Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 29 Tháng Ba, 2024, 01:05:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris  (Đọc 197659 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #220 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2009, 10:44:40 pm »

Ngày 28 tháng 4, các đơn vị quân nguy Sài Gòn mở chiến dịch "Toàn thắng 42" vượt biên giới Campuchia đánh vào vùng Mỏ Vẹt.

Ngày 30 tháng 4, Mỹ cho một lực lượng hỗn hợp gồm 50.000 quân Mỹ, 50.000 quân Sài Gòn tiến vào vùng Móc Câu, tiến sâu vào đất Campuchia từ 30 đến 40 ki-lô-mét. Đồng thời máy bay Mỹ ném bom miền Bắc nước ta ở vùng Quảng Bình, Vĩnh Linh trong mấy ngày liền.

Cùng ngày 30 tháng 4, sau khi được tin quân Mỹ vào Campuchia, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta điện cho Trung ương cục miền Nam: "Đông Dương đã trở nên một chiến trường “thống nhất”, và chỉ thị “Đánh cho quân ngụy ở miền Nam những đòn chí mạng ở Campuchia, đồng thời phá kế hoạch bình định ở chiến trường miền Nam".

Việc mở rộng chiến tranh sang Campuchia là một sai lầm chiến lược của Nixon. Trong tình thế phải "phi Mỹ hoá”, rút dần quân Mỹ ra khỏi chiến trường chính, Mỹ lại đưa quân Mỹ sang Campuchia tạo nên một chiến trường mới, do đó bỏ trống cả miền Nam Việt Nam và giơ lưng cho đối phương đánh.

Họ đã tạo cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời thời cơ vừa giúp cách mạng Campuchia, vừa đưa lực lượng trở lại miền Nam, từng bước phá âm mưu của địch, tạo chuyển biến lớn trong cục diện chiến tranh có lợi cho ta.

Cuộc gặp riêng giữa Lê Đức Thọ và Kissinger hôm 4 tháng 4 năm 1970 trong bối cảnh một Đông Dương đang bị mây đen bao phủ.
Kissinger đến nơi họp - vẫn ở số 11 phố Darthé - khệ nệ mang theo nhiều hành lý. Trước con mắt ngạc nhiên của đoàn Việt Nam, ông ta vội giải thích: "Sau khi nói chuyện xong, chúng tôi phải đi thẳng ra sân bay". Hôm ấy là thứ bảy, Kissinger cười và nói thêm: "Tôi phải hy sinh ba ngày nghỉ vì sự nghiệp hoà bình". Lê Đức Thọ cũng cười và nói: "Như vậy ít quá, làm sao mà giải quyết được".

Đi vào nội dung, Kissinger bắt đầu nói về một số điều chính trong lịch rút quân ông đưa ra lần trước, nâng con số sẽ rút trong tháng thứ tư và thứ năm lên một chút. Xuân Thuỷ bác bỏ việc Mỹ đòi hai bên cùng rút quân trong thời gian mười sáu tháng của Mỹ là một bước thụt lùi - và phê phán Mỹ vẫn chưa cử trưởng đoàn mới ở Hội nghị công khai.

Nhắc lại các sự kiện ở Lào và Campuchia, Xuân Thuỷ nói:

- Chính các ông đang dùng áp lực quân sự và áp lực chính trị để hòng ép chúng tôi nhận những điều kiện của các ông.

Bộ trưởng ủng hộ đề nghị rút quân Mỹ trong sáu tháng của Chính phủ Cách mạng Lâm thời và chuyển sang vấn đề chính trị:

- Mỹ phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, thừa nhận độc lập và trung lập của miền Nam Việt Nam. Cụ thể:

1 - Chúng tôi thừa nhận Chính quyền Sài Gòn là một thực tế nhưng phải thay đổi bọn cầm đầu hiện nay là Thiệu - Kỳ - Khiêm, kẻ đang cản trở việc giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam.

2 - Thành lập Chính phủ Lâm thời gồm ba thành phần: Những Đại biểu của Chính phủ Cách mạng Lâm thời, những Đại biểu của Chính quyền Sài Gòn không có Thiệu - Kỳ - Khiêm, và những Đại biểu các lực lượng chính trị ngoài hai lực lượng trên.

3 - Sau khi Mỹ rút, tổ chức tuyển cử bầu ra Quốc hội, thông qua Hiến pháp mới và tổ chức Chính phủ Liên hiệp chính thức.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #221 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2009, 10:45:34 pm »

Về vấn đề lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam Việt Nam, sau khi thoả thuận về vấn đề chính trị và quân sự trên, chúng tôi sẵn sàng thảo luận.

Kissinger thừa nhận rằng vấn đề chính trị là vấn đề khó khăn nhất trong cuộc đàm phán này. Đó là trung tâm vấn đề đối với người Việt Nam. Đó cũng là lý do làm cho có tình hình chiến tranh trong hơn ba mươi năm qua. Ông nhắc lại hai nguyên tắc đã nêu ra là: phải thoả thuận với nhau xem tương quan lực lượng hiện có giữa các lực lượng hiện nay thế nào và phải thoả thuận với nhau về quá trình chính trị phải thực hiện để phản ánh tương quan lực lượng đó.

Là những người lêninit, các ngài hiểu rõ luận điểm về quá trình chính trị không bao giờ ổn định cả. Và vì vậy phía Hoa Kỳ muốn tạo ra được một quá trình chính trị không loại trừ bất cứ kết quả nào, làm cho tất cả các nhóm chính trị đều có khả năng tham gia vào cuộc đấu tranh về các vấn đề chính trị Quốc gia. Chúng tôi đang tìm cách tách cuộc đấu tranh quân sự ra khỏi cuộc đấu tranh chính trị. Hoa Kỳ không chấp nhận một giải pháp bị ép buộc bằng quân sự, Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận kết quả của quá trình chính trị phản ánh nguyện vọng của nhân dân... Chúng tôi phản đối không phải các mục tiêu các ngài đề ra mà là tác dụng thực tế của các mục tiêu đó. Các ngài chỉ chọn những người mà các ngài cho là yêu chuộng hoà bình và đè bẹp tất cả các lực lượng chính trị có tổ chức của những người đối lập... chỉ thảo luận vấn đề chính trị đã có thể thay đổi thực tế chính trị rồi.

Lê Đức Thọ:

- Tôi thấy triết học của các ông quanh co, khó hiểu và khác với triết học macxit.

Kissinger:

- Tôi thấy khó thoả mãn những đồng sự người Hà Nội của tôi, vì nói cái gì chung chung thì các ngài bảo là không lêninit, nói cái gì cụ thể thì các ngài lại không ưa.

Rồi ông ta kể một câu chuyện vui: Có người hỏi Anatole France (nhà văn Pháp, 1844-1924 - Tác giả) là ông đã đọc triết học của Kant chưa? A.France trả lời: tôi mới đọc ít lắm, mới được có 9 cuốn thôi, nhưng tất cả cái gì quan trọng lại ở phần cuối

Lê Đức Thọ: 

- Thế thì bây giờ tôi đang chờ phần cuối đó.

Kissinger không nói phần cuối mà tiếp tục đưa ra thí dụ để minh hoạ ý kiến của ông ta. Thí dụ hai bên bàn về thay đổi bà Bình thì sẽ ảnh hưởng đến tinh thần bà Bình... rồi ông ta nói phía Việt Nam đòi thay thế một số người cầm đầu trong Chính quyền Sài Gòn hiện nay như là một tiền đề cho quá trình chính trị thì Mỹ không nhận được. Ông cũng thừa nhận ta có khúc mắc trong vấn đề tuyển cử, ai sẽ đứng ra tuyển cử.

Chúng tôi nghĩ rằng có nhiều mặt sáng tạo, thí dụ có ủy ban hỗn hợp tuyển cử, vì ủy ban này có thể đáp ứng rất xa những yêu cầu hợp lý của các ông!".

Lê Đức Thọ:

- Nó chưa nhích được một bước nào chứ không phải đi xa. Tôi chờ mãi câu chủ chốt nhưng rốt cục vẫn là ủy ban hỗn hợp như đã đề nghị ở Kléber.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #222 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2009, 10:46:26 pm »

Kissinger còn nói nhiều nữa rằng ông ta sẵn sàng bàn đến quan hệ giữa bầu cử tự do và phân chia quyền lực - việc bầu cử cơ quan hành pháp và trực tiếp hay gián tiếp - bầu Quốc hội, rồi Quốc hội bầu ra Chính phủ hay trực tiếp bầu ra Chính phủ... mối quan hệ giữa cơ quan hành pháp và lập pháp, giữa các tỉnh và Sài Gòn, v.v... . rồi vấn đề quân sự như ngừng bắn ảnh hưởng đến quá trình chính trị như thế nào...

Kissinger tóm tắt các đề nghị của ông ta như sau:

1 - Chúng tôi đồng ý - về nguyên tắc phải rút toàn bộ quân Hoa Kỳ và quân đồng minh.

2 - Chúng tôi đã trình bày một kế hoạch chi tiết về việc rút quân đó và chúng tôi cũng đã nói rằng vấn đề thời gian rút quân là vấn đề mềm dẻo và sẽ không để nó thành một trở ngại cho việc giải quyết.

3 - Chúng tôi đã nói chúng tôi không cam kết duy trì một lực lượng chính trị nào trong Chính quyền một khi đạt được một giải pháp.

4 - Chúng tôi đã nói về phương pháp thích hợp để biết được ý muốn của nhân dân nhưng chúng tôi cũng sẵn sàng bàn những đề nghị khác về các vấn đề đó.

