam. Chúng tôi muốn thống nhất đất nước một cách hoà bình, không có áp lực bên ngoài. Chúng tôi muốn có thương lượng quanh bàn Hội nghị một cách thành thật, thoả mãn yêu cầu của nhau với sự thu xếp thuận lợi cho cả hai bên. Chúng tôi không vội vã. Chúng tôi muốn nói chuyện nhưng chúng tôi sẽ chờ đợi cho đến khi miền Nam Việt Nam sẵn sàng. Tôi thấy đó là điều khó chấp nhận đối với Hoa Kỳ. Tôi thấy rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ cho Chính phủ miền Nam Việt Nam. Họ có thể đưa thêm nhiều nhân viên quân sự nữa vào. Tôi rất đau lòng khi thấy chiến tranh sẽ tiếp diễn, mở rộng và tăng cường. Nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục chiến đấu và nhất định sẽ thắng
!”
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #12 vào lúc: 26 Tháng Tám, 2009, 12:43:28 pm »

Thủ tướng từ từ uống một ngụm nước chè rồi nói tiếp:

- Các ông phương Tây, các ông không thể hiểu, hoàn toàn không thể hiểu, sức mạnh của một dân tộc khi họ đã quyết tâm đứng lên kháng chiến vì độc lập và tự do của Tổ Quốc. Cuộc chiến đấu của nhân dân miền Nam Việt Nam chúng tôi vượt xa mọi sự tưởng tượng. Họ làm cho cả chúng tôi phải ngạc nhiên.

Ông hãy nhìn lại tình hình miền Nam Việt Nam từ sau khi ám sát Diệm. Phong trào đấu tranh của nhân dân đã phát triển mạnh như một dòng thác lũ. Triển vọng cho Hoa Kỳ là không có lối ra. Tăng cường quân sự cho Nguyễn Khánh sẽ chẳng giúp được gì. Nhân dân miền Nam Việt Nam đã quá rõ bộ mặt của chúng, cần có một Chính phủ liên hợp dân tộc. Chính phủ liên hợp dân tộc ở Lào là một ví dụ. Chúng tôi không có quân ở Lào nhưng Hoa Kỳ đã can thiệp vào. Hàng ngày máy bay Mỹ từ hướng Lào sang xâm phạm vùng trời chúng tôi. Những đơn vị biệt kích đã thâm nhập lãnh thổ chúng tôi đế tiến hành phá hoại
.

Thủ tướng nhấn mạnh:

- Nếu Hoa Kỳ tăng cường chiến tranh ở miền Nam Việt Nam thì sẽ là một cuộc chiến đấu quyết liệt đến cùng, Hoa Kỳ không bao giờ giành được thắng lợi bất cứ trong tình huống nào.

Thủ tướng nhắc lời của nhà báo Mỹ Walter Lipmann: Mỹ chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Đại sứ Seaborn hứa sẽ chuyển về Washington những điều nói trên.

Thủ tướng:

- Ông có thể không tin những điều tôi nói, nhưng tôi bảo đảm với ông những gì tôi nói đều xuất phát từ lòng chân thành và thẳng thắn.

Ông Seaborn:

- Như Ngài vừa nói, có phải một điều kiện để lập lại hoà bình là trước hết miền Nam Việt Nam phải trung lập không?

- Không - Thủ tướng ngắt lời đại sử - Tôi không nói đến vấn đề trung lập như là bước đầu tiên. Miền Nam Việt Nam trung lập bao nhiêu lâu là do nhân dân miền Nam quyết định. Tôi không dự đoán!

Ông Seaborn:

- Mặt trận Dân tộc Giải phóng đại diện cho một lực lượng ở miền Nam Việt Nam nhưng không phải là tất cả và cũng không phải là đa số. Tôi hoan nghênh Mặt trận sẽ được tham gia vào một liên hiệp sẽ xuất hiện, nhưng tôi sợ rằng việc liên hiệp sẽ sớm mở đường cho Mặt trận tiếp quản Nam Việt Nam, điều đó đã xảy ra ở một vài nơi.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #13 vào lúc: 26 Tháng Tám, 2009, 12:44:45 pm »

Thủ tướng không trả lời câu này và có ý định chuyển câu chuyện sang hướng khác. Thủ tướng nói: .

- Tôi vui mừng qua thông điệp của Hoa Kỳ thấy Hoa Kỳ không có ý định đánh chúng tôi.

Ông đại sứ nói ngay:

- Hoa Kỳ không muốn đưa chiến tranh ra Bắc Việt nhưng sẽ bị buộc phải làm việc đó nếu bị đẩy quá xa. Sự kiên nhẫn của Hoa Kỳ không phải là không có giới hạn.

Chậm rãi, Thủ tướng nói:

- Nếu chiến tranh bị đẩy ra miền Bắc Việt Nam, miền Bắc sẽ chiến đấu. Chúng tôi có các bạn bè của chúng tôi. Ông biết đấy, chúng tôi là một nước xã hội chủ nghĩa, là một thành viên trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Nhân dân chúng tôi sẽ đứng lên tự vệ. Chúng tôi không có hành động gì đẩy Hoa Kỳ đi vào con đường đó, chúng tôi không khiêu khích Hoa Kỳ.

Đại sứ Seaborn xin cáo từ. Thủ tướng nói thêm:

- Tôi chờ đợi có cuộc nói chuyện thêm nữa với ông đại sứ. Lần sau ông sẽ gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lần này Người đi nghỉ. Người có gửi lời chào ông.

Chuyến công cán của ông Seaborn tại Hà Nội theo yêu cầu của Washington đã hoàn thành, ông Seaborn trở về ngay Sài Gòn. Tại đây ông đã làm báo cáo gửi đồng thời cho Ottawa và Washington. .

Cuộc nói chuyện với Thủ tướng Phạm Văn Đồng được tường thuật rất đầy đủ.

Khi nói về Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông Seaborn viết: "Ông Phạm Văn Đồng trong suốt câu chuyện đã cố gắng gây cảm giác thành thật, nhận thức tính nghiêm trọng của những điều chúng ta đã thảo luận, và không có gì tỏ ra hung hăng và hiếu chiến” .

Khi nói về ý kiến của những người ông đã gặp ở Hà Nội, ông viết: Không một người Việt Nam nào tôi đã gặp nói đến Liên Xô và Trung Quốc. Ông Đồng chỉ nói một cách gián tiếp rằng nước ông là thành viên của nhóm nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ khả năng Hoa Kỳ đưa chiến tranh ra miền Bắc".

Người Pháp cho tôi biết rằng Bắc Việt Nam lo ngại về một sự chia rẽ hoàn toàn giữa Liên Xô và Trung Quốc làm cho họ rơi vào sự kiểm soát của Trung Quốc, điều mà họ hết sức chống lại càng lâu được chừng nào càng tốt”

Về sự chia rẽ trong nội bộ Bắc Việt Nam, Seaborn nhấn mạnh tính ôn hoà trong lời nói của Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông nói: Cụ Hồ Chí Minh có uy tín vô cùng to lớn và được sùng bái như một vị á thánh, đứng trên mọi phe phái. Các đại diện không cộng sản ở Hà Nội chống lại ý kiến cho rằng có thể có phe có nhóm ở Hà Nội. Họ thấy lòng tự hào dân tộc rất cao trong những lời tuyên bố dứt khoát của Thủ tướng Phạm Văn Đồng và trong lời kêu gọi tự lực tự cường của Hà Nội.

Về tình trạng có dấu hiệu mỏi mệt vì chiến tranh hay không, Seaborn cho rằng không có bằng chứng nào cho thấy dấu hiệu đó, và rõ ràng mọi người Việt Nam đều nhấn mạnh quyết tâm chiến đấu chừng nào còn cần thiết. Cũng không thấy người dân ở Bắc Việt buồn hay lo lắng như người Nam Việt Nam. Các sĩ quan Canađa trong tổ (của Uỷ ban Quốc tế ở địa phương) cũng không thấy một bằng chứng nào về sự bất bình trong nhân dân (M.M.Mclear: Sđd, tr 147-148.).
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #14 vào lúc: 26 Tháng Tám, 2009, 12:45:23 pm »

Chuyển được thông điệp của Nhà Trắng cho lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, biết được câu trả lời trước mắt của Hà Nội đối với thông điệp của Washington, nắm được tinh thần người dân Bắc Việt Nam trước nguy cơ chiến tranh lớn có thể xảy ra, có những tin tức đầu tiên về quan hệ của Bắc Việt Nam với Liên Xô, Trung Quốc, đó là những kết quả của chuyến công cán đầu tiên của đại sứ Seaborn tại Hà Nội. Chuyến đi này được Bộ Ngoại giao Mỹ đánh giá cao, vì đây là người đầu tiên của Mỹ sau gần hai mươi năm được trực tiếp nói chuyện với những nhà lãnh đạo Hà Nội để tìm hiểu tình hình chiến lược theo yêu cầu của Mỹ.

Trong bản báo cáo gửi Ottawa và Washington sau chuyến công cán đầu tiên tại Hà Nội, ông J.B.Seaborn đã ngỏ ý muốn được tiếp tục nhiệm vụ liên lạc với Hà Nội và sẽ "hoan nghênh bình luận của Bộ Ngoại giao Canađa và của Washington về bất kỳ gợi ý nào cho cuộc nói chuyện lần sau”

Nhưng trong chuyến máy bay riêng của Uỷ ban Quốc tế ra Hà Nội ngày 10 tháng 8 năm 1964, ông suy nghĩ và thấy sự việc chuyển biến quá nhanh.

Ngày 2 tháng 8 năm 1964, tàu khu trục US Maddox của Hải quân Hoa Kỳ bắn phá hai đảo Hòn Mê, Hòn Ngư của Bắc Việt Nam.

Ngày 4 tháng 8, hai tàu khu trục US Maddox và C.TurnerJoy thuộc phân đội đặc nhiệm 72.1 bị tàu phóng ngư lôi của hải quân Bắc Việt Nam chặn đánh trong lãnh hải Việt Nam.

Ngày 5 tháng 8, máy bay Mỹ ném bom trả đũa vào các căn cứ Hải quân Bắc Việt Nam.

Ngày 7 tháng 8, Quốc hội Mỹ, với tuyệt đại đa số phiếu (chỉ có hai phiếu chống), thông qua một nghị quyết về "Sự kiện Vịnh Bắc Bộ" cho phép Tổng thống "thi hành mọi biện pháp cần thiết bao gồm cả việc sử dụng lực lượng vũ trang" để giúp đỡ thành viên nào hoặc các nước bảo vệ của tổ chức hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ bảo vệ tự do.

Theo yêu cầu gấp rút của Mỹ, Seaborn lại ra Hà Nội gặp các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam.

Hà Nội nhộn nhịp chuẩn bị đi vào chiến đấu: đường phố bắt đầu có những ụ súng phòng không, những hố cá nhân, những hầm trú ẩn công cộng, nhà ga, bến xe chật ních phụ nữ, trẻ em đi sơ tán. Một không khí nghiêm trang nhưng không hốt hoảng. Tác động trực tiếp của tình hình mới đối với ông là lần này ông không được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp ngay như lần trước, mà phải đợi đến ngày 13 tháng 8.

Khi ông tới Phủ chủ tịch, Thủ tướng đang đợi ông. Ông xin lỗi về sự chậm trễ do có báo động và đi ngay vào câu chuyện. Ông xin phép được chuyển tới Thủ tướng một thông điệp của Hoa Kỳ theo chỉ thị của Chính phủ Canađa. Thủ tướng im lặng, vẫn bình tĩnh, lịch sự.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #15 vào lúc: 26 Tháng Tám, 2009, 12:46:32 pm »

Ông đại sứ đọc một bản viết:

"Một: Bắc Việt Nam nói tàu chiến Mỹ bắn phá đảo Hòn Ngư và đáo Hòn Mê là không đúng. Sự thật tàu US Maddox không hề tấn công hai đảo đó, vì lúc sự việc xảy ra cũng như ngày hôm sau, nó ở cách xa đấy một trăm hải lý về phía Nam, gần vĩ tuyến 17. Cuộc tấn công của Bắc Việt ngày 2 tháng 8 Chính phủ Hoa Kỳ có thể chấp nhận được là do tính toán sai.

Hai: Nhưng lý do của cuộc tấn công của Bắc Việt đêm 4 tháng 8 vào hai tàu khu trục Mỹ thì không thể hiểu được. Chỉ có thể coi đó là một cuộc tấn công có tính toán trước. Cuộc công kích xảy ra một cách vô cớ cách bờ biển sáu mươi hải lý. Chỉ có thể coi đó là một mưu toan nhằm chứng minh rằng Mỹ là con hổ giấy hoặc khiêu khích Mỹ.

Ba: Hoa Kỳ đã trả lời bằng cuộc bắn phá tàu ngư lôi cùng căn cứ và thiết bị của nó. Đó là cuộc đánh trả hạn chế và thích đáng Chính sách của Hoa Kỳ là yêu cầu Bắc Việt phải hạn chế tham vọng của mình ở Nam Việt Nam. Hoa Kỳ quyết tâm giúp Nam Việt Nam chống xâm lược và lật đổ. Hoa Kỳ không có ý định thiết lập các căn cứ quân sự ở miền Nam hoặc lật đổ Chính phủ Hà Nội.

Bốn: Hoa Kỳ biết rõ Hà Nội đang lãnh đạo du kích ở miền Nam và phải chịu trách nhiệm về việc đó. Hà Nội cũng kiểm soát cả Pa thét Lào và can thiệp vào Lào.

Năm: Hoa Kỳ duy trì quan hệ bình thường và có nhiều kết quả với một số nước xã hội chủ nghĩa. Các nước đó được lợi về mặt kinh tế do có quan hệ hữu nghị với Hoa Kỳ.

Sáu: Sau những sự kiện xảy ra, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua quyết định hầu như nhất trí tán thành các biện pháp của Chính phủ Hoa Kỳ. Điều đó chứng tỏ Chính phủ và nhân dân Mỹ kiên quyết chống lại các cố gắng của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nhằm lật đổ Chính phủ Nam Việt Nam và Chính phủ Lào. Hoa Kỳ cho rằng vai trò của Bắc Việt Nam ở Nam Việt Nam và Lào đã làm cho tình hình trở nên nguy kịch


Theo cách ông đọc thì hình như thông điệp đó đến đây là hết. Nhưng sau này, khi các tài liệu của Lầu Năm Góc được công bố, người ta mới biết là ông ta, không hiểu vì sao, đã không đọc một đoạn nữa như sau: “Nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp tục đường lối hiện nay thì họ có thể tiếp tục phải chịu những hậu quả.Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cần biết mình phải làm gì nếu muốn hoà bình được lập lại" (Tài liệu Lầu Năm Góc, thời báo New York xuất bản, 1971, tr. 289.).

Ông Seaborn chờ đợi, mắt chợt thấy các cửa kính của phòng khách đều có dán những mảnh giấy cắt để đề phòng bom nổ gần. Thủ tướng không để ông chờ lâu:

Tôi rất tiếc đã tiếp ông vì những lời ông nói không đáng nghe. Tôi tiếp ông là tiếp một đại sứ trong Uỷ ban Quốc tế chứ không phải để nghe và trả lời những luận điệu giả dối và bịa đặt. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có quan hệ hết sức tốt với Uỷ ban Quốc tế. Tình hình đang nguy kịch, đáng lẽ phải cộng tác với nhau để làm được một cái gì, Uỷ ban Quốc tế và mỗi thành viên của nó cần giúp sức vào việc thi hành Hiệp nghị Genève, duy trì hoà bình. Hoà bình đang bị đe doạ. Mỹ có hành động xâm lược đối với miền Bắc là điều nhất định sẽ xảy ra. Các chính khách Mỹ đã nhiều lần tuyên bố mở rộng chiến tranh ra miền Bắc đề gỡ thế bí ở miền Nam. Đó là nguyên nhân của cuộc tấn công ngày 5 tháng 8. Cuộc bầu cử (ở Hoa Kỳ) là lý do thứ hai, Johnson phải tỏ ra cao giọng hơn đối thủ của mình. Và lý do nữa: Hoa Kỳ muốn Quốc tế hoá chiến tranh".
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #16 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2009, 01:04:58 pm »

Một phút dừng. Thủ tướng nói tiếp:

“Tương lai sẽ ra sao?”.

Rồi nói ngay: “Nguyên nhân dẫn đến cuộc tấn công ngày 5 tháng 8 vẫn còn nguyên, do đó Chính phủ Mỹ sẽ có những hành động xâm lược mới. Tình hình đã rất nguy hiểm”.

“Chủ trương của chúng tôi là làm mọi việc để cố duy trì hoà bình nhưng Hoa Kỳ đã không tán thành Hiệp nghị Genève, can thiệp và xâm lược miền Nam, đến nay sa lầy vào thế bí, không có lối thoát, lại muốn mở rộng chiến tranh ra miền Bắc để gỡ thế bí đó. Đó là một tính toán sai lầm. Chúng tôi muốn duy trì hoà bình ở miền Bắc, bây giờ việc đó trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Nếu Mỹ gây chiến tranh, chúng tôi buộc phải tự vệ. Chiến tranh có thể xảy ra. Cuộc chiến đấu của chúng tôi là yêu nước. Cả thế giới ủng hộ chúng tôi...".

Với giọng nghiêm nghị, Thủ tướng nói tiếp:

“Khác với Triều Tiên là một bán đảo khuất nẻo, nếu chiến tranh lan ra miền Bắc Việt Nam, có thể sẽ lan ra cả vùng Đông Nam Á. Nếu Mỹ gây chiến, Mỹ sẽ thất bại to lớn, không có kết quả nào khác".

“Với ông, một Đại biểu trong Ủy ban Quốc tế, yêu cầu ông tìm cách ngăn ngừa không để xảy ra những sự kiện nghiêm trọng hơn. Tình hình đã quá nghiêm trọng rồi. Uỷ ban Quốc tế có nhiệm vụ ổn định tình hình để đi đến một giải pháp, giải pháp đó là trở lại Hiệp nghị Genève. Tổng thống De Gaune cũng cho rằng giải pháp cho vấn đề Việt Nam là Hiệp nghị Genève. Ủy ban Quốc tế có vai trò quan trọng, cần chuẩn bị cho vai trò đó, không phải bằng cách đi theo lập trường của Hoa Kỳ mà theo lập trường của Hiệp nghị Genève”.

Thấy Thủ tướng dứt lời, đại sứ Seaborn nói ngay:

“Tôi xin lỗi phải làm nhiệm vụ theo chỉ thị của Chính phủ tôi. Vai trò trung gian là vai trò nhiều khi bạc bẽo vì phải nói những điều khó lọt tai người nghe, nhưng đã là người lính thì phải làm đúng chỉ thị. Thưa Thủ tướng không nên bắn vào người đưa thư."

“Trong những sự kiện đã xảy ra cũng có những chi tiết khó tin nhưng điều quan trọng là tìm ra được cách không để tình hình nguy hiểm tái diễn. Có một điều tôi tin là Hoa Kỳ không muốn đầu độc bầu không khí, không để xảy ra chiến tranh thế giới và cũng không phải là điên rồ”.

Về cuộc công cán thứ hai, đại sứ Seaborn nhận xét: "Tôi dè dặt mà nói rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước những tuyên bố công khai (của Mỹ) và các cuộc vận động bằng các công hàm mà tôi đã chuyển, đã không bị thuyết phục..." phải từ bỏ quyết tâm trong việc theo đuổi đường lối của họ.

Sau này, khi cục diện chiến tranh đã thay đổi thuận lợi rõ ràng cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ông còn nói:

“Sau chuyến công cán thứ hai sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ - một sự kiện lạ lùng - Hà Nội tin một cách chính đáng rằng họ không cần phải nhượng bộ. Hà Nội có lý do để tỏ ra không mềm dẻo. Họ hoàn toàn tin chắc rằng nếu họ giữ thái độ cứng rắn càng lâu bao nhiêu thì họ sẽ tạo ra được những khả năng mà họ mong muốn và lịch sử đã chứng minh rằng họ đúng" (M.MMcLear: Sđd tr.162).

Trong một bị vong lục về chuyến .công cán thứ hai của ông Seaborn tại Hà Nội, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã viết: “Đây là thời cơ thứ hai bị bỏ lỡ. Nội dung thương lượng của chuyến công cán đã bị cản trớ hoàn toàn do thời điểm sắp xếp nó và do việc tập trung vào các sự kiện mới xảy ra trước đó hơn là vào các vấn đề rộng rãi đã được đề cập đến một cách xa xôi trong cuộc gặp gỡ tháng 6" (M. M. McLlear: Sđd, tr.162-16 3.Xem thêm: Gioóc-giơ C. Hearing: Sđd Công cán của Xi-bo-nơ tại Hà Nội. Từ trang 4 đến trang 44) .

Về phần mình, Tổng thống L.B.Johnson cho rằng hai chuyến công cán của đại sứ Seaborn là những gợi ý hoà bình đầu tiên của mình và ông đã yêu cầu ông Seaborn thăm đó "cơ hội hoà bình". Sau chuyến công cán thứ hai, ông viết trong hồi ký "Cuộc đời Tổng thống của tôi ":

“Hà Nội không quan tâm gì đến một giải pháp hoà bình hay một sự thoả hiệp nào. Họ đã đóng sầm cánh cửa đối với đề nghị hoà bình của Hoa Kỳ. Và sau chuyến công cán tháng 8 của ông Seaborn., họ càng đóng cánh cửa một cách gay gắt hơn" (L.B.Johnson: Cuộc đời Tổng thống của tôi, tiếng Pháp, Nhà xuất bản Buchet Chastel, Paris, 1972, tr. 91).

Bộ Ngoại giao Mỹ nói đúng khi cho rằng Washington đã bỏ lỡ một thời cơ thương lượng, nhưng đã nói không đúng khi cho rằng nguyên nhân thất bại của chuyến công cán tháng 8 của đại sứ Seaborn là thời điểm, nghĩa là sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ, vì đó là bằng chứng không thể chối cãi rằng sự kiện đó là nhằm chuẩn bị dư luận cho việc mở rộng và tăng cường chiến tranh.

Nhận xét của Tổng thống Johnson hoàn toàn không đúng sự thật, vì cái gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã được xác minh là một sự kiện được dựng lên, một sự dối trá, nhiệm vụ giao cho đại sứ Seaborn tại Hà Nội sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ và cuộc ném bom ngày 5 tháng 8 thực chất chỉ là sự hăm doạ tăng cường chiến tranh, không thể gọi là một gợi ý hoà bình. Chính bom Mỹ đã bịt cánh cửa thương lượng với Hà Nội.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Chín, 2009, 07:08:43 am gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #17 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2009, 01:06:56 pm »

CHƯƠNG 3
KẾ HOẠCH CHIẾN TRANH CỦA MỘT ỨNG CỬ VIÊN HOÀ BÌNH

Trên đường từ Danas trở về Washington, Tổng thống mới L.B.Johnson, như ông đã viết trong hồi ký, tâm niệm một điều: Tôi nguyện dành mỗi ngày, mỗi giờ của nhiệm kỳ dở của Giôn Kennedy để đạt những mục tiêu mà ông đã đề ra”

Ngày 25 tháng 11 năm 1963, trước Quốc hội và cũng như trước nhân dân Mỹ, ông đã thề: "Chúng ta sẽ giữ những cam kết của chúng ta từ Nam Việt Nam đến Tây Bá Linh". (L.B.Johnson: Sđd, tr. 39) Đây là quyết định quan trọng đầu tiên của ông về Việt Nam.

Ông Johnson lên làm Tổng thống trong những điều kiện bi thảm của nước Mỹ, sau buổi lễ tuyên thệ giản dị nhất, ngắn nhất trước vị thẩm phán của Danas, bà Sara Hugles. Sang năm 1964 là năm bầu cử Tổng thống. Với tầm vóc của nó, Hoa Kỳ có hàng loạt vấn đề ở ngay trong nước và khắp nơi trên thế giới, nhưng đối với ông Johnson, vấn đề cấp bách là trúng cử Tổng thống mà vẫn tiếp tục can thiệp quân sự vào Việt Nam.

Khi đó, tình hình Nam Việt Nam đang trong một giai đoạn cực kỳ nghiêm trọng: về quân sự, chiến tranh đặc biệt đã thất bại; về chính trị, chế độ Sài Gòn sau khi Ngô Đình Diệm bị sát hại đang bị các cuộc đảo chính và tranh giành quyền lực làm rung chuyển đến tận gốc có nguy cơ sụp đổ hoàn toàn. Các nhân vật chính trị, quân sự Mỹ ở Sài Gòn đều yêu cầu gây sức ép quân sự ngay với Bắc Việt Nam, nhằm buộc Bắc Việt Nam chấm dứt viện trợ cho Việt cộng ở miền Nam Việt Nam.

Sau cuộc viếng thăm miền Nam Việt Nam từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 12 năm 1963. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Macnamara báo cáo: “Xu hướng hiện nay, trừ trường hợp đảo ngược tình hình trong hai ba tháng tới, tốt nhất sẽ dẫn tới một sự trung lập hoá (miền Nam Việt Nam) và chắc chắn hơn là tới sự kiểm soát tình hình mới bởi những người cộng sản " (LB.Joknson: Sđd, tí. 86.).

Từ tháng 6 năm 1965, Uỷ ban Đối ngoại của Thượng nghị viện Mỹ bắt đầu nghe các cuộc điều trần Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ một nghị quyết đã được đa số áp đảo của Thượng, Hạ nghị viện biểu quyết và người đặt vấn đề nghi ngờ tính chân thật của bản nghị quyết đó là thượng nghị sĩ bang Arkansas Winiam Fulbright, người đã giới thiệu nghị quyết đó với Thượng nghị viện hơn mười tháng trước. Những nhân vật chủ yếu đã lần lượt ra điều trần trước Uỷ ban, kể cả Ngoại trưởng Dan Rusk và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mac Namara và được các hệ thống truyền hình đưa tin rộng rãi. Cuối cùng người ta được biết là các tàu khu trục Mỹ đã xâm phạm vùng biển của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, không có bằng chứng nào về việc tàu chiến Bắc Việt đã bắn vào tàu chiến Mỹ và dự thảo Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ đã được chuẩn bị từ rất lâu trước khi xảy ra sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Giá trị của Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ đã bị phá sản.

Nhưng vào thời điểm tháng 8 năm 1964 khi dựng lên việc các tàu khu trục Mỹ bị tàu chiến Bắc Việt tấn công trong vùng biển quốc tế ở Vịnh Bắc Bộ để có cớ đánh trả đũa các căn cứ Hải quân Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở sông Gianh, Cửa Hội, Lạch Trường và Bãi Cháy, Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân ông Johnson.

Chính Johnson đã nói: ra lệnh ném bom trả đũa sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ và tranh thủ một nghị quyết ủng hộ chính sách Đông Nam Á của Nhà Trắng là quyết định quan trọng thứ hai của ông trong vấn đề Việt Nam. Ông coi sự kiện Vịnh Bắc Bộ là sự thách thức đối với nước Mỹ cũng như sự thách thức ở Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Berlin, Triều Tiên, Liban và Cu Ba, nhưng lại hạn chế sự trả đũa bằng một cuộc ném bom. Với tất cả những ai định khuyến khích hay mở rộng sự xâm lược, ông nói: “Người ta không thể đạt tới hoà bình bằng xâm lược, sự trả đũa không có miễn dịch" để tỏ ra là con người không hiếu chiến.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #18 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2009, 01:07:31 pm »

Với Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ, ông được Quốc hội cho phép sử dụng sức mạnh vũ trang ở Đông Nam Á. Trước đây, Tổng thống Truman khi tiến hành chiến tranh Triều Tiên (1950) đã không yêu cầu Quốc hội ủng hộ nên về sau gặp khó khăn. Rút kinh nghiệm sai lầm của Truman, Tổng thống Johnson lần này quyết tâm tranh thủ sự ủng hộ của Quốc hội trong chính sách đối ngoại cũng như đối nội. Với Nghị quyết của Quốc hội về Vịnh Bắc Bộ, ông ta đã giành được quyền chủ động tăng cường can thiệp vũ trang vào Việt Nam.

Tuy được quyền như thế, Johnson luôn luôn tỏ ra biết kiềm chế trong việc lựa chọn mức độ trả đũa Bắc Việt Nam.

Trong Đại hội Đảng Dân chủ ở Atlanta City, Johnson được chỉ định làm ứng cử viên Tổng thống liên danh với Hebert Humphrey. Cuộc vận động bầu cử của Johnson có thể có hai trọng tâm trúng vào lòng mong mỏi của đại đa số nhân dân Mỹ lúc bấy giờ. Về Việt Nam, ông nói rằng mục tiêu duy nhất của ông là hoà bình ở Việt Nam và tự do của nhân dân ở đó, miền Nam Việt Nam có nguy cơ bị chủ nghĩa cộng sản đánh bại, nên Mỹ phải giúp đỡ đồng minh, nước Mỹ sẽ không để con em mình đi chết thay cho con em châu Á. Về các vấn đề đối nội, ông tỏ ra quan tâm hơn: chương trình xây dựng “xã hội vĩ đại" nhằm động viên cả nước vào cuộc chiến tranh chống nghèo nàn, bảo đảm điều kiện học tập cho trẻ em, thuốc men cho người già, giữ nguồn nước uống và không khí trong lành, xây dựng nhà ở. Những ý định của Johnson đã đem lại cho ông ta cái tiếng là vị Tổng thống của giáo dục và y tế. Chính Johnson đã vạch ra sự khác nhau giữa ông và Bary Goldwater, Thượng nghị sĩ bang A-ri-giông-na, ứng cử viên Tổng thống của Đảng Cộng hoà:

“Gold Water yêu cầu cử tri uỷ nhiệm cho mình thủ tiêu bảo hiểm xã hội, tôi yêu cầu họ uỷ quyền cho tôi mở rộng bảo hiểm xã hội theo luật chăm sóc y tế. Gold Water kêu gọi trở lại chính sách “Hãy tự giúp mình thì trời sẽ giúp" đối với người nghèo, tôi kêu gọi có một chương trình của Chính phủ rộng hơn để xoá bỏ nghèo nàn. Gold Water yêu cầu tăng thêm quyền hạn cho các bang, tôi yêu cầu có sự bảo hộ lớn hơn của liên bang đối với các quyền công dân. Gold Water tán thành một nền kinh tế có thể nói không có ràng buộc, tôi chủ trương những chính sách thuế khoá và tiền tệ độc đáo có khả năng thủ tiêu tình trạng những thời kỳ bột phát và suy thoái xen kẽ nhau" (L.B.Johnson: Sđd, tr. 134.)

Cuộc vận động tranh cử đã làm nổi Johnson như là một ứng cử viên hoà bình, Bary Goldwater như là một ứng cử viên chiến tranh.

Ngày 3 tháng 11 năm 1964, liên danh Johnson – Humphrey đã giành được sáu mươi mốt phần trăm số phiếu bầu và bốn trăm tám mươi sáu phiếu đại cử tri. Đa số phiếu bầu đó không chỉ bù lại sự thất bại của Đảng Dân chủ năm 1956, mà còn là đa số phiếu bầu lớn nhất trong lịch sử bầu cử của nước Mỹ.

Danh nghĩa ứng cử viên hoà bình cần đối với Johnson tới mức ông ta quyết định không trả đũa việc sân bay quân sự Biên Hoà bị pháo kích ngày 1 tháng 11 năm 1964. Nếu theo lập luận của ông ta thì đây cũng là một sự thách thức nước Mỹ, một sự thách thức thật sự không như sự kiện Vịnh Bắc Bộ, đã làm chết bốn người Mỹ, phá huỷ sáu máy bay B.57. Nhưng ông ta đã nhắm mắt bỏ qua, vì sự kiện đó chỉ cách ngày bầu cử Tổng thống có hai ngày.

Ngay sau khi lên thay John Kennedy và trong suốt cuộc vận động tranh cử năm 1964, Johnson, với những thủ đoạn khôn khéo sở trường, vẫn không ngừng gây sức ép quân sự với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và tích cực chuẩn bị kế hoạch mở rộng chiến tranh ở Việt Nam.
Ngày 26 tháng 11 năm 1963, nghĩa là bốn ngày sau khi nhậm chức Tổng thống, Johnson họp với các cố vấn và chỉ thị rằng việc vạch kế hoạch về Việt Nam cần phải bao gồm nhiều mức độ tăng cường hoạt động và trong mỗi trường hợp cần đánh giá một số yếu tố như khả năng gây thiệt hại cho miền Bắc Việt Nam, khả năng Bắc Việt Nam trả đũa lại và các phản ứng quốc tế khác. Trong phiên họp này cũng đề ra việc vạch một kế hoạch tiến hành những hoạt động quân sự ở Lào cùng với những kế hoạch chính trị nhằm thu hẹp phản ứng quốc tế đối với một hành động như thế.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Chín, 2009, 07:10:43 am gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #19 vào lúc: 28 Tháng Tám, 2009, 01:08:19 pm »

Tháng 2 năm 1964, Johnson thông qua một kế hoạch bí mật gồm ba phần: Kế hoạch hành quân 34-A (OPLAN 34-A) nhằm do thám Việt Nam bằng máy bay U.2, bắt cóc công dân Bắc Việt Nam để thu thập tin tức, dùng các đội nhảy dù phá hoại miền Bắc Việt Nam, tiến công Bắc Việt Nam từ biển bằng biệt kích; kế hoạch tiến công Lào bằng máy bay của hãng Hàng không Mỹ do CIA điều khiển; kế hoạch DESOTO cho tàu khu trục vào Vịnh Bắc Bộ để thu thập tin tức, yểm trợ hoạt động của hải quân Sài Gòn và phô trương lực lượng.

Tháng 3, W.Rostow trình Tổng thống một cơ cấu lý thuyết về leo thang đối với miền Bắc Việt Nam.

Tháng 6, các Cố vấn chủ chốt của Nhà Trắng họp tại Honolulu để bàn kế hoạch ba mươi ngày mới của Tổng thống, bao gồm một loạt các biện pháp quân sự, chính trị thực hiện trong vòng ba mươi ngày nhằm gây sức ép với miền Bắc Việt Nam. Trong cuộc họp này, danh sách chín mươi tư mục tiêu ném bom ở Bắc Việt Nam đã được thông qua.

Cuối tháng 7, Tổng thống quyết định tăng thêm năm nghìn nhân viên quân sự cho miền Nam Việt Nam.

Ngày 7 tháng 8, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ.

Ngày 10 tháng 9, Johnson cho phép tàu hải quân trở lại Vịnh Bắc Bộ, máy bay làm nhiệm vụ ở Lào và chỉ thị cho Sài Gòn xúc tiến các cuộc tiến công biệt kích theo kế hoạch 34-A.

Ngày 27 tháng 11, Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ thông qua kế hoạch hai bước: bước một tăng cường các hoạt động chiến tranh bí mật tiến công bờ biển, tiến công bằng không quân ở Lào, mở nhiều cuộc tiến công trả đũa vào Bắc Việt Nam; bước hai là bắt đầu chiến tranh không quân ở miền Bắc Việt Nam.

Trong cuộc họp tại Nhà Trắng ngày 1 tháng 12, có mặt DanRusk, Macnamara, đại sứ Maxwen Taylor, Johnson đã thông qua bước một kế hoạch của Hội đồng An ninh Quốc gia, với việc ném bom ở Lào, gọi là cuộc hành quân Barrel Ron; chuẩn y trên nguyên tắc bước hai của kế hoạch của Winiam Bundy (ném bom siết dần ở “vùng cán xoong" Lào, tiến dần từng giai đoạn vào BắcViệt Nam).

Ngày 14 tháng 12, cuộc hành quân Barrel Ron bắt đầu.

Trong thông điệp đọc trước Quốc hội ngày 20 tháng 1 năm 1965, điều làm người ta ngạc nhiên là Johnson hoàn toàn làm ngơ vấn đề Việt Nam và chỉ nói một cách mơ hồ: “Chúng ta không mong cái gì thuộc về người khác. Chúng ta không tìm cách thống trị đối với con người nhưng tìm sự thống trị của con người với chuyên chế và nghèo nàn" (Giô-dép A.Am-tơ. Lời phán quyết về Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội, 1985, tr. 129. ).

Ai cũng hiểu tình hình Việt Nam rất khẩn trương đòi hỏi ngay một sự lựa chọn của Washington. Kế hoạch chiến tranh đã được thông qua nhưng còn phải tạo những điều kiện chính trị để thực hiện. Tổng thống Johnson làm bộ như bỏ qua vấn đề Việt Nam trong thông điệp chính sách là lúc đang phải giải quyết những vấn đề liên quan tới các điều kiện đó.

Có ba vấn đề đặt ra với Johnson:

- Phải đạt tới sự nhất trí về chính sách ngay trong đội ngũ Cố vấn thân cận của Tổng thống;

- Phải ổn định và kiểm soát được tình hình miền Nam Việt Nam;

- Phải làm yên lòng nhân dân Mỹ, đồng minh của Mỹ và nhân dân thế giới về chính sách tăng cường chiến tranh ở Việt Nam.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM