Lịch sử Quân sự Việt Nam
Tin tức: Lịch sử quân sự Việt Nam
 
*
Chào Khách. Bạn có thể đăng nhập hoặc đăng ký. 20 Tháng Tư, 2024, 12:57:09 pm


Đăng nhập với Tên truy nhập, Mật khẩu và thời gian tự động thoát


Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Xuống
  In  
Tác giả Chủ đề: Lược sử quân sự các nước Đông Nam Á  (Đọc 96380 lần)
0 Thành viên và 1 Khách đang xem chủ đề.
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #30 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2008, 07:50:08 pm »

Quân đội Inđônêxia ra đời trên cơ sở các lực lượng vũ trang nhân dân, do đó rất coi trọng quan hệ quân dân, đã nhiều lần phát động các cuộc vận động nhân dân, như phong trào "Bộ đội vào làng" để giúp đỡ nông dân xây dựng cầu đường, công trình thuỷ lợi và những hoạt động phát triển khác nhằm thúc đẩy sự phồn vinh của cộng đồng nông thôn; thực hiện mục tiêu quân đội gắn bó với nhân dân.


Ngoài chức năng đối nội gắn liền với nhiệm vụ đấu tranh chống các cuộc bạo loạn, nổi dậy, đảo chính hay ly khai, quân đội Inđônêxia còn tích cực ủng hộ và tham gia giám sát, giữ gìn hoà bình theo yêu cầu của Liên hợp quốc tại nhiều khu vực trên thế giới. Đội quân đầu tiên làm nhiệm vụ đó là binh đoàn Garuda I được cử đến Giada trong cuộc khủng hoảng ở kênh đào Xuy từ tháng 1 năm 1957 đến tháng 9 năm 1957. Từ tháng 9 năm 1960 đến tháng 5 năm 1961, binh đoàn Garuda II và một lượng quân cảnh được cử đến Công gô theo yêu cầu của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Từ tháng 12 năm 1962 đến tháng 7 năm 1963, binh đoàn Garuda III được cử đến Kantanga ở châu Phi. Từ tháng 3 năm 1973 đến tháng 4 năm 1974, các binh đoàn Guruda IV và V đã được cử đến Nam Việt Nam sau khi Hiệp định hoà bình Pa ri được ký kết. Các binh đoàn Guruda VI, VII và VIII được cử đến Trung Đông để giám sát việc thi hành ngừng bắn, kết thúc cuộc chiến tranh giữa Trập và Ixraen... Quân đội Inđônêxia còn được giao nhiệm vụ phối hợp với quân đội các nước trong khối ASEAN khi cần thiết nhằm bảo vệ an ninh khu vực.


Riêng lực lượng hải quân trong quân đội Inđônêxia còn có nhiệm vụ phối hợp với hải quân các nước Malaixia và Xingapo kiểm soát eo biển chiến lược Malắcca.


Sang thế kỷ XXI, quân đội quốc gia Inđônêxia bắt đầu thực hiện chuyển đổi theo hướng chuyên nghiệp hoá, nhiệm vụ của quân đội tập trung chủ yếu vào lĩnh vực quân sự, giảm dần vai trò chính trị. Tuy nhiên, nhà nước, đứng đầu là tổng thống, vẫn rất coi trọng vai trò của quân đội, xác định quân đội Inđônêxia luôn luôn là nhân tố quyết định đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội để phát triển đất nước. Do đó, Tổng thống Inđônêxia chủ trương tiếp tục tăng cường sức mạnh và đề cao vai trò của quân đội.


Lãnh đạo Bộ Quốc phòng Inđônêxia1 (Chức Bộ trưởng Quốc phòng lnđônêxia do một nhân vật dân sự đảm nhiệm, còn lại tất cả các vị trí quan trọng khác đều do các tướng lĩnh đảm nhiệm) xác định nhiệm vụ của quân đội trong 10 năm đầu của thế kỷ mới là ngăn chặn các mối đe doạ từ bên ngoài, chủ yếu là sự can thiệp của Mỹ và phương Tây vào các phong trào ly khai ở một số địa phương hoặc chiếm một số đảo không có người của Inđônêxia. Cũng chính vì vậy mà Inđônêxia rất chú ý và chủ trương phát triển lực lượng hải quân và không quân. Những năm gần đây, quân đội quốc gia Inđônêxia đã tích cực tham gia vào cuộc chiến chống khủng bố và đã giành được nhiều kết quả trên lĩnh vực hoạt động này. Tuy nhiên, Tổng thống Mỹ Bu sơ vẫn cho rằng, Inđônêxia là quốc gia Hồi giáo lớn nhất song lại là điểm yếu nhất trong sơ đồ chống khủng bố của Mỹ". Tháng 10 năm 2005, Mỹ và Inđônêxia đã kí hiệp định về tăng cường hợp tác trong cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ đứng đầu.


Về chiến lược, hiện nay quân đội Inđônêxia đang thực hiện chiến lược "phòng thủ tích cực" kết hợp “phòng thủ bên ngoài toàn diện", kết hợp phòng thủ độc lập và tác chiến cơ động, bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải và bảo vệ trật tự an toàn xã hội. Chính phủ chủ trương xây dựng lực lượng quân đội tinh nhuệ, chuyên nghiệp, có cơ cấu hợp lý, có khả năng cơ động cao và khả năng tác chiến lớn, trang bị hiện đại. Các phương hướng chủ yếu là tăng ngân sách mua sắm các loại vũ khí trang bị tiên tiến, phát triển công nghiệp quốc phòng trong nước, tăng cường huấn luyện chiến đấu, điều chỉnh cơ cấu biên chế sĩ quan các cấp, thực hiện trẻ hoá và tri thức hoá đội ngũ sĩ quan.


Về đối ngoại, quân đội Inđônêxia chủ trương tích cực phát triển sự hợp tác với quân đội các nước ASEAN, với quân đội Ôxtrâylia và Mỹ nhằm nâng cao khả năng hiệp đồng tác chiến, tăng cường phòng thủ và bảo vệ an ninh khu vực.


Trước những diễn biến của tình hình quốc gia và khu vực thời gian gần đây, Chính phủ Inđônêxia đánh giá các mối đe doạ đối với đảo quốc này chủ yếu đến từ hướng biển, do vậy bên cạnh bảo đảm ổn định trong nước, nhiệm vụ trọng điểm của quân đội là tăng cường kiểm soát giao thông trên biển và bảo vệ an ninh kinh tế biển. Để đáp ứng nhiệm vụ này, Inđônêxia chủ trương tăng cường sức mạnh cho hải quân, thông qua các biện pháp như mua sắm vũ khí kỹ thuật, xây dựng nâng cấp các quân cảng, tăng cường bảo vệ vùng biển, các vùng đảo xa có ý nghĩa chiến lược, trọng điểm là eo biển Malắcca, biển Đông, Ấn Độ Dương... với đảo Giava là trung tâm. Đó là những yêu cầu và nhiệm vụ của Quân đội quốc gia Inđônêxia trước sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.


Quân đội Quốc gia Inđônêxia đã trải qua hơn 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Đó là quân đội có một truyền thống xây dựng và chiến đấu rất đáng tự hào. Ra đời trong cuộc đấu tranh cách mạng chống ách thống trị của chủ nghĩa tư bản phương Tây, trải qua những biến cố chính trị lớn trong nước, Quân đội quốc gia Inđônêxia luôn luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ quân sự - chính trị của mình, cùng toàn dân giành lại độc lập từ tay thực dân Hà Lan; đã dẹp thù trong, đánh giặc ngoài, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc. Phát huy truyền thống của mình, ngày nay Quân đội Inđônêxia đang trong thời kỳ hiện đại hoá, từng bước thực hiện những cải cách, đổi mới theo xu hướng tích cực nhằm xây dựng Quân đội quốc gia thành một quân đội chính quy hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà hiến pháp lnđônêxia đã quy định.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #31 vào lúc: 30 Tháng Mười, 2008, 07:53:06 pm »




Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #32 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:41:41 pm »

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN LÀO


I. Khái quát về đất nước Lào 

Nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào nằm ở bán đảo Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc và Mianma, phía nam giáp Campuchia, phía tây giáp Thái Lan, phía đông giáp Việt Nam. Lào có diện tích khoảng 236.800km2; dân số 5,2 triệu người (năm 2003), trong đó số người có khả năng phục vụ quân đội khoảng 648.000 người; mật độ dân cư 23,2 người/km2; dân số thành thị 16%1 (Lực lượng vũ trang các nước trên thế giới, Nxb Thông tấn, Hà Nội, 2005. tr.265); thủ đô Lào là Viêng Chăn.


Phần lớn đất đai Lào đều là đồi núi và chỉ có 5% đất đai canh tác. Rừng bao phủ 75% đất đai. Lào không tiếp giáp với biển, nhưng có sông Mê Công chảy dọc suốt từ bắc đến nam và có mạng lưới sông ngòi phong phú. Nước Lào gồm có 3 vùng Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào với 68 dân tộc khác nhau, tập trung trong ba hệ lớn là Lào Lùm, Lào Thơng và Lào Xủng. Đạo Phật chiếm 90% dân số, là tôn giáo phổ biến của người Lào Lùm. Một bộ phận người Lào Thơng, Lào Xủng vẫn theo tín ngưỡng thần linh cổ truyền của họ. Chùa là trung tâm sinh hoạt không thể thiếu của các bản làng, khu phố khắp nơi trên đất Lào.


Lào là một quốc gia được hình thành từ lâu đời. Năm 1353, các mường cổ đại được Phà Ngậm sáp nhập, thống nhất thành quốc gia Lạn Xang (Triệu Voi) với thủ đô là Mường Xoa (Luông Phrabăng). Đến giữa thế kỷ XVI, vua Xét Tha Thi Rát đã cho dời đô từ Luông Phrabăng về Viêng Chăn.


Qua nhiều thế kỷ, nhà nước Lạn Xang phải chống chọi với các cuộc xâm lược của Miến Điện (Mianma), Xiêm (Thái Lan). Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp thôn tính Lào.


Chỉ vài năm sau khi Pháp đặt ách thống trị ở Lào, hàng loạt các cuộc đấu tranh của nhân dân các bộ tộc Lào từ Thượng đến Hạ Lào đã nổ ra dưới nhiều hình thức phong phú, từ chống bắt phu, chống thuế đến bất hợp tác với địch, cao hơn nữa là vũ trang khởi nghĩa giành chính quyền. Tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh với quy mô khá lớn của nhân dân Lào Lùm ở Xavanakhẹt do Phò Cà Đuột lãnh đạo (1901-1903), cuộc khởi nghĩa vũ trang của nhân dân Lào Thơng ở Hạ Lào kéo dài suốt 36 năm (1901-1937) do ông Kẹo và Comađam lãnh đạo, phong trào đấu tranh của người H'mông ở Thượng Lào (1918-1922) do Chậu Pha Pat Chay lãnh đạo; phong trào đấu tranh của người Lự ở Mường Sinh (1914-1918); phong trào đấu tranh của người Thái ở Sầm Nưa (1916) và nhiều cuộc đấu tranh khác của các bộ tộc trên khắp cả nước. Mặc dù các cuộc khởi nghĩa này đều thất bại nhưng đã gây n cho thực dân Pháp, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần yêu nước, chống Pháp của nhân dân Lào.


Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản chiếm Đông Dương. Nhân dân Lào cũng như nhân dân Việt Nam và Campuchia, ngoài ách thống trị của thực dân, phong kiến lại phải thêm ách thống trị của phát xít Nhật. Do vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân Lào ngày càng quyết liệt và mạnh mẽ hơn.


Tháng 8 năm 1945, tình hình thế giới và khu vực có những chuyển biến quan trọng, tạo thuận lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Lào. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương - tiền thân của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, nhân dân Lào đã nổi dậy giành chính quyền và ngày 12 tháng 10 năm 1945 tuyên bố độc lập Tuy nhiên, ngay sau đó, thực dân Pháp quay lại xâm lược Lào. Nhân dân Lào một lần nữa cùng nhân dân Việt Nam và Campuchia kề vai sát cánh đánh bại thực dân Pháp, buộc chúng phải ký Hiệp định Giơnevơ (7.1954) công nhận nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.


Từ năm 1955 đến năm 1975, Mỹ thay chân Pháp, dựng nên ở Lào một hệ thống ngụy quyền để làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Tình hình đó làm cho nhân dân Lào phải tiếp tục tiến hành một cuộc đấu tranh mới quyết liệt, cam go nhất nhưng đồng thời cũng anh dũng nhất, đập tan chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở Lào. Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời và Hội đồng quốc gia chính trị Liên hiệp được thành lập.


Sau 30 năm chiến đấu anh dũng kiên cường, đầy thử thách và hy sinh, nhân dân Lào đã giành được thắng lợi trọn vẹn. Ngày 2 tháng 12 năm 1975, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc họp tại Viêng Chăn quyết định xoá bỏ chế độ quân chủ, thành lập nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào với chính thể Cộng hoà nhân dân, đứng đầu nhà nước là Chủ tịch nước, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân tối cao (cơ quan lập pháp cao nhất). Cách mạng Lào chuyển sang giai đoạn mới với nhiệm vụ lịch sử là xây dựng đất nước Lào thành một nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.


Lào gia nhập Liên hợp quốc ngày 14 tháng 12 năm 1955, thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ở cấp đại sứ ngày 5 tháng 9 năm 1962 và trở thành hội viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam A (ASEAN) ngày 23 tháng 7 năm 1997.


Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào tổ chức hệ thống các lực lượng vũ trang nhân dân để bảo vệ Tổ quốc bao gồm Quân đội nhân dân Lào, cảnh sát vũ trang nhân dân và dân quân tự vệ. Các lực lượng vũ trang nhân dân Lào do Đảng Nhân dân cách mạng Lào trực tiếp xây dựng và lãnh đạo, Hội đồng quốc phòng an ninh quốc gia thống nhất chỉ huy trong toàn quốc. Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Hội đồng quốc phòng an ninh và là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. GDP 1.761 triệu USD (2002), bình quân đầu người 330 USD, ngân sách quốc phòng năm 2003 là 15 triệu USD1 (Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Sđd , tr.586).
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #33 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:42:21 pm »

II. Lịch Sử Xây dưng và phát triển rủa Quân đội nhân dân Lào

1. Sự ra đời của Quân đội nhân dân Lào

Vào thời gian trước khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, ở Lào đã hình thành một số nhóm hoạt động ở từng khu vực từ Thượng Lào đến Hạ Lào với những xu hướng khác nhau. Để thống nhất các lực lượng yêu nước và thực hiện đường lối đoàn kết dân tộc của Đảng Cộng sản Đông Dương, Mặt trận Lào tự do (Mặt trận Lào Ítxala) được thành lập. Mặt trận đã kêu gọi đoàn kết và tập hợp mọi lực lượng, thành phần dân tộc, mọi tầng lớp xã hội trong một tổ chức thống nhất, cùng tiến hành đấu tranh chống thực dân, phát xít. Mặt trận Lào Ítxala đã lập ra các đội tuyên truyền vũ trang, phát động quần chúng ở thành thị và nông thôn vừa đấu tranh công khai, vừa chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa.


Ngày 9 tháng 3 năm 1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm Đông Dương, một tình thế hết sức khẩn trương được đặt ra đối với cách mạng Lào. Chấp hành chỉ thị của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 28 tháng 3 năm 1945, Ban lãnh đạo Đảng nước ngoài và Xứ ủy Lào đã họp với đại biểu các chi bộ, thống nhất đề ra một số công việc cấp bách, thúc đẩy công tác tuyên truyền vận động quần chúng, xúc tiến việc lập căn cứ cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức huấn luyện quân sự để chuẩn bị khởi nghĩa.


Thực hiện chủ trương của Đảng và được sự giúp đỡ của nhân dân vùng Đông Bắc Thái Lan, các lực lượng cách mạng yêu nước đã nhanh chóng thành lập các khu căn cứ ở Phu Phan, Na Kè (tỉnh Sa Côn), bản Myat (tỉnh Na khôn Phanôm), Nong Khai, Mục Đa Hán... Hàng trăm thanh niên Lào và Việt kiều đã được huấn luyện quân sự, chính trị và nhận trang bị vũ khí tại các căn cứ trên.


Ngày 11 tháng 5 năm 1945, tại căn cứ Na Kè đã thành lập một đơn vị vũ trang có cả người Lào và Việt kiều tham gia. Từ tháng 6 năm 1945, đơn vị này đã chuyển một số bộ phận về các căn cứ ở Viêng Chăng, Thà Khẹc, Xavanakhẹt để hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng và chuẩn bị cơ sở cho việc khởi nghĩa giành chính quyền. Đây chính là các tổ chức tiền thân của lực lượng vũ trang cách mạng sau này.
Thời gian này, tổ chức "Lào Pên Lào" do một số trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước lập ra cũng hoạt động mạnh mẽ. Ở nhiều đô thị, Mặt trận Lào tự do đã có những hoạt động phối hợp với các nhóm "Lào Pên Lào" và trên thực tế thì tổ chức "Lào Pên Lào" đã tham gia như một thành viên trong Mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.


Tháng 8 năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ở Đông Dương, quân đội Nhật mất tinh thần, hoang mang cực độ. Các chính phủ bù nhìn ở Lào cũng như ở Việt Nam, Campuchia có nguy cơ tan rã hoàn toàn. Tranh thủ thời cơ lịch sử vô cùng thuận lợi này, Xứ ủy Ai Lao thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương thông qua tổ chức Mặt trận Lào tự do đã lãnh đạo toàn dân Lào phối hợp với cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam đứng lên giành chính quyền từ tay phát xít Nhật.


Ngày 12 tháng 10 năm 1945, ủy ban nhân dân Lào họp ở Viêng Chăn, thông qua bản Hiến pháp mới của nước Lào độc lập, bầu ra Quốc hội mới, thành lập “Chính phủ độc lập Lào Ítxala" và thông qua danh sách các thành viên chính phủ. Hoàng thân Xuphanuvông được cử làm Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang.


Các đơn vị vũ trang Lào từ một số căn cứ ở Thái Lan được lệnh chuyển về cùng một số lực lượng quân đội bảo an của chính quyền vương quốc cũ giác ngộ theo cách mạng và một số thanh niên yêu nước tổ chức thành các đơn vị "Quân đội Lào Ítxala" ở các khu vực để bảo vệ chính quyền mới và hỗ trợ quần chúng đấu tranh chống địch.


Để thống nhất sự chỉ huy đối với các lực lượng vũ trang Lào Ítxala và lực lượng vũ trang Việt kiều, ngày 30 tháng 10 năm 1945, Chính phủ độc lập Lào Ítxala ký sắc lệnh chuyển tất cả các đơn vị vũ trang của Lào thành một lực lượng thống nhất, đặt dưới quyền chỉ huy của chính phủ. Cùng ngày, Đại diện toàn quyền Chính phủ độc lập Lào Ítxala và Đại diện toàn quyền nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ký Hiệp định về "Tổ chức liên quân Lào - Việt" và thành lập Ban chỉ huy liên quân ở một số khu vực nhằm thống nhất chỉ huy các hoạt động phối hợp giữa hai lực lượng vũ trang Lào và Việt kiều.


Cuộc khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 ở Lào diễn ra trong bối cảnh vừa đấu tranh giành chính quyền từ tay phát xít Nhật, vừa tiến hành công cuộc bảo vệ chủ quyền chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Vì vậy, quá trình khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng gắn bó chặt chẽ với nhau. Các lực lượng vũ trang được hình thành ngay từ đầu và giữ vai trò quan trọng, bảo đảm cho cuộc khởi nghĩa thắng lợi.


Tuy nhiên, ngay sau khi nhân dân Lào vừa mới giành được chính quyền, dược sự giúp đỡ của Mỹ và Anh, thực dân Pháp đã quay lại xâm lược Lào. Tháng 3 năm 1946, quân đội Pháp mở nhiều cuộc tiến công lớn vào các thị xã Xavanakhẹt, Thà Khẹc và thủ đô Viêng Chăn..., đồng thời lập bộ máy cai trị ở những vùng chúng kiểm soát. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ trên toàn quốc.


Trong những ngày đầu tiên mới giành được độc lập, quân và dân Lào đều quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhưng tình hình lúc này hết sức phức tạp. Các lực lượng vũ trang yêu nước còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, khó lòng ngăn chặn được bước tiến của quân đội Pháp được trang bị vũ khí tối tân và thiện chiến đang từng bước tiến hành bao vây các đô thị.


Để tăng cường lực lượng cho cách mạng Lào trong thời điểm khó khăn này, Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương huy động các lực lượng Việt kiều yêu nước ở Lào và Thái Lan phối hợp chặt chẽ với lực lượng cách mạng yêu nước Lào bảo vệ chính quyền độc lập mới giành được ở các đô thị và "tăng cường vũ trang tuyên truyền, vận động các bộ tộc Lào, làm cho Mặt trận đoàn kết kháng chiến chống Pháp lan rộng và chiến tranh du kích nảy nở ở thôn quê".


Chính phủ độc lập Lào Ítxala cũng ban bố và thi hành một số biện pháp khẩn cấp như tuyên bố về quyền tự do dân chủ của nhân dân, kêu gọi nhân dân đóng góp của cải, vàng bạc giúp chính phủ kháng chiến, củng cố lực lượng tự vệ bảo an, tổ chức "Ban phòng thủ" ở thủ đô và các thị xã, thị trấn...


Ở thủ đô Viêng Chăn, ngoài lực lượng tự vệ, chính quyền cách mạng còn tập trung được hơn 600 quân, tổ chức thành 4 đại đội chiến đấu và một số đội vũ trang tuyên truyền; tại Xavanakhẹt tập trung được khoảng 200 quân; Khăm Muộn 800 quân với hơn 400 khẩu súng, có cả pháo 25 và 80mm lấy được của Nhật; khu vực Mường Sê pôn và Mường Phin thành lập "Đại đội Mường Sê Pôn"; khu vực Khăm Cợt, Na Pé (Bôlikhămxay) đã tập hợp thành một đơn vị ở Na Pé, phối hợp với 1 đại đội chủ lực của bộ đội Việt Nam hoạt động vũ trang tuyên truyền và truy quét tàn quân Pháp ở khu vực này.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #34 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:42:49 pm »

Từ tháng 11 năm 1945 đến tháng 1 năm 1946, lực lượng vũ trang Lào phối hợp với quân và dân các địa phương tiến hành một loạt các trận chiến đấu nhỏ lẻ, từng bước làm thất bại kế hoạch hành quân lấn chiếm của địch, buộc chúng phải co về phòng thủ, cố giữ các địa bàn đã chiếm được. Ngày 10 tháng 3 năm 1946, quân Pháp chiếm thị xã Xavanakhẹt. Các lực lượng vũ trang Ítxala sau một thời gian chiến đấu giữ vững trận địa và giúp dân sơ tán, tiêu hao tiêu diệt một số quân địch, ngăn cản bước tiến của chúng đã rút dần ra khỏi thị xã, tập trung lực lượng về bổ sung quân cho Thà Khẹc.


Ngày 21 tháng 3 năm 1946, quân Pháp tập trung một lực lượng lớn gồm 7 đại đội bộ binh, 1 trung đội pháo binh, 2 cụm xe trinh sát chiến đấu có sự yểm trợ của 4 máy bay tiêm kích, 2 máy bay ném bom và 1 máy bay trinh sát, tổ chức thành 3 cánh quân tiến công vào Thà Khẹc.


Dưới sự chỉ huy của Bộ chỉ huy quân sự do Hoàng thân Xuphanuvông đứng đầu, các đơn vị Lào Ítxala đã cùng với lực lượng Việt kiều sát cánh chiến đấu chống lại quân Pháp. Với ưu thế về lực lượng, trang bị vũ khí, quân Pháp đã chiếm được thị xã Thà Khẹc, sau đó ráo riết thực hiện kế hoạch đánh chiếm Viêng Chăn, Luông Phrabăng. Các lực lượng vũ trang Lào vừa chiến đấu, vừa ngăn chặn địch, vừa tổ chức các mũi đánh vào sườn và phía sau quân địch, đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của chúng. Rút kinh nghiệm từ các cuộc chiến đấu bảo vệ Xavanakhẹt và Thà Khẹc, đồng thời để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài, Xứ ủy Lào đã thống nhất với Chính phủ Lào đề ra chủ trương vừa tiêu hao, tiêu diệt địch, cản bước tiến của chúng, vừa chủ động tổ chức cho nhân dân di tản ra khỏi thành phố,... đưa lực lượng vũ trang về nông thôn, miền núi tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến. Đêm 24 tháng 4 năm 1946, sau hơn 6 tháng anh dũng chiến đấu, tiêu hao tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, bảo vệ nhân dân và chính phủ di tản an toàn sang Thái Lan, quân đội Ítxala đã rút toàn bộ lực lượng ra khỏi thủ đô Viêng Chăn. Ngày 25 tháng 4 năm 1946, quân Pháp chiếm Viêng Chăn; ngày 13 tháng 5 chiếm Luông Phrabăng.


Từ giữa năm 1946, sau khi chiếm được toàn bộ nước Lào, Pháp ra sức củng cố, phục hồi ngụy quyền các cấp; khẩn trương bắt lính, đôn quân xây dựng lực lượng quân ngụy Lào, thành lập hệ thống đồn bốt từ thành phố đến nông thôn, phát triển lực lượng lính "dân vệ" ở các địa phương để khống chế nhân dân và ngăn chặn hoạt động của phong trào kháng chiến.


Bằng sức mạnh quân sự và thủ đoạn thâm độc về chính trị, Pháp đã từng bước ổn định tình hình, thiết lập bộ máy cai trị trên toàn nước Lào, gây cho phong trào kháng chiến nhiều khó khăn. Cuộc chiến đấu của nhân dân các bộ tộc Lào tạm lắng xuống nhưng lực lượng cách mạng về cơ bản vẫn được bảo toàn.


Trước tình hình đó, Đảng đề ra chủ trương chuyển hướng về các vùng nông thôn, rừng núi để tiến hành vận động cách mạng, xây dựng cơ sở chính trị và xây dựng lực lượng vũ trang, phát động chiến tranh du kích, thực hiện cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện và lâu dài.


Thực hiện chủ trương của Đảng, từ cuối năm 1946 đến đầu năm 1947, lực lượng yêu nước Lào bắt tay vào việc xây dựng căn cứ du kích ở các vùng dọc biên giới Lào - Việt, Lào - Campuchia, Lào - Thái. Ở các tỉnh Viêng Chăn, Sầm Nưa, Chuội Xài, Xiêng Khoảng, căn cứ du kích đã được xây dựng. Dọc biên giới Lào - Thái ở Thượng Lào có hai căn cứ du kích: phân khu Xaynhabuli và phân khu Hứa Khổng.


Cuối năm 1947 đầu năm 1948, cách mạng Lào tập trung vào việc củng cố những căn cứ du kích đã có và tiếp tục xây dựng các khu căn cứ mới. Mỗi căn cứ có từ 1 đến 2 trung đội vũ trang tuyên truyền, vừa làm nhiệm vụ tuyên truyền vận động nhân dân tham gia kháng chiến, vừa tổ chức đánh du kích chống địch càn quét khủng bố, vừa tổ chức xây dựng căn cứ kháng chiến, cơ sở chính trị và vũ trang bí mật. Khắp nơi đâu đâu cũng có các căn cứ kháng chiến. Ở Viêng Chăn có căn cứ Tan, Mường Phương, Bôrakhan; ở Sầm Nưa có căn cứ Xiềng Kho, Sầm Tớ; Huội Xài có các căn cứ Mường Xinh, Mường Năng, Mường Bò; Luông Phrabăng có căn cứ Mường Xay, Pácxeng, Pa chóp, Mường Ngòi; Xiêng Khoảng có căn cứ Mường Mơ; Xavanakhẹt có các căn cứ Bulapha, Tà Ôi; Hạ Lào có các căn cử Chămpaxắc, Phân Thông, Xêcông, Attôpơ...


Bên cạnh việc xây dựng căn cứ kháng chiến, các lực lượng vũ trang yêu nước Lào cũng rất chú trọng xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng nhân dân. Đến cuối năm 1948, cơ sở chính trị đã được xây dựng ở nhiều vùng, có những nơi đã tổ chức được lực lượng du kích xã, bản. Nhiều huyện, nhất là các vùng dọc biên giới Lào - Việt đã tổ chức ra các hội quần chúng như Hội "Lào Cùxạt", Hội "Lào yêu nước Commađam", Hội "Người H'mông Cùxạt"... Một số nơi còn thành lập được mặt trận, chính quyền ở địa phương và cấp tỉnh như Khăm Muộn, Xavanakhẹt. Phong trào kháng chiến chống Pháp đã bám rễ được vào các vùng nông thôn. Khối đoàn kết nhân dân các bộ tộc Lào không ngừng phát triển, củng cố. Các căn cứ kháng chiến xuất hiện ở nhiều địa bàn, hình thành thế cài răng lược của chiến tranh nhân dân ở Lào.


Về xây dựng lực lượng vũ trang, ban đầu chỉ có 7-8 đội, mỗi đội từ 15-40 người, trang bị thô sơ, thiếu thốn. Những năm đầu kháng chiến, do lực lượng địch đông, trang bị hiện đại và luôn tìm mọi cách tiến công tiêu diệt lực lượng cách mạng nên lực lượng vũ trang Lào chủ trương dùng phương thức "vũ trang tuyên truyền" để xây dựng lực lượng. Quá trình hoạt động gian khổ, được nhân dân và bộ đội tình nguyên Việt Nam hết sức giúp đỡ, lực lượng vũ trang Lào đã từng bước lớn mạnh. Từ các đơn vị nhỏ lẻ và các tổ du kích làng bản của những năm 1947, 1948, đến năm 1949, Quân đội Lào đã xây dựng được các tiểu đội, trung đội tập trung ở huyện, tỉnh và đại đội độc lập ở từng khu vực.


Trên cơ sở phong trào quần chúng, tổ chức dân quân du kích và một số đơn vị vũ trang tập trung đã phát triển ở các căn cứ kháng chiến, ngày 20 tháng 1 năm 1949, tại chiến khu Xiềng Kho (tỉnh Hùa Phăn), Quân đội Lào được thành lập với Đại đội Látxavông, đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên do Cayxỏn Phômvihản trực tiếp chỉ huy. Sau đó các đội vũ trang khác trong cả nước: Xét Thathirat, Xulinha Vông xa ở Thượng Lào; Xay xét Thathilạt ở Trung Lào; Xaychăc Capăc, Chămpaxắc ở Hạ Lào; Phà Ngậm ở Viêng Chăn... lần lượt hợp nhất về Đại đội Látxavông thành Quân đội Lào Ítxala (Quân đội Lào tự do).


Trải qua quá trình chiến đấu và xây dựng, Quân đội Lào Ítxala ngày càng lớn mạnh và trưởng thành với nhiều tên gọi khác nhau. Năm 1957, khi Chính phủ Lào thực hiện chính sách hoà hợp dân tộc, được gọi là Lực lượng Pa thét Lào. Sau đó đổi thành Quân giải phóng nhân dân Lào (20.1.1966) và từ sau năm 1975 là Quân đội nhân dân Lào. Quân đội Lào ngày nay đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Nhân dân cách mạng Lào.


Quân đội Lào Ítxala ra đời là sự kiện quan trọng, đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của lịch sử đấu tranh cách mạng Lào. Từ các đội vũ trang tuyên truyền, các đơn vị chiến đấu độc lập ra đời trong cuộc đấu tranh của nhân dân các bộ tộc ở nhiều khu vực đã được thống nhất thành Quân đội Lào Ítxala dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương - tiền thân của Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Sự ra đời của Quân đội Lào là kết quả của một quá trình đấu tranh gian khổ của các bộ tộc và nhân dân Lào,là kết quả của sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin và học thuyết quân sự vô sản trong việc xây dựng một quân đội nhân dân thích hợp với điều kiện cụ thể của Lào. Vì vậy, ngay sau khi thành lập, Quân đội Lào tuy số lượng ít, trang bị vũ khí còn thô sơ, nhưng đã mang đầy đủ bản chất của một quân đội cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân và cùng nhân dân mà chiến đấu. Đó chính là nguồn gốc tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội Lào.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #35 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:43:49 pm »

2. Quân đội Lào Ítxala trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1949-1954)

Ngay sau khi ra đời, Quân đội Lào Ítxala đã cùng với nhân dân tiếp tục tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, tháng 1 năm 1949, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ VI quán triệt đường lối và bàn biện pháp thực hiện cụ thể, phù hợp với mỗi chiến trường. Đối với chiến trường Lào, Hội nghị nhấn mạnh: "Phải lấy việc xây dựng căn cứ địa là chính cho Lào và mở rộng cơ sở quần chúng, gắn liền các căn cứ địa với nhau; xây dựng quân đội du kích và chính quyền; xây dựng Đảng và đào tạo cán bộ... làm mục tiêu hành động của mỗi địa phương, đơn vị..."1 (Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 10 (1949), Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội, 2001, tr.52).


Về phía Việt Nam, với quan điểm "Đông Dương là một chiến trường", từ đầu năm 1949, theo yêu cầu của cách mạng Lào, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam đã điều động một bộ phận quân chủ lực cùng nhiều cán bộ cơ sở sang giúp Lào, đồng thời, các cán bộ Đảng và các đơn vị vũ trang do Đặc ủy Việt kiều ở Thái Lan xây dựng cũng được lệnh sang hoạt động ở chiến trường Lào.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng Lào, trực tiếp là của các đảng bộ và ban chỉ huy các khu, tỉnh, một cao trào "đoàn kết chiến đấu” diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ trên khắp chiến trường. Ngày 1 tháng 3 năm 1949, ủy ban kháng chiến và Khu quân sự Hạ Lào được thành lập do đồng chí Khăm tày Xiphănđon, đại diện Chính phủ Lào trực tiếp phụ trách. Đồng thời, hai bên Lào - Việt cũng quyết định thành lập Bộ chỉ huy hỗn hợp ở khu vực Hạ Lào. Giữa năm 1949, đại đội chủ lực đầu tiên của Khu chính thức thành lập lấy tên là đại đội Xaychắtkàphắt. Ngoài đại đội chủ lực ra, ở Hạ Lào còn có 5 đội vũ trang tuyên truyền, mỗi đội khoảng 30 đến 40 người hoạt động ở các vùng xung yếu.


Ở Trung Lào, thực hiện nghị quyết Hội nghị cán bộ của Trung ương Đảng, ủy ban kháng chiến và Ban chỉ huy quân sự khu Trung Lào thống nhất đề ra chủ trương mở Mặt trận Trung Lào, hướng chính là đường số 9; vận dụng phương thức "đại đội độc lập, trung đội phân tán", đẩy mạnh công tác vũ trang tuyên truyền nhằm tổ chức quần chúng, xây dựng bộ đội địa phương, dân quân du kích, xây dựng chính quyền, mở rộng các khu căn cứ. Sau một thời gian chiến đấu, công tác, được nhân dân hết sức giúp đỡ, lực lượng vũ trang đã góp sức xây dựng được 4 vùng căn cứ rộng lớn gồm hàng trăm bản với 30.000 dân dọc biên giới Lào - Việt, có chính quyền cách mạng, có bộ đội địa phương và dân quân du kích, buộc địch phải bỏ nhiều vị trí gây ảnh hưởng tốt trong nhân dân.


Tại khu vực phía Tây và Tây Bắc Lào, được sự chi viện về lực lượng và vật chất của Việt kiều yêu nước ở Thái Lan, lực lượng kháng chiến Lào đã xây dựng và mở rộng các khu căn cứ, đưa phong trào chiến tranh du kích lên một bước mới, tiêu hao, tiêu diệt thêm nhiều địch, làm cho hậu phương địch ngày càng mất ổn định. Đến giữa năm 1950, cơ sở cách mạng và căn cứ kháng chiến đã được mở rộng ra nhiều nơi ở phía Tây và Tây Bắc Lào. Chiến tranh du kích được đẩy mạnh với nhiều hình thức phong phú như phục kích, tập kích, gài mìn, bắn tỉa, kết hợp hoạt động quân sự với vận động chính trị, kêu gọi địch bỏ ngũ...


Ở Đông Bắc Lào, sau ngày tuyên bố thành lập Quân đội Lào Ítxala (20.1.1949), nhân dân vùng căn cứ Xiềng Kho và các lực lượng vũ trang đã tích cực chuẩn bị các mặt để phối hợp với bộ đội chủ lực, đẩy mạnh tác chiến tiêu diệt địch, củng cố và xây dựng khu căn cứ Trung ương của cách mạng Lào. Phối hợp với bộ đội tình nguyện Việt Nam, đơn vị Látxavông mở các chiến dịch ở Tây Bắc và Bắc Lào như chiến dịch Xiềng Kho (6.1949), chiến dịch Sông Mã (11.1949), trận tập kích đồn Nong Khang (4.12.1949), nhằm phá vỡ phòng tuyến dài hàng trăm ki-lô-mét của địch, cơ sở địch hậu ở Bắc Lào được mở rộng, mở thông biên giới Lào - Việt ở phía bắc, đẩy mạnh công tác xây dựng căn cứ địa Trung ương của cách mạng Lào.


Sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Lào vào năm 1950 đặt ra yêu cầu cấp thiết phải có một tổ chức lãnh đạo thống nhất trong giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Do đó từ ngày 13 đến 15 tháng 8 năm 1950, Đại hội toàn quốc Mặt trận kháng chiến Lào được triệu tập với hơn 150 đại biểu các lực lượng vũ trang, các bộ tộc, đoàn thể quần chúng... thay mặt cho nhân dân yêu nước Lào. Đội Látxavông được giao nhiệm vụ đặc trách bảo vệ và phục vụ đại hội.


Đại hội đã nhất trí đề ra đường lối và chính sách trong giai đoạn trước mắt của cách mạng Lào, thông qua bản “Cương lĩnh chính trị” gồm 12 điểm, quyết định thành lập Mặt trận "Neo Lào Ítxala" và Chính phủ kháng chiến Lào do Hoàng thân Xuphanuvông làm Chủ tịch Mặt trận và Thủ tướng Chính phủ.


Sau khi thành lập, Mặt trận Neo Lào Ítxala và Chính phủ kháng chiến tiến hành một loạt cải cách xã hội nhằm thủ tiêu dần những tàn dư của chế độ phong kiến, xoá bỏ từng bước chính sách sưu dịch và thuế má bất công. Chính sách đúng đắn này nhằm bồi dưỡng sức dân, làm cơ sở đẩy mạnh phong trào kháng chiến toàn dân, toàn diện.


Cuối năm 1950, tổ chức lực lượng và hệ thống chỉ huy quân sự ở Lào được sắp xếp và bố trí phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Tại Hạ Lào, giữa năm 1951, Chính phủ kháng chiến quyết định thành lập Bộ chỉ huy quân khu Hạ Lào với 3 mặt trận và một khu căn cứ địa (mặt trận Sê Công, Tây Nam, Sa ra Bô lô và căn cứ địa miền Đông). Mỗi mặt trận và căn cứ địa đều có chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang từ cấp trung đội đến đại đội và dân quân du kích đều khắp. Bên cạnh đó, các đơn vị Quân tình nguyện Việt Nam đóng quân xen kẽ trên các mặt trận và khu căn cứ vừa làm nhiệm vụ cơ động đánh địch, vừa phối hợp giúp đỡ bộ đội Lào Ítxala trong xây dựng và chiến đấu.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #36 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:44:19 pm »

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào kháng chiến ở Hạ Lào xuống vùng đồng bằng tây nam Attôpơ và đông tây Chămpaxắc, từ đầu năm 1951, các lực lượng quân sự và chính trị ở hai tỉnh Xavanakhẹt và Khăm Muộn cũng chuyển mạnh hoạt động xuống vùng đồng bằng, giành giật quyết liệt với địch, tạo nên bước phát triển mới của phong trào kháng chiến ở Trung Lào. Lực lượng vũ trang ở Trung Lào có 2 đại đội chủ lực khu, 2 đại đội địa phương tỉnh, các khu căn cứ thành lập được 4 trung đội địa phương, nhiều bản tổ chức được dân quân du kích. Đến cuối năm 1952, Mặt trận Ítxala đã xây dựng ở đây hơn 400 tổ chức cơ sở cách mạng, lực lượng vũ trang địa phương và dân quân du kích phát triển mạnh mẽ và tương đối đều khắp. Toàn khu có tới 120 tiểu đội du kích xã.


Từ năm 1951 trở đi, Đông Bắc Lào là địa bàn tranh chấp hết sức quyết liệt giữa lực lượng kháng chiến Lào và thực dân Pháp. Thực hiện chủ trương xây dựng khu Bắc Lào (trọng điểm là tỉnh Hùa Phăn) làm căn cứ đỉa Trung ương của cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng và Chính phủ kháng chiến Lào đã tăng cường lực lượng bổ sung cho khu Bắc Lào. Về lực lượng vũ trang, có 3 đại đội khu: Đại đội Nôm xẩm hoạt động cùng 1 tiểu đoàn quân tình nguyện Việt Nam ở đông bắc Sầm Nưa. Đại đội Látxavông hoạt động ở khu vực Mường Dương, Sầm Tớ, Mường Na đến Mường Láp, Mường Hiềm. Tháng 10 năm 1951, Chính phủ kháng chiến tiếp tục bổ sung cho Mặt trận Bắc Lào thêm đại đội Xaychắccàphắt (đại đội Chămpaxắc).


Trong khi các lực lượng kháng chiến ở các khu vực Hạ Lào, Trung Lào và Đông Bắc Lào đẩy mạnh các hoạt động xuống vùng đồng bằng, phía sau lưng địch, thu được những thắng lợi to lớn, vững chắc, thì ở khu vực Tây Lào, kể cả ở vùng đô thị, quân và dân đã tranh thủ thời cơ địch đang bị động phải chia sẻ lực lượng để đối phó nhiều nơi, đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh, giành thắng lợi.


Phong trào dân quân du kích phối hợp cùng bộ đội địa phương dùng vũ khí thô sơ, chông mìn, cạm bẫy, chống địch càn quét, bảo vệ bản làng đã trở thành phổ biến ở nhiều vùng căn cứ. Nổi bật là trận chững càn thắng lợi lớn ở vùng Phu Khum, Phu Xung (Viêng Chăn) của bộ đội địa phương và du kích mường phối hợp với một số đơn vị chủ lực đã phục kích, đánh mìn, bắn tỉa, chặn 2 đại đội địch ra càn, diệt 50 tên, làm bị thương 665 tên, buộc địch phải rút lui.


Đáp ứng nhu cầu chiến đấu, trong giai đoạn này lực lượng vũ trang Lào phát triển khá nhanh, đặc biệt là lực lượng quân sự địa phương. Dân quân du kích được mở rộng và tổ chức chặt chẽ hơn. Đến cuối năm 1952 toàn quốc đã có hơn 30.000 người tham gia vào lực lượng dân quân du kích. Rất nhiều địa phương đã tổ chức được các tổ tiểu đội trung đội dân quân du kích, chủ yếu được trang bị súng trường và lựu đạn. Bộ đội tập trung được chú trọng xây dựng cả về số lượng và chất lượng. Trong hai năm 1951 - 1952, Quân đội Ítxala đã động viên được hơn 800 thanh niên nhập ngũ; đến cuối 1953 đã xây dựng được 9 đại đội chủ lực và hàng chục trung đội địa phương, đồng thời mở trường đào tạo ở từng khu vực hoặc gửi cán bộ, chiến sĩ sang Việt Nam học tập,... do đó khả năng tác chiến của Quân đội Lào đã được nâng lên một bước.


Với sự lớn mạnh không ngừng của lực lượng kháng chiến trên khắp cả nước, từ năm 1950 đến 1953, Quân đội Lào Ítxala liên tục đẩy mạnh các hoạt động chiến đấu, từ các hoạt động du kích lẻ tẻ tiến lên những hoạt động tác chiến quy mô lớn hơn, kể cả đánh công kiên vào các vị trí phòng ngự của địch. Số đồn bốt địch bị thiệt hại tăng lên, vùng giải phóng được mở rộng. Bước sang năm 1953, Quân đội Ítxala bắt đầu mở những chiến dịch lớn.


Trung tuần tháng 4 năm 1953, phối hợp tác chiến với quân tình nguyện Việt Nam, lực lượng vũ trang Lào đã mở chiến dịch Thượng Lào, giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa. Đây là chiến dịch lớn đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Lào. Địch ở Sầm Nưa bỏ chạy về Cánh Đồng Chum, Xiêng Khoảng. Với sức tiến công mạnh mẽ của liên quân Lào - Việt, chỉ trong vài ngày, địch buộc phải rút lui khỏi Xiêng Khoảng. Việc giải phóng Sầm Nưa và Xiêng Khoảng đã mở rộng căn cứ địa cách mạng. Địch bị uy hiếp mạnh ở Thượng Lào.


Sau đó, quân đội Ítxala tiếp tục phối hợp cùng với một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam mở cuộc tiến công ở Trung, Hạ Lào nhằm thu hút quân cơ động Pháp, phá thế tập trung quân của địch ở chiến trường chính Bắc Bộ (Việt Nam). Mũi tiến công chủ yếu là Thà Khẹc.


Thà Khẹc là một địa bàn chiến lược quan trọng nằm trên con đường huyết mạch số 13 đi từ Sài Gòn đến Viêng Chăn và Luông Phrabăng. Phía đông giáp các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình của Việt Nam; phía tây giáp sông Mê Công và biên giới Thái Lan. Nếu chiếm được Thà Khẹc sẽ khống chế được cả khu vực Trung Lào.


Đầu tháng 12 năm 1953, trước nguy cơ bị Quân đội Lào Ítxala uy hiếp ở Trung Lào, Pháp điều động Binh đoàn số 2 từ Bắc Bộ (Việt Nam) đến tăng cường phòng thủ vùng Thà Khẹc. Nhiều đơn vị pháo binh hạng nặng đã đến đóng ở các vị trí quan trọng trên quốc lộ số 12.


Ngày 21 tháng 12 năm 1953, cuộc tiến công của liên quân Lào - Việt ở hướng Thà Khẹc bắt đầu. Được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, liên quân đã đánh nhanh, đánh mạnh, giáng một đòn bất ngờ làm cho quân địch không kịp trở tay đối phó. Sau 5 ngày liên tục chiến đấu, các lực lượng vũ trang đã loại khỏi vòng chiến đấu 3 tiểu đoàn Âu Phi, gồm 2.200 quân, giải phóng một khu vực rộng lớn ở miền Trung Lào, trong đó có tỉnh Khăm Muộn và thị xã Thà Khẹc, cắt đứt Trung Lào với Thượng Lào. Chiến thắng đã góp phần tạo điều kiện cho liên quân Lào - Việt phát triển tiến công xuống phía nam.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #37 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:44:51 pm »

Từ tháng 1 năm 1954, liên quân Lào - Việt liên tiếp tiến công địch ở Đồng Hến, Mường Pha Lan, Mường Phin, giải phóng phía bắc tỉnh Xavanakhẹt, tiêu diệt gần 2.000 tên địch, cắt đứt đường số 9 nối liền từ Đông Hà (Việt Nam) đến thị xã Xavanakhẹt.


Phối hợp với Mặt trận đường số 9, một tiểu đoàn quân chủ lực được tăng cường lên tới 760 người, sau hai tháng hành quân đã đến kịp Hạ Lào. Tận dụng yếu tố bất ngờ, tiểu đoàn cùng với các lực lượng địa phương liên tục tiến công tiêu diệt địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn: Áttôpơ (31.1.1954), cao nguyên Bôlôven (1.2.1954), phía nam tỉnh Saravan, thị trấn Tha Teng (5.2.1954), áp sát thị xã Saravan. Quân Pháp buộc phải điều một binh đoàn lê dương từ Bắc Bộ (Việt Nam) và binh đoàn ngụy số 51 từ Sênh xuống lập 2 cụm cứ điểm mới ở thị xã Saravan và Pắcxế nhằm đối phó với cuộc tiến công của quân đội ítxara ở Hạ Lào.


Sau hơn 4 tháng liên tục chiến đấu, quân và dân Lào ở mặt trận Trung Lào và Hạ Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 tên địch, thu 1.200 súng các loại, nhiều quân trang, quân dụng và phương tiện chiến tranh, giải phóng một vùng rộng lớn 400.000km2 với 40.000 dân, cắt đứt đường liên lạc của địch giữa Trung Lào và Thượng Lào, uy hiếp mạnh Hạ Lào. Qua chiến đấu, cơ sở quần chúng, chính quyền, đặc biệt là lực lượng vũ trang được xây dựng, củng cố và ngày càng trưởng thành nhanh chóng, tạo điều kiện đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Lào tiến lên một bước mới.


Trong khi đó, trên chiến trường Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi hết sức to lớn. Để che chở cho vùng Thượng Lào đang bị uy hiếp, thực dân Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh. Tuy nhiên, quân Pháp ở đây nhanh chóng bị bao vây, cô lập sau khi Lai Châu (Việt Nam) được giải phóng. Pháp điều động 6 tiểu đoàn tăng cường cho phòng tuyến sông Nậm U để bảo vệ “đường liên lạc chiến lược" giữa Luông Phrabăng, Mường Sài với Điện Biên Phủ.


Thực hiện kế hoạch tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 ở Thượng Lào, Chính phủ Lào kháng chiến đã điều đại đội Chămpaxắc bổ sung cho tỉnh Luông Phrabăng cùng quân tình nguyện và lực lượng địa phương, dân quân du kích hoạt động đánh địch và xây dựng cơ sở ở khu vực Mường Sài, Mường Khoa, Mường La. Nhiều trận càn, phục kích của các lực lượng vũ trang Lào đã giành thắng lợi ở bản Phồn Xây, bản Thèn Then dọc sông Nậm U, Nậm Bạc, Mường Ngòi, gây cho địch nhiều tổn thất.


Chấp hành chỉ thị của Chính phủ Lào kháng chiến, các lực lượng vũ trang đã phối hợp với chính quyền và mặt trận địa phương vận động nhân dân đóng góp lương thực, thực phẩm và chuẩn bị thuyền bè, sẵn sàng phục vụ bộ đội chủ lực hành quân đánh địch. Nhân dân khu vực Thượng Lào đã đóng góp hơn 2.000 tấn lương thực, thực phẩm cung cấp cho quân đội trong thời gian diễn ra chiến dịch.


Theo nhiệm vụ được phân công, các đơn vị chủ lực cùng các lực lượng vũ trang ở Bắc Lào tổ chức thành 2 cánh quân, từ biên giới Lào - Việt, vượt qua rừng núi hiểm trở phía đông bắc tỉnh Luông Phrabăng và Phongxalỳ, tiến sát phòng tuyến sông Nậm U. Đồng thời, một cánh quân khác từ biên giới Lào - Việt được lệnh nhanh chóng tiến sang Phongxalỳ, phối hợp cùng với quân dân địa phương tiến công tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, mở rộng thêm vùng căn cứ cách mạng Thượng Lào.


Trong hơn 10 ngày chiến đấu và truy kích địch trên chặng đường dài gần 200km, các lực lượng vũ trang Lào đã tiêu diệt 17 đại đội địch, trong đó có 1 tiểu đoàn lê dương bị tiêu diệt gọn, thu hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, giải phóng khu vực Nậm U, cô lập hoàn toàn quân địch ở Điện Biên Phủ. Trên đà thắng lợi, các lực lượng vũ trang Lào tiếp tục tiến công địch ở Phongxalỳ, căn cứ kháng chiến của Chính phủ Lào kháng chiến được mở rộng thêm gần 1 vạn kilômét vuông, nối liền khu giải phóng Bắc Lào với khu Tây Bắc Việt Nam.


Cùng với những chiến thắng lớn trong chiến dịch Trung, Hạ Lào và lưu vực sông Nậm U, các lực lượng vũ trang ở phía Tây Lào được nhân dân giúp đỡ đã tranh thủ thời cơ địch đang bị động, lúng túng, tiến công tiêu diệt các đơn vị chiếm đóng của địch, mở rộng khu căn cứ ở nhiều nơi. Điển hình là các trận tập kích từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1954 của đại đội Phà Ngậm (Viêng Chăn) phối hợp với dân quân du kích, trung đội mường Thu La Khôm và quân tình nguyện Việt Nam, diệt hàng trăm tên địch, thu nhiều vũ khí. Những thắng lợi liên tiếp của quân và dân các khu vực Tây Lào, nhất là ở đông và tây Viêng Chăn đã góp phần buộc quân Pháp phải co về phòng thủ ở các thị xã, thị trấn... tạo điều kiện cho lực lượng kháng chiến củng cố, mở rộng các khu căn cứ phía sau lưng địch.


Trong Đông Xuân 1953-1954, phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân dân Việt Nam, cuộc tiến công trên chiến trường Lào đã giành được thắng lợi to lớn. Quân đội Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.000 tên địch, giải phóng 10 vạn kilômét vuông (không kể tỉnh Hùa Phăn), trong đó có nhiều vùng chiến lược quan trọng, uy hiếp địch trên toàn chiến trường Đông Dương, buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng cơ động chiến lược, tạo điều kiện cho quân và dân Việt Nam tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (13.3-7.5.1954), làm thất bại hoàn toàn kế hoạch Na va.

 
Do thất bại nặng nề trên chiến trường, lại bị nhân dân Pháp và dư luận tiến bộ trên thế giới phản đối, Chính phủ Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương, công nhận nền độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia. Hiệp định cũng thừa nhận Pa thét Lào là lực lượng chính trị độc lập, hợp pháp, có quân đội, có vùng tập kết ở hai tỉnh Hùa Phăn và Phongxalỳ. Giải pháp Giơnevơ tuy không phản ánh đầy đủ những thắng lợi trên chiến trường và xu thế của cuộc đấu tranh giữa các nước Đông Dương và Pháp, cũng không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của phái đoàn Việt Nam đại diện cho quyền lợi của ba nước, nhưng đã góp phần cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương.


Ngày 23 tháng 7 năm 1954, Bộ trưởng Quốc phòng Chính phủ kháng chiến Lào Cay xỏn Phômvihản ra lệnh thực hiện Hiệp định đình chiến trên toàn chiến trường Lào. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, quân tình nguyện trên cả nước đã nghiêm chỉnh thực hiện lệnh ngừng bắn và lần lượt chuyển quân tập kết về hai tỉnh Hùa Phăn và Phongxalỳ.


Sau 9 năm kháng chiến, cùng với thắng lợi của quân dân Việt Nam, quân đội và nhân dân các bộ tộc Lào càng đánh càng mạnh, càng đánh càng trưởng thành, nhất là trong những năm 1951-1954 đã có những tiến bộ rõ rệt về các mặt xây dựng và chiến đấu. Lực lượng so sánh hai bên trên toàn chiến trường Đông Dương cũng như ở Lào đã có những thay đổi lớn, có lợi cho sự phát triển của cách mạng Lào. Tuy vậy, nhìn cả quá trình phát triển và so với yêu cầu nhiệm vụ thì việc củng cố căn cứ địa, xây dựng các lực lượng vũ trang Lào Ítxala còn phát triển chậm, chưa theo kịp nhiệm vụ chiến đấu.


Trước tình hình đó, Chính phủ kháng chiến và Bộ Quốc phòng Lào đề ra chủ trương "nhân đà thắng lợi..., cần giữ vững và tăng cường hoạt động khi có cơ hội nhằm củng cố và mở rộng các căn cứ du kích và khu du kích. Nắm vững phương châm hoạt động "kết hợp tác chiến với xây dựng", “tác chiến với ngụy vận và tuyên truyền vận động nhân dân"1 (Chỉ thị về hoạt động mùa hè tháng 6 năm 1 954, Tài liệu chỉ đạo đấu tranh vũ trang, Tập 4, tr.368, Dẫn theo Dự thảo Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, VL-3352.,tr.106). Đối với nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: "Bất kể tình huống nào, việc đẩy mạnh xây dựng bộ đội Lào Ítxala là một nhiệm vụ hết sức cần thiết..., là công tác trung tâm thứ nhất phải tập trung lực lượng kiên quyết thực hiện cho kỳ được"2 (Dẫn theo Dự thảo Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, sđd. tr.106). Đây là mục tiêu quan trọng mà Quân đội Lào phải đạt được trong thời gian tới nhằm đối phó với kẻ địch nguy hiểm và mạnh hơn gấp nhiều lần.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #38 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:46:57 pm »

3. Quân giải phóng nhân dân Lào trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)

Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ vừa được ký kết, Mỹ đã ráo riết can thiệp vào các nước Đông Dương, đặt Lào, miền Nam Việt Nam và Campuchia vào "khu vực bảo hộ" của khối SEATO (thành lập tháng 9 năm 1954). Để gạt bỏ hẳn ảnh hưởng của Pháp, Mỹ lập ra chính quyền phái hữu Viêng Chăn, cải tổ quân đội ngụy, tăng cường viện trợ quân sự nhằm thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới ở Lào.


Về phía lực lượng kháng chiến Lào, theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, trong khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước, quân đội viễn chinh Pháp triệt thoái khỏi Lào, các đơn vị Quân đội Lào Ítxala cũng chuyển quân về tập kết ở hai tỉnh Hùa Phăn và Phongxalỳ. Cuộc chuyển quân tập kết của Quân đội Lào Ítxala bắt đầu từ tháng 8 năm 1954 và kết thúc vào cuối tháng 2 năm 1955.


Chấp hành chỉ thị của Chính phủ kháng chiến, đồng thời với việc chuyển quân tập kết, các địa phương và các đơn vị quân đội đã tổ chức giáo dục tư tưởng cho cán bộ, bộ đội và nhân dân về tình hình mới, xác định quyết tâm đoàn kết, tiếp tục đấu tranh, cảnh giác chống mọi âm mưu mới của địch để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững lực lượng và cơ sở quần chúng ở những vùng lực lượng kháng chiến Lào vừa rút quân.


Tuy nhiên, trước bước phát triển mới của cách mạng Lào nên phong trào đấu tranh lúc này đã bộc lộ một số hạn chế. Phong trào đấu tranh ở 10 tỉnh vừa rút quân phát triển không đều do thiếu cán bộ nòng cốt, cơ sở quần chúng cách mạng bị uy hiếp, phương thức đấu tranh chưa chuyển biến kịp thời theo tình hình. Ở hai tỉnh tập kết thì cơ sở cách mạng chưa được củng cố vững chắc, kinh tế phát triển chậm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, bộ máy lãnh đạo các cấp và đội ngũ cán bộ tuy đã có bước phát triển nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ mới. Tình hình tư tưởng của bộ đội trong những ngày đầu ở khu tập kết diễn biến khá phức tạp. Một số muốn trở về địa phương, không thật yên tâm với nhiệm vụ.


Với những đặc điểm trên, việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang của Lào gặp rất nhiều khó khăn. Được sự giúp đỡ của Việt Nam, Pa thét Lào đã nhanh chóng hoàn thành đề án xây dựng quân đội phù hợp với hoàn cảnh đất nước, đáp ứng nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Nhiệm vụ trọng tâm của Quân đội Lào trong giai đoạn này là phải: "khuếch trương và củng cố các lực lượng vũ trang Lào Ítxala thành một đội quân cách mạng vững mạnh, có đủ khả năng trước mắt phá tan được âm mưu quân sự của đối phương, bảo vệ khu tập kết, hậu thuẫn vững chắc cho đấu tranh chính trị; về lâu dài nếu địch gây lại chiến tranh thì sẽ trở thành lực lượng nòng cốt cho cuộc vũ trang toàn dân để tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, giải phóng hoàn toàn đất nước"1 (Dự thảo Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, Sđd, tr.116).


Về tổ chức, Bộ Quốc phòng có ba cơ quan: tham mưu, chính trị, hậu cần. Tổ chức lực lượng vũ trang Lào có ba thứ quân gồm các tiểu đoàn chủ lực, các đơn vị bộ đội địa phương (đại đội tập trung của tỉnh, trung đội tập trung của huyện) và các đội du kích ở xã, bản, làm nòng cốt cho phong trào dân quân rộng rãi ở các thôn xóm và tự vệ chiến đấu ở các cơ quan xí nghiệp. Đến cuối năm 1954, Quân đội Lào đã sắp xếp xong tổ chức, hình thành cơ cấu hoàn chỉnh gồm bộ đội chủ lực tập trung và các lực lượng vũ trang địa phương hai tỉnh. Tổng số quân chủ lực lúc này có 7.276 người, tổ chức thành 9 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn trợ chiến; 1 tiểu đoàn vận tải, 3 đại đội chuyên môn kỹ thuật trực thuộc Bộ (thông tin, quân báo, công binh), 1 trung đội bảo vệ cơ quan; 12 đại đội độc lập và 2 đội vũ trang tuyên truyền; ba cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần thuộc Bộ Quốc phòng, Trường quân chính Commađam, 2 cơ quan tỉnh đội Hùa Phăn và Phongxalỳ. Bên cạnh đó, với chính sách dân tộc đúng đắn, Pathét Lào còn xây dựng được 1 tiểu đoàn của người Lào Xủng - tiểu đoàn Patchay1 (Dự thảo Lịch sử Quân đội nhân dân Lào, Sđd, tr.117-118). Trang bị của quân đội chủ yếu là sử dụng súng bộ binh và hoả lực trợ chiến thu được của Nhật và Pháp. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Quân đội Lào lúc này đã xây dựng được một số đội sửa chữa vũ khí, khí tài, một bệnh viện 150 giường, một cơ sở chế biến dược phẩm và một số đội phẫu thuật lưu động phục vụ các đơn vị trong chiến đấu.


Song song với việc củng cố, sắp xếp tổ chức, Pa thét Lào cũng khẩn trương tiến hành giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự trong các lực lượng vũ trang nhằm nâng cao trình độ giác ngộ chính trị và năng lực chiến đấu, công tác của bộ đội. Bộ Quốc phòng coi đây là một nhiệm vụ trung tâm, cơ bản nhất của việc xây dựng lực lượng trong giai đoạn này với phương châm "lấy chính trị làm chính, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm chính", từ đó triển khai các đợt giáo dục chính trị, huấn luyện trong toàn quân.


Về quân sự, Bộ Quốc phòng yêu cầu các đơn vị huấn luyện thành thạo kỹ thuật bắn súng bộ binh, nắm vững nguyên tắc và vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật của tổ, tiểu đội, trung đội, đại đội và tiểu đoàn. Sau các đợt huấn luyện đều có tổ chức bắn đạn thật và diễn tập thực binh. Xen kẽ thời gian huấn luyện và công tác, các cơ quan, đơn vị còn tranh thủ tổ chức học văn hoá, thanh toán nạn mù chữ cho bộ đội. Riêng Trường quân chính Commađam, trong 3 năm (1955-1957) đã liên tục mở các khoá huấn luyện từ 3 đến 5 tháng để đào tạo cán bộ tiểu đội, trung đội và bổ túc cho hầu hết cán bộ đại đội và tiểu đoàn.


Qua hơn hai năm xây dựng, huấn luyện, Quân đội Pathét Lào đã có bước phát triển mới về tổ chức chỉ huy cũng như trình độ mọi mặt của bộ đội. Hệ thống chỉ huy và hệ thống lãnh đạo Đảng đã được hình thành từ Bộ chỉ huy tối cao và Đảng ủy quân sự Trung ương xuống các đơn vị đến từng cán bộ, chiến sĩ1 (Từ sau Đại hội thành lập Đảng nhân dân Lào (22-26.3.1955), Bộ Quốc phòng đổi thành Bộ chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang Pathét Lào. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, tháng 4.1955, Ban lãnh đạo Đảng ra quyết nghị thành lập Đảng ủy quân sự Trung ương do đồng chí Cay xỏn Phômvihản, Tổng bí thư kiêm Bí thư Đảng ủy quân sự Trung ương và là Chỉ huy tối cao các lực lượng vũ trang Pa thét Lào). Do đó, chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp từng bước được nâng lên, khả năng tự lực chỉ huy, điều hành đơn vị đã dần dần được khẳng định.
Logged
nhinrathegioi
Thành viên
*
Bài viết: 1023



« Trả lời #39 vào lúc: 31 Tháng Mười, 2008, 08:47:28 pm »

Cùng với việc tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang, Quân đội Lào cũng kiên quyết đấu tranh bảo vệ khu tập kết, đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của quân phái hữu Viêng Chăn.


Được Mỹ viện trợ, sau một thời gian củng cố lực lượng, từ tháng 3 năm 1955, chính quyền Viêng Chăn đã huy động hai phần ba lực lượng quân đội ngụy tiến công vào hai tỉnh tập kết Hùa Phăn và Phongxalỳ với âm mưu tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng nòng cốt của cách mạng, xoá bỏ căn cứ địa của cách mạng Lào. Đồng thời, chính quyền Viêng Chăn còn tiến hành khủng bố, đàn áp dã man những người kháng chiến cũ ở 10 tỉnh hòng triệt phá cơ sở cách mạng. Thực hiện được âm mưu này, Mỹ sẽ có điều kiện biến Lào thành thuộc địa kiểu mới và trực tiếp uy hiếp Việt Nam từ phía tây.


Để đáp ứng tình hình và nhiệm vụ mới, ngày 22 tháng 3 năm 1955, những người cộng sản Lào đã chính thức thành lập Đảng Nhân dân Lào (ngày nay là Đảng Nhân dân cách mạng Lào). Sự ra đời của Đảng Nhân dân Lào đánh dấu sự phát triển vượt bậc và là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh của cách mạng và Quân đội Lào. Trên cơ sở phân tích đúng đắn những mâu thuẫn trong xã hội Lào, đánh giá cụ thể so sánh lực lượng trong nước và xu thế phát triển chung của khu vực Đông Dương, Đông Nam Á cũng như trên thế giới, Đảng Nhân dân Lào chủ trương: "Động viên mọi lực lượng của quân dân hai tỉnh cùng nhân dân cả nước đẩy mạnh đấu tranh chính trì, kết hợp với đấu tranh quân sự một cách bền bỉ để giữ vững căn cứ cách mạng hai tỉnh, giữ vững và phát triển cơ sở cách mạng ở 10 tỉnh, làm thất bại mọi âm mưu tiến công phá hoại của Mỹ và tay sai, buộc chúng phải thi hành Hiệp định Gìơnevơ, tiến tới xây dựng một nước Lào hoà bình, dân chủ, thống nhất và độc lập thực sự"1 (Nghị quyết của Trung ương Đảng Nhân dân Lào họp tháng 8 năm 1955, dẫn theo Dự thảo Lịch sử Quân đội nhân dân Lào).


Thực hiện chủ trương trên, lực lượng kháng chiến Lào đã giương cao ngọn cờ hoà bình, trung lập, hoà hợp dân tộc, mở rộng mặt trận dân tộc thững nhất, thành lập Mặt trận Lào yêu nước - Neo Lào Hắc Xạt (6.1.1956) nhằm tập hợp mọi lực lượng, mọi xu hướng, mọi tầng lớp yêu nước và tiến bộ chống Mỹ và chính quyền Viêng Chăn. Đồng thời, Đảng Nhân dân Lào cũng ra sức củng cố, tăng cường lực lượng cách mạng về mọi mặt; khẩn trương xây dựng và tăng cường lực lượng vũ trang Pa thét Lào đang tập kết ở hai tỉnh Hùa Phăn và Phongxalỳ.


Vừa đấu tranh pháp lý, vừa kiên quyết chiến đấu bảo vệ khu tập kết, từ đầu tháng 10 năm 1954 đến cuối tháng 8 năm 1956, Quân đội Lào đã đánh lui hầu hết 685 cuộc tiến công lớn nhỏ của quân đội phái hữu Viêng Chăn vào khu tập kết, loại khỏi vòng chiến đấu gần 5.000 tên địch. Âm mưu tiến công quân sự nhằm thôn tính hai tỉnh, làm suy yếu lực lượng cách mạng, tiến tới xoá bỏ việc đàm phán hiệp thương với Pathét Lào của các thế lực phản động bị phá sản hoàn toàn. Hai tỉnh tập kết vẫn được giữ vững. Cơ sở cách mạng ở 10 tỉnh không ngừng được củng cố và phát triển cả ở thành thị và nông thôn. Xu hướng hoà bình, trung lập, hoà hợp dân tộc, thống nhất quốc gia phát triển mạnh. Mỹ và chính quyền Viêng Chăn buộc phải ký Hiệp định Viêng Chăn ngày 20 tháng 10 năm 1957, lập Chính phủ liên hiệp lần thứ nhất có sự tham gia của Mặt trận Lào yêu nước, thừa nhận vai trò và địa vị hợp pháp của Mặt trận; chấp nhận thi hành các quyền tự do dân chủ của nhân dân Lào và tiến hành tổng tuyển cử bổ sung có Pathét Lào tham gia... Ngày 1 tháng 11, Tiểu ban quân sự ký hiệp định về việc sáp nhập 2 tiểu đoàn của các lực lượng vũ trang Pa thét Lào vào Quân đội Vương quốc.


Theo tinh thần trên, lực lượng vũ trang Pa thét Lào được chia thành hai bộ phận: một bộ phận được chọn lọc kỹ càng gồm 1.500 người biên chế thành 2 tiểu đoàn mạnh (Tiểu đoàn 1 và Tiểu đoàn 2) sáp nhập vào Quân đội Vương quốc để trực tiếp bảo vệ Chính phủ Liên hiệp và Trung ương Mặt trận Lào yêu nước ra hoạt động công khai; trong đại bộ phận còn lại lựa chọn một số cán bộ, chiến sĩ trẻ có năng lực, phẩm chất chính trị bươi đi đào tạo dài hạn ở Việt Nam để làm nòng cốt cho phát triển lực lượng vũ trang sau này; còn đại bộ phận phục viên về địa phương, thực chất đây là bộ phận quan trọng để tăng cường cho lực lượng cách mạng ở cơ sở, làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh của quần chúng trong cả nước.


Ngày 8 tháng 1 năm 1958, các tiểu đoàn 1 và 2 Pa thét Lào hoàn thành thủ tục sáp nhập vào Quân đội Vương quốc Trước đó, ngày 25 tháng 12 năm 1957, cơ quan đại diện Mặt trận Lào yêu nước chính thức ra mắt hoạt động công khai, hợp pháp tại Viêng Chăn và tờ báo "Lào Hắc Xạt” cơ quan ngôn luận của Mặt trận Lào yêu nước cũng ra số đầu tiên (1.1.1958). Từ đây, một bộ phận lực lượng Pa thét Lào đã ra công khai hoạt động hợp pháp, tuyên truyền mở rộng uy tín của Neo Lào Hắc Xạt.


Với việc thành lập được Chính phủ Liên hiệp, vai trò và uy tín của Pathét Lào ngày càng có ảnh hưởng sâu, rộng ở trong nước cũng như quốc tế. Đặc biệt, thắng lợi trong tổng tuyển cử bổ sung tháng 5 năm 1958 càng làm cho Mỹ và chính quyền tay sai lo ngại. Họ tìm mọi cách phá hoại việc thi hành những điều khoản đã ký kết và làm tê liệt hoạt động của Chính phủ Liên hiệp. Tháng 8 năm 1958, Mỹ lật đổ Chính phủ Liên hiệp, dựng lên Chính phủ cực hữu do Phủi Xananicon làm Thủ tướng, Cà Tày làm Phó thủ tướng, gạt các thành viên Pathét Lào và lực lượng trung gian ra khỏi chính phủ mới, đưa Hoàng thân Phuma, nguyên Thủ tướng Chính phủ Liên hiệp sang Pháp.
Logged
Trang: « 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 »   Lên
  In  
 
Chuyển tới:  

Powered by MySQL Powered by PHP Powered by SMF 1.1.21 | SMF © 2006-2008, Simple Machines

Valid XHTML 1.0! Valid CSS! Dilber MC Theme by HarzeM