5 - Chúng tôi đã nói là chúng tôi không những sẵn sàng bàn vấn đề tuyển cử một cách trừu tượng mà còn sẵn sàng bàn mối liên quan giữa tuyển cử và quyền lực chính trị... mối liên quan giữa các vấn đề quân sự và chính trị, giữa quyền hành pháp và quyền lập pháp, vấn đề bảo vệ các lực lượng thiểu số... Nói cách khác, chúng tôi không nói đến bầu cử một cách trừu tượng mà nói đến một cơ cấu chính trị cụ thể.

6 - Chúng tôi sẵn sàng xem xét vấn đề chính trị và vấn đề quân sự có liên quan với nhau không những một cách chung chung mà cả vấn đề cụ thể nửa, đặc biệt qua thảo luận vấn đề ngừng bắn.

Kissinger còn nói rằng Mỹ không có ý định dùng vấn đề Lào làm áp lực quân sự đối với Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ sẵn sàng tiến tới một giải pháp thực hiện trên cơ sở giữ nguyên trạng ở Lào... sẵn sàng thực hiện với ta một sự thoả thuận để bảo đảm nền trung lập của Lào và bảo đảm an ninh cho lực lượng của Việt Nam khỏi bị những hoạt động đối địch xuất phát từ Lào.

Về vấn đề Campuchia, ông nói Mỹ đã không dính dáng vào và đã không dùng vấn đề Campuchia làm áp lực với Việt Nam và tuyên bố sẵn sàng hôm nay thoả thuận với Việt Nam về những sự sắp xếp để bảo đảm nền trung lập của Campuchia không bị vi phạm ...

Hoa Kỳ không có ý định gây ra một tình hình tương tự (như ở Việt Nam) ở một nơi khác ở Đông Nam Á. Còn về phía Việt Nam, hình như đã tiến hành tiến công ở Nam Việt Nam bốn ngày trước khi ông đến đây để đàm phán một cách nghiêm chỉnh.

Cuối cùng ông nói, trong cuộc đàm phán hiện nay, Hoa Kỳ đã có đại diện đúng đắn rồi và chính ông đã bốn lần vượt đại dương sang đây đàm phán với Việt Nam một cách trung thực.

Xuân Thuỷ đề nghị nghỉ giải lao. Nhưng ông Cố vấn Nhà Trắng còn yêu cầu Bộ trưởng giải thích một câu ông nói rằng sẽ bàn rút quân của Việt Nam nếu hai bên đạt được thoả thuận.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #223 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2009, 10:47:47 pm »

Kissinger hỏi:

- Các ông sẽ bàn với ai?

Xuân Thuỷ: .

- Với ai thì sẽ liệu. 

Lê Đức Thọ: 

- Chưa thoả thuận được với nhau thì làm sao biết bàn với ai.

Kissinger:

- Tôi cho rằng Bộ trưởng còn khó tính hơn tôi?

Xuân Thuỷ:

- Từ khi gặp ông đến giờ, tôi sinh ra khó tính thế đấy. Tôi học cái tính của ông đấy. 

Kissinger:

- Ngay từ ngày đầu tiên gặp ông tôi đã thấy ông hắc lắm rồi.

Xuân Thuỷ:

- Không thế đâu. Chính là tôi cứ nghe cái triết lý quanh co của ông nên tôi mới trở nên khó tính.

Kissinger:

- Chúng tôi bất ngờ gặp phải các ông là đối phương chứ chúng tôi không lựa chọn. Nếu chúng tôi lựa chọn thì chúng tôi lựa chọn đối phương dễ tính hơn.

Sau khi nghỉ, Lê Đức Thọ phát biểu. Bằng lời lẽ mạnh mẽ, ông nói một cách thẳng thắn.

- Trong hai lần gặp vừa qua ông đều nói rằng các ông muốn giải quyết hoà bình, không muốn dùng áp lực quyết định, không muốn đàm phán trên thế mạnh, nhưng những việc làm thực tế của các ông làm cho chúng tôi không thể tin được những lời nói của ông.

Qua những sự kiện xảy ra ở Việt Nam, Lào và Campuchia, nhất là những sự kiện xảy ra ở Lào và Campuchia, chúng tôi cho rằng các ông vẫn tích cực thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh, kéo dài và mở rộng chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương...

Về Lào, trong hai, ba năm qua chiến sự vẫn diễn ra bình thường nhưng thử hỏi: Ai đã đánh chiếm Cánh Đồng Chum cho nên nhân dân Lào phải đánh trả lại và chiếm lại Cánh Đồng Chum, và bây giờ các ông lại đưa quân Thái vào Lào ném bom Cánh Đồng Chum rất ác liệt! 

Về Campuchia, ai đã tổ chức cuộc đảo chính ở Campuchia, đã xoá bỏ nền độc lập và trung lập của Campuchia và đưa một tập đoàn phản động ở đó lên cầm quyền? Không ai khác hơn là Mỹ. Các ông nói các ông không uy hiếp Việt Nam trong vấn đề Lào và các ông không dính dáng đến vấn đề Campuchia. Điều đó hoàn toàn không đúng sự thật. Phương ngôn Việt Nam có câu "Không thể lấy thúng úp voi được
".

Kissinger xen vào:

- Tôi thích câu nói ấy đấy.
Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #224 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2009, 10:49:14 pm »

Lê Đức Thọ tiếp tục lên án Mỹ định dùng lực lượng tay sai ở Campuchia phối hợp với lực lượng tay sai ở Nam Việt Nam tiêu diệt lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam và phong trào cách mạng Campuchia, thực hiện học thuyết của Nixon: dùng người châu Á đánh người châu Á.

Rõ ràng các ông muốn dùng sức mạnh để giải quyết vấn đề và đàm phán trên thế mạnh, buộc nhân dân chúng tôi cũng như nhân dân Lào và nhân dân Campuchia phải khuất phục sức mạnh của các ông. Nhưng tôi cho đó chỉ là ảo tưởng... Các ông đã lầm to. Bao nhiêu sức mạnh của các ông cũng không thể nào khuất phục được nhân dân chúng tôi cũng như nhân dân Lào và nhân dân Campuchia... Các ông không đánh giá đúng và không lường được hết lực lượng của toàn dân tộc chúng tôi đứng dậy chống các ông. Bây giờ các ông lại muốn. mở rộng chiến tranh sang Campuchia và lại muốn bước vào những vết xe cũ. Các ông tưởng dùng một số phản động trong quân đội lật đổ Sihanuc thế là xong. Nếu nghĩ như vậy thì thật đơn giản quá. Chính việc làm đó của các ông đã tạo ra ở Campuchia một tình hình là quần chúng nhân dân đã đoàn kết chống lại các ông và bọn phản động. Họ đã theo lời kêu gọi của ông Sihanuc và của Mặt trận Thống nhất Dân tộc Campuchia ở đây nổi lên với tất cả tinh thần dũng cảm của họ để bảo vệ độc lập và trung lập của Campuchia. Chỉ trong mười ngày thôi mà tình hình đã biến chuyển rất nhanh. Đó là báo hiệu sự thất bại của các ông”.

Lê Đức Thọ nói rõ thái độ của ta là ủng hộ tuyên bố năm điểm của Sihanuc, và chừng nào Chính quyền Lonnol-Sỉrik Matăk còn ở Phnom Pênh thì không giải quyết được vấn đề Campuchia.

Ông nói tiếp:

- Trong tình hình các ông đang thất bại ở Việt Nam và Lào thì làm sao lại thắng ở Campuchia được. Các ông đã gieo gió thì các ông sẽ gặt bão. Các ông đã gây ra mối hận thù dân tộc giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia, nhưng nhân dân ba nước Việt Nam, Campuchia và Lào đã có truyền thống đoàn kết chống Pháp chín năm trước đây và đã gắn bó với nhau từ lâu, các ông không phá vỡ nổi sự đoàn kết đó. Ngày nay nhân dân ba nước Việt Campuchia - Lào càng kiên quyết chiến đấu và nhất định giành thắng lợi. Các ông nhất định sẽ thất bại lớn hơn nữa.

Vậy ngày nay có giải quyết được vấn đề hoà bình ở Việt Nam, Lào và Campuchia hay không, điều đó không tuỳ thuộc ở chúng tôi mà chính là tuỳ thuộc ở các ông.

Ông cũng nói đến hai khả năng giải quyết vấn đề Việt Nam: hoà bình hay chiến tranh, và tiếp:

- Chúng tôi vẫn để ngỏ cánh cửa cho một giải pháp hoà bình. Nhưng ông Nixon chưa muốn giải quyết vấn đề và còn nhiều tham vọng
Mong rằng giáo sư Kissinger có đầu óc nghiên cứu nắm vấn đề để giải quyết, hãy tỉnh táo nhìn vào thực tế.

Về tương quan lực lượng chính trị ở miền Nam Việt Nam, Lê Đức Thọ nhấn mạnh:

- Lực lượng Thiệu - Kỳ - Khiêm mà các ông nói, có thể đếm được trên đầu ngón tay. Còn nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân miền Nam là hoà bình, trung lập. Chỉ có một thiểu số tướng tá là thích chiến tranh thôi ..

Khi Lê Đức Thọ kết thúc lời phát biểu của mình, Kissinger nhận xét ngay là Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ đã nói đúng 55 phút không kém ông ta và hứa sẽ nghiên cứu ý kiến của ông Thọ.

« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:42:58 pm gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #225 vào lúc: 23 Tháng Chín, 2009, 10:50:31 pm »

Kissinger nói đi nói lại rằng Mỹ không chủ mưu gây ra đảo chính ở Campuchia, rằng ông Thọ đã quá đề cao Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA). (Sau này Kissinger cũng viết như vậy trong cuốn sách "Ở Nhà Trắng" của ông ta, và cũng ghi lại một số đoạn phát biểu của Lê Đức Thọ đã gây cho ông ta ấn tượng sâu sắc).

Kìssinger nói lại một cách lâm li, cố thuyết phục ông Thọ:

- Chúng ta phải chọn một trong hai điều: một là chúng ta vẫn tiếp tục nhưng chúng ta cứ trốn đằng sau những phức tạp của Việt Nam. Cả hai bên chúng ta đều có đủ thông minh, đặc biệt là các ông có tài về biện chứng, để kéo dài mãi mãi cũng được. Đó là một sự tập luyện về lý luận không dẫn tới đâu cả mà không cần sự tham gia của tôi. Hai là chúng ta cố gắng theo tinh thần của Bộ trưởng Xuân Thuỷ... là hai bên phải tìm cách đề cập đến những vấn đề cơ bản và đưa ra những đề nghị cụ thể mới để có thể chấm dứt chiến tranh trong năm nay.

Hai bên còn tranh luận thêm về vấn đề Lào và Campuchia và hứa nghiên cứu ý kiến của nhau.

Kissinger đề nghị có thêm một phiên gặp riêng nữa, nhưng Cố vấn Lê Đức Thọ đề nghị hai bên nghiên cứu ý kiến của nhau, đến lúc nào đó thấy có gì mới sẽ gặp lại.

Hiệp đầu đàm phán giữa Lê Đức Thọ và Kissinger chấm dứt với phiên họp ngày 4 tháng 4. Trong đợt này hai bên có đi vào vấn đề thực chất, nhưng nói chung vẫn giữ quan điểm của mình. Mỹ vẫn muốn đàm phán trên thế mạnh, tuy có rút một số quân Mỹ nhưng mở rộng chiến tranh sang Campuchia, tăng cường chiến sự ở Lào, họ chưa thật muốn bàn bạc nghiêm chỉnh một giải pháp.

Trong Hồi ký, ông Kissinger nhận định như sau:

Hiệp đầu đàm phán với Lê Đức Thọ thất bại vì ngoại giao bao giờ cũng phản ánh một so sánh lực lượng nào đó và Lê Đức Thọ không lầm lắm đâu. Ông ta đánh giá đúng dư luận công chúng ở Hoa Kỳ - và đặc biệt là thái độ các tổ chức lãnh đạo mà ông đã xác minh được. Những vấn đề do Việt Nam hoá đặt ra là có thật. Tình trạng thiếu kỷ luật trong Chính quyền Mỹ bộc lộ những bất đồng tư tưởng chia rẽ hành pháp. Trong những hoàn cảnh như thế, Lê Đức Thọ không có lý do gì để thay đổi yêu cầu rút quân Mỹ không điều kiện và đánh đổ Chính phủ Sài Gòn" (H.Kissinger. Ở Nhà trắng Sđd, tr. 485-486.).

Lúc chia tay với Kissinger, ngày 4 tháng 4, Lê Đức Thọ nói:

“Bây giờ quan điểm của hai bên còn xa nhau". 

Với sự thoả thuận của hai bên, các cuộc gặp riêng hoãn không thời hạn. Vả lại, không khí chính trị ở Mỹ, ở Đông Dương đang chuyển biến nhanh và phức tạp.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #226 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2009, 06:51:36 pm »

Giữa kẻ thù không chịu nổi và sự chống đổi bên trong cũng không chịu nổi

Tại Lào, ngày 1 tháng 5, liên quân Lào - Việt tiến đánh Atôpơ, giải phóng thị xã và vùng lân cận. Ngày 9 tháng 6 lại giải phóng tỉnh lỵ Saravan và khu vực chung quanh. Cả miền Nam Lào hầu như được giải phóng.

Một bộ phận liên quân Lào - Việt tiến sang đất Campuchia vào tỉnh Stung-treng, đánh tan một lực lượng đáng kể của quân Lonnol, giải phóng một số quận lỵ và thị xã, và tiến sát đến biên giới Thái Lan. Tỉnh lỵ Sêkông thuộc tỉnh Mônđukiri bị mất, quân Lonnol phải bỏ chạy khỏi Ratanakin.  

Ngày 5 tháng 6, Kratié rơi vào tay lực lượng giải phóng. Lực lượng giải phóng Campuchia, với sự giúp đỡ của Việt Nam, đánh chiếm nhiều vùng rộng lớn ở phía Nam và phía Bắc đường số 5, đánh Kôngpôngspơ và nhiều nơi khác. Từ tháng 5 năm 1970, Phnom Pênh đã bị cắt đứt với cảng Kôngpôngxom (Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, Sđd, tr. 50-51.).

Cuộc hành quân của Mỹ đánh vào vùng Móc Câu với mục tiêu chính là tiêu diệt cơ quan đầu não của cách mạng miền Nam cũng bị bẻ gãy.

Như vậy, trong hai tháng, Quân giải phóng Campuchia với sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang Việt Nam đã giải phóng hoàn toàn năm tỉnh Đông Bắc Campuchia: Kratié, Tung trong, Ratanakiri, Mondunkiri, Kôngpông Cham (Lịch sử kháng chiến chống Mỹ. Sđd t.2, tr 5051.).

Trên chiến trường miền Nam, nhân lúc Mỹ -Ngụy bị hút sang Campuchia, các quân khu, các mặt trận kịp thời tiến công - chủ yếu bằng lực lượng đặc công và pháo binh - nhiều căn cứ Mỹ - Nguỵ ở nhiều thành phố và thị xã và phòng tuyến phòng thủ vành ngoài của chúng từ Trị - Thiên đến Quảng Nam - Đà Nẵng và Tây Nguyên, bẻ gãy nhiều cuộc hành quân của địch.

Riêng ở đồng bằng sông Cửu Long, lực lượng Chính phủ Cách mạng Lâm thời bao vây bức rút 1000 đồn bốt, phá rã và phá lỏng gần 1600 ấp chiến lược và khu dồn dân của địch. Nửa đầu năm 1970, Mỹ - Nguỵ không dồn thêm được dân, lấn thêm được đất. Tình hình cách mạng miền Nam không còn quá khó khăn như năm 1969. Phong trào chống chiến tranh, chống Mỹ - Thiệu, đòi hoà bình, đòi Mỹ rút quân và thay Thiệu cũng phát triển ở các đô thị.

Ngày 24 tháng 4 năm 1970, Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước Đông Dương - gồm Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Hoàng thân Sihanuc, Hoàng thân Suphanuvông - được triệu tập ở Quảng Châu (Trung Quốc) đánh dấu một sự phát triển mới của sự đoàn kết chiến đấu chống đế quốc giữa nhân dân ba nước Đông Dương.

Tại Mỹ, trước sức ép của nhân dân và Quốc hội đòi rút thêm quân, ngày 20 tháng 4 năm 1970, Tổng thống Nixon công bố lệnh rút thêm 150.000 quân nữa, từ đó cho đến hết năm 1971. Ông hy vọng rằng đợt rút quân lớn này sẽ làm yên lòng nhân dân Mỹ, đồng thời tăng thêm sức ép Việt Nam. Nhưng việc đưa quân Mỹ sang Campuchia, dù ông gọi là "một hành động tạm thời và hạn chế " nhằm "chấm dứt chiến tranh Việt Nam" đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ trong nhân dân và Quốc hội Mỹ.

Cuối tháng 4 đã có biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam ở hai trăm thành phố lớn nhỏ tố cáo Nixon leo thang chiến tranh. Các báo lớn ở Mỹ lên án ông nuốt lời hứa sẽ rút cam kết ở Đông Nam Á và đi sâu một cách nguy hiểm vào chiến tranh. Họ cho rằng cuộc hành quân của Nixon vào Campuchia là một sự lừa dối, một ảo tưởng. Các cuộc bãi công và biểu tình nổ ra ở khắp nơi trong ngày 1 tháng 5. Phong trào chống chiến tranh mạnh nhất là tại các Trường Cao đẳng và Đại học. Nhiều nơi đã xảy ra xô xát với cảnh sát

« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:43:48 pm gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #227 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2009, 06:51:53 pm »

Ngày 4 tháng 5, trong một cuộc tập hợp chống chiến tranh tại Trường Đại học Kent, cảnh sát đã bắn chết 4 sinh viên, đổ thêm dầu vào ngọn lửa phản chiến đang bốc cao trong toàn quốc. Hàng ngàn học sinh, sinh viên cùng các giáo sư tiến về Washington tố cáo việc leo thang điên rồ của Chính phủ. Chiều thứ bảy ngày 9 tháng 5, ngày phản đối toàn quốc, một cuộc mít tinh khổng lồ gồm hơn 100.000 người diễn ra cạnh Nhà Trắng. Chính quyền phải điều động quân đội và xe bọc thép đến bảo vệ. Ở các Trường Đại học trong toàn quốc sinh viên bãi khoá, biểu tình ngồi, đốt lửa cầu nguyện cho hoà bình. Nixon phải ra lệnh đóng cửa các trường Đại học. Theo Kissinger, ngay ở Bộ Ngoại giao, 250 viên chức đã ký một bản tuyên bố tỏ ý không tán thành chính sách của Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Wilham Roger, Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird cũng không tán thành đưa quân vào Campuchia, Bộ trưởng Nội vụ Walter Hickel phản đối công khai.

Tại quốc hội Mỹ, ngày 26 tháng 4, đa số Đại biểu đã bỏ phiếu huỷ Nghị quyết về Vịnh Bắc Bộ tháng 8 năm 1964 cho phép Tổng thống đưa quân sang Đông Nam Á. Tiếp đó các cuộc tranh luận về chính sách của Nixon ở Đông Dương diễn ra rất gay gắt. Có dự luật đòi cắt viện trợ cho bọn Lonnol sau 30 tháng 6 năm 1971, có dự luật đòi chấm dứt ngân sách cho chiến tranh Đông Dương vào cuối năm đó hoặc chậm nhất là ngày 31 tháng 12 năm 1971. Cay đắng nhất cho Nixon là Quốc hội Mỹ đã thông qua quyết định đòi Chính quyền rút quân khỏi Campuchia trước ngày 1 tháng 7 năm đó. Ngày 30 tháng 6, Nixon phải ra lệnh rút hết quân Mỹ khỏi Campuchia.

Sau này Nixon viết rằng "Những ngày sau sự kiện xảy ra ở Kent là những ngày đen tối nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của tôi. Tôi thấy vô cùng chán nản" (R . Nixon Hồi ký. Sđd, tr 457). 

Kissinger viết: "Chúng ta chấm dứt cuộc hành quân ở Campuchia mà không giải quyết được vấn đề trong một cuộc đấu tranh với một kẻ thù không chịu nổi cùng với một sự chống đối bên trong cũng không chịu nổi" (H.Kissinger. Ở Nhà Trắng Sđd, tr 532 ).

Mỹ đưa quân vào Campuchia, tiếp tục ném bom miền Bắc nhưng vẫn tỏ ra muốn thương lượng.   

Ngày 6 tháng 5 năm 1970, một tuần sau khi Mỹ đưa quân vào Campuchia, tướng V. Walters gọi điện thoại ba lần xin gặp Mai Văn Bộ nói là có công hàm của Washington.

Trong phiên họp công khai thứ 66 ngày hôm ấy, trước việc Mỹ ném bom bắn phá liên tục miền Bắc, cả đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời ra tuyên bố phản đối các hành động chiến tranh nói trên của Mỹ, vi phạm thoả thuận giữa hai bên ngày 30 tháng 10 năm 1968, rồi bỏ về. Bộ trưởng Xuân Thuỷ tuyên bố sẽ rời Paris về nước.

Ngày Bộ trưởng Xuân Thuỷ và bà Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ Cách mạng Lâm thời, rời Paris thì cũng là ngày Mai Văn Bộ tiếp tướng Walters.

Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #228 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2009, 06:52:02 pm »

Viên tướng Mỹ đọc thông điệp sau đây cho Mai Văn Bộ:

“Chính phủ tôi đã xem xét một cách đầy đủ những điều liên quan xảy ra từ cuộc gặp gỡ cuối cùng của chúng ta và cho rằng những cuộc thảo luận đó cũng như những sự kiện gần đây nêu rõ sự cần thiết phải có những đề cập mới có thể làm dễ dàng việc tiếp tục cuộc đối thoại có tính chất xây dựng trong diễn đàn này.

Xuất phát từ thái độ đó và từ lòng mong muốn đi tới chấm dứt nhanh chóng cuộc xung đột trên cơ sở công bằng, Chính phủ chúng tôi đề nghị một cuộc gặp nữa giữa Tiến sĩ Kissinger với Bộ trưởng Xuân Thuỷ và Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ... từ sau ngày 6 tháng 5, vào bất cứ ngày cuối tuần nào thuận tiện đối với Bộ trưởng và Cố vấn đặc biệt".

Hà Nội không vồ vập. Gần một tháng sau, ngày 3 tháng 6, Mai Văn Bộ trao trả lời cho tướng Walters.

"Những lời nói hoà bình của Hoa Kỳ chỉ là lời nói suông, cho nên trong tình hình như vậy một cuộc gặp giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ với Tiến sĩ Kissinger như đề nghị đầu tháng 5 của Hoa Kỳ sẽ không đem lại điều gì bổ ích. Tuy nhiên khi nào Hoa Kỳ từ bỏ việc dùng áp lực quân sự và có thái độ nghiêm chỉnh và thiện chí thì Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thuỷ sẵn sàng gặp lại Cố vấn Kissinger để tìm một giải pháp hoà bình cho vấn đề Việt Nam.".

Mỹ càng tỏ ra hiếu chiến và ngoan cố, ta càng tỏ thái độ vững vàng, cứng rắn. Nhưng ta không cắt cầu.

Tháng 7, sau khi rút quân khỏi Campuchia, theo đề nghị của Kissinger, Nixon cử David K.E. Bruce, khi đó bảy mươi hai tuổi, làm Trưởng đoàn Đại biểu Mỹ tại Hội nghị Kléber. Con một gia đình lớn ở Maryland, ông đã 30 năm trong ngành ngoại giao, đã từng là đại sứ ở Lon don, Paris, Bone. Kissinger thấy ở ông ta một con người có bản lĩnh, một con người "hiểu rằng danh dự một Quốc gia không phải là chuyện thường, người Mỹ không vượt các thế kỷ để phản bội những người đã tin vào lời hứa của Mỹ”. Ông cho rằng ông Bruce sẽ phải cùng đi một đoạn đường dài và gian khổ, nhưng tin rằng bên cạnh Bruce gánh nặng sẽ giảm nhẹ đi.

Ngày 5 tháng 7, tướng Walters chuyển cho Trần Viết Dung, đại diện lâm thời Việt Nam ở Paris, một công hàm của Mỹ đề nghị một cuộc gặp mới vào bất kỳ lúc nào sau 25 tháng 7.

Ngày 18 tháng 7, Trần Viết Dung được chỉ thị trả lời:

“Theo công hàm ông Walters nhờ ông Trần Viết Dung chuyển ngày 5 tháng 7 năm 1970 trong đó Chính phủ Hoa Kỳ đề nghị một cuộc gặp mặt mới... Bộ trưởng Xuân Thuỷ đồng ý gặp Cố vấn Kissinger vào 28 tháng 8 tại Paris”

Nhưng phía Mỹ có lẽ bị ám ảnh là nhận thời hạn do đối phương ấn định là bị động như hồi tháng 2, nên họ đề nghị lui ngày họp vào 7 tháng 9.
« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:45:03 pm gửi bởi macbupda » Logged
SaoVang
Đại tá
*
Bài viết: 8205



« Trả lời #229 vào lúc: 27 Tháng Chín, 2009, 06:56:59 pm »

Cuộc họp vẫn ở 11 phố Darthé.

Kissinger tỏ vẻ vui mừng được gặp lại Xuân Thuỷ, gửi lời chào Cố vấn Lê Đức Thọ (vắng mặt hôm đó) và cho ta biết đại sứ D.Bruce, nhà ngoại giao có tài, người có đủ thẩm quyền đàm phán về mọi vấn đề, ông nhấn mạnh rằng việc cử Bruce cầm đầu phái đoàn Mỹ ở Hội nghị bốn bên là một việc có ý nghĩa, đáp ứng yêu cầu của ta, là dấu hiệu về thiện chí và đàm phán nghiêm chỉnh của Mỹ.

Đi vào nội dung cuộc gặp, ông ta nói Hoa Kỳ muốn chấm dứt chiến tranh nhanh chóng bằng đàm phán, nhưng vì Hoa Kỳ không làm cho phía Việt Nam đàm phán nghiêm chỉnh được nên Hoa Kỳ buộc phải đi theo con đường khác là rút quân dần dần đi liền với việc tăng cường quân đội Nam Việt Nam.

"Đối với chúng tôi các ngài có nghi kỵ sâu sắc. Sự nghi kỵ sẽ không giảm bớt nếu thời gian trôi đi ..."

"Chúng ta sắp sửa đến thời gian mà khả năng giải pháp có thể trôi qua. Vượt quá một mức nào đó thì các ngài sẽ đưa mình vào một cuộc đọ sức bằng vũ khí. Tôi thì không đoán trước được rằng một cuộc đọ sức như vậy với một quân đội Nam Việt Nam được tăng cường và được chúng tôi ủng hộ sẽ chấm dứt như thế nào và bao lâu mới chấm dứt được. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng một tuyên bố như vậy làm cho một giải pháp thương lượng với Hoa Kỳ càng khó khăn hơn. Thế thì hãy tìm cách đạt được một giải pháp khi còn thì giờ”.

Ông ta nêu ba diễn đàn để làm việc: diễn đàn thứ nhất có ông ta tham gia, diễn đàn thứ hai: gặp gỡ riêng giữa hai Trưởng đoàn, và diễn đàn ở Kléber. Kissinger lại kể ra những hành động thiện chí của Mỹ: chấm dứt ném bom miền Bắc, đã rút quân, đồng ý đàm phán có Mặt trận Dân tộc Giải phóng, đã tuyên bố sẽ rút hết quân Mỹ, và trong một năm rưỡi đã rút gần 200.000 quân... Rồi nói rằng hai điều kiện tiên quyết mà ta đặt ra là không phù hợp như đòi rút đơn phương toàn bộ quân Mỹ và đòi Mỹ gạt những người lãnh đạo Nam Việt Nam.

Nếu như Hoa Kỳ rút quân không điều kiện và các ngài muốn thay thế Chính phủ Nam Việt Nam thì đó là vấn đề của các ngài, không phải là vấn đề của chúng tôi nữa. Nếu như các ngài muốn đàm phán về vấn đề chính trị với chúng tôi thì các ngài phải bỏ các điều kiện tiên quyết đó đi".

Tiếp đó ông ta muốn đi vào thảo luận cụ thể và đưa ra lịch rút quân 12 tháng: Tháng đầu 5.000, tháng thứ 2 và thứ 3: mỗi tháng 10.000, tháng thứ 4: 45.000, tháng thứ 5: 35.000, tháng thứ 6: 44.000. Ba tháng tiếp theo mỗi tháng 60.000. Tháng thứ 10 và 11: mỗi tháng 20.000. Tháng thứ 12: 15.000.

Ông ta chấp nhận hai nguyên tắc rút quân toàn bộ và cả căn cứ quân sự, đã đưa ra lịch rút quân toàn bộ và nếu được đáp ứng bằng một sự có đi có lại thì có thể đi đến chấm dứt chiến tranh.

« Sửa lần cuối: 27 Tháng Chín, 2009, 08:22:59 pm gửi bởi SaoVang » Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM