Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 16 Tháng Tư, 2024, 03:33:14 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris  (Đọc 197921 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:15:25 pm »



Tên sách: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris
Tác giả: Lưu Văn Lợi - Nguyễn Anh Vũ
Nhà xuất bản: Công an Nhân dân
Năm xuất bản: 2002
Số hoá: ptlinh, Sao Vàng

"Cuộc chống Mỹ, cúu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”.
Trích Di chúc của Chủ tịch HỒ CHÍ MINH


LỜI TỰA CHO LẦN TÁI BẢN

Chúng tôi đã xuất bản cuốn “Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ” trước Hội nghị Paris (năm 1990, tái bản năm 2000) và cuốn “Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris” (năm 1996). Theo yêu cầu của nhiều bạn trong và ngoài nước, nay chúng tôi tái bản hai cuốn thành một tập duy nhất với những bổ sung cần thiết để người đọc có thể có bức tranh liên hoàn của quá trình chuyến biến ngoại giao từ chiến tranh sang hoà bình ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh đến nay đã kết thúc gần ba mươi năm, mộ các chiến sĩ đã xanh bất chấp lòng người chưa vơi bớt nhớ thương.

Trong thời gian đó, ông Mac Namara, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng của Tổng thống L.B. Johnson, suy nghĩ ngày đêm để tìm xem có cơ hội hoà bình nào ở Việt Nam bị bỏ lỡ hay không. Ông bà cùng nhiều tướng tá Mỹ đã tham chiến ở Việt Nam và nhiều nhà ngoại giao, nhà nghiên cứu Mỹ sang Việt Nam trao đổi ý kiến với các cựu đối thủ của họ với lòng mong muốn cùng nhau tìm sự xác nhận rằng bên này hay bên kia đã bỏ lỡ những cơ hội kết thúc cuộc chiến tranh. Là người cùng dự hội thảo với họ, tôi thấy họ đã phân tích mọi tài liệu có thể có, lật đi lật lại các vấn đề, xem xét mọi khía cạnh trong những cuộc tranh luận cởi mở, thẳng thắn. Rất tiếc, sau nhiều cuộc gặp nhau, các nhà nghiên cứu Mỹ đi đến kết luận “tranh cãi không cùng" (argument without end).

Vấn đề đúng là phức tạp, lô-gích của người Việt Nam và lô-gích của người Mỹ dùng là khác nhau, nhưng chỉ có một sự thật,sao mà khó tìm thế.

Chúng tôi nghĩ như mọi người rằng chiến tranh là chiến tranh và nó có quy luật của nó. Khi Johnson quyết định đưa lính Mỹ sang trực tiếp chiến đấu ở miền Nam Việt Nam và cho máy bay Mỹ trực tiếp ném bom miền Bắc Việt Nam, ông tuyên bố tại Baltimore "sẵn sàng thương lượng không điều kiện" với Hà Nội, hay khi ông quyết định đưa 500.000 quân Mỹ sang miền Nam Việt Nam, ông mở chiến dịch ngoại giao lớn nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông, có phải ông thật sự muốn chấm dứt chiến tranh không? Trước Chúa, chắc ông cũng không dám nói thật, địch thủ của ông làm sao tin được. Nhưng dư luận Mỹ cũng như dư luận thế giới cũng hiểu rằng ông cần tỏ thiện chí hoà bình đế che giấu ý đồ mở rộng chiến tranh ở Việt Nam sau khi "chiến tranh đặc biệt" thất bại.

Khi chiến tranh lớn bắt đầu giữa nước Việt Nam nhỏ bé và lạc hậu và nước Mỹ siêu cường hùng mạnh, so sánh lực lượng nghiêng hẳn về phía Mỹ và người ta gọi đó là cuộc đấu tranh giữa David và Goliath của thế kỷ. Tất nhiên nhân dân Việt Nam phải chống lại xâm lược bằng mọi khả năng, kể cả việc tập hợp lực lượng hoà bình thế giới và Mỹ đồng tình và ủng hộ với cuộc chiến đấu tự vệ chính đáng của mình và khi đó tất nhiên họ không thể tin những "sáng kiến hoà bình" của Nhà trắng. Bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào khi chiến tranh mới nổ ra, tất cả các bên tham chiến đều tìm thêm đồng minh, tranh thủ thêm sự đồng tình làm cho so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho mình, đó là điều tất nhiên, là nhu cầu cần thiết vì như một tướng Mỹ đã nói "trong chiến tranh không gì thay thế được chiến thắng". Nhưng cao quý hơn, đúng ra là tối cần thiết hơn chiến thắng là hoà bình, hoà bình giữa các Quốc gia, hữu nghị giữa các dân tộc. Khát vọng hoà bình của con người sâu sắc đến mức người ta cho rằng "một nền hoà bình tồi còn tốt hơn chiến tranh".

« Sửa lần cuối: 16 Tháng Mười, 2020, 09:00:42 pm gửi bởi Giangtvx » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #1 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:15:35 pm »

Người ta có lý do, có thể nói bằng chứng, rằng trong những năm 60 thế kỷ trước, những người cầm quyền ở Mỹ luôn nói hoà bình nhưng khi hoà bình nằm trong tầm tay họ thì họ lại vứt bỏ. Hiệp định Genève năm 1954 nhằm chấm dứt chiến tranh Đông Dương hoàn toàn phù hợp với giải pháp bảy điểm mà Tổng thống Eisenhower đã thoả thuận với Thủ tướng Churchin ngày 29 tháng 6 năm 1954 nhưng ngày 23 tháng 10 năm 1954 chính Eisenhower lại gửi thư cho Ngô Đình Diệm báo rằng Mỹ sẽ cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho Ngô Đình Diệm, Chính phủ và quân đội của ông ta để xây dựng miền Nam Việt Nam thành một Quốc gia độc lập và chống cộng.

Năm 1962, Mỹ ký Hiệp định Genève về trung lập của Vương quốc Lào nhưng ngay sau đó lại bác bỏ một đề nghị của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam về việc chấm dứt chiến tranh và đưa miền Nam Việt Nam vào con đường hoà bình trung lập theo mô hình Lào. Một lần nữa, Washington đã bác bỏ một giải pháp mà chính họ đã chấp nhận. Chẳng phải đó là hai cơ hội hoà bình mà Mỹ đã bỏ lỡ đó sao?

Từ thực tế đó người ta buộc phải đặt câu hỏi họ muốn gì, hoà bình hay chiến tranh, khi họ nói thiện chí hoà bình. Chỉ kể từ Westphalie, cái gì bảo đảm hoà bình giữa các Quốc gia, từ khi có Liên Hiệp Quốc cái gì bảo đảm an ninh thế giới? Ai cũng hiểu rằng đó là sự tôn trọng chủ quyền của các Quốc gia, đó là sự từ bỏ sử dụng vũ lực trong quan hệ giữa các Quốc gia. Ông Mac Namara muốn chấm dứt chiến tranh nhưng quyền tiếp tục hay chấm dứt chiến tranh nằm trong tay Tổng thống Johnson, việc ông rời bỏ Lầu Năm Góc là chuyện dễ hiểu. Mà chừng nào ông Johnson còn ảo tưởng chặn được chủ nghĩa cộng sản ở vĩ tuyến 17 Việt Nam thì ông còn chưa chịu xem xét mọi cơ hội hoà bình ở Việt Nam. Ngay ông Nixon đã ở trong tình thế phải chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, chịu rút quân Mỹ về nước rồi mà vẫn còn muốn duy trì Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu để Thiệu tiếp tục chiến tranh với vũ khí và Cố vấn Mỹ. Rõ ràng chừng nào những người cầm quyền Mỹ còn nghĩ có thể chiến thắng Việt cộng thì không làm gì có cơ hội hoà bình trừ trường hợp Việt cộng chịu chấm dứt chiến tranh theo điều kiện của Mỹ.

Cái gốc của vấn đề không phải là có hay không có cơ hội hoà bình, là chấp nhận hay khước từ cơ hội, mà là tôn trọng hay không tôn trọng chủ quyền của nhau, là sử dụng hay không sử dụng vũ lực trong quan hệ với nhau, đơn giản là tôn trọng hay không tôn trọng hoà bình, an ninh thế giới.

Có người Mỹ đã nhắc đến bài thơ của thi sĩ Samuel Taylor Coleridge về người thuỷ thủ già giết con hải âu, con chim thành kính mang điềm lành tới người đi biển, để rồi con tàu gặp không biết bao nhiêu gian nan, hiểm hoạ. Đó chính là bài học của chiến tranh Việt Nam về xử lý quan hệ ngoại giao giữa các Quốc gia.

Việc tìm kiếm hoà bình ở Việt Nam đã kéo dài, đầy khó khăn và trở ngại. Nhưng

“Đến khi kết thúc mọi sự tìm kiếm
Ta sẽ tới nơi mà chúng ta đã bắt đầu.”
T.S. Eliot 

Cuối cùng chiến tranh đã chấm dứt ở Việt Nam. Chúng ta vui mừng là hai nước đã khép lại quá khứ, ra sức lấp bằng cái hố ngăn cách mà chiến tranh đã khơi ra, bình thường hoá quan hệ với nhau. Một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hữu nghị và hợp tác, bắt đầu vì hoà bình và phát triển.

Hà Nội, mùa Xuân năm 2002
Lưu Văn Lợi

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #2 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:16:25 pm »

PHẦN MỘT
CUỘC TIẾP XÚC BÍ MẬT VIỆT NAM - HOA KỲ TRƯỚC HỘI NGHỊ PARIS

CHƯƠNG 1
DI SẢN CỦA BỐN ĐỜI TỔNG THỐNG

Tổng thống L.B. Johnson đã quyết định tiến hành cuộc chiến tranh hạn chế ở miền Nam Việt Nam và cuộc chiến tranh bằng không quân ở miền Bắc Việt Nam. Đương nhiên ông phải chịu trách nhiệm về quyết định đó. Nhưng chịu trách nhiệm đưa nước Mỹ vào cuộc chiến tranh Việt Nam đâu phải chỉ có riêng ông. Còn phải kể các vị tiền nhiệm của ông, những người từng bước đã tăng cường sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam.

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, dù đã có mặt ở Phi-líp-pin từ năm 1898, nước Mỹ nói chung vẫn chấp nhận sự thống trị của Pháp ở Đông Dương. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa quân phiệt Nhật sụp đổ, chủ nghĩa thực dân Pháp thất bại, phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Dương giành những thắng lợi đầu tiên cơ bản. Nước Mỹ, kẻ chiến thắng chủ yếu trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, ngày càng chú ý đến tình hình Đông Dương. Với chủ trương "ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản”, bao vây Liên Xô và Nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, sự chú ý đó ngày càng tăng, đã đưa nước Mỹ đến cuộc chiến tranh Triều Tiên kéo dài ba năm và sau đó dính líu ngày càng sâu vào Lào và Việt Nam.

Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã nhiều lần chê Pháp thực hiện một chính sách thực dân làm cho đời sống nhân dân các nước Đông Dương ngày càng tồi tệ hơn trước khi Pháp đến.

Trước triển vọng chiến thắng ba nước "Trục", tại Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, Roosevelt đưa ra đề nghị thiết lập sự uỷ trị ở Đông Dương dưới hình thức một hội đồng quản trị gồm đại biểu Pháp, đại biểu người Đông Dương, đại biểu Phi-líp-pin, đại biểu Trung Quốc, đại biểu Liên Xô. Nhưng đề nghị đó bị Anh phản đối và sau Hội nghị Yalta gần hai tháng, Roosevelt chết.

Lên thay Roosevelt trong bối cảnh phong trào cách mạng sôi sục của những năm 1944 - 1945 ở Đông Á, Truman chủ yếu lo giúp chế độ Tưởng Giới Thạch, chống lại những thắng lợi trong cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo. Ông ta đã đồng ý để quân Tưởng Giới Thạch giải giáp quân Nhật ở Bắc Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở lên (quân Anh làm nhiệm vụ đó từ vĩ tuyến 16 trở xuống) với ý đồ giúp họ lật đổ Chính quyền nhân dân do Việt Minh dựng lên để đưa những phần tử thân Tưởng vào làm "những con ngựa thành Troie".

Nhưng do cuộc chiến tranh ở Trung Quốc ngày càng phát triển và sự kiểm soát của Việt Minh lan ra toàn quốc Việt Nam, Chính quyền Truman phải lùi một bước, chịu để thực dân Pháp trở lại Đông Dương. Giữa năm 1950, phái đoàn Cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (MAAG) được đưa sang Việt Nam. Trong tài khoá năm 1954, viện trợ của Mỹ cho các cố gắng chiến tranh của Pháp ở Đông Dương tăng lên một tỷ đô-la. Phái đoàn MAAG đã có ba trăm bốn mươi hai sĩ quan và binh lính Mỹ.

Sau khi Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký ngày 26 tháng 7 năm 1954, Tổng thống Eisenhower lần đầu tiên chính thức trình bày thuyết Domino dự đoán Mianma, Ấn Độ, In-đô-nê-xi-a sẽ bị uy hiếp nếu cộng sản thắng ở Đông Dương. Cuộc chiến tranh Triều Tiên đã cho biết thế nào là một cuộc chiến tranh trên lục địa châu Á đối với Mỹ, dù Mỹ là một cường quốc hàng đầu, Chính quyền Eisenhower sợ một cuộc chiến tranh thứ hai với Trung Quốc, nhưng vẫn chủ trương răn đe và ngăn chặn Trung Quốc ở phía Đông Nam Á.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Chín, 2009, 07:04:52 am gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #3 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:17:05 pm »

Chính sách của Washington là đe doạ Trung Quốc, động viên và tìm cách giúp đỡ Pháp tiếp tục chiến tranh. Ngày 12 tháng 1 năm 1954, J.F.Dunes tuyên bố học thuyết "trả đũa ồ ạt", hàm ý răn đe Trung Quốc. Tướng Paul Ely, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Pháp, được phái đi nắm tình hình Điện Biên Phủ sau khi Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh chiếm hai cứ điểm kiên cố ở ngoại vi phía Bắc của khu Trung tâm Điện Biên Phủ ngày 13 và 14 tháng 3 năm 1954.

Sau đó, Paul Ely sang Washington yêu cầu Mỹ viện trợ bổ sung để tăng cường lực lượng không quân Pháp. Tổng thống Eisenhower phê chuẩn kế hoạch của đô đốc Radford, Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân Mỹ, đề nghị Mỹ can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương, giúp Pháp cứu vãn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Theo Radford, hai trăm máy bay của không quân Mỹ sẽ cất cánh từ các hàng không mẫu hạm đậu dọc bờ biển Việt Nam tấn công các căn cứ Quân đội Nhân dân Việt Nam nhằm ngăn chặn việc bao vây Điện Biên Phủ. Các máy bay hạng nặng đóng trên đất Phi-líp-pin sẽ phối hợp. Tán thành chủ trương không để Đông Dương rơi vào tay cộng sản, Tổng thống Eisenhower quyết định nếu không có cách nào khác để ngăn chặn điều đó, Mỹ sẽ can thiệp vào cuộc chiến tranh Đông Dương, nhưng chỉ can thiệp nếu có được hai điều kiện sau đây:

1. Được sự ủng hộ của các nước Đồng minh, trước hết là Anh.

2. Pháp phải trao hoàn toàn độc lập cho các nước Đông Dương.

Eisenhower còn tuyên bố nếu Quốc hội không tuyên chiến thì sẽ không can thiệp.

Đầu tháng 4 năm 1954, khi tướng Navarre báo cáo Điện Biên Phủ có thể mất nếu không có cuộc oanh tạc của không quân Mỹ, Chính phủ Pháp chính thức yêu cầu Mỹ can thiệp, nhưng Washington đã quyết định không can thiệp. Dunes muốn thuyết phục Pháp tiếp tục chiến đấu với một liên minh chống cộng do Mỹ cầm đầu, nghĩa là ông ta muốn quốc tế hoá cuộc chiến tranh Đông Dương. Ý ông ta là lôi kéo Anh, Pháp, Australia, New Zeeland, Thái Lan, Phi-líp-pin, Campuchia, Lào phối hợp với Mỹ và Chính phủ Bảo Đại trong một hành động thống nhất để giữ Đông Dương không rơi vào tay cộng sản. Anh sợ rằng một hành động như vậy sẽ làm hỏng thời cơ đem lại hoà bình ở Hội nghị Genève (từ tháng 2 năm 1954, bốn nước lớn: Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô họp tại Berlin đã thoả thuận sẽ có một Hội nghị Quốc tế về Đông Dương).

Mặc dầu sự phản đối kiên quyết của Anh, một số quan chức Mỹ vẫn còn muốn can thiệp bằng không quân và hải quân Mỹ vào chiến tranh Đông Dương với điều kiện là các Cố vấn Mỹ ở Việt Nam phải được giữ trách nhiệm to lớn trong việc huấn luyện các lực lượng của Chính phủ thân Pháp và được chia sẻ trách nhiệm trong việc vạch kế hoạch quân sự "với người Pháp". Tuy không muốn kéo dài chiến tranh, Pháp cũng không muốn chia sẻ trách nhiệm với Mỹ.

Chiều ngày 7 tháng 5 năm 1954, Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ.

Ngày 8 tháng 5, Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc. Từ ngày 24 đến ngày 29 tháng 6, Eisenhower và Dunes đã có cuộc họp quan trọng với Churchin và Eden tại Washington. Họ đã thoả thuận về một kế hoạch giải quyết chiến tranh Đông Dương: ngừng bắn ở Đông Dương, lực lượng Việt Nam rút khỏi Lào và Campuchia; ít nhất phải giữ nửa Nam Việt Nam, không loại trừ khả năng thống nhất Việt Nam bằng biện pháp hoà bình; có một Uỷ ban Quốc tế để giám sát việc thi hành hiệp nghị. Pháp được thông báo về kết quả đó và cũng đồng ý. Về kế hoạch sau khi hiệp nghị được ký kết, Mỹ làm áp lực để chính phủ Bảo Đại chấp nhận Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng (cũng trong tháng 6 này) mà Ngô Đình Diệm thì ai cũng rõ là con bài mà Mỹ đã dự trữ từ lâu. Mặt khác, từ tháng 7, Dunes tích cực vận động thành lập khối liên minh phòng thủ Đông Nam Á.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #4 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:18:18 pm »

Vào những giờ đầu của ngày 21 tháng 7, các hiệp nghị đình chỉ chiến sự riêng về mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia được ký kết. Về Việt Nam, hiệp nghị quy định nước Việt Nam tạm thời chia làm hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời, giữa hai miền có một khu phi quân sự ở hai bên vĩ tuyến 17. Miền Bắc Việt Nam do Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quản lý, miền Nam Việt Nam do Quốc gia Việt Nam quản lý. Trong vòng ba trăm ngày, các lực lượng kháng chiến sẽ rút về Bắc Việt Nam, các lực lượng dưới sự chỉ huy của Pháp sẽ rời Bắc Việt Nam để vào miền Nam. Dân thường được phép đi lại giữa hai miền Việt Nam trong ba trăm ngày đầu của Hiệp nghị đình chỉ chiến sự. Không bên nào được phép tăng cường lực lượng quân sự trong khu vực mình quản lý hoặc cho phép nước ngoài thiết lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ mình. Một Uỷ ban Quốc tế gồm đại diện Ấn Độ, Ba Lan, Canađa (do Ấn Độ làm chủ tịch) sẽ giám sát và kiểm soát việc thực hiện hiệp nghị đình chỉ chiến sự. Ở Campuchia không có chia cắt, lực lượng kháng chiến Khơ-me không có khu vực riêng. Ở Lào, lực lượng kháng chiến rút về hai tỉnh Phông Xa Lỳ và Sầm Nưa trong khi chờ đợi tổ chức tổng tuyển cử trong phạm vi cả nước. Quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia và Lào. Ở mỗi nước đó cũng có một Uỷ ban Quốc tế giám sát và kiểm soát riêng, với thành phần như ở Việt Nam.

Cùng ngày 21, Hội nghị Genève thông qua bản Tuyên bố cuối cùng công nhận các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào và Campuchia: độc lập, chủ quyển, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Về việt Nam, bản tuyên bố khẳng định việc chia cắt chỉ là tạm thời và hai miền Bắc-nam sẽ được thống nhất sau khi có một Chính phủ được bầu ra bằng tổng tuyển cử tự do tổ chức dưới sự giám sát của Uỷ ban Quốc tế. Việc chuẩn bị tổng tuyển cử sẽ do nhà đương cục có thẩm quyền hai miền tiến hành một năm sau hiệp nghị đình chỉ chiến sự. Cuộc bầu cử chính thức sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956.

Mỹ ra một tuyên bố riêng, chấp nhận mười hai trong số mười ba điều của tuyên bố cuối cùng, tức là chấp nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, chấp nhận nước Việt Nam sẽ được thống nhất bằng tổng tuyển cử tự do năm 1956. Điều cuối cùng của tuyên bố mà Mỹ có ý kiến khác là cách xử lý khi có vi phạm Hiệp nghị ngừng bắn.

Chính trong lúc đại diện Mỹ tuyên bố tại Hội nghị Genève rằng Hoa Kỳ sẽ không xâm phạm đến việc thi hành Hiệp nghị Genève vừa được ký kết, bằng vũ lực hay đe doạ dùng vũ lực, Tổng thống Eisenhower tuyên bố trắng ra rằng: “Bản thân Hoa Kỳ đã không phải là một bên đương sự trong các quyết định tại Hội nghị và không bị các quyết định đó ràng buộc" (Tài liệu Lầu Năm Góc, Thượng nghị sĩ M. Graven xuất bản, Bi-cơn Trét, Boston, tập 1, tr. 605.).

Mặt khác, ngày 8 tháng 9 năm 1954, chưa đầy hai tháng sau khi Hiệp định Genève được ký kết, Mỹ đã cùng Anh, Pháp, Australia, New Zeeland, Phi-líp-pin, Thái Lan, Pa-ki-xtan ký Hiệp ước Manila thành lập khối SEATO, trong đó các nước ký kết "Hành động để đối phó với nguy cơ chung, phù hợp với các tiến trình hợp hiến" trong trường hợp một trong số các nước này bị vũ trang xâm lược. Hiệp ước quy định một khu vực bảo hộ của nó, bao gồm toàn bộ lãnh thổ của các nước châu Á tham gia Hiệp ước, mở rộng sự bảo hộ tới Campuchia, Lào và Việt Nam. Sau này Vương quốc Campuchia và Vương quốc Lào đều bác bỏ sự bảo hộ đó.

Ngày 1 tháng 10 năm 1954, Tổng thống Eisenhower gửi cho Ngô Đình Diệm một công hàm (được công bố ngày 23 tháng 10 năm 1954) cam kết sự ủng hộ hoàn toàn và sự viện trợ của Hoa Kỳ đối với Nam Việt Nam.

Đây là cơ sở pháp lý và chính trị của sự dính líu của Hoa Kỳ đối với Nam Việt Nam. Ý nghĩa lớn không che giấu của nó là Mỹ ủng hộ hoàn toàn một Chính phủ chống cộng ở miền Nam Việt Nam. Tác dụng trước mắt của nó là cảnh cáo các lực lượng thân Pháp, các giáo phái rằng Ngô Đình Diệm đã được Washington chọn làm công cụ của chính sách của Mỹ.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Chín, 2009, 07:06:02 am gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #5 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:18:56 pm »

Về phía mình, Ngô Đình Diệm đã biết công khai đáp lại cam kết của Mỹ bằng lời tuyên bố nổi tiếng: “Biên giới của Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17".

Tướng Lowton Conins được Eisenhower cử làm đại sứ đặc biệt với những quyền hạn rất rộng để phối hợp các hoạt động của các tổ chức Mỹ ở miền Nam (phái đoàn viện trợ quân sự MAAG, phái đoàn viện trợ kinh tế USOM, phái đoàn hành chính Michigan), thực hiện kế hoạch loại trừ ảnh hưởng của Pháp, kể cả Hoàng đế Bảo Đại, giành lấy trách nhiệm về quân sự ở miền Nam Việt Nam.

Trong khuôn khổ nhiệm vụ đó, ngày 13 tháng 12 năm 1954, Conins đã ký với tướng Paul Ely, cao uỷ Pháp ở miền Nam Việt Nam một hiệp ước quy định Mỹ thay thế Pháp về mặt quân sự ở miền Nam Việt Nam. Quân đội Sài Gòn được giảm từ hai trăm bảy mươi nghìn người xuống chín mươi nghìn người (để giảm những lực lượng thân Pháp) trước khi xây dựng những đơn vị mới mà Mỹ kiểm soát được. Pháp phải giảm quân đội viễn chinh của họ ở miền Nam từ một trăm năm mươi nghìn người xuống ba mươi nghìn người. Tháng 4 năm 1956, Pháp tuyên bố rút khỏi Đông Dương, mặc dầu về pháp lý họ vẫn còn trách nhiệm đối với Hiệp nghị Genève.

Ngô Đình Diệm không chịu đáp ứng các đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về việc tổ chức cuộc tổng tuyển cử theo quy định của Hiệp nghị Genève năm 1954 để thống nhất nước Việt Nam, thậm chí khước từ cả việc lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền về kinh tế, văn hoá. Diệm tổ chức tuyển cử riêng rẽ, dựng lên ở miền Nam Việt Nam một Quốc gia riêng biệt gọi là Việt Nam Cộng hoà.

Với chính sách từ bỏ Đông Dương của Pháp và sự thất bại của các lực lượng thân Pháp ở miền Nam Việt Nam, Tổng thống Eisenhower có nhiều lý do để tuyên bố trong cuộc vận động bầu cử năm 1956 rằng thế giới tự do đã có "một chỗ đứng vừng chắc" ở Đông Dương và các nước không cộng sản tại đây đang được đặt dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn” (Peter Pooler. Nước Mỹ và Đông Dương từ Roosevelt đến Nixon. Nhà xuất bản Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986, tr. 71.)

Sự thật là với sự ủng hộ mạnh mẽ đãnh cho Ngô Đình Diệm, Eisenhower đang đưa miền Nam Việt Nam vào một cuộc khủng hoảng ngày càng trầm trọng.

Ngay sau khi Hiệp nghị Genève có hiệu lực và mặc dầu chưa kiểm soát được hoàn toàn miền Nam Việt Nam, Chính quyền Ngô Đình Diệm đã thẳng tay đàn áp các cuộc biểu tình hoan nghênh đình chiến và thống nhất đất nước, bắt bớ và giam cầm những người yêu nước, yêu hoà bình. Sau khi đã củng cố chính quyền, nhất là sau khi khước từ tổng tuyển cử tự do trong phạm vi cả nước và biến miền Nam thành một Quốc gia riêng biệt, chống cộng, thì họ thi hành ráo riết chính sách trả thù những người kháng chiến cũ - một chính sách được nâng lên thành quốc sách.

Chính sách tàn bạo đó làm dấy lên phong trào đấu tranh ngày càng mạnh của đồng bào miền Nam. Ngày 20 tháng 12 năm 1960, những người yêu nước ở miền Nam thuộc những xu hướng chính trị, những tôn giáo khác nhau đã thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam với cương lĩnh hoà bình, độc lập dân chủ, trung lập. Nhiều vùng nông thôn rộng được giải phóng. Các tầng lớp nhân dân ở thành thị ngày càng bất bình. Thế của Chính quyền Ngô Đình Diệm ngày càng lung lay.

Khi Eisenhower rời Nhà trắng năm 1960, ông đã để lại cho Tổng thống Kennedy một gánh nặng, một bài toán nan giải ở miền Nam Việt Nam. Nói đúng ra, Eisenhower đã để lại hai gánh nặng: vấn đề miền Nam Việt Nam và vấn đề Lào.

Đối với Kennedy cũng như đối với người tiền nhiệm của ông, vấn dề Lào là vấn đề an ninh của Thái Lan theo thuyết đôminô. Từ khi lực lượng cánh hữu làm đảo chính lật đổ thủ tướng trung lập Souvanna Phouma, tình hình Vương quốc Lào càng rõ. Quân trung lập của tướng Song Le phối hợp với quân Pathét Lào đánh bại quân của tướng Phu Mi Nô Sa Văn, uy hiếp Luông Prabang, Viên Chăn.
« Sửa lần cuối: 26 Tháng Chín, 2009, 07:06:41 am gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #6 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:19:33 pm »

Lầu Năm Góc muốn Mỹ can thiệp mạnh hơn nữa vào Lào, nhưng Tổng thống Kennedy tán thành tham dự một Hội nghị quốc tế nhằm bảo đảm nền trung lập của Lào. Hội nghị Genève về Lào khai mạc ngày 16 tháng 5 năm 1961 phải kéo dài vì ba hoàng thân Lào không thoả thuận được với nhau về việc lập Chính phủ liên hiệp ba phái.Việc Pa thét Lào đánh chiếm Nậm Thà được coi như một Điện Biên Phủ của nước Lào buộc Mỹ phải gây sức ép với phái hữu để giải quyết cho xong việc lập Chính phủ liên hiệp, mặc dầu Mỹ đưa năm nghìn quân chiến đấu Mỹ vào Thái Lan và đưa hạm đội 7 vào Vịnh Thái Lan. Cuộc khủng hoảng ở Lào chỉ là tạm thời giải quyết vì sau khi ngoại trưởng trung lập Quinim Pholsena bị lực lượng thân Mỹ ám sát, nước Lào lại rơi vào một cuộc xung đột mới.

Trong khi đó, Kennedy đứng trước một miền Nam Việt Nam đang rung chuyển cả về quân sự và chính trị, ông đề ra chủ trương đưa một lực lượng đặc biệt "chống nổi dậy" và một trăm cố vấn quân sự sang miền Nam Việt Nam để ngăn chặn cộng sản thống trị miền Nam Việt Nam. Mặc dầu được CIA báo cáo rằng từ tám mươi đến chín mươi phần trăm số Việt cộng ở miền Nam được tuyển lựa ở địa phương và hầu hết vũ khí của họ là do họ tự kiếm lấy, Kennedy cuối cùng lựa chọn kiểu "chiến tranh đặc biệt" với công thức vũ khí và chỉ huy Mỹ cộng với quân đội Sài Gòn. Kế hoạch Stanley-Taylor mà ông phê chuẩn bao gồm ba giai đoạn:

1. Bình định miền Nam Việt Nam trong mười tám tháng, xây dựng các cơ sở ở miền Bắc Việt Nam.

2. Tăng cường quân sự, khôi phục kinh tế ở miền Nam Việt Nam và tăng cường các hành động phá hoại ở miền Bắc Việt Nam.

3. Phát triển kinh tế miền Nam Việt Nam và tấn công miền Bắc Việt Nam.

Về quân sự, Washington lập một Bộ chỉ huy tác chiến ở Sài Gòn giao cho tướng Paul D.Harkin phụ trách. Từ chín trăm bốn mươi tám người tháng 11 năm 1961, số cố vấn quân sự tăng lên hai nghìn sáu trăm người tháng 1 năm 1962 và mười một nghìn ba trăm người tháng 12 năm 1962. Trong năm tài chính bắt đầu từ tháng 7 năm 1961, viện trợ tăng lên hai trăm tám mươi bảy triệu đô-la so với hai trăm lẻ chín triệu đô-la năm trước. Năm 1963 viện trợ ba trăm bảy mươi sáu triệu đô-la.

Về chính trị, các cố vấn Mỹ giúp Ngô Đình Diệm xây dựng hệ thống ấp chiến lược mà mục đích quân sự là cắt nguồn tiếp tế và nguồn tuyển quân của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và mục đích chính trị là kiểm soát chặt chẽ người dân. Chính quyền Ngô Đình Diệm dự định đưa hai phần ba số dân nông thôn vào ấp chiến lược và thực tế đã đưa được ba mươi ba phần trăm số đó vào tháng 10 năm 1962. Mỗi “ấp chiến lược" thật ra là một trại tập trung với hệ thống đồn bất và lớp lớp dây thép gai chung quanh. Chính sách ‘ấp chiến lược" gieo rắc căm giận vào lòng người dân chỉ mong muốn làm ăn yên ổn và càng thúc đẩy họ nghe theo tiếng gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Đến năm 1963, "chiến tranh đắc biệt" đã bị thất bại. Chính quyền Sài Gòn vẫn không kiểm soát được nông thôn miền Nam.

Trong khi đó, ở Sài Gòn và các thành thị lớn khác nhiều nhóm chính trị đấu tranh đòi dân chủ, hoà bình và trung lập. Những phát súng mà quân đội Diệm nổ vào những Phật tử không vũ trang biểu tình hoà bình ở Huế ngày 8 tháng 5 năm 1963 đã làm cho sự chống đối của cộng đồng Phật tử ở miền Nam bùng nổ với sức mạnh không gì ngăn cản nổi. Yêu sách của họ không có gì quá đáng: nếu những người Thiên chúa giáo được trương cờ tôn giáo trong buổi lễ của họ thì những Phật tử cũng được phép trương cờ Phật giáo như thế.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #7 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:20:24 pm »

Phong trào phản đối Diệm – Nhu phân biệt tôn giáo, giết hại Phật tử bùng cháy như một vệt thuốc súng từ Huế đến Sài Gòn và các tỉnh khác, nhanh chóng được các tầng lớp nhân dân rộng rãi ủng hộ, trước hết là sinh viên. Thượng toạ Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 10 tháng 6 năm 1963 châm lửa không phải chỉ vào thể xác mình mà vào cả một thùng thuốc súng, làm rung chuyển xã hội miền Nam Việt Nam và kích động phong trào phản chiến ở ngay nước Mỹ.

Nói cho đúng, Kennedy không tán thành việc đàn áp Phật tử của Ngô Đình Diệm nhất là sau này vào tháng 8 các đơn vị quân sự của Diệm đã tấn công vào các chùa lớn ở miền Nam và bắt giam hàng trăm nhà sư, kể cả những người lãnh đạo phong trào phản đối. Ở nhiều nơi, Phật tử đã cầm súng chống lại quân đội. Ngô Đình Diệm không chịu hoà giải với những Phật tử. Đại sứ Cabot Lodge, một nhà ngoại giao sành sỏi, đã từng là ứng cử viên Phó Tổng thống của Đảng Cộng hoà năm 1960, được cử sang thay đại sứ Nolting với những quyền hạn rộng rãi để đối phó với cuộc khủng hoảng. Ông ta cũng không thuyết phục được Diệm thay đổi chính sách và cuối cùng đã ủng hộ cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, đưa đến cái chết của anh em Diệm - Nhu ngày 2 tháng 11 năm 1963.

Ngay từ ngày 12 tháng 12 năm 1961, Tổng thống Kennedy tuyên bố với các nhà báo: "Chúng ta không thấy đoạn cuối của đường hầm nhưng tôi phải nói rằng tôi không nghĩ là nó đen tối hơn so với năm trước, mà có phần sáng sủa hơn" (Pi-tơ A.Pu-lơ. Sđd, tr. 116.)

Nhưng việc ủng hộ nhóm đảo chính Dương Văn Minh và việc lật đổ tập đoàn Diệm - Nhu (mà lúc đầu Kennedy đã hết sức giúp đỡ) đã không mang lại sự thay đổi nào trong tình hình miền NamViệt Nam như ông mong muốn. Ngược lại, nó chỉ làm cho tình hình trầm trọng thêm, bế tắc hơn. Chưa tìm được giải pháp cho cuộc khủng hoảng toàn diện ở miền Nam Việt Nam sau cái chết của Diệm - Nhu, Kennedy chỉ biết tiếp tục các cố gắng quân sự cho đến khi, hai mươi ngày sau cái chết đó, ông bị ám sát tại Dalas.

Thất bại trong chính sách ủng hộ Ngô Đình Diệm và chiến tranh đặc biệt, Kennedy đã để lại cho Phó Tổng thống L.B.Johnson, người thay thế ông nắm quyền tối cao của nước Mỹ một miền Nam đen tối hơn cuối năm 1961, với những thất bại mới trên chiến trường, những rắc rồi mới trong tình hình chính trị ở Sài Gòn. Nhà Trắng, Bộ Ngoại giao, Lầu Năm Góc tranh cãi ráo riết về một sự lựa chọn, về kế hoạch sắp tới ở miền Nam Việt Nam, hoặc đúng hơn là ở Việt Nam và Lào. Nhưng tất cả đều bối rối, dù họ là “diều hâu" hay "bồ câu”

Nhận xét tình hình đó, hãng UPI ngày 7 tháng 3 năm 1964 viết: “Vấn đề không còn phải là xem xét có phải là ta đang thua cuộc chiến tranh hay không, mà là xem xét Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đang thua cuộc chiến tranh với tốc độ nào và liệu còn có một hy vọng mỏng manh nào đế cứu vãn tình hình không" (Vụ thông tin báo chí Bộ Ngoại giao Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Hai mươi năm can thiệp và xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, tiếng Pháp, Hà Nội, 1965.).

Đương nhiên, Tổng thống mới của nước Mỹ, với những trách nhiệm cao cả của mình, không thể dễ dàng đồng tình ngay với nhận xét đó. Ông còn phải đánh giá lại tình hình miền Nam Việt Nam và tình hình Đông Dương nói chung, xét duyệt tất cả các phương án của các cố vấn quân sự và dân sự, cân nhắc tác động đối nội và đối ngoại của mỗi sự lựa chọn có thể có, thăm đó Quốc hội và tranh thủ sự đồng tình của Quốc hội, thăm dò đồng minh Trung Quốc và các đối thủ trực tiếp của mình là Bắc Việt Nam.

« Sửa lần cuối: 26 Tháng Chín, 2009, 07:07:36 am gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #8 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:22:10 pm »

CHƯƠNG 2
HAI CHUYẾN CÔNG CÁN CỦA ĐẠI SỨ J.B.SEABORN TẠI HÀ NỘI

Ngày 18 tháng 6 năm 1964. Thế là đại sứ J.B. Seaborn tới Hà Nội sau biết bao nôn nóng và sau chặng dừng chân ngắn tại Phnôm Pênh và Viêng Chăn.

Chiếc ô tô màu trắng của Uỷ ban Quốc tế giám sát và kiểm soát việc thi hành Hiệp nghị Genève về Việt Nam đưa ông rời sân bay Gia Lâm. Phong cảnh ở đây khác với phong cảnh ở Canađa, thậm chí khác với phong cảnh Sài Gòn mà ông cũng mới biết lần đầu trong đời. Những thửa ruộng mới gặt kế tiếp nhau chạy vùn vụt, lửa rực cháy trên ngọn các cây phượng bên đường, một phố ngoại ô bé nhỏ và xơ xác. Tuy mới đến Hà Nội lần thứ nhất, ông nhìn phong cảnh mà không để ý lắm, vì ông đang nghĩ đến nhiệm vụ mà ông phải hoàn thành.

Tưởng cũng cần nhắc rằng sau nhiều giờ thảo luận sôi nổi, thậm chí cả những cuộc thảo luận hàn lâm về hai từ giám sát và kiểm soát, các thành viên của Hội nghị Genève về Đông Dương đã thoả thuận thành lập một Ủy ban Quốc tế có nhiệm vụ giám sát và kiểm soát việc thi hành Hiệp nghị Genève tại mỗi nước Đông Dương. Theo sự dàn xếp được nhất trí chấp nhận, Ủy ban gồm một đại diện cho các nước xã hội chủ nghĩa là Ba Lan, một đại diện cho các nước phương Tây là Canađa và một chủ tịch là Ấn Độ, một nước lớn theo con đường hoà bình, trung lập, đại diện cho các nước đang phát triển.

Ông Seaborn đến Việt Nam lần này với tư cách đại diện cho Canađa trong Uỷ ban Quốc tế về Việt Nam. Từ khi Hiệp nghị Genève về Việt Nam có hiệu lực và từ tháng 8 năm 1954, Uỷ ban Quốc tế bắt đầu công việc của mình, Canađa xứng đáng là đại diện cho phương Tây. Đại diện của họ ủng hộ lập trường của Chính quyền Ngô Đình Diệm. Ở miền Nam Việt Nam, họ làm ngơ trước việc nhà cầm quyền vi phạm các quyền tự do dân chủ, đàn áp những người trước đây đã tham gia kháng chiến chống Pháp và trước việc đưa trái phép vào miền Nam Việt Nam những cố vấn quân sự và vũ khí, vật tư chiến tranh của Mỹ.

Ở miền Bắc Việt Nam, họ ủng hộ việc cưỡng bức những người công giáo đi di cư vào miền Nam, cố lùng sục xem có vũ khí, đạn dược của các nước xã hội chủ nghĩa được đưa trái phép hay không. Trong các cuộc họp của Uỷ ban Quốc tế họ đóng vai "người biện hộ" cho Sa tăng luôn luôn chống lại mọi quan điểm và lý lẽ của đồng sự Ba Lan, do đó gây nhiều khó khăn cho ông chủ tịch Ấn Độ.

Vốn là một tham tán của sứ quán Canađa tại Mát-xvơ-va, lần này Seaborn được giao trọng trách là trưởng đoàn Đại biểu Canađa trong Uỷ ban Quốc tế. Ông có thể hài lòng với sự bổ nhiệm đó ở một địa bàn chiến lược nhằm ngăn chặn nguy cơ cộng sản từ vĩ tuyến 17. Nhưng suốt từ khi rời Sài Gòn cho đến lúc này, chân đã đặt trên mảnh đất Hà Nội, thủ đô Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà mà ông chỉ mới biết tên sau Điện Biên Phủ, ông bận tâm đến một nhiệm vụ khác mà ông có những lý lẽ riêng và lý lẽ chung để cho là quan trọng hơn nhiều so với nhiệm vụ đại sứ trong Uỷ ban Quốc tế.

Khi ông mới được chọn vào cương vị này, ngày 1 tháng 5 năm 1964 tại Ottawa, Ngoại trưởng Mỹ D.Rusk và W.Sunivan đã cùng Thủ tướng L.Pearson và Ngoại trưởng P.Martin của Canađa bàn về nhiệm vụ đặc biệt của ông. Người ta yêu cầu ông "Lưu lại Hà Nội nhiều thời gian hơn các tiền nhiệm của ông. Ông cần tìm cách gặp được Cụ Hồ và đồng nghiệp của Cụ, báo cho họ biết một cách đầy đủ quyết tâm của Hoa Kỳ đi đến cùng trong vấn đề này". Ông biết rõ Hoa Kỳ “chắc chắn sẽ chọn con đường mở rộng các hoạt động quân sự”. Trừ phi Hà Nội chấm dứt chiến tranh, nếu không Hoa Kỳ sẽ dùng không quân và hải quân đánh Bắc Việt Nam cho đến khi Hà Nội chấm dứt chiến tranh (Xem: Ngoại giao bí mật trong chiến tranh Việt Nam, tập văn kiện về thương lượng của Tài liệu Lầu Năm Góc do Gioóc-giơ. C.Hearing xuất bản, Phòng báo chí Trường Đại học Texas, Austin 1983 trang 16 và 23, sau đây gọi tắt là ngoại giao bí mật trong chiến tranh Việt Nam. W.Sunivan lúc đó là Chủ tịch Liên ban công tác về Việt Nam ở Bộ Ngoại giao Mỹ, sau này là Đại sứ Mỹ ở Lào và phụ tá của Kissinger).
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #9 vào lúc: 25 Tháng Tám, 2009, 08:23:13 pm »

Ngày 28 tháng 5 năm 1964, tại Niu Oóc, Tổng thống Hoa Kỳ L.B.Johnson đã gặp Thủ tướng Canađa Pearson. Nội dung cuộc trao đổi, báo chí khi đó không nói đến, nhưng chính Tổng thống Johnson sau này đã nhắc lại trong cuốn hồi ký Cuộc đời Tổng thống của tôi. Trong điện văn số 2133 gửi ngay sau đó cho đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, Bộ Ngoại giao Mỹ đã viết rõ ràng:

"Tổng thống đã nói với ông Pearson rằng ông muốn Hà Nội biết rằng Tổng thống, trong khi là người của hoà bình, không có ý định cho phép người Bắc Việt Nam tiếp quản Đông Nam Á. Tổng thống cần một người đối thoại tin cẩn và có trách nhiệm để chuyển cho Hà Nội một thông điệp về thái độ của Mỹ. Trong khi vạch ra những nét đại cương về lập trường của Hoa Kỳ, đã có thảo luận về củ cà rốt và cái gậy... Sau khi biểu thị lòng mong muốn đóng góp thiện chí vào cố gắng đó, ông Pearson đã bày tỏ nỗi lo ngại. về tính chất của cái gậy... Ông nói rằng ông hết sức dè dặt về việc sử dụng vũ khí nguyên tử, nhưng cho rằng việc tiến công trừng phạt bằng bom vào các mục tiêu có phân loại một cách rõ ràng sẽ là một việc khác... Ông nói rằng cá nhân ông muốn biết về phương sách của chúng ta để đi tới các biện pháp đó nếu thông điệp chuyển qua đường Canađa thất bại, không tạo được việc làm giảm sự xâm lược của Bắc Việt Nam, và Canađa muốn chuyển thông điệp trong bối cảnh đó" (M.M.McLear: Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nhà xuất bản Thêm Me-tu-en Luân Đôn, 1982, tr.131).

Cũng trong thời gian có cuộc họp cấp cao Mỹ - Canađa tại Ottawa, W.Sunivan và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Paul Martin làm việc với ông Seaborn. Ông được trao cho một đề cương những điều cần nói với Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Phạm Văn Đồng và được biết thêm rằng “Người Mỹ không chỉ muốn Canađa chuyển một thông điệp mà còn muốn có một sự đánh giá về mặt tình báo khả năng chiến tranh của Bắc Việt Nam" (M.M.McLear: Sđd, tr.132.).

Ông Seaborn vui lòng nhận các điều kiện làm việc và khẩn trương thu xếp công việc để đi Việt Nam. Ông cần nhận thức rõ sứ mệnh của mình khi chính Tổng thống Johnson đã nói chuyện với ông trước khi ông lên đường để tỏ lòng tin cậy ông và nhấn mạnh hai nhiệm vụ chuyển thông điệp và nắm tình hình Bắc Việt Nam

Đến Sài Gòn, ông nắm thêm tình hình qua tiếp xúc với các đồng sự Ấn Độ, Ba Lan, với đại sứ Hoa Kỳ và ông phấn khởi được Hà Nội trả lời là Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận tiếp ông. Ông đã được hai ngoại trưởng Dan Rusk và Martin dặn đó. Ông lại được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trang bị cho một bản mười ba điểm chi tiết hoá các nhiệm vụ mà ông được giao, trong đó đặc biệt có điều bốn:

"Ông Seaborn thông qua các lý lẽ, biện luận và quan sát thái độ của người Bắc Việt Nam để hình thành một sự đánh giá trạng thái tinh thần của Bắc Việt Nam. Ông cần rất nhạy bén về:

a. Sự khác biệt liên quan đến sự chia rẽ về chiến tranh.

b. Thất vọng hoặc mỏi mệt về chiến tranh.

c. Dấu hiệu về việc Bắc Việt Nam muốn nói chuyện với phương Tây.

d. Dấu hiệu về phe phái trong Đảng và Chính phủ.

đ. Dấu hiệu về mẫu thuẫn giữa phái quân sự và phái chính trị.

Người ta còn yêu cầu ông khai thác bản chất và ưu thế ảnh hưởng của Trung Quốc ở Bắc Việt Nam và đánh giá thực chất và ảnh hưởng của người Xô Viết. Điều mười hai còn nói: ông có thể xem lại môi tương quan về sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, Bắc Việt Nam và tài nguyên mà Trung cộng có thể sử dụng ở Đông Nam Á. (Xem G.C. Hearing: Ngoại giao bí mật trong chiến tranh Việt Nam, tr. 22.).
Logged
Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